Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH GIÁO dục ở các TRƯỜNG TRUNG học PHỔ THÔNG dân lập QUẬN cầu GIẤY, THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (951.32 KB, 105 trang )

3

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

3

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THỰC HIỆN
CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC Ở CÁC TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG DÂN LẬP
14
1.1. Các khái niệm
14
1.2. Nội dung quản lý thực hiện chương trình giáo dục ở các
trường trung học phổ thông dân lập
28
1.3. Các yếu tố tác động đến quản lý thực hiện chương trình
giáo dục ở các trường trung học phổ thông dân lập
35
Chương 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN QUẢN LÝ THỰC HIỆN
CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC Ở CÁC TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG DÂN LẬP QUẬN CẦU
GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
40
2.1. Khái quát về các trường trung học phổ thông dân lập
quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội
40
2.2. Thực trạng thực hiện chương trình giáo dục và quản lý
thực hiện chương trình giáo dục ở các trường trung học
phổ thông dân lập quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội


47
Chương 3. BIỆN PHÁP QUẢN LÝ CHƯƠNG TRÌNH GIÁO
DỤC Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
DÂN LẬP QUẬN CẦU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ
NỘI HIỆN NAY
63
3.1. Yêu cầu xây dựng biện pháp
63
3.2. Các biện pháp quản lý thực hiện chương trình giáo dục ở
các trường trung học phổ thông dân lập quận Cầu Giấy,
thành phố Hà Nội
69
3.3. Khảo nghiệm sự cần thiết và tính khả thi của các biện pháp
89
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
96
PHỤ LỤC
101
Chương 1.


3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trước yêu cầu chấn hưng nền giáo dục nước nhà, Nghị quyết Đại hội
lần thứ XI của Đảng đã xác định: “Thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển
và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Đổi mới chương trình, nội dung,

phương pháp... theo hướng hiện đại” [17, tr.216].
Quán triệt và cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nghị quyết số 29-NQ/TƯ về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo... đã chỉ rõ: “Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí
tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi
dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo
đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng
kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích
học tập suốt đời” [19, tr.123].
Như vậy, trong xu thế đổi mới giáo dục hiện nay, việc đầu tiên cần tiến
hành đó là xây dựng được một bộ chương trình chuẩn và quản lý thực hiện tốt
chương trình giáo dục cho các bậc học, nhất là bậc phổ thông. Điều này cũng
đã được xác định trong Luật Giáo dục 2005 (sửa đổi năm 2009): “Chương
trình giáo dục thể hiện mục tiêu; quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi
và cấu trúc nội dung giáo dục, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động
giáo dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn học ở mỗi lớp,
mỗi cấp học hoặc trình độ đào tạo” [41, tr.34].
Chương trình giáo dục ở trường trung học phổ thông nói chung, ở
trường trung học phổ thông dân lập nói riêng thực chất là một bộ chuẩn cơ
bản trong giáo dục; là một một bản thiết kế tổng thể về quá trình đào tạo,
trong đó quy định mục tiêu đào tạo, hệ thống kiến thức, kỹ năng, các hình
thức tổ chức dạy học, phương pháp dạy học, tỷ lệ giữa khối lượng kiến thức,


4

phân chia thời gian cho các nội dung và cách thức đánh giá kết quả đào tạo; là
cơ sở dữ liệu để xây dựng tiến trình dạy học - giáo dục, lôgíc môn học, quy
định các hình thức kiểm tra, đánh giá; là một yếu tố quyết định đến chất lượng

và hiệu quả dạy học - giáo dục.
Thời gian qua việc quản lý thực hiện chương trình giáo dục ở các
trường trung học phổ thông được tiến hành khá chặt chẽ, qua đó đã góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục của các trường. Tuy nhiên, đối với các
trường trung học phổ thông dân lập, do chưa có một mô hình quản lý riêng
nên việc thực hiện chương trình giáo dục ở các trường này vẫn dựa vào mô
hình quản lý giảng dạy ở trường công lập. Vì vậy, việc quản lý thực hiện
chương trình giáo dục ở các trường trung học phổ thông dân lập (vẫn còn
phần nào mang tính áp đặt, kinh nghiệm, vừa làm vừa điều chỉnh cho phù
hợp với đặc điểm của loại hình nhà trường) đang bộc lộ nhiều vấn đề hạn
chế cả ở chủ thể quản lý và đối tượng thực hiện.
Thực tế, ở các trường trung học phổ thông dân lập, giáo viên chủ yếu là
kiêm nhiệm, thỉnh giảng,.. nên thời gian giảng dạy eo hẹp, gây khó khăn cho
việc xếp lịch dạy, quản lý và sinh hoạt chuyên môn của nhà trường. Học sinh
được xét tuyển vào trường phần lớn là những học sinh không thi được vào các
trường trung học phổ thông công lập nên trình độ chênh lệch nhau khá lớn.
Chính vì vậy, việc tổ chức quản lý thực hiện chương trình giáo dục, các
nhà quản lý cần phải có những biện pháp quản lý khoa học mới có thể đạt
được mục tiêu và chất lượng giáo dục của nhà trường.
Thời gian qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu về quản lý thực hiện
chương trình đào tạo, chương trình giáo dục. Tuy nhiên, với bậc học phổ
thông, ít có nghiên cứu nào bàn sâu đến việc thực hiện chương trình giáo dục
và quản lý chương trình giáo dục, nhất là các trường trung học phổ thông dân
lập trên một địa bàn đặc thù như quận Cầu Giấy. Do đó, cần phải làm rõ đặc
trưng của loại hình trường trung học phổ thông dân lập nói chung, các trường


5

trung học phổ thông dân lập quận Cầu Giấy nói riêng và những vấn đề về lý

luận và thực tiễn quản lý thực hiện chương trình giáo dục để đề xuất các biện
pháp phù hợp với đặc điểm của loại hình trường này nhằm quản lý tốt, có hiệu
quả việc thực hiện chương trình giáo dục, góp phần nâng cao chất lượng quản
lí giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục của loại hình trường trung học phổ
thông dân lập nói chung, các trường trung học phổ thông dân lập quận Cầu
Giấy nói riêng.
Xuất phát từ những lý do trên, học viên đã chọn đề tài “Quản lý thực
hiện chương trình giáo dục ở các trường trung học phổ thông dân lập
quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành
quản lý giáo dục.
2.Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về chương trình giáo dục nói chung, thực hiện chương trình
giáo dục ở các cấp học, bậc học đã được nhiều nhà giáo dục, nhà nghiên cứu
tập trung nghiên cứu, làm rõ, tập trung những công trình tiêu biểu sau:
Vấn đề quản lý thực hiện chương trình giáo dục ở các trường, nhất là các
trường trung học phổ thông luôn được các cấp lãnh đạo, các nhà giáo dục, các
nhà quản lý giáo dục và đội ngũ giáo viên quan tâm chỉ đạo, nghiên cứu làm cơ
sở để tổ chức thực hiện, triển khai và mong muốn sớm có chương trình giáo dục
khoa học, cập nhật kiến thức hiện đại và phù hợp với nền giáo dục Việt Nam.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong sách “Về vấn đề giáo dục - đào
tạo” (1999) khẳng định: Giáo dục phổ thông là trường học rộng lớn đang
và sẽ được xây dựng tại khắp các miền của đất nước ta nhằm mục đích
chung của giáo dục là nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân
tài. Như vậy, với hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục phổ thông có vai trò
đặc biệt trong thực hiện chiến lược Việt Nam. Ông yêu cầu: giáo dục phổ
thông không chỉ nhằm dạy kiến thức khoa học tự nhiên và khoa học xã hội,
mà còn nhằm cái đích dạy các ngành, nghề.


6


Các công trình của các nhà nghiên cứu thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt
Nam nghiên cứu về chương trình giáo dục, quản lý và phát triển chương trình
giáo dục, thực hiện chương trình giáo dục ở các loại hình nhà trường như: Đặng
Thuý Anh, Nguyễn Thị Kỷ, Phạm Hoàng Gia, Nguyễn Dục Quang, Lê Trung
Trấn,v.v... Các tác giả đều nhấn mạnh việc xây dựng và quản lý chương trình
giáo dục là một vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết; đồng thời đã đề ra một
số giải pháp tiến hành quản lý chương trình để phát triển toàn diện nhân cách
của học sinh cũng như nâng cao hiệu quả giáo dục giờ lên lớp như thế nào để
đạt hiệu quả cao nhất .
Trên Tạp chí Khoa học giáo dục (Số 5/2012), với bài viết: “Các xu
hướng phát triển chương trình đào tạo theo quan điểm lấy người học làm
trung tâm”, Nguyễn Vũ Bích Huyền đã đề cập đến nhiều vấn đề phát triển
chương trình đào tạo theo quan điểm dạy học lấy người học làm trung tâm.
Trên cơ sở làm rõ khái niệm chương trình đào tạo, phát triển chương trình
đào tạo, quan điểm dạy học lấy người học làm trung tâm; tác giả đã phân
tích các xu hướng phát triển chương trình đào tạo theo quan điểm dạy học
lấy người học làm trung tâm và kêu gọi các bên có liên quan tham gia phát
triển chương trình đào tạo cùng với các cơ sở đào tạo.
Trong bài viết “Cấu trúc lại chương trình đào tạo để chuyển từ đào tạo
theo niên chế sang chương trình đào tạo theo tín chỉ ở các trường đại học hiện
nay”, tác giả Ngô Doãn Đãi đã phân tích đặc điểm của học chế tín chỉ, yêu
cầu của học chế tín chỉ đối với việc cấu trúc nội dung, phân bổ thời lượng
chương trình đào tạo và nêu các yêu cầu để có được chương trình đào tạo phù
hợp với học chế tín chỉ.
Tại Hội thảo “Xây dựng chương trình đào tạo đại học” năm 2003, tác giả
Lê Đức Ngọc đã đề cập và phân tích khá rõ chất lượng đào tạo đại học, các
nguyên tắc xây dựng và phát triển chương trình đào tạo; vai trò chương trình
môn học trong quản lý, giảng dạy, học tập và nội dung chương trình môn học
Tác giả Nguyễn Văn Khôi trong cuốn “Phát triển chương trình giáo



7

dục” (2011), đã luận bàn lý thuyết về phát triển chương trình giáo dục, một
số cách tiếp cận và mô hình phát triển chương trình giáo dục, vấn đề đánh
giá chương trình giáo dục.
Ở bài viết “Xây dựng chương trình đào tạo hướng đến rèn luyện kỹ
năng” (Kỷ yếu Hội thảo do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức năm 2003), Lê
Văn Hảo đã đề cập đến thực trạng về xây dựng chương trình đào tạo bậc
đại học ở Việt Nam và đề xuất về xây dựng chương trình đào tạo hướng
đến tích hợp rèn luyện các kỹ năng cần thiết đối với người tốt nghiệp đại
học, đây cũng là ý tưởng mới trong xây dựng chương trình đào tạo ở thời
điểm đó.
Đề tài “Những vấn đề cơ bản nâng cao chất lượng đào tạo sau đại học
ở Học viện Chính trị quân sự” do PGS, TS Lại Ngọc Hải làm Chủ nhiệm
đã đề cập đến những vấn đề chung về chương trình đào tạo sau đại học ở
Học viện Chính trị quân sự.
Đề tài “Đánh giá chất lượng học tập của học viên Phân đội ở Học viện
Chính trị quân sự ” của tác giả Mai Văn Hoá làm Chủ nhiệm, đã tiếp cận
dưới góc độ lý luận dạy học, phân tích khá sâu sắc về chương trình đào tạo
sĩ quan cấp phân đội.
Ở một góc độ tiếp cận khác, Phan Việt Thái trong bài viết “Phát triển
chương trình theo định hướng phát triển năng lực”, đăng trên tạp chí Khoa
học Giáo dục số 69/2011 đã đưa ra khái niệm năng lực, chương trình định
hướng phát triển năng lực của người học và nêu ra những yêu cầu trong
phát triển năng lực của người học.
Trong bài viết “Cách tiếp cận mới trong xây dựng chương trình đào tạo
chính uỷ, chính trị viên hiện nay”, đăng trong Sách kỷ yếu hội thảo khoa học
“Chính uỷ, chính trị viên với sự nghiệp xây dựng quân đội về chính trị”. Tác

giả Mai Văn Hoá đã đề xuất các biện pháp về xây dựng chương trình đào tạo
chính uỷ theo hướng mở; các lực lượng tham gia thực hiện chương trình có


8

thể thay đổi chương trình cho phù hợp với đối tượng cụ thể; chương tập trung
vào người học, vào phát triển năng lực của học viên…
Bên cạnh những công trình nghiên cứu cơ bản trên, những năm gần
đây đã có nhiều luận văn, luận án đề cập nghiên cứu về quản lý chương
trình giáo dục, như: Luận án tiến sĩ chuyên ngành Quản lý giáo dục của tác
giả Trần Hữu Hoan với đề tài: “Quản lý xây dựng và đánh giá chương trình
môn học trình độ đại học trong học chế tín chỉ” (2011), đã làm rõ các khái
niệm về chương trình giáo dục đại học, chương trình môn học, quản lý
chương trình môn học; làm rõ các vấn đề như: yêu cầu của học chế tín chỉ
đối với quản lý xây dựng và đánh giá chương trình môn học, quản lý xây
dựng và đánh giá chương trình môn học trong học chế tín chỉ, thực trạng
quản lý xây dựng và đánh giá chương trình môn học trong học chế tín chỉ.
Đặc biệt, tác giả đã đề xuất được các nguyên tắc, xác định các định hướng
và quy trình tổ chức xây dựng chương trình môn học trong học chế tín chỉ;
xây dựng nguyên tắc, định hướng và xác định các tiêu chí đánh giá chương
trình môn học trong học chế tín chỉ.
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục của Hoàng Thị Minh Huệ (2008)
với đề tài: Giải pháp quản lý phát triển chương trình đào tạo ở Đại học
dân lập Phương Đông đã hệ thống hoá cơ sở phát triển chương trình đào
tạo; nghiên cứu đánh giá thực trạng công tác phát triển chương trình đào
tạo và quản lý phát triển chương trình đào tạo ở Đại học dân lập Phương
Đông; đề xuất các biện pháp tổ chức quản lý phát triển chương trình đào
tạo ở Đại học dân lập phương Đông.
Tác giả Nguyễn Đức Chính trong tài liệu “Chương trình giáo dục ở

trường trung học phổ thông và phát triển chương trình đào tạo” (2007) đã
phân tích các giai đoạn phát triển chương trình đào tạo, đề xuất các tiêu
chí đánh giá chương trình giáo dục ở trường trung học phổ thông về: tính
trình tự; tính gắn kết; tính thích hợp; tính cân đối; tính cập nhật và tính
hiệu quả.


9

Như vậy, đã có nhiều công trình của nhiều tác giả nghiên cứu về chương
trình giáo dục, thực hiện và quản lý thực hiện chương trình giáo dục nhằm đáp
ứng nội dung giáo dục cho thế hệ trẻ một cách toàn diện như: Giáo dục giá trị,
truyền thống, cội nguồn, bản sắc dân tộc, lý tưởng của người thanh niên xã hội
chủ nghĩa thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá; thanh niên với bảo vệ môi
trường, phòng chống và khắc phục thiên tai, bệnh dịch; tình bạn, tình yêu, hôn
nhân và gia đình; nghề nghiệp, sức khoẻ sinh sản vị thanh niên ..v.v.
Hiện nay, việc tổ chức và thực hiện nội dung đó đảm bảo đạt hiệu
quả tốt nhất, đòi hỏi phải tổ chức quản lý, nhất là đối tượng học sinh mới
lớn đang có những hoài bão và lý tưởng, song việc nhận thức các vấn đề
còn chưa đúng hướng. Vì vậy, quản lý thực hiện chương trình làm sao
hướng cho học sinh có được những buổi sinh hoạt, học tập sống động, hấp
dẫn, lành mạnh, hiệu quả để từ đó học sinh hình thành thế giới quan, nhân
sinh quan đúng đắn, tự mình rèn luyện nhân cách mang đầy đủ những giá
trị chân, thiện, mỹ góp phần tích cực cho sự phát triển chung của xã hội,
của đất nước.
Vấn đề quản lý chương trình giáo dục và quản lý thực hiện chương trình
giáo dục tuy đã có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài và
ở trong nước đề cập đến với nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, đến nay chưa
có công trình nào nghiên cứu một cách cơ bản, chuyên sâu vấn đề quản lý
thực hiện chương trình giáo dục ở trường trung học phổ thông dân lập. Do vậy,

đề tài: “Quản lý thực hiện chương trình giáo dục của các trường trung học
phổ thông dân lập quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội” không có sự trùng
lặp với các công trình đã nghiên cứu trước đó. Hướng nghiên cứu của đề tài
cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ các vấn đề sau đây:
- Làm rõ những đặc thù về chương trình giáo dục và quản lý thực hiện
chương trình giáo dục ở các trường trung học phổ thông dân lập.
- Làm rõ nội dung quản lý thực hiện chương trình giáo dục ở các trường
trung học phổ thông dân lập.


10

- Khảo sát thực trạng về quản lý thực hiện chương trình giáo dục ở các
trường trung học phổ thông dân lập quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
- Đề xuất các biện pháp quản lý thực hiện chương trình giáo dục ở các
trường trung học phổ thông dân lập quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội hiện nay.
- Hướng nghiên cứu của đề tài nhằm xây dựng các biện pháp có tính
chất đổi mới hiện trạng của công tác quản lý thực hiện chương trình giáo dục,
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo ở các trường trung học phổ
thông dân lập trên địa bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về quản lý thực hiện chương trình giáo
dục ở các trường trung học phổ thông dân lập, đề xuất biện pháp quản lý thực
hiện chương trình giáo dục ở các trường trung học phổ thông dân lập quận
Cầu Giấy, thành phố Hà Nội hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về quản lý thực hiện chương trình giáo dục ở
các trường trung học phổ thông dân lập.
- Đánh giá thực trạng quản lý thực hiện chương trình giáo dục ở các

trường trung học phổ thông dân lập quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
- Đề xuất các biện pháp chủ yếu quản lý thực hiện chương trình giáo dục ở
các trường trung học phổ thông dân lập quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội hiện nay.
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Quản lý giáo dục ở các trường trung học phổ thông dân lập quận Cầu
Giấy, thành phố Hà Nội.
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý thực hiện chương trình giáo dục ở các trường trung học phổ
thông dân lập quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.


11

* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu quản lý thực hiện chương trình giáo dục
ở các trường trung học phổ thông dân lập quận Cầu Giấy, thành phố Hà
Nội. Các số liệu sử dụng để nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm
2009 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Thực hiện nghiêm túc chương trình giáo dục là một nguyên tắc đối với
các nhà trường, nhất là với các trường trung học phổ thông dân lập - một loại
hình trường mới ra đời ở Việt Nam. Thực tế quản lý chương trình giáo dục ở
các trường trung học phổ thông dân lập hiện nay chưa phù hợp với đặc trưng
của nhà trường. Do vậy, Nếu các chủ thể quản lý áp dụng đồng bộ các biện
pháp như: tổ chức giáo dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm cho các lực
lượng sư phạm trong nhà trường; kế hoạch hoá việc thực hiện chương trình
giáo dục một cách khoa học; phối hợp chặt chẽ các tổ chức, các lực lượng
trong tổ chức thực hiện chương trình giáo dục; đổi mới phương thức quản lý
thực hiện chương trình giáo dục; tăng cường kiểm tra, đánh giá việc thực

hiện chương trình giáo dục của các lực lượng sư phạm trong nhà trường,... thì
quản lý được chương trình giáo dục, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
đáp ứng yêu cầu đòi hỏi hiện nay.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng. Quán triệt và cụ thể hoá tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục, quản lý giáo dục.
Quá trình nghiên cứu, đề tài dựa trên các quan điểm tiếp cận hệ thống - cấu
trúc, lôgíc - lịch sử và quan điểm thực tiễn để luận giải các nhiệm vụ
nghiên cứu.


12

*Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên
ngành và liên ngành, cụ thể là:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá các tài liệu khoa học, các văn kiện,
nghị quyết, văn bản pháp quy của Đảng, nhà nước liên quan đến giáo dục và
đào tạo nói chung, xây dựng chương trình giáo dục ở trường trung học phổ
thông dân lập nói riêng; các tạp chí, thông tin, sách báo, công trình khoa học
về xây dựng, phát triển và quản lý thực hiện chương trình, mục tiêu, qui trình
đào tạo. Từ đó xác định cơ sở lý luận quản lý thực hiện chương trình giáo dục
của các trường trung học phổ thông dân lập.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp điều tra bằng phiếu câu hỏi: Chúng tôi sử dụng phiếu
hỏi gồm các câu hỏi mở và câu hỏi đóng. Những câu hỏi xoay quanh công tác
tổ chức quản lý chương trình giáo dục và các biện pháp quản lý chương trình

mà nhà trường đã áp dụng, hiệu quả của các biện pháp quản lý. Phiếu hỏi
được thăm dò trên hai đối tượng, đó là giáo viên và cán bộ quản lý trong các
trường trung học phổ thông dân lập quận Cầu Giấy.
+ Phương pháp trò chuyện, phỏng vấn: Chúng tôi tiến hành phỏng
vấn sâu cán bộ quản lý và một số giáo viên về các vấn đề quản lý, biện
pháp quản lý thực hiện chương trình giáo dục của các trường trung học phổ
thông dân lập quận Cầu Giấy.
- Các phương pháp khác:
Phương pháp xin ý kiến chuyên gia, trực tiếp tao đổi hoặc bằng phiếu
hỏi mở và xin ý kiến về quản lý chương trình giáo dục trung học phổ thông dân
lập với các chuyên gia nghiên cứu sâu về vấn đề này hoặc các nhà quản lý có
nhiều kinh nghiệm.


13

Phương pháp thống kê toán học, sử dụng phương pháp thống kê toán
học để xử lý số liệu làm minh chứng cho các nhận định, đánh giá và khảo
nghiệm tính khả thi của các biện pháp được đề xuất.
7. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần phát triển và làm phong phú
thêm cơ sở lý luận về quản lý thực hiện chương trình giáo dục ở các trường
trung học phổ thông dân lập, giúp cho các Hội đồng quản trị và hiệu trưởng
thực hiện chương trình giáo dục của nhà trường một cách hiệu quả, đồng bộ và
đúng quy định, góp phần nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục học sinh
hiện nay.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy
trong các nhà trường; ngoài ra, luận văn còn có giá trị tham khảo cho các nhà
quản lý giáo dục, các trường trung học phổ thông trong quá trình quản lý thực
hiện chương trình giáo dục của nhà trường.

8. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: phần mở đầu; 3 chương (8 tiết); kết luận và kiến nghị;
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục


14

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH
GIÁO DỤC Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG DÂN LẬP
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Chương trình giáo dục ở các trường trung
học phổ thông dân lập
Có nhiều cách tiếp cận khái niệm chương trình giáo dục. Thuật ngữ
Curriculum (chương trình) có nguồn gốc từ thời La Mã, chỉ con đường hình
bầu dục trong trường đua ngựa, nó có nghĩa “con đường mòn”; sau này thuật
ngữ curriculum được sử dụng với nghĩa “chương trình học” trong giáo dục.
Theo Mudules (2011) “Chương trình là những mục tiêu và nội dung mà nhà
trường cung cấp cho học sinh, sinh viên” [36, tr.45].
Theo Từ điển tiếng Việt, chương trình là “Toàn bộ nội dung học tập,
giảng dạy nêu vắn tắt, được quy định chính thức cho từng môn, từng lớp hoặc
từng cấp học, bậc học” [44, tr.193].
Từ điển Giáo dục học xác định khái niệm chương trình giáo dục là: “Văn
bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giáo dục ban hành, quy định mục
tiêu học tập mà người học cần đạt được; số lượng, phạm vi, mức độ, nội dung
chi tiết các môn học và thời gian thực hiện; các phương pháp và hình thức tổ
chức học tập; các cách thức đánh giá kết quả học tập cũng như các phương tiện
cần thiết khác nhằm đạt được mục tiêu giáo dục đề ra” [44, tr.47].
Theo Luật Giáo dục năm 2005, sửa đổi 2009, chương trình giáo dục
được quy định trong Điều 6 Chương I: “Chương trình giáo dục thể hiện mục

tiêu giáo dục, quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội
dung giáo dục, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, cách
thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn học ở mỗi lớp, mỗi cấp học
hay trình độ đào tạo” [41, tr.55].


15

Chương trình giáo dục là một hệ thống nhiều cấp độ. Bao gồm chương
trình giáo dục của một quốc gia, của một ngành học, bậc học, cấp học, lớp
học, môn học, bài học, đơn vị tri thức học tập,… Từ nhiều cấp độ khác nhau
của chương trình giáo dục, do vậy hiện nay có rất nhiều cách hiểu về chương
trình giáo dục. Tuy nhiên, đối với một chương trình giáo dục bao giờ cũng
phải có đầy đủ các đặc điểm:
Chương trình giáo dục thể hiện mục tiêu giáo dục, qui định chuẩn kiến
thức, kĩ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục.
Chương trình giáo dục phải đảm bảo tính hiện đại, tính ổn định, tính
thống nhất, tính kế thừa giữa các cấp học, các trình độ đào tạo, tạo điều kiện
cho sự phân luồng, liên thông, chuyển đổi trình độ đào tạo.
Yêu cầu về nội dung kiến thức, kĩ năng qui định trong chương trình
phải được cụ thể hoá thành giáo khoa, giáo trình, tài liệu giảng dạy.
Chương trình giáo dục được tổ chức thực hiện theo năm học (đối với
phổ thông) theo hình thức tích luỹ tín chỉ (đối với giáo dục phổ thông, giáo
dục nghề nghiệp).
Đối với bậc giáo dục phổ thông, chương trình giáo dục có các đặc
điểm sau:
Thể hiện mục tiêu giáo dục phổ thông, qui định chuẩn kiến thức, kĩ
năng, phạm vi, cấu trúc nội dung giáo dục phổ thông, phương pháp hình thức
đào tạo, cách thức đánh giá kết quả, bảo đảm yêu cầu liên thông với các
chương trình khác.

Chương trình giáo dục qui định nội dung giáo dục đạo đức, thái độ, kỹ
năng, các ứng xử, quan hệ xã hội và các phẩm chất đạo đức cho học sinh,
sinh viên.
Giáo trình phổ thông cụ thể hoá yêu cầu về nội dung kiến thức, kĩ
năng, qui định trong chương trình giáo dục đối với mỗi môn học, ngành


16

học,... Hiệu trưởng trường phổ thông quy định nội dung giáo dục ngoài giờ
lên lớp.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu chương trình giáo dục như sau:
Chương trình giáo dục là bản thiết kế tổng thể về
hoạt động dạy học và giáo dục nhân cách học sinh, trong
đó phản ánh các yếu tố mục tiêu, nội dung, phương pháp
giáo dục và cách thức đánh giá kết quả giáo dục.
Như vậy, chương trình giáo dục dù ở cấp độ vĩ mô hoặc vi mô, dù ít hay
nhiều đều bao gồm các yếu tố cơ bản của hoạt động dạy học và hoạt động
giáo dục nhân cách học sinh, sinh viên. Cụ thể là: Mục tiêu dạy học và giáo
dục của chương trình; nội dung dạy học và giáo dục; hình thức tổ chức và
phương pháp dạy học và giáo dục; quy trình, kế hoạch triển khai; đánh giá kết
quả dạy học và giáo dục. Những yếu tố này được cấu trúc theo quy trình chặt
chẽ về thời gian biểu. Nói cách khác, chương trình giáo dục là hệ thống việc
làm của người học và người dạy, được thiết kế theo cấu trúc tường minh, có
thể kiểm soát được, sao cho sau khi hoàn tất hệ thống việc làm đó, người học
và người dạy đạt được mục đích việc học và dạy của mình.
Ngoài những yếu tố trên, chương trình giáo dục cũng bao gồm các yếu
tố khác tác động không nhỏ đến việc thực thi dạy học như các giá trị văn hoá
xã hội, giới tính, tính chất, hình thức học tập, đạo đức nghề nghiệp,…
Giáo dục trung học phổ thông là một hình thức giáo dục trong hệ thống

giáo dục quốc dân. Luật Giáo dục năm 2005 xác định: “Giáo dục trung học
phổ thông được thực hiện trong ba năm học, từ lớp mười đến lớp mười hai.
Học sinh vào học lớp mười phải có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, có tuổi là
mười lăm tuổi” [41, tr.46].
Mục tiêu của giáo dục trung học phổ thông là nhằm giúp học sinh
củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện


17

học vấn phổ thông và có những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng
nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực các nhân để lựa chọn hướng phát
triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc
sống lao động. Từ mục tiêu của giáo dục trung học phổ thông, nội dung giáo
dục của bậc trung học phổ thông được Luật Giáo dục chỉ rõ: “Giáo dục trung
học phổ thông phải củng cố, phát triển những nội dung đã học ở trung học
cơ sở, hoàn thành nội dung giáo dục phổ thông; ngoài nội dung chủ yếu
nhằm bảo đảm chuẩn kiến thức phổ thông, cơ bản, toàn diện và hướng
nghiệp cho mọi học sinh còn có nội dung nâng cao ở một số môn học để
phát triển năng lực, đáp ứng nguyện vọng của học sinh” [41, tr.49]. Nội
dung giáo dục phổ thông phải đảm bảo tính phổ thông, cơ bản, toàn diện,
hướng nghiệp và hệ thống; gắn với thực tiễn cuộc sống, phù hợp với tâm
sinh lí lứa tuổi của học sinh, đáp ứng mục tiêu giáo dục ở mỗi bậc học, cấp
học. Nội dung, phương pháp giáo dục phổ thông được thể hiện thành chương
trình giáo dục do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
Luật Giáo dục cũng quy định: “Chương trình giáo dục phổ thông thể
hiện mục tiêu giáo dục phổ thông; quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng,
phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục phổ thông, phương pháp và hình
thức tổ chức hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối
với các môn học ở mỗi lớp và mỗi cấp học” [41, tr.50]. Do đó, chương trình

giáo dục của bậc trung học phổ thông phải thể hiện được mục tiêu giáo dục
và nội dung giáo dục của bậc học trung học phổ thông nhằm giúp học sinh
phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng
cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành
nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách
nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc
sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


18

Trường trung học phổ thông dân lập là một loại hình nhà trường nằm
trong hệ thống giáo dục trung học phổ thông, “có nhiệm vụ và quyền hạn
như trường công lập trong việc thực hiện mục tiêu, nội dung, chương trình,
phương pháp giáo dục và các quy định liên quan đến tuyển sinh, giảng dạy,
học tập, thi cử, kiểm tra, công nhận tốt nghiệp, cấp văn bằng, chứng chỉ”
[41, tr.90].
Như vậy, trường trung học phổ thông dân lập cũng thực hiện chương
trình giáo dục như trường trung học phổ thông công lập, chịu trách nhiệm
về quy hoạch, kế hoạch phát triển nhà trường, tổ chức các hoạt động giáo
dục, xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo, huy động, sử dụng và quản lý
các nguồn lực để thực hiện mục tiêu giáo dục. Trường trung học phổ thông
dân lập thực hiện chương trình giáo dục, kế hoạch dạy học do Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành; thực hiện kế hoạch thời gian năm học
theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo phù hợp với điều kiện cụ thể
của địa phương.
Căn cứ chương trình giáo dục và kế hoạch thời gian năm học, nhà
trường xây dựng kế hoạch và thời khoá biểu để điều hành hoạt động giáo dục,
dạy học. Các hoạt động giáo dục bao gồm hoạt động trong giờ lên lớp và hoạt
động ngoài giờ lên lớp nhằm giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí

tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân,
tính năng động và sáng tạo, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn
bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động.
Hoạt động giáo dục trong giờ lên lớp được tiến hành thông qua việc
dạy học các môn học bắt buộc và tự chọn trong chương trình giáo dục của cấp
học do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp bao gồm các hoạt động ngoại
khoá về khoa học, văn học, nghệ thuật, thể dục thể thao, an toàn giao thông,


19

phòng chống tệ nạn xã hội, giáo dục giới tính, giáo dục pháp luật, giáo dục
hướng nghiệp, giáo dục kỹ năng sống nhằm phát triển toàn diện và bồi dưỡng
năng khiếu; các hoạt động vui chơi, tham quan, du lịch, giao lưu văn hoá, giáo
dục môi trường; hoạt động từ thiện và các hoạt động xã hội khác phù hợp với
đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh.
Từ những vấn đề cơ bản trên, chúng tôi quan niệm: Chương trình giáo
dục ở các trường trung học phổ thông dân lập là bản thiết kế tổng thể về quá
trình giáo dục, trong đó qui định mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục
và cách thức đánh giá kết quả giáo dục cả hoạt động lên lớp và ngoài giờ lên
lớp nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục phổ thông.
Chương trình giáo dục trung học phổ thông dân lập thực hiện theo Luật
Giáo dục và những quy định do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, bao gồm
mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục như các trường công lập. Chương
trình giáo dục của trung học phổ thông dân lập là văn bản có tính chất pháp
quy, quy định các trường trung học phổ thông dân lập thực hiện một cách chặt
chẽ, nghiêm túc.
Thực chất chương trình giáo dục của các trường trung học phổ
thông dân lập là chương trình giáo dục của trung học phổ thông trong hệ

thống giáo dục quốc dân, là bản thiết kế tổng thể quy định những vấn đề
chủ yếu sau:
Mục tiêu của chương trình giáo dục của các trường trung học phổ thông
dân lập nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục của bậc học trung học phổ thông.
Nội dung của chương trình giáo dục ở trung học phổ thông dân lập,
bao gồm:
Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khoá XI) đã xác định: “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú
trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin


20

học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn”
[17, tr.129]. Vì vậy, chương trình giáo dục ở các trường trung học phổ
thông phải bao gồm:
Chuẩn về thời gian: 3 năm theo quy định của bậc học phổ thông được
quy định trong Luật Giáo dục.
Chuẩn về kiến thức: Nắm và hiểu các kiến thức của bậc trung học
phổ thông, chuẩn bị kiến thức để thi cao đẳng, đại học. Nội dung bao gồm:
Khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học lịch sử, địa lý, công nghệ
thông tin.
Chuẩn về kỹ năng: Kỹ năng sống của vị thành niên, kỹ năng xã hội…
Chuẩn về năng lực: Năng lực học tập, tự học tập, năng lực thực hành
đáp ứng yêu cầu của xã hội….
Chuẩn về phẩm chất: Phẩm chất chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức
cách mạng, và các phẩm chất nhân cách người thanh niên mới trong điều kiện
hội nhập quốc tế.
Phương pháp giáo dục ở trung học phổ thông dân lập là tổng hợp
cách thức, biện pháp truyền thụ và lĩnh hội kiến thức ở bậc trung học phổ

thông, tổ chức cuộc sống và các hoạt động giáo lưu cho học sinh nhằm
trang bị kiến thức, hình thành kỹ xảo, kỹ năng, hình thành thái độ và các
phẩm chất nhân cách, đáp ứng yêu cầu xây dựng con người mới. Văn kiện
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) cũng đã
chỉ rõ: “Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt
đời. Bảo đảm cho học sinh trung học phổ thông phải tiếp cận nghề nghiệp
và chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng” [19, tr.129].
Cách đánh giá kết quả dạy học và giáo dục nhân cách chính là cách
thức phân loại và đánh giá học sinh, tạo cho học sinh tự đánh giá đúng
mình để có những định hướng sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông.


21

Đặc điểm của chương trình giáo dục ở trung học phổ thông dân lập:
Thứ nhất, chương trình giáo dục ở trung học phổ thông dân lập phải
là hệ thống văn bản pháp quy của các cơ sở đào tạo được dựa trên chương
trình khung do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Hệ thống văn bản này là
nội dung quan trọng để các cơ sở giáo dục quản lý, điều hành quá trình
giáo dục cả trong giờ lên lớp và ngoài giờ lên lớp. Đồng thời, hệ thống văn
bản pháp quy này còn là cơ sở để kiểm định, đánh giá chất lượng giáo dục
và đào tạo của nhà trường. Hệ thống văn bản pháp quy bao gồm các quy
định, hướng dẫn.
Thứ hai, chương trình giáo dục ở trung học phổ thông dân lập dự
kiến được mô hình nhân cách mà người Việt Nam cần phải có. Mô hình
nhân cách đó được cụ thể hoá bằng mục tiêu, yêu cầu đào tạo của các cơ sở
giáo dục, bao gồm cả học vấn, phẩm chất, năng lực của người học sau khi
ra trường đáp ứng với mục tiêu của bậc học phổ thông trong hệ thống giáo
dục quốc dân.
Thứ ba, chương trình giáo dục ở trường trung học phổ thông dân lập quy

định cấu trúc, nội dung kiến thức và kỹ năng theo mục tiêu, yêu cầu đã xác
định. Nội dung kiến thức và kỹ năng bao gồm:
Kiến thức: khoa học lịch sử, khoa học tự nhiên,khoa học xã hội, địa lý,
giáo dục công dân,... Nội dung đó phải dựa trên cơ sở đổi mới căn bản và toàn
diện giáo dục và đào tạo.
Kỹ năng: kỹ năng học tập, kỹ năng thực hành, kỹ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn học tập, kỹ năng sống…
Thứ tư, chương trình giáo dục ở trung học phổ thông dân lập quy định
phương pháp đào tạo và các cách thức đánh giá kết quả học tập của nhà
trường, nhằm thực hiện các mục tiêu đào tạo của nhà trường. Chương trình
giáo dục là sự cụ thể hoá mục tiêu và nội dung đào tạo.


22

1.1.2. Quản lý thực hiện chương trình giáo dục ở trường trung học
phổ thông dân lập
Quản lý (tiếng Anh là Management) đặc trưng cho quá trình điều khiển
và dẫn hướng tất cả các bộ phận của một tổ chức, thường là tổ chức kinh tế,
thông qua việc thành lập và thay đổi các nguồn tài nguyên (nhân lực, tài
chính, vật tư và giá trị vô hình...). Quản lý trong kinh doanh hay quản lý trong
các tổ chức nhân sự nói chung là hành động đưa các cá nhân trong tổ chức
làm việc cùng nhau để thực hiện, hoàn thành mục tiêu chung.
Theo Henry Fayol (1841-1925), nhà quản lý và lý thuyết gia về quản trị
người Pháp, đã đề xướng Học thuyết quản trị theo khoa học cho rằng: Công
việc quản lý bao gồm 5 nhiệm vụ: xây dựng kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối
hợp và kiểm soát. Trong đó, các nguồn lực có thể được sử dụng và để quản lý
là nhân lực, tài chính, công nghệ và thiên nhiên.
Nhà quản lý người Mỹ Mary Parker Follett (1868-1933) định nghĩa
quản lý là "nghệ thuật khiến công việc được làm bởi người khác". Theo đó,

nhiệm vụ cơ bản của quản lý gồm:
Hoạch định: xác định mục tiêu, quyết định những công việc cần làm trong
tương lai (tháng tới, năm sau, 5 năm sau...) và lên các kế hoạch hành động.
Tổ chức: sử dụng một cách tối ưu các nguồn lực để thực hiện kế hoạch.
Bố trí nhân lực: phân tích công việc, tuyển mộ và phân công từng cá
nhân cho từng công việc thích hợp.
Lãnh đạo/ Động viên: Giúp các nhân viên khác làm việc hiệu quả hơn
để đạt được các kế hoạch (khiến các cá nhân sẵn lòng làm việc cho tổ chức).
Kiểm soát: Giám sát, kiểm tra quá trình hoạt động theo kế hoạch (kế
hoạch có thể sẽ được thay đổi phụ thuộc vào phản hồi của quá trình kiểm tra).
Ở nước ta, quản lý được hiểu ở nhiều góc độ, nhiều quan niệm khác
nhau. Từ điển Tiếng Việt cho rằng: “Quản lý là trông coi, giữ gìn theo những


23

yêu cầu nhất định. Là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu
nhất định”. Còn Từ điển Giáo dục học quan niệm: Quản lý là hoạt động hay
tác động có định hướng, có chủ định của chủ thể quản lý (người quản lý) đến
khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức
vận hành và đạt được mục đích của tổ chức đó.
Quản lý về cơ bản và trước hết là tác động đến con người để họ thực
hiện, hoàn thành những công việc được giao, có một số cách định nghĩa về
quản lý nhưng đều đề cập đến các yếu tố cơ bản như: Quản lý là thực hiện
những công việc có tác dụng định hướng, điều tiết, phối hợp các hoạt động
của cấp dưới, của những người dưới quyền. Biểu hiện cụ thể qua việc, lập kế
hoạch, đảm bảo tổ chức, điều phối, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động. Hướng
được sự chú ý của con người vào một hoạt động nào đó, điều tiết được nguồn
nhân lực, phối hợp được các hoạt đông bộ phận.
Quản lý là thiết lập, khai thông các quan hệ cụ thể để hoạt động đông

người được hình thành, tiến hành trôi chảy, đạt hiệu quả cao bền lâu và không
ngừng phát triển. Chẳng thế mà người Nhật khẳng định rằng: “Biết cái gì, biết
làm gì là quan trọng nhưng quan trọng hơn là biết quan hệ”. Người Mỹ cho
rằng : “Chi phí cho thiết lập, khai thông các quan hệ thường chiếm 25% đến
50% toàn bộ chi phí cho hoạt động”. Trong hoạt động kinh tế biết thiết lập,
khai thông các quan hệ sản xuất cụ thể thì các yếu tố thuộc lực lượng sản xuất
mới ra đời và phát triển nhanh chóng. Quản lý là tác động của chủ thể quản lý
lên đối tượng quản lý một cách gián tiếp và trực tiếp nhằm thu được những
diễn biến, thay đổi tích cực.
Như vậy, quan niệm về quản lý có thể có những cách diễn đạt khác
nhau, song trong mỗi cách định nghĩa đều đề cập tới các yếu tố cơ bản như:
chủ thể quản lý, khách thể quản lý, mục tiêu quản lý ngoài ra còn phải kể tới
cách thức và công cụ quản lý.


24

Theo Từ điển tiếng Việt, thực hiện là “làm theo trình tự, phép tắc nhất
định” [48, tr.972].
Theo lý luận quản lý giáo dục, thực hiện bao gồm chức năng xây dựng
và duy trì một cơ cấu về vai trò, vị trí, nhiệm vụ của từng cá nhân, bộ phận
cũng với quan hệ hữu cơ với các cá nhân, bộ phận khác. Thực hiện chức năng
tổ chức là thực hiện một quá trình gồm 5 bước: Lập danh mục công việc cần
làm để đạt mục tiêu; phân công lao động; phân chia bộ phận; thiết lập cơ chế
quan hệ và thực hiện; kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh.
Chương trình giáo dục là văn bản pháp lý quy định nội dung, kế hoạch
giáo dục của các cơ sở giáo dục. Nội dung của chương trình giáo dục ở
THPTDL là những nội dung được quy định từ Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Quá trình thực hiện chương trình giáo dục, hiệu trưởng và hội đồng sư
phạm nhà trường phải thực hiện theo một quy trình chặt chẽ, bám sát sự

hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng như cơ quan quản lý cấp trên.
Do vậy, thực hiện chương trình giáo dục ở trường trung học phổ thông
dân lập là quá trình tổ chức hoạt động dạy học và giáo dục theo một trình tự
và quy tắc nhằm đáp ứng mục tiêu giáo dục của nhà trường theo mục tiêu
bậc học phổ thông.
Thực hiện chương trình giáo dục ở trung học phổ thông dân lập theo
trình tự và quy tắc thống nhất được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, hướng
dẫn. Mục đích thực hiện chương trình giáo dục nhằm bảo đảm cho chương
trình giáo dục được tuân thủ thống nhất, chặt chẽ, đạt hiệu quả cao. Nội dung
thực hiện chương trình giáo dục bao gồm: Nhận thức của đội ngũ giáo viên và
học sinh về chương trình giáo dục và thực hiện chương trình giáo dục; hệ thống
văn bản pháp lý quy định hoạt động dạy và hoạt động học; hoạt động dạy học
của đội ngũ giáo viên; hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp và hoạt động học
tập, hoạt động ngoại khoá của học sinh.


25

Để quá trình thực hiện chương trình giáo dục ở các trường trung học
phổ thông dân lập, các hiệu trưởng và hội đồng sư phạm nhà trường chỉ đạo
đội ngũ cán bộ, giáo viên nhà trường thực hiện các hoạt động giảng dạy và
giáo dục một cách chặt chẽ, đúng trình tự, đúng qui tắc, tạo ra hành lang pháp
lý và sự thống nhất cao để nhà trường.
Từ những nội dung phân tích trên, chúng tôi quan niệm: Quản lý thực
hiện chương trình giáo dục ở trung học phổ thông dân lập là hoạt động có
mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý tác động đến thực hiện chương
trình giáo dục theo một trật tự và quy định thống nhất bằng các cách thức
lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, kế hoạch, tổ chức, kiểm tra đến quá trình thực
hiện hệ thống văn bản pháp lý nhằm đáp ứng mục tiêu, yêu cầu của bậc học
phổ thông trung học trong hệ thống giáo dục quốc dân.

Thực chất quản lý thực hiện chương trình giáo dục ở trung học phổ
thông dân lập là quản lý nội dung của chương trình giáo dục bao gồm quản
lý việc xây dựng kế hoạch, quản lý quá trình tổ chức thực hiện chương
trình giáo dục ở trung học phổ thông dân lập, quản lý quá trình bồi dưỡng
giáo viên đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục ở trường trung học
phổ thông dân lập.
Khái niệm quản lý thực hiện chương trình giáo dục ở trung học phổ
thông dân lập là một khái niệm rất rộng lớn nó bao gồm: Quản lý việc xây
dựng chương trình giáo dục; quản lý việc hoàn thiện bổ sung, phát triển
chương trình giáo dục và quản lý việc tổ chức thực hiện chương trình đào tạo.
Vì vậy, tác giả không đi vào bàn xây dựng chương trình và phát triển chương
trình giáo dục, mà chỉ đi sâu làm rõ về quản lý tổ chức thực hiện chương trình
giáo dục ở trường trung học phổ thông dân lập.
Chương trình giáo dục ở trung học phổ thông dân lập về thực chất
chính là chương trình giáo dục của bậc học phổ thông, chỉ khác ở chỗ quá


26

trình tổ chức thực hiện. Vì vậy, quản lý thực hiện chương trình giáo dục ở
trường trung học phổ thông dân lập là hoạt động có ý nghĩa thiết thực,
góp phần thực hiện chương trình giáo dục bậc trung học phổ thông, nâng
cao chất lượng giáo dục và đào tạo của các trường dân lập trong hệ thống
giáo dục quốc dân.
Mục đích quản lý nhằm bảo đảm cho chương trình giáo dục theo phương
châm: “bảo đảm tính phổ thông, cơ bản, toàn diện, hướng nghiệp và có hệ
thống; gắn với thực tiễn cuộc sống, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi của học
sinh” [44, tr.48]. Đảm bảo cho học sinh củng cố và phát triển những kết quả
của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu
biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng

lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng,
trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống.
Chủ thể quản lý thực hiện chương trình giáo dục bao gồm nhiều lực
lượng: chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo; lực lượng hướng dẫn, trực tiếp quản lý và
lực lượng tổ chức thực hiện ...
Chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo là hiệu trưởng và Hội đồng sư phạm
nhà trường.
Chủ thể tổ chức thực hiện bao gồm các tổ bộ môn, giáo viên.
Đối tượng quản lý là hệ thống văn bản pháp lý quy định mục tiêu, yêu
cầu, cấu trúc nội dung chương trình giáo dục, bao gồm: Khung chương trình,
kế hoạch đào tạo, kế hoạch môn học.
Phương pháp, hình thức quản lý là những cách thức, biện pháp tác
động nhằm đảm bảo cho chương trình giáo dục ở trường trung học phổ thông
dân lập được thống nhất, có hiệu quả theo hướng “chuẩn hoá, hiện đại hoá”,
gồm: Các cách thức quản lý kế hoạch, các cách thức quản lý điều hành qua
các phần mềm quản lý, quản lý nghiệp vụ...


×