Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Phối hợp các lực lượng cộng đồng trong phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ em 6 11 tuổi trên địa bàn tỉnh phú yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (838.91 KB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
===========

VÕ NGUYỄN MINH HOÀNG

PHỐI HỢP CÁC LỰC LƯỢNG CỘNG ĐỒNG
TRONG PHÒNG NGỪA XÂM HẠI TÌNH DỤC
TRẺ EM 6 - 11 TUỔI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

HÀ NỘI, 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI


VÕ NGUYỄN MINH HOÀNG

PHỐI HỢP CÁC LỰC LƯỢNG CỘNG ĐỒNG
TRONG PHÒNG NGỪA XÂM HẠI TÌNH DỤC
TRẺ EM 6 - 11 TUỔI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ YÊN
Chuyên ngành

: Giáo dục và Phát triển Cộng đồng

Mã Số

: Thí điểm

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Hồng

HÀ NỘI, 2017


LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian nghiên cứu đề tài “Phối hợp các lực lượng cộng
đồng trong phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ em 6 - 11 tuổi trên địa bàn
tỉnh Phú Yên”, đến nay luận văn đã hoàn thành. Với tình cảm chân thành, tôi
xin cảm ơn các thầy giáo, cô giáo và Hội đồng khoa học khoa Tâm lý - Giáo
dục Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tham gia giảng dạy, tư vấn, giúp đỡ,
tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn
thành luận văn.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Thị
Thanh Hồng đã tận tình chỉ bảo, động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình
nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh
Phú Yên, Tỉnh Đoàn Phú Yên, Trường Tiểu học Trưng Vương - Tp. Tuy Hòa,
Trường Tiểu học Hòa Hiệp Bắc - huyện Đông Hòa, Trường tiểu học Sông
Hinh - huyện Sông Hinh, Sở Lao động, Thương binh & Xã hội tỉnh Phú Yên
đã giúp đỡ, tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin bày tỏ tình cảm sâu sắc tới gia đình và người thân đã ủng hộ,
động viên, tạo điều kiện để tôi hoàn thành luận văn này.
Dù đã có nhiều cố gắng trong học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận
văn, song luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong các quý
thầy, cô giáo, bạn bè góp ý để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 6 năm 2017
Tác giả


Võ Nguyễn Minh Hoàng
1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận án này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi.
Các số liệu và tài liệu được trích dẫn trong luận án là trung thực. Kết quả
nghiên cứu này không trùng với bất cứ công trình nào đã được công bố trước
đó.
Tôi chịu trách nhiệm với lời cam đoan của mình.

Hà Nội, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận án

Võ Nguyễn Minh Hoàng

2


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, trẻ em bị xâm hại tình dục đang ngày càng
gia tăng. Xâm hại tình dục trẻ em xảy ra ở mọi quốc gia trên thế giới. Cộng
đồng của chúng ta cũng không miễn nhiễm với nạn xâm hại tình dục trẻ em.
Thủ phạm xâm hại tình dục trẻ em thường là thành viên trong cộng đồng hay
ai đó mà trẻ tin cậy. Không ít trường hợp xâm hại tình dục gây chấn động dư
luận vì kẻ gây tội ác lại chính là những người thân thiết trong gia đình. Hành
vi xâm hại hiếm khi được thực hiện bởi một người lạ. Đôi khi việc xâm hại
này lại diễn ra trong một thời gian dài, thậm chí kéo dài nhiều năm.

Theo thống kê của Bộ Công an, từ năm 2011-2015, cả nước phát hiện
trên 8.200 vụ xâm hại trẻ em với gần 10.000 nạn nhân, tăng 258 nạn nhân so
với 5 năm trước đó. Số vụ bị xâm hại tình dục chiếm tới 5.300 vụ (khoảng
65%) và gia tăng xâm hại tình dục nam. Trong năm 2011, lực lượng chức
năng bắt hơn 1.000 đối tượng, đến năm 2015 số đối tượng tăng lên hơn 1.400.
Đáng lo ngại là khả năng các em quen biết kẻ xâm hại là 93% và có 47% kẻ
xâm hại ở trong gia đình hoặc họ hàng (nguồn />Thực trạng trên cho thấy ý thức bảo vệ trẻ em trước sự xâm hại tình dục
trong cộng đồng còn rất kém, trẻ không biết cách tự bảo vệ bản thân, thường
bị động khi rơi vào hoàn cảnh đó.
Với đặc thù văn hóa Á Đông, người Việt Nam thường ngại đề cập trực
tiếp những vấn đề liên quan đến tình dục và hoạt động chăm sóc sức khỏe
sinh sản nói chung, sức khỏe tình dục nói riêng. Hầu hết các ông bố, bà mẹ
đều né tránh việc giáo dục giới tính cho con một cách khoa học, thay vào đó
3


là sự đe dọa và làm nghiêm trọng hóa vấn đề. Điều đó dẫn đến kết quả lợi bất
cập hại hoặc trẻ trở nên lo lắng quá mức, có thể cự tuyệt việc tiếp cận mọi
thông tin có liên quan đến vấn đề tính dục hoặc làm trẻ tò mò muốn khám phá
bằng mọi cách như một phương thức phản kháng và chống đối lại sự áp đặt
của người lớn. Tất cả xu hướng trên đều là cơ sở dẫn đến khả năng trẻ dễ bị
xâm hại tình dục một cách chủ động hoặc thụ động.
Trong cả nước, nông thôn cũng như thành thị, còn thiếu nơi trông giữ
trẻ an toàn, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường. Trong
khi đó, trước sự đòi hỏi ngày càng cao của xã hội, nhiều người mãi mê với
việc kiếm sống, nên không chăm sóc, không quan tâm đến con cái, trẻ phải tự
mình vui chơi tại nhà, gửi con ở những nhà trẻ tư, những nhóm trẻ gia đình và
thậm chí gửi nhầm cho hàng xóm “yêu râu xanh”... Đây chính là môi trường
nảy sinh nguy cơ trẻ em bị xâm hại tình dục.
Bên cạnh đó, việc phối kết hợp các lực lượng cộng đồng trong phòng

ngừa xâm hại tình dục trẻ em còn nhiều hạn chế, chưa được chú trọng. Nhận
thức, trách nhiệm và năng lực bảo vệ, chăm sóc trẻ em của các cấp chính
quyền còn thiếu hụt; lực lượng cán bộ làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em
không ổn định, yếu chuyên môn nghiệp vụ, thiếu kinh nghiệm.
Theo Trung tâm Công tác xã hội trẻ em tỉnh Phú Yên, số trẻ bị xâm hại
tình dục nhiều nhưng vì hiểu biết của gia đình chưa đúng về mức độ xâm hại
tình dục - Theo họ, chỉ khi nào có quan hệ tình dục thì mới xem là xâm hại
tình dục nên không phòng ngừa cũng như báo cáo các cơ quan chức năng tư
vấn, hỗ trợ. Nhiều trường hợp trẻ bị xâm hại nhưng vì tâm lý e ngại, xấu hổ
nên gia đình không tố cáo mà tự thỏa thuận với kẻ xâm hại, hoặc im lặng vì bị
đe dọa.

4


Bên cạnh đó, tâm lý người dân chưa thật sự tin tưởng vào đội ngũ làm
công tác xã hội trẻ em, còn dè chừng, e ngại nên tại Trung tâm Công tác Xã
hội Trẻ em tỉnh, hằng năm chỉ tư vấn, hỗ trợ những trường hợp trẻ bị xâm hại
với mức độ nặng, đã được các cơ quan có chức năng vào cuộc. Số trẻ được
Trung tâm tư vấn, hỗ trợ ít so với thực tế trẻ bị xâm hại tình dục nhưng tăng
theo hàng năm (năm 2014: 6 trẻ; năm 2015: 7 trẻ và đến hết tháng 9/2016 có
6 trẻ). Các chuyên gia nghiên cứu trong lĩnh vực này đều khẳng định tình
trạng xâm hại tình dục trẻ em trên thực tế luôn cao hơn nhiều so với các số
liệu thống kê chính thức. Các số liệu được các cơ quan chức năng công bố chỉ
là “phần nổi của tảng băng chìm”.
Trẻ em là những người phát triển chưa đầy đủ về mặt thể chất và trí tuệ
nên rất dễ bị tổn thương và ảnh hưởng đến quá trình trưởng thành nếu bị xâm
hại tình dục. Vì vậy, công tác phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ em có ý nghĩa
quan trọng nhằm xây dựng một thế hệ tương lai khỏe mạnh cả về thể lực và
tâm lực.

Qua khảo sát từ Phòng Bảo vệ, Chăm sóc trẻ em, Bình đẳng giới thuộc
Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh Phú Yên, số trẻ bị xâm hại tình dục
ở lứa tuổi Tiểu học (6 - 11 tuổi) chiếm 60% số trẻ em bị xâm hại. Đồng thời,
đây cũng là lứa tuổi chưa được giáo dục về giới tính ở chương trình chính
khóa bậc tiểu học. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Phối hợp các lực lượng
cộng đồng trong phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ em 6 - 11 tuổi trên địa
bàn tỉnh Phú Yên” là công việc hết sức cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn cao trong tình hình hiện nay ở Phú Yên.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực trạng về việc phối hợp các lực
lượng cộng đồng trong phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ em, đề tài đề xuất các
5


biện pháp phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ em lứa tuổi tiểu học trên địa bàn
tỉnh Phú Yên dựa vào sự phối kết hợp các lực lượng trong cộng đồng, qua đó
góp phần giảm thiểu những ca trẻ em bị xâm hại trên địa bàn tỉnh, tạo điều
kiện tốt nhất để trẻ em phát triển và hoàn thiện nhân cách.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Các biện pháp phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ em.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp phối hợp các lực lượng cộng đồng trong phòng ngừa xâm
hại tình dục trẻ em 6 - 11 tuổi trên địa bàn tỉnh Phú Yên.
4. Giả thuyết khoa học
Hiện nay, hiện tượng trẻ em bị xâm hại tình dục đang ngày càng gia
tăng trên cả nước nói chung, tại địa bàn tỉnh Phú Yên nói riêng. Một trong
những nguyên nhân của hiện tượng đó là do thiếu sự quan tâm, giám sát của
cộng đồng trong việc giáo dục và phòng ngừa cho trẻ. Nếu đề xuất được các
biện pháp phối hợp các lực lượng cộng đồng trong phòng ngừa xâm hại tình

dục trẻ em một cách chặt chẽ, đồng bộ thì sẽ phòng tránh được các nguy cơ bị
xâm hại tình dục cho trẻ, góp phần tạo điều kiện cho trẻ có một cuộc sống
lành mạnh, đảm bảo cho sự phát triển nhân cách một cách toàn diện.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lí luận liên quan đến việc phối hợp các lực lượng
cộng đồng trong phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ em.
- Khảo sát và đánh giá thực trạng phối hợp các lực lượng cộng đồng
trong phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ em 6 - 11 tuổi trên địa bàn tỉnh Phú
Yên.
6


- Đề xuất biện pháp phối hợp các lực lượng cộng đồng trong phòng
ngừa xâm hại tình dục trẻ em 6 - 11 tuổi trên địa bàn tỉnh Phú Yên và khảo
nghiệm tính cấp thiết, tính khả thi của các biện pháp đã đề xuất.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Đề tài tập trung vào nghiên cứu việc phối hợp các lực
lượng cộng đồng là gia đình, nhà trường và Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên
trong việc phòng ngừa xâm hại tình dục cho trẻ em 6 - 11 tuổi.
- Về thời gian: Đề tài tiến hành trong học kì II năm học 2016 - 2017.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
Phân tích, tổng hợp, khái quát các tài liệu liên quan đến việc phối hợp
các lực lượng cộng đồng trong việc phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ em 6 11 tuổi, từ đó xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài nghiên cứu.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Nhóm phương pháp này dùng để nghiên cứu về thực trạng phối hợp các
lực lượng cộng đồng trong việc phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ em 6 - 11
tuổi trên địa bàn tỉnh Phú Yên.
7.2.1. Phương pháp điều tra giáo dục
Xây dựng và sử dụng phiếu trưng cầu ý kiến để thu thập ý kiến của cán

bộ quản lí, giáo viên, thành viên Hội liên hiệp phụ nữ, Đoàn thanh niên, phụ
huynh trẻ về thực trạng phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ em 6 - 11 tuổi trên
địa bàn tỉnh Phú Yên.
7.2.2. Phương pháp đàm thoại

7


Đàm thoại với giáo viên, phụ huynh, học sinh và các cán bộ làm công
tác phụ nữ, đoàn thanh niên những nhận thức về phòng ngừa xâm hại tình dục
trẻ em từ đó xây dựng các biện pháp phù hợp phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ
em 6 - 11 tuổi trên địa bàn tỉnh Phú Yên.
7.2.3. Phương pháp chuyên gia
Thu thập những ý kiến nhận xét, đánh giá của các chuyên gia trong quá
trình nghiên cứu thực trạng xâm hại tình dục trẻ em 6 - 11 tuổi, xây dựng các
biện pháp và khảo nghiệm các biện pháp phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ em
6 - 11 tuổi tại một số ttrường tiểu học trên địa bàn tỉnh Phú Yên.
7.2.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Tổ chức thực nghiệm một số biện pháp, nhằm kiểm chứng hiệu quả của
các biện pháp đã đề xuất.
7.2.5. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động giáo dục
Tiến hành nghiên cứu các sản phẩm hoạt động giáo dục trẻ phòng ngừa
xâm hại tình dục trẻ em 6 - 11 tuổi như: giáo án, thiết kế bài giảng...
7.2.6. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục
Dựa vào kinh nghiệm giáo dục đã có, kế thừa, phát huy những phương
pháp giáo dục hiệu quả, khắc phục những phương pháp giáo dục chưa phù
hợp, từ đó xây dựng phương pháp mới giáo dục những kỹ năng phòng ngừa
xâm hại tình dục cho trẻ em 6 - 11 tuổi trên địa bàn tỉnh Phú Yên.
7.3. Nhóm phương pháp hỗ trợ
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu hỗ trợ nhằm xử lí những số liệu

thu được từ thực trạng xâm hại tình dục trẻ em 6 - 11 tuổi trên địa bàn tỉnh
Phú Yên. Trên cơ sở đó, đưa ra những nhận xét, đánh giá, lí giải nguyên nhân,
đồng thời đề xuất các biện pháp nâng cao công tác phối hợp các lực lượng
8


cộng đồng trong việc phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ em 6 - 11 tuổi trên địa
bàn tỉnh Phú Yên.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, kết luận và khuyến nghị, Luận văn gồm 3 chương
như sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận về phối hợp các lực lượng cộng đồng trong
phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ em 6 - 11 tuổi.
Chương 2. Thực trạng phối hợp các lực lượng cộng đồng trong phòng
ngừa xâm hại tình dục trẻ em 6 - 11 tuổi trên địa bàn tỉnh Phú Yên.
Chương 3. Biện pháp phối hợp các lực lượng cộng đồng trong phòng
ngừa xâm hại tình dục trẻ em 6 - 11 tuổi trên địa bàn tỉnh Phú Yên.

9


NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHỐI HỢP CÁC LỰC LƯỢNG CỘNG ĐỒNG
TRONG PHÒNG NGỪA XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM 6 - 11 TUỔI

1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Trên thế giới
Nạn xâm hại tình dục trẻ em là vấn nạn xảy ra trên toàn thế giới. Hậu
quả của việc xâm hại tình dục luôn để lại cho trẻ em những tổn hại to lớn cả

về thể chất lẫn tinh thần. Đây là vấn đề nhận được sự quan tâm đặc biệt bởi
các chính phủ và cộng đồng quốc tế. Các nhà nghiên cứu, các tổ chức, quốc
gia trên thế giới đã có những nghiên cứu, điều tra về xâm hại tình dục trẻ em.
Theo định nghĩa của Finkelhor (2009), xâm hại tình dục trẻ em bao
gồm toàn bộ hành vi phạm tội về tình dục mà trẻ em dưới 17 tuổi là nạn nhân.
Theo định nghĩa này, người phạm tội hoặc người có hành vi xâm hại tình dục
trẻ em có thể là người lớn, quen biết hoặc không quen biết với trẻ em, thanh
niên hoặc trẻ em khác. Bên cạnh những hành vi phạm tội xâm hại tình dục có
giao cấu, định nghĩa này bao hàm cả những hành vi phạm tội mà người gây
tội và nạn nhân thậm chí không có tiếp xúc với nhau về mặt thể xác như bắt
trẻ em nhìn các hành vi tình dục, sử dụng trẻ em để sản xuất các ấn phẩm
khiêu dâm, tán tỉnh, gạ gẫm… (Cẩm Nhung).
Trong khi đó, Luật Bảo vệ và Hỗ trợ trẻ em bị bạo hành của Mỹ
(CAPTA) định nghĩa xâm hại tình dục trẻ em bao gồm những hành vi sau:
“sử dụng, thuyết phục, lôi kéo, hoặc sử dụng áp lực để bắt trẻ em tham gia
vào hoặc hỗ trợ người khác tham gia vào thực hiện hành vi xâm hại tình dục
hoặc gợi tình vì mục đích có hành vi xâm hại tình dục hoặc hiếp dâm, và
10


trong trường hợp những người chăm sóc hoặc người thân trong gia đình gạ
gẫm, mại dâm, hoặc những hình thức bóc lột tình dục trẻ em hoặc loạn luân
với trẻ em.” (Child Welfare Information Gateway, 2009) (Cẩm Nhung).
Theo khía cạnh pháp lý, xâm hại tình dục trẻ em là một thuật ngữ rộng
bao gồm những hành vi vi phạm về mặt dân sự và hình sự trong đó người lớn
thực hiện hành vi xâm hại tình dục với trẻ em hoặc khai thác trẻ em vì mục
đích tình dục. Hiệp hội sức khỏe tâm thần Hoa Kỳ (APA) cho rằng: “trẻ em
không thể đồng tình để thực hiện hành vi tình dục với người lớn” và kết tội
hành vi này vào người lớn “Mọi người lớn thực hiện hành vi tình dục với trẻ
em là đang phạm tội hình sự và là hành vi phi đạo đức mà xã hội không thể

chấp nhận được và không thể coi là bình thường.” (Cẩm Nhung).
Một số nghiên cứu khác lại cho rằng xâm hại tình dục trẻ em xảy ra khi
người lớn hoặc một người nhiều tuổi hơn hoặc một người có quyền lực hơn
giao tiếp với trẻ em về tình dục (Danya Glaser and Stephen Frosh, 1993; S. N.
Madu. 2001) (Cẩm Nhung).
Các định nghĩa xâm hại trẻ em có thể khác nhau giữa các nghiên cứu
hoặc các nền văn hóa, nhưng nhìn chung nó đều đề cập đến những hành vi
nhất định mà tất cả các nền văn hóa và các định nghĩa khác nhau đều chấp
nhận và đồng tình. Sự bí mật, sử dụng quyền lực không đúng chỗ, và việc làm
méo mó mối quan hệ giữa trẻ em và người lớn là những yếu tố quan trọng khi
xem xét vấn đề xâm hại tình dục trẻ em. Những nhân tố khác sẽ được cân
nhắc và xem xét khi người có hành vi xâm hại tình dục trẻ em là phụ nữ, trẻ
em hoặc thanh thiếu nhi.
1.1.2. Ở Việt Nam
Từ khi phát triển nền kinh tế thị trường, đất nước ta đã đạt được nhiều
thành tích nổi bật như kinh tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của
11


người dân ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, mặt trái của nền kinh tế thị
trường gây không ít khó khăn cho đất nước ta như sự phân hóa giàu nghèo và
phân tầng xã hội một cách nhanh chóng, mạnh mẽ; nạn thất nghiệp một bộ
phận dân cư; sự biến đổi các giá trị xã hội; sự suy thoái về đạo đức, lối sống
của một bộ phận dân cư; sự tác động của thông tin, truyền thông, văn hoá
phẩm đồi trụy, khiêu dâm; những áp lực về tâm lý và kinh tế trong đời sống
gia đình, xã hội... làm gia tăng nạn xâm hại tình dục trẻ em. Tình trạng xâm
hại tình dục đang trở thành vấn đề “nóng” của toàn xã hội.
Hiện nay, các vụ xâm hại tình dục trẻ em ở nước ta đang có xu hướng
gia tăng - khoảng 20%/năm, trung bình cứ 8 giờ lại có một trẻ bị xâm hại tình
dục, con số này trên thực tế có thể còn nhiều hơn khi có những vụ việc người

bị hại chọn cách im lặng hoặc là thỏa hiệp thay vì lên tiếng. Trên thực tế,
công tác phát hiện và điều tra các vụ việc liên quan đến xâm hại tình dục trẻ
em hiện đang gặp nhiều khó khăn. Có 40% các vụ việc tòa án phải trả hồ sơ vì
không đủ bằng chứng hoặc chứng cứ pháp y (nguồn: vtv.vn) .
Theo số liệu thống kê của Bộ LĐTBXH cho thấy, xâm hại tình dục trẻ
em ngày càng có tính chất phức tạp và độ tuổi bị xâm hại ngày càng thấp. Số
trẻ em bị xâm hại tình dục chủ yếu là bị hiếp dâm (chiếm 65,9%), đối tượng
phạm tội phần lớn là người gần gũi với nạn nhân (chiếm 56,1%). Tình trạng
loạn luân như bố đẻ xâm hại tình dục với con gái (chiếm 0,6%), bố dượng
xâm hại tình dục với con riêng của vợ (chiếm 1%). Trẻ em ở nhà một mình, đi
một mình nơi vắng vẻ… là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc trẻ bị xâm hại
tình dục (chiếm 51,4% số vụ trẻ bị xâm hại). Một số nguyên nhân dẫn đến
xâm hại tình dục trẻ em là do đối tượng uống rượu say (17,7%); bị kích thích
trực

tiếp

từ

băng

ảnh,

văn

hóa

phẩn

đồi


trụy

(8,8%)…

( />12


Tình trạng trẻ em đang bị xâm hại tình dục đang là hồi chuông cảnh
báo cho sự suy đồi đạo đức xã hội, gây bức xúc trong dư luận. Vì vậy, đã có
rất nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài viết về vấn đề này như: “Điều tra
các vụ án về xâm hại tình dục trẻ em trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh:
Thực trạng và Giải pháp”; Tiểu luận “Công tác xã hội với trẻ em bị xâm hại”
của Doãn Nguyệt Quỳnh (năm 2008); Luận văn “Các tội phạm xâm hại tình
dục trong Luật hình sự Việt Nam” của Phan Thị Phương Hiền; Luận văn
“Phòng ngừa tội phạm giao cấu với trẻ em trên địa bàn tỉnh Cà Mau” của Lê
Thị Kim Oanh; Luận văn “Hoạt động phòng ngừa tội hiếp dâm trẻ em của
Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp” của Châu Văn Bình; báo cáo
nghiên cứu “Tổng quan nghiên cứu về tình trạng xâm hại tình dục trẻ em ở
Việt Nam trong những năm gần đây” của Viện Gia đình và Giới …
Từ thực tế và việc khái quát những nghiên cứu trên chúng ta thấy,
nghiên cứu về phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ em đã được các tác giả trong
và ngoài nước quan tâm, tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu về phối
hợp các lực lượng cộng đồng trong phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ em từ 611 tuổi, trong khi đây là giai đoạn trẻ cần có cần có sự quan tâm, chăm sóc và
giáo dục một cách đồng bộ của các các lực lượng cộng đồng. Bởi vậy, việc
nghiên cứu đề xuất các biện pháp phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ em từ 611 tuổi dựa vào các lực lượng cộng đồng là có ý nghĩa và tính cấp thiết cao.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Cộng đồng
Cộng đồng (community) được khái niệm chung nhất là: “một cơ thể
sống/cơ quan/tổ chức nơi sinh sống và tương tác giữa cái này với cái khác”.

Theo quan điểm Mác- Xít, cộng đồng là mối quan hệ qua lại giữa các
cá nhân, được quyết định bởi sự cộng đồng hóa lợi ích giống nhau của các
13


thành viên về các điều kiện tồn tại và hoạt động của những người hợp thành
cộng đồng đó, bao gồm các hoạt động sản xuất vật chất và các hoạt động khác
của họ, sự gần gũi các cá nhân về tư tưởng, tín ngưỡng, hệ giá trị chuẩn mực
cũng như các quan niệm chủ quan của họ về các mục tiêu và phương tiện hoạt
động (theo Giáo trình Phát triển Cộng đồng, TS. Nguyễn Kim Liên, Trường
Đại học Lao động - Xã hội).
Theo cuốn từ điển của Đại học Oxford, “Cộng đồng là tập thể người
sống trong cùng một khu vực, một tỉnh hoặc một quốc gia và được xem là
một khối thống nhất”; “Cộng đồng là một nhóm người có cùng tín ngưỡng,
chủng tộc, loại hình nghề nghiệp, hoặc cùng mối quan tâm”; “Cộng đồng là
một tập thể cùng chia sẻ, hoặc có tài nguyên chung, hoặc có tình trạng tương
tự nhau về một số khía cạnh nào đó” (Công tác xã hội nhập môn, Trường Đại
học Mở Tp. Hồ Chí Minh, Ths. Lê Chí An).
Có thể phân ra 2 loại cộng đồng: Cộng đồng địa lý và cộng đồng chức
năng.
Cộng đồng địa lý bao gồm những người dân cư trú trong cùng một địa
bàn có thể có chung các đặc điểm văn hóa xã hội và có thể có mối quan hệ
ràng buộc với nhau. Họ cùng được áp dụng chính sách chung.
Cộng đồng chức năng gồm những người có thể cư trú gần nhau hoặc
không gần nhau nhưng có lợi ích chung. Họ liên kết với nhau trên cơ sở nghề
nghiệp, sở thích, hợp tác hay hiệp hội có tổ chức (NGO Training Project).
Trên cơ sở phân tích một số quan niệm của các tác giả khác nhau, theo
chúng tôi, cộng đồng là nhóm người sống trong cùng một địa bàn nhất định;
là một tập thể có tổ chức, có chung một đặc tính xã hội, có chung các mối
quan hệ nhất định, hoặc sinh học nào đó và cùng chịu ảnh hưởng bởi một số

yếu tố tác động.
14


1.2.2. Trẻ em
Việc đưa ra khái niệm trẻ em là rất cần thiết nhằm áp dụng đúng các văn
bản pháp luật về trẻ em, thực hiện đầy đủ các quyền dân sự, kinh tế, văn hóa,
xã hội, bảo vệ cuộc sống và sự phát triển toàn diện của trẻ.
Hiện tại, quan niệm về trẻ em ở các nước không giống nhau, chẳng hạn
Australia là dưới 18 tuổi, Anh là dưới 18 tuổi, Iceland là dưới 18 tuổi,
Singapore là dưới 14 tuổi …Sở dĩ có sự khác nhau này là do sự khác biệt
trong quan điểm của nhà lãnh đạo, do điều kiện lịch sử, văn hóa, xã hội, và
khả năng của nền kinh tế, bởi vì cùng với việc quy định bao giờ cũng là trách
nhiệm đảm bảo các quyền của trẻ em, cũng như đảm bảo quyền của công dân,
quyền của con người nói chung ở quốc gia.
Công ước quốc tế về quyền trẻ em của Liên Hợp Quốc năm 1989 xác định
“trẻ em là người dưới 18 tuổi”. Tuy nhiên, tính đến sự khác biệt giữa các
nước thành viên phê chuẩn văn kiện pháp lý quốc tế, Công ước cũng thừa
nhận pháp luật của quốc gia có thể quy định độ tuổi của trẻ em thấp hơn, tùy
thuộc vào điều kiện cụ thể của quốc gia.
Ở Việt Nam, theo quy định của Luật Bảo vệ, Chăm sóc và giáo dục trẻ em
thì “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Và, đến năm 2016, Luật bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được đổi thành Luật Trẻ em, phản ánh đầy đủ
hơn nội dung và phạm vi của Luật về đối tượng đặc thù như các luật đã được
Quốc hội thông qua. Trong đó, khái niệm “trẻ em” trong pháp luật Việt Nam
được coi là “người chưa đủ 16 tuổi”. Luật này được xem là cơ bản nhất về
quyền của trẻ em Việt Nam, do vậy các văn bản pháp luật khác cũng thống
nhất cách hiểu khi dùng thuật ngữ “Trẻ em”. Luận văn cũng lấy quy định này
là căn cứ để khảo sát và đề xuất các biện pháp phòng ngừa xâm hại tình dục
trẻ em từ 6- 11 tuổi dựa vào các lực lượng cộng đồng.

15


1.2.3. Xâm hại trẻ em
Theo Luật Trẻ em 2016, khái niệm về xâm hại trẻ em được hiểu như
sau: “Xâm hại trẻ em là hành vi gây tổn hại về thể chất, tình cảm, tâm lý,
danh dự, nhân phẩm của trẻ em dưới các hình thức bạo lực, bóc lột, xâm hại
tình dục, mua bán, bỏ rơi, bỏ mặc trẻ em và các hình thức gây tổn hại khác”.
Các hành vi xâm hại trẻ theo quan niệm này, đó là:
Bạo lực trẻ em: là hành vi hành hạ, ngược đãi, đánh đập; xâm hại thân
thể, sức khỏe; lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm; cô lập, xua đuổi và
các hành vi cố ý gây các tổn hại khác về thể chất, tinh thần của trẻ em.
Bóc lột trẻ em: là hành vi bắt trẻ em lao động trái quy định của pháp
luật về lao động; trình diễn hoặc sản xuất sản phẩm khiêu dâm; tổ chức, hỗ trợ
hoạt động du lịch nhằm mục đích xâm hại tình dục trẻ em; cho, nhận hoặc
cung cấp trẻ em để hoạt động mại dâm và các hành vi khác sử dụng trẻ em để
trục lợi.
Xâm hại tình dục trẻ em: là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép
buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục,
bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em và sử dụng trẻ em
vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức.
Bỏ rơi, bỏ mặc trẻ em: là hành vi của cha mẹ, người chăm sóc trẻ em
không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm của mình
trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em.
1.2.4. Xâm hại tình dục trẻ em
Có nhiều định nghĩa về xâm hại tình dục trẻ em. Tuy nhiên, trong
khuôn khổ luận văn có thể điểm qua một số khái niệm về “xâm hại tình dục
trẻ em” của các tổ chức, các điều luật như sau:
16



Tổ chức Y tế thế giới định nghĩa xâm hại tình dục trẻ em như sau:
“Xâm hại trẻ em là việc lôi kéo trẻ em tham gia vào các hoạt động tình dục
mà trẻ em đó không hiểu một cách đầy đủ, không có khả năng quyết định ưng
thuận một cách có hiểu biết, hoặc hành động đó là trái pháp luật hoặc trái quy
tắc xã hội. Xâm hại tình dục trẻ em là hành động diễn ra giữa một trẻ em với
một người trưởng thành hoặc với một trẻ em khác mà do độ tuổi và mức độ
phát triển, người này có mối quan hệ trách nhiệm, tin tưởng hoặc quyền hành
với trẻ, và hành động gây ra nhằm thỏa mãn nhu cầu của người đó.”
( />Trong trường hợp, thủ phạm xâm hại tình dục trẻ em là một thành viên
trong gia đình hoặc có họ hàng với trẻ, thì việc xâm hại tình dục được xem là
loạn luân. Xâm hại tình dục trẻ em cũng có thể xảy ra dưới hình thức bóc lột
thông qua văn hóa phẩm khiêu dâm hoặc hoạt động mại dâm.
Theo Luật trẻ em 2016: “ Xâm hại tình dục trẻ em là việc dùng vũ lực,
đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào các hành vi
liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với
trẻ em và sử dụng trẻ em vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình
thức”.
Hành vi xâm hại tình dục có thể thay đổi từ việc sờ mó bộ phận sinh
dục của trẻ, thủ dâm, tiếp xúc miệng với bộ phận sinh dục, giao hợp bằng
ngón tay, giao hợp qua đường sinh dục hoặc hậu môn. Xâm hại tình dục ở trẻ
em không chỉ giới hạn vào các tiếp xúc cơ thể mà còn bao gồm cả những
hành vi không tiếp xúc như khoe bộ phận sinh dục cho trẻ thấy, kể cho trẻ
nghe về tình dục, cho xem phim, truyện khiêu dâm, tìm cách hướng dẫn, kích
thích tình dục trẻ, rình xem trộm hoặc sử dụng hình ảnh khiêu dâm trẻ em.

17


Từ việc phân tích các khái niệm trên, theo chúng tôi, “xâm hại tình dục

trẻ em là quá trình trong đó một người trưởng thành lợi dụng vị thế của mình
nhằm dụ dỗ hay cưỡng ép trẻ em tham gia vào hoạt động tình dục”.
1.2.5. Phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ em
Theo Luật Trẻ em 2016, bảo vệ trẻ em được thực hiện theo 3 cấp độ:
phòng ngừa, hỗ trợ, can thiệp.
Trong đó, “Phòng ngừa gồm các biện pháp bảo vệ được áp dụng đối
với cộng đồng, gia đình và mọi trẻ em nhằm nâng cao nhận thức, trang bị
kiến thức về bảo vệ trẻ em, xây dựng môi trường sống an toàn, lành mạnh cho
trẻ em, giảm thiểu nguy cơ trẻ em bị xâm hại hoặc rơi vào hoàn cảnh đặc
biệt” (Khoản 1, Điều 48, Luật Trẻ em).
Các biện pháp bảo vệ trẻ em cấp độ phòng ngừa bao gồm:
“Tuyên truyền, phổ biến cho cộng đồng, gia đình, trẻ em về mối nguy
hiểm và hậu quả của các yếu tố, hành vi gây tổn hại, xâm hại trẻ em; về trách
nhiệm phát hiện, thông báo trường hợp trẻ em bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị
bạo lực, bóc lột, bỏ rơi;
Cung cấp thông tin, trang bị kiến thức cho cha, mẹ, giáo viên, người
chăm sóc trẻ em, người làm việc trong cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em
về trách nhiệm bảo vệ trẻ em, kỹ năng phòng ngừa, phát hiện các yếu tố, hành
vi gây tổn hại, xâm hại trẻ em;
Trang bị kiến thức, kỹ năng làm cha mẹ để bảo đảm trẻ em được an
toàn; Giáo dục, tư vấn kiến thức, kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ em; Xây dựng môi
trường sống an toàn và phù hợp với trẻ em.” (Khoản 2, Điều 48, Luật Trẻ
em).

18


Theo Cục bảo vệ, chăm sóc trẻ em, Bộ lao động - Thương binh và Xã
hội: “Phòng ngừa bao gồm những hành động loại bỏ các điều kiện xã hội,
kinh tế, tâm lý và các điều kiện khác gây ra hoặc góp phần tạo nên các vấn đề

của con người. Để phòng ngừa hiệu quả, cần phải xác định được các yếu tố
và tình huống cụ thể góp phần vào sự phát triển của các vấn đề xã hội và sau
đó chọn các hành động nhằm giảm thiểu hoặc loại bỏ tác động của chúng”.
Từ việc phân tích các khái niệm trên, theo chúng tôi, “phòng ngừa xâm
hại tình dục trẻ em là việc các lực lượng cộng đồng thực hiện các biện pháp
đặc biệt nhằm bảo vệ, giúp đỡ trẻ tránh khỏi những nguy cơ bị xâm hại tình
dục”.
Theo khái niệm này, có ba cấp độ phòng ngừa có thể được xác định, đó
là:
Cấp độ 1 - Phòng ngừa ban đầu: Hành động nhằm ngăn chặn các vấn
đề từ khi mới phát triển.
Cấp độ 2 - Phòng ngừa thứ cấp: Hành động nhằm phát hiện một vấn đề
đã xảy ra ở giai đoạn đầu và giải quyết nó trong khi nó vẫn còn tương đối dễ
thay đổi.
Cấp độ 3 - Phòng ngừa khẩn cấp: Hành động nhằm giải quyết một vấn
đề đã trở nên nghiêm trọng bằng cách ngăn không cho nó phát triển tệ hơn,
gây thêm thiệt hại, hoặc lây lan cho người khác.
1.3. Vấn đề xâm hại tình dục trẻ em từ 6 - 11 tuổi
1.3.1. Đặc điểm của trẻ em 6 - 11 tuổi
1.3.1.1. Đặc điểm giới tính của trẻ em 6 - 11 tuổi
Nếu như từ 3 tuổi, trẻ bắt đầu quan tâm đến giới tính của mình, nhận ra
mình là con trai hay con gái, thì trẻ 6 - 11 tuổi đã ý thức rõ rệt mình là trai hay
19


gái đối lập với giới kia và không thể nào đảo ngược được. Trẻ bắt đầu hiểu
được rằng nó luôn là trai hay gái khi lớn lên. Trong gia đình trẻ bắt đầu đồng
nhất mình với bố hoặc mẹ nó. Chúng biết tự xếp mình vào giới này hay giới
kia và bắt đầu có sự thống nhất trong việc tự ý thức và hành vi của mình sao
cho phù hợp với vai trò giới tính.

Trẻ 6 - 11 tuổi đã có nhiều điểm giống với người lớn, chúng tỏ ra cởi
mở với những người thuộc mọi lứa tuổi, yêu thương sâu sắc những người thân
và thậm chí còn trở nên lãng mạn đôi chút. Trẻ thường bộc lộ tình cảm yêu
thương bằng cách: chúng ôm lấy những người lớn chúng thích, chúng chú ý
đến thân thể của mình và của người khác.
1.3.1.2. Sự phát triển về nhận thức
Ở lứa tuổi 6-11 tuổi, các em bắt đầu đi học lớp 1, mở đầu cho giai đoạn
học tiểu học. Từ thời điểm này, vui chơi mất dần vai trò hàng đầu của nó
trong đời sống các em, mặc dầu nó vẫn tiếp tục giữ một vị trí quan trọng trong
đời sống đó. Hoạt động chủ đạo của các em là hoạt động học tập. Hoạt động
này làm thay đổi cơ bản những động cơ hành vi của các em; mở ra những
nguồn gốc phát triển mới về trí tuệ và đạo đức.
Thực tiễn cho thấy, các em bắt đầu được lĩnh hội những kinh nghiệm
xã hội có tính hệ thống ngày càng chặt chẽ qua các môn học nhất định và
được bổ sung qua các hoạt động giáo dục đa dạng. Nhờ đó sự hiểu biết của
các em về tự nhiên, về xã hội, về con người dần dần được phong phú. Đồng
thời, về tâm lý, ở các em, tính chủ định phát triển rõ rệt, tư duy chủ yếu diễn
ra trên bình diện hành động - trực quan; thái độ học tập biến động từ chỗ khao
khát học tập đến chỗ hứng thú học tập...
Bên cạnh đó, người ta còn nhận thấy, trẻ ở lứa tuổi này có khả năng
lĩnh hội những chuẩn mực đạo đức, nhưng mới ở mức độ lĩnh hội những
20


chuẩn mực hành vi đạo đức khá cụ thể (biết cảm ơn, biết xin lỗi, giúp đỡ các
em nhỏ...). Tình bạn của các em thường dựa vào sự giống nhau về hoàn cảnh
bên ngoài và về những hứng thú ngẫu nhiên (cùng ngồi một bàn, cùng thích
chuyện khoa học viễn tưởng...). Đối với các em, uy tín của giáo viên là có tính
mặc nhiên (theo Giáo trình Giáo dục học Tiểu học, Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội, GS.TS Đặng Vũ Hoạt – Ts. Phó Đức Hòa).

Nhà lý luận nổi tiếng nhất trong lĩnh vực nghiên cứu về sự phát triển
nhận thức ở trẻ em là Jean Paiget. Trong đó, nhận thức được định nghĩa bao
gồm tất cả những hoạt động trí lực có liên quan đến khả năng suy nghĩ và ghi
nhớ. Paiget lập luận rằng trẻ em học cách tư duy và ghi nhớ những gì xảy ra
trong cuộc sống của mình trong 4 giai đoạn. Tại mỗi giai đoạn có một sự thay
đổi bộc phát, rồi nó ổn định cho đến khi sự thay đổi tiếp theo diễn ra. Trong
đó, lứa tuổi từ 6 - 11 tuổi được Paiget liệt kê vào Giai đoạn Thao tác cụ thể.
Theo ông, khi 6 tuổi thì trẻ đã làm chủ được các kỹ năng tư duy “thao
tác” đối với mọi việc xung quanh. Trẻ đã có thể tư duy và nhận thức được về
những sự việc cụ thể và cả những tư duy “bên trong” đối với thế giới xung
quanh. Trẻ có thể bắt đầu tư duy hoặc suy nghĩ sâu hơn về ý nghĩa của những
sự việc cụ thể đã xảy ra cho mình. Các em cũng bắt đầu liên hệ giữa các trải
nghiệm và rút ra kết luận logic về trải nghiệm đó. Trẻ cũng có được những kỹ
năng nhận thức để “tư duy” về những điều khác ngoài bản thân và cân nhắc
xem những người khác hiểu và phản ứng trước một sự việc như thế nào.
Trong suốt giai đoạn này, nếu một đứa trẻ bị tổn hại, chúng đã có đủ
các kỹ năng tư duy để hiểu và liên hệ đến các trải nghiệm khác. Trẻ tại giai
đoạn này cũng đã có khả năng cân nhắc đến quan điểm của người khác. Tuy
nhiên, khả năng này chỉ ở giai đoạn bắt đầu và không phải lúc nào cũng giúp
trẻ có được kết luận logic chính xác.

21


Nhiệm vụ ở lứa tuổi này là hành thành ý nghĩa của bản thân trong mối
quan hệ với thế giới bên ngoài, học hỏi các nguyên tắc. Bentovim (1972) đã
nói cho tới tuổi lên 5, đứa trẻ cần nhiều thứ cần thiết cho cuộc sống của người
lớn: sẵn sàng về mặt tình cảm để học tập; có suy nghĩ rõ ràng về bản thân là
một con người; có khả năng quan hệ với trẻ khác; có khả năng sử dụng sáng
kiến để có được sự thỏa mãn trong vui chơi và các hoạt động được xã hội

chấp nhận.
Trẻ ở lứa tuổi này cũng rất dễ bị tổn thương. Đây là sự suy giảm trong
khả năng phản ứng linh hoạt của trẻ đối với môi trường nguy cơ đồng thời
khả năng đương dầu với những tác hại của trẻ cũng bị giảm theo. Chính sự
suy giảm trong khả năng phản ứng linh hoạt và đối phó với xâm hại sẽ dẫn
đến nhiều khả năng trẻ phải chịu những lần xâm hại tiếp theo.
1.3.2. Các mức độ xâm hại tình dục với trẻ em
Qua nghiên cứu cấu thành, hành vi của các tội phạm cụ thể xâm hại về
tình dục trẻ em quy định trong Bộ Luật Hình sự Việt Nam năm 1999 gồm các
tội danh sau: Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112); Tội cưỡng dâm trẻ em (Điều
114); Tội giao cấu với người chưa thành niên (Điều 115); Tội dâm ô với trẻ
em (Điều 116). Trong đó:
Hành vi hiếp dâm trẻ em bao gồm: hành vi giao cấu với trẻ em chưa đủ
13 tuổi, không kể có hay không có sự đồng ý ở trẻ; hành vi dùng vũ lực, đe
dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của bạn nhân
hoặc thủ đoạn khác để giao cấu trái ý muốn với trẻ từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
tuổi.
Hành vi cưỡng dâm trẻ em là việc dùng mọi thủ đoạn khiến trẻ em từ
đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đang ở tình trang lệ thuộc mình mà phải miễn
cưỡng giao cấu.
22


Hành vi dâm ô với trẻ em, đây là hành vi không có quy định cụ thể bao
gồm những hành vi nào, tuy nhiên chúng ta có thể hiểu đó là các dạng hành vi
như: sờ mó bộ phận sinh dục trẻ, thủ dâm, tiếp xúc miệng với bộ phận sinh
dục, giao hợp bằng ngón tây, khoe bộ phận sinh dục cho trẻ thấy, quay phim,
chụp ảnh khiêu dâm.
Từ những phân tích trên, có thể thấy trẻ em bị xâm hại tình dục là trẻ
em bị lợi dụng hay bắt buộc phải thực hiện những hành vi tình dục với người

khác vì hoặc không vì mục đích thương mại.
Nói về khái niệm của hành vi dâm ô với trẻ em, luật sư Nguyễn Quang
Tiến (Đoàn luật sư TP. Hà Nội) cho biết, đó là hành vi của người đã thành
niên dùng mọi thủ đoạn có tính chất dâm dục với người dưới 16 tuổi nhằm
thỏa mãn dục vọng của mình nhưng không có hành vi giao cấu với nạn nhân.
Còn tội giao cấu với trẻ em là hành vi của người đã thành niên giao cấu
thuận tình với trẻ em đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Với tội cưỡng dâm trẻ em là
hành vi dùng mọi thủ đoạn khiến trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi lệ
thuộc mình hoặc đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu.
Còn hiếp dâm trẻ em là hành vi của người dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ
lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn
khác giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của họ. Bên cạnh đó pháp luật
cũng quy định "mọi hành vi giao cấu với người trẻ em dưới 13 tuổi đều là
hành vi hiếp dâm trẻ em".
Theo ông Đặng Quang Phương - nguyên Phó Chánh án TAND Tối cao,
trong dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm
2015, được bổ sung thêm 2 tội danh nữa nhằm bảo vệ trẻ em trước các hành
vi xâm hại tình dục. Đó là điều 145, Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan
hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
23


×