Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

AN NINH CON NGƯỜI TRONG BỐI CẢNH BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TOÀN CẦU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.73 KB, 15 trang )

AN NINH CON NGƯỜI
TRONG BỐI CẢNH BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TOÀN CẦU
Trịnh Thị Kim Ngọc
Viện Nghiên cứu Con người,
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam

ĐẶT VẤN ĐỀ
Chưa bao giờ vấn đề an ninh con người lại được đặt ra cấp thiết với một diện rộng trên quy
mô toàn cầu như hiện nay, khi những biến động lớn đang diễn ra trong thời gian gần đây trên
nhiều lĩnh vực: khí hậu, năng lượng, tài chính, hay sắc tộc tôn giáo..., đã làm thay đổi về cơ
bản diện mạo các nền kinh tế trên thế giới, kéo theo nhiều vấn đề xã hội nghiêm trọng. Đặc
biệt, chúng ta đang đứng trước thềm của Hội nghị Thượng đỉnh về Biến đổi Khí hậu tại
Copenhagen (Đan Mạch) trong tình huống hết sức khẩn cấp, thì mối quan tâm lớn nhất của
loài người lúc này đều được tập trung vào sự nỗ lực ứng phó của các quốc gia trước những tác
động dài lâu của nó. Báo cáo Phát triển con người 2007/2008 có nhan đề: “Cuộc chiến chống
biến đổi khí hậu trong một thế giới ngăn cách”, đã gọi biến đổi khí hậu (BĐKH) là một “kẻ
hủy diệt dấu mặt” đang tiềm ẩn những “hiểm họa song trùng” đe dọa an ninh con người và sự
tồn vong của các nền văn minh trên thế giới trong cả hiện tại và tương lai.
1. BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI AN NINH CON NGƯỜI
Con người là một phần của và phụ thuộc vào hệ sinh thái do những lợi ích mà nó đem lại như
thức ăn, nước uống và nguyên liệu phục vụ cho cuộc sống. Chính vì vậy, từ hàng ngàn năm
nay, sự ràng buộc hữu cơ của con người với môi sinh đã được coi là mối quan hệ mang tính
bản chất. Mỗi thay đổi của tự nhiên dù là nhỏ và diễn ra chậm chạp đến đâu, đều gây ảnh
hưởng tới đời sống và sức khỏe con người. Ngược lại, nếu con người không có những cách
ứng xử tôn trọng tự nhiên, thì cái giá phải trả có thể sẽ khôn lường. Nhiều nền văn minh cổ
đại giàu giá trị, như: văn minh sông Ấn, thành Troy, văn hóa Harappa, Vương quốc Maya hay
Đảo Easter trên Thái Bình Dương… đã đột ngột biến mất trước sự giận dữ của thiên nhiên,
giờ đã trở thành những một bài học sâu sắc cho loài người về sự phụ thuộc lẫn nhau về sinh
thái và khả năng quản lý sự phụ thuộc đó của con người. Chính vì vậy, có thể khẳng định
rằng, không ở đâu, trong mối quan hệ nào, lại tồn tại sự tác động tương hỗ và phụ thuộc lẫn
nhau sâu sắc như trong mối quan hệ giữa con người và môi sinh. Trước những nguy cơ của


BĐKH hiện nay, an ninh con người đang bị đe dọa trên quy mô toàn thế giới.

1.1. Biến đổi khí hậu thách thức lớn nhất của nhân loại trong thế kỷ 21
BĐKH là hiện tượng nóng lên của bề mặt Trái đất do nồng độ các khí nhà kính (CO2, CH4,
Nox, CFC) trong khí quyển gia tăng, gây ra suy thoái môi trường và làm tăng mực nước
biển1. Việc bầu khí quyển Trái đất nóng lên đã làm băng tan nhanh từ hai cực của Trái đất,
hay từ các đỉnh núi cao và làm nước biển dâng cao, cũng như thay đổi mọi chế độ thời tiết:
1

Theo Global Warming Eboook của Jane Genovese. Http://www.live-the-solution.com.

165


mức nước biển dâng, gây xói lở và chìm ngập các vùng đất thấp ven biển, thu hẹp dần diện
tích lục địa, nhấn chìm nhiều quốc đảo, cướp đi quê hương bản quán, nhà cửa và tài sản của
con người; bão lụt, lốc xoáy, sóng thần và triều cường gia tăng ở khắp các vùng ven biển,
trong khi sa mạc hóa lại tăng cường ở những vùng nằm sâu trong lục địa, gây ra những thách
thức nghiêm trọng cho hoạt động nông nghiệp và lâm nghiệp; dịch bệnh ở người và vật đều
gia tăng do nóng và độ ẩm tăng, các bệnh nhiệt đới lan tràn cả tới các vùng có vĩ độ cao, đe
dọa cuộc sống con người. Cùng với sự gia tăng nhiệt độ là sự thay đổi về lượng và nền của
việc phân bố mưa trên Trái đất. Từ những năm 80 của thế kỷ 20, sự nóng lên toàn cầu đã trở
thành một vấn đề môi trường đáng quan tâm và những nguy cơ của BĐKH ngày càng trở nên
nghiêm trọng. BĐKH đã được đặt ra như một chủ đề cấp bách hàng đầu của thế giới vào năm
2007 – năm Liên Hợp Quốc gọi là "Năm khí hậu" toàn cầu nhằm hướng các quốc gia cùng nỗ
lực xây dựng kế hoạch ứng phó.

1.2. Dự báo các nguyên nhân và nguy cơ của biến đổi khí hậu
Các học giả quốc tế đã nhất trí khẳng định rằng: Trái đất đang dần nóng lên – đây là hiện
tượng không thể tránh khỏi và không thể đảo ngược. Tuy nhiên, khi bàn về nguyên nhân của

BĐKH và những dự báo cho tương lai thì vẫn còn có những luận giải khác nhau:
1. Loại ý kiến thứ nhất được đại đa số các nhà khoa học thống nhất khẳng định về mối
quan hệ giữa việc gia tăng nhiệt độ bề mặt địa cầu với việc gia tăng hàm lượng các khí thải
nhà kính, trong đó có tới 66% là CO2 , là do hoạt động kinh tế-xã hội của con người: (i) từ quá
trình đốt các nhiên liệu hóa thạch để sinh ra năng lượng, phục vụ sản xuất và giao thông đi lại,
đến các quá trình công nghiệp hóa quá nóng từ thế kỷ Đại công nghiệp cho tới nay; (ii) từ việc
tăng dân số quá nhanh ở các nước châu Phi và Nam Á, tạo ra một lượng chất thải và ô nhiễm
lớn; và (iii) từ việc khai thác cạn kiệt tài nguyên, đặc biệt là nạn phá rừng – vốn là các bể chứa
và bể hấp thụ các khí nhà kính (sinh khối, rừng, các hệ sinh thái biển)… Nguyên nhân này
được tính về mức chịu trách nhiệm về tình trạng báo động của nhiệt độ bề mặt Trái đất từ 90
đến 99%.
2. Loại ý kiến thứ hai, mặc dù cũng có nhiều bằng chứng khoa học, nhưng các nhà nghiên
cứu tán thành ít hơn. Một mặt, họ vẫn thừa nhận sự gia tăng nhiệt độ bề mặt Trái đất là do
hiệu ứng nhà kính, mặt khác, họ lại cho rằng mức độ tác động của các khí thải nhân tạo do
việc tăng trưởng kinh tế quá nóng của con người gây ra, không quá trầm trọng như hiện nay.
Nhiều bằng chứng của Khoa học Trái đất đã chỉ ra rằng, Trái đất nóng lên và lạnh đi là một
hiện tượng tự nhiên có tính chu kỳ đã từng xảy ra trong sự hình thành Trái đất, tạo nên những
kỷ băng hà và kỷ băng gian hàng triệu năm trong lịch sử cùng với những hiện tượng biển tiến
và biển lùi (biển thoái)2. Bằng chứng trên cũng đã góp phần làm sáng tỏ được sự tồn tại của
hàng đống vỏ sò lớn được các nhà khảo cổ Pháp tìm thấy trên các đỉnh núi miền Trung, thuộc
Nghệ An, Hà Tĩnh. Hiện tượng đó được giải thích rằng, đã có thời kỳ biển tiến trong lịch sử,
khi nước biển đã dâng rất cao đến tận các dãy núi cao dọc biên giới Việt – Lào. Những người
2

Monroe, James S. and Reed Wicander, 1997. The Changing Earth: Exploring Geology and
Evolution. 2nd Edition. Belmont: West Publishing Company: 112-113; Monroe, James Stewart and
Reed Wicander, 2005. Physical Geology: Exploring the Earth. 5th Edition. Thomson Brooks/Cole:
162.

166



Việt cổ đã từng sinh sống bằng các loại hải sản và để lại những đống vỏ sò lớn trên đỉnh núi3.
Giai đoạn hiện nay cũng đang nằm trong chu kỳ ấm lên của Trái đất. Mặc dù có những bằng
chứng, tuy nhiên, lấy chu kỳ vận động tự nhiên để giải thích cho hiện tượng gia tăng mạnh
nhiệt độ khí quyển như hiện nay thể hiện tính thuyết phục chưa cao.
2. AN NINH CON NGƯỜI TRONG BỐI CẢNH BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TOÀN CẦU
Trước đây, khi nói đến an ninh, theo truyền thống, người ta nghĩ ngay đến vấn đề an ninh
quốc gia và chủ quyền lãnh thổ. An ninh phi truyền thống mà chúng ta đề cập đến là một vấn
đề mới nổi lên, mang tính toàn cầu từ sau kết thức “Chiến tranh lạnh” – gọi là an ninh con
người (Human secuirity), được đề cập khá toàn diện trong Báo cáo phát triển con người
(HDR) của UNDP năm 1994. Đây là một khái niệm lớn, bao gồm 2 khía cạnh chính: (i) an
toàn trước các hiểm họa như đói khát, bệnh tật và sự áp bức; và (ii) con người được bảo vệ
trước những biến động bất thường, gây đổ vỡ, tổn thương hoặc có hại đối với cuộc sống hàng
ngày của họ, cho dù trong gia đình, ở công sở hay tại cộng đồng. Những hiểm họa này có thể
còn tồn tại ở mọi mức độ phát triển và thu nhập của các quốc gia4. Chính vì vậy, chúng ta gọi
là mối đe dọa toàn cầu.
Nếu như, phát triển con người (PTCN) là việc mở rộng cơ hội lựa chọn của con người, thì an
ninh con người (ANCN) đồng nghĩa với việc người dân có thể thực hiện các lựa chọn đó một
cách tự do và an toàn. Họ hoàn toàn có thể tin tưởng rằng, những cơ hội mà họ có ngày hôm
nay sẽ không bị mất đi trong tương lai. Cựu Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Kophi Annan đã
từng nhấn mạnh: “ANCN không tách rời hòa bình, an ninh và phát triển. Nó không chỉ đơn
giản là tình trạng không có xung đột bạo lực, mà còn bao gồm sự bảo vệ nhân quyền, cách
quản lý Nhà nước hiệu quả, cơ hội tiếp cận giáo dục và chăm sóc sức khỏe, bảo đảm mỗi cá
nhân đều có nhiều cơ hội lựa chọn để phát huy được hết năng lực sẵn có của mình”5. Phù hợp
với cách lý giải trên, UNDP xác định 7 lĩnh vực cơ bản cấu thành ANCN, đó là: (i) an ninh
kinh tế; (ii) an ninh lương thực; (iii) an ninh sức khỏe; (iv) an ninh cá nhân; (v) an ninh môi
trường (hay an ninh sinh thái); (vi) an ninh văn hóa và cộng đồng; và (vii) an ninh chính trị6.
Trong trường hợp này, BĐKH không chỉ là vấn đề của an ninh sinh thái, mà nó đe dọa cuộc
sống con người về mọi mặt.


2.1. BĐKH đe dọa an ninh kinh tế
An ninh kinh tế ở đây được hiểu tương đối hẹp so với an ninh kinh tế trong kinh tế học, nó chủ
yếu hướng vào việc bảo đảm mức thu nhập cơ bản của con người, mà quan trọng nhất là đảm
bảo việc làm và thu nhập cho người dân. Những hệ lụy của BĐKH ngày càng diễn ra với
cường độ lớn hơn và tần suất thường xuyên hơn, đã và đang là mối đe dọa lớn đến đời sống
kinh tế của hàng triệu con người, đặc biệt là người nghèo ở các nước đang phát triển. Châu
Phi là nơi vốn đã đông dân có tới trên 1 tỷ người, bằng 1/5 dân số thế giới, khi tình trạng nóng
3

4
5
6

Theo An Tĩnh cổ lục, 2005. NXB Nghệ An, Vinh (sách dịch những nghiên cứu từ nguyên bản tiếng
Pháp của Linh mục Léopold-Michel Cadière).
UNDP, 1995. HDR: New Dimensions of Human Security: 23.
Commission on Human Security, 2003. "Human Security Now". New York: 4.
HDR, 1994: 24-33.

167


lên của Trái đất làm thay đổi quy luật thời tiết: hạn hán khốc liệt, kéo dài và bão lụt bất
thường, đã cướp đi nguồn thu nhập và việc làm trên đất đai của hàng triệu người dân ở đây,
bởi đất khô nẻ không thể canh tác nổi, mùa màng bị thất bát, khiến hàng triệu dân lâm vào
cảnh thiếu đói, hàng triệu người khác trở thành những tỵ nạn môi trường; hơn thế nữa, bão lụt
ập đến thường cuốn đi tất cả nhà cửa, tài sản và lương thực của họ, khiến những người nghèo
ở đây đã nghèo lại càng bị bần cùng hóa. Đúng như HDR 2007/2008 đã nhận định: Nếu thế
giới không giải quyết được vấn đề BĐKH, thì 40% dân nghèo nhất trên thế giới – khoảng 2,6

tỷ người – sẽ đứng trước một tương lai vô vọng7.
BĐKH không chỉ tác động đến người nghèo. Sự tan rã nhanh chóng của những khối băng
khổng lồ ở hai đầu cực là nguyên nhân chính khiến mực nước biển tăng lên, nhấn chìm nhà
cửa, đất đai, các thành phố ven biển, các thành quả kinh tế cũng như di tích văn hóa..., làm
thay đổi các mô hình định cư của con người ở mọi quốc gia và hủy hoại tính bền vững của các
nền kinh tế. Mặt khác, toàn thế giới đang bị đe dọa trước nguy cơ thiếu nước ngọt để sinh
sống, trồng trọt và chăn nuôi. Hiện nay, trên Trái đất có gần một tỷ người không đủ nước để
uống và 2,5 tỷ người trên tổng số trên 6 tỷ người không có nước để sinh hoạt. Theo một kết
quả nghiên cứu của Liên Hợp Quốc (LHQ), nguồn nước ô nhiễm sẽ có khả năng giết hại con
người cao gấp 10 lần so với chiến tranh. Nhưng, điều nguy hiểm hơn nữa là thiếu nước để
trồng trọt và chăn nuôi. Trong khi đó, dân số Trái đất cũng tăng thêm mỗi năm khoảng 80
triệu người, do vậy nhu cầu sử dụng nước cũng tăng thêm khoảng 64 tỷ m3 mỗi năm. Trước
tình trạng này, LHQ đã đưa ra tình trạng báo động về an ninh nguồn nước. Thực tế này hiện
đang diễn ra ở nhiều khu vực trên thế giới, sẽ dẫn tới hậu quả nghiêm trọng cho an ninh kinh
tế, cho sự phồn thịnh của các quốc gia và cho cuộc sống con người.
Ở Việt Nam, những tác động của BĐKH đến sinh kế và thu nhập của người dân, đặc biệt là
nông dân và ngư dân, ngày càng trở nên trầm trọng hơn. Đây là 2 đối tượng thường sống
trong môi trường tối thiểu, thiếu thông tin, phụ thuộc nhiều những điều kiện tự nhiên. Họ lại
chính là những người đang bị thiên tai tước đoạt dần những nguồn tài sản ít ỏi và chỗ dựa an
toàn, trở thành đối tượng dễ bị tổn thương hơn cả.
Những tổn thất nặng nề trong nông nghiệp và đang gia tăng do hạn hán dưới tác động của
hiện tượng El-Nino, đang cướp đi một cuộc sống no đủ của người dân miền Trung – Tây
Nguyên. Theo thống kê của Cục Thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, trong
vòng 46 năm qua (1960-2006), Việt Nam có tới 34 năm có hạn hán (chiếm 74% quỹ thời
gian). Đặc biệt, trong những năm gần đây, tình trạng này càng thêm khốc liệt hơn. Nguyên
nhân chủ yếu là do sự biến động của thời tiết, khí hậu ngày càng phức tạp, nhu cầu nước tăng
nhanh do dân số tăng và để phát triển kinh tế. Khi có El-Nino, nó lại gây hạn hán liên tục và
kéo dài, làm giảm đến 20-25% lượng mưa ở miền Trung – Tây Nguyên, đã tước đoạt công
sức lao động và luôn cả miếng ăn của người dân ở đây. Trong 10 năm qua, dưới tác động của
El-Nino theo kiểu này, đã gây thiệt hại tới chục nghìn tỷ đồng.

Sự bất thường của khí hậu sẽ dẫn tới sự gia tăng các dịch bệnh, dịch hại, giảm sút năng suất
cây trồng. Ở nhiều địa phương như vùng ven biển (VVB), với khoảng 18 triệu dân cư nông,

7

HDR, 2007/2008. Oveview: 3.

168


ngư nghiệp, xấp xỉ 58% sinh kế vùng ven biển dựa vào đánh bắt cá và nuôi trồng thủy sản đều
đang bị thiên tai và BĐKH đe dọa, đã gây ra xói lở bờ biển (ở Cà Mau có nơi đã bị xói lở
xuống biển tới 600 ha, với các dải đất rộng tới 200 m), làm suy thoái đa dạng sinh học, nhất là
đang mất dần các loại cá nhiệt đới có giá trị thương phẩm cao, làm cho tiềm năng kinh tế biển
bị suy giảm ít nhất 1/3 sản lượng. Người dân VVB vốn đã nghèo sẽ càng trở nên khốn khó,
khi thiên tai hàng ngày đe dọa cuộc sống của họ.
Nghiên cứu những “tác động tiềm tàng” của BĐKH khi mực nước dâng cao cho thấy: với
kịch bản mực nước biển dâng cao 1 m, sẽ làm ngập úng và phá hủy khoảng 5% diện tích đất
đai của cả nước và 45% đất trồng trọt của đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), có thể làm
giảm tới 7% sản lượng nông nghiệp và 10% thu nhập quốc dân, ảnh hưởng đến cuộc sống của
11% dân số nước ta8. Nếu nhiệt độ tăng thêm 2oC, khoảng 22 triệu người sẽ phải di dời, tức
trên 1/4 dân số sẽ trở thành “người vô gia cư, bản quán”. Đây là một thách thức nghiêm trọng
đối với nền kinh tế đất nước trong tương lai.
Theo số liệu của Viện Địa chất và Địa Vật lý Biển Việt Nam cung cấp, mỗi năm mực nước
biển tại khu vực Nam Định tăng lên 2,15 mm. Cùng với đó, đường bờ biển bị lấn vào trung
bình 10 mét. Ngoài ra, số liệu tại địa phương cho thấy, tổng cộng nước biển đã cướp đi của xã
Hải Triều gần 180 hecta đất… Những con đê mới cứ thế lùi dần… Ông Bùi Văn Dũng, Chủ
tịch Ủy ban nhân dân xã Hải Triều cho biết: “Từ năm 1996 đến nay, cả xã mất 50 hecta đất
canh tác. Cái khó khăn là nước biển tiếp tục xâm lấn. Nếu phải rời đê biển vào trong thì quỹ
đất của địa phương không còn, rất eo hẹp. Thêm điều nữa là đê đất cát, không được bê tông

hóa nên gặp mưa lớn, sóng lớn là bị xói lở rất mạnh”.
Nước biển dâng gây hiện tượng ngập lụt, nhấn chìm nơi cư trú và diện tích sản xuất nông
nghiệp, thủy sản và làm muối; hiện tượng xâm nhập mặn gia tăng, các hệ sinh thái (HST) đất
ngập nước, nhất là rừng ngập mặn, môi trường sống của các loài thủy hải sản cũng mất đi,
nguồn sống hàng ngày của người dân cư đều bị cắt giảm; những bức tường chắn sóng có chức
năng giảm nhẹ tác động của sóng, bão cũng bị phá hủy; các cơ sở hạ tầng: cầu cảng, khu công
nghiệp, đường sá giao thông sẽ bị tác động mạnh, thậm chí sẽ phải cải tạo hoặc di dời. Thách
thức về kinh tế còn ở chỗ cần phải có một nguồn kinh phí khổng lồ để có thể di dời chỗ ở và
ổn định cuộc sống cho vài chục triệu dân đến nơi an toàn mới.
Do những tác hại khó lường của BĐKH, các chuyên gia môi trường đã ví mức độ nguy hiểm
của nó xếp ngang hàng với xung đột vũ trang. Theo chuyên gia kinh tế của Ngân hàng Thế
giới, cái giá mà mỗi quốc gia phải trả cho việc giải quyết các hậu quả của BĐKH trong một
vài chục năm tới sẽ là khoảng 5-20% GDP mỗi năm. Nước ngập kèm theo mất đất và xâm
mặn sẽ không những đe dọa nghiêm trọng đến cuộc sống của vài chục triệu dân, mà còn tạo
nên những thiếu hụt và thách thức nghiêm trọng đối với cả nền kinh tế quốc dân. Thậm chí,

8

Dasgupta, S., Laplante, B., Meisner, C., Wheeler, D., Yan, J., 2007. The Impact of Sea Level Rise
on Developing Countries: A Comparative Analysis. World Bank Policy Research Working Paper
4136. Nghiên cứu so sánh mẫu của 84 quốc gia ven biển trên thế giới về diện tích đất, dân số, GDP,
phạm vi đô thị, phạm vi nông nghiệp và đất ngập nước. Việt Nam đứng đầu danh sách 4 trong 6
nước chịu nặng nề nhất.

169


khi hai vựa lúa của đất nước bị thu hẹp, thì khả năng đe dọa đến an ninh lương thực quốc gia
là điều cần tính đến.


2.2. BĐKH đe dọa an ninh lương thực trên phạm vi toàn cầu
An ninh lương thực giờ đã trở thành vấn đề quan tâm ở mức ưu tiên hàng đầu. Các báo cáo
mới nhất từ hệ thống cảnh báo sớm của các cơ quan viện trợ quốc tế về nạn đói trên toàn cầu
đăng trên các phương tiện thông tin đại chúng trong những ngày qua đã cho biết: năm nay,
con số về người dân thiếu đói trên thế giới có thể vượt mức 1 tỷ người. Riêng ở 7 nước châu
Phi, ít nhất đã có khoảng 20 triệu người đang trong tình trạng thiếu đói lương thực cùng cực.
Ở Etiôpia, đã có tới cả chục triệu người đang đối diện với nạn đói. Miền Nam Suđăng cũng là
nơi người dân đang gặp nhiều khó khăn, nhất là khi những người tỵ nạn trở về nhà chỉ biết
trông chờ vào những mảnh đất cằn cỗi. Hiện nay, phải triển khai hành động cứu trợ khẩn cấp
cho bảy quốc gia châu Phi, chủ yếu là những nước bên rìa sa mạc Sahara, trải dài từ Niger,
qua Chad và Suđăng, tới Etiôpia, Eritrea và Sômalia, những nơi đang phải đối diện với tình
trạng thiếu lương thực nghiêm trọng. Người dân các quốc gia này phụ thuộc quá nặng vào sản
xuất nông nghiệp và chỉ dựa vào lượng mưa của trời, thay vì có các hệ thống thủy lợi. Một
mặt, khi thiếu mưa, thảm họa đói khát sẽ xảy ra. Mặt khác, sa mạc Sahara cũng đang liên tục
mở rộng, đất đai trong khu vực ngày càng trở nên cằn cỗi. Cần phải có một lượng đầu tư lớn
để hoàn thiện hệ thống thủy lợi: nạo vét các sông như: sông Niger và sông Nile, khoan nước
ngầm hoặc tăng cường hệ thống kênh dẫn nước... Nhưng điều đó là vô cùng khó khăn trong
hoàn cảnh của châu Phi lúc này.
Một trong những hậu quả của đói lượng thực là đã có thêm 25 triệu trẻ em ở các nước đang
phát triển suy dinh dưỡng. Đây là cảnh báo từ Viện Nghiên cứu Chính sách Lương thực Quốc
tế tại Trung tâm Nghiên cứu BĐKH (Washington, Hoa Kỳ) và vừa được đưa ra tại Hội nghị
quốc tế về BĐKH đang diễn ra tại Băng Cốc (Thái Lan) trong những ngày qua.
Với tốc độ biến động của thời tiết như hiện nay, sản lượng các cây lương thực sẽ giảm 15%,
điều này không những làm ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững, lâu dài của các quốc gia,
mà sẽ trực tiếp đẩy 50 triệu người trên thế giới tiếp tục lâm vào cảnh nghèo đói trong 1-2 thập
kỷ tới. Trong hai thập kỷ qua, đã có 3 triệu người chết, 200 triệu người bị ảnh hưởng của
BĐKH; thiệt hại hàng năm ước tính lên tới 40-50 tỷ đô la Mỹ. Dự báo 50 năm sau, thiên tai sẽ
tăng gấp 4 lần và số người chịu cảnh đói khát có thể lên tới 2 tỷ người. Đến năm 2050, sản
lượng lương thực tại các nước đang phát triển có thể bị sụt giảm nghiêm trọng nếu con người
không có những biện pháp giảm nhẹ những tác động của BĐKH.

Mặt khác, nông dân nghèo đã bị tước đoạt hoàn toàn sinh kế. Ai sẽ trồng trọt khi các nhà sản
xuất ở nước giàu, vốn được bảo vệ trước việc nhập khẩu và bảo đảm trợ cấp về xuất khẩu,
đang hủy hoại các vụ thu hoạch trên thị trường thế giới, đẩy giá cả toàn cầu thấp dưới mức chí
phí sản xuất thực tế? Một số nước xuất khẩu gạo và lúa mỳ đã hạn chế xuất khẩu mặt hàng
này ra nước ngoài. Trung Quốc đã áp nhiều mức thuế xuất khẩu mới để giảm xuất khẩu phân
bón, nhằm hạ bớt chi phí nông nghiệp. Hơn thế nữa, ở khắp những nước đang phát triển, hàng
trăm triệu người dân đã di cư từ vùng nông thôn – nơi họ tự cung tự cấp, tới thành thị – nơi họ
phải mua lương thực nuôi sống mình. Còn tầng lớp trung lưu mới ở thành thị đang ăn tiêu
nhiều hơn và ăn ngon hơn.

170


Trong một thập niên qua, nhu cầu lương thực của thế giới đã tăng nhanh hơn các nguồn cung.
Thông thường, cần phải có hơn 2,5 kg thóc lúa để sản xuất ra gần 0,4 kg thịt. Trong khi đó,
Trrung Quốc, Ấn Độ và Brazil đang tiêu dùng thịt bò nhiều hơn 40% so với năm 2000. Các
kho dự trữ lương thực toàn cầu đã sụt giảm xuống mức 50 ngày dự trữ, đây là mức thấp nhất
trong nửa thế kỷ qua. Ngay cả khi các núi thóc trong những kho hàng của Chính phủ đang cạn
kiệt, thì các nước thành viên G8 vẫn tiếp tục kìm giữ nguồn cung.
Những trận xô xát ở Ai Cập ngay trong tháng qua, cuộc bạo loạn ở Burkina Faso và Camơrun
cũng đều từ một nguyên nhân là thiếu lương thực. Các cuộc biểu tình phản đối vì đồ ăn thậm
chí còn diễn ra ngay tại Italy. Giá mỳ ống ở Haiti tăng lên gấp đôi, trong khi chi phí cho một
suất miso ở Nhật tăng lên đến chóng mặt.
Ở nước ta, vấn đề sản xuất lương thực cũng là vấn đề đáng quan tâm. Người nông dân và ngư
dân nước ta, đặc biệt ở miền Trung và Tây Nguyên, cũng đang đứng trước nguy cơ thiếu đói.
Bão lụt và hạn hán cũng đã và đang làm cho mùa màng bị mất trắng. Chính vì vậy, tỷ lệ
nghèo vùng ven biển miền Trung, nơi thường xảy ra bão và hạn hán tới 25,5% (2004), so với
tỷ lệ này ở đồng bằng chỉ là từ 5-7%9. Những người nghèo nhất chính là những người bị tổn
thương từ nhiều cú sốc gây nguy hại cho cuộc sống và sinh kế của họ. Đặc biệt là người dân
miền Trung luôn phải chịu nhiều thiệt hại do thiên tai, mất của cải, các phương tiện sản xuất

và tăng dần khả năng không thể hoàn nợ... Thêm vào đó, tình trạng thiếu lương thực sẽ đẩy
giá tăng cao, đói nghèo, bệnh tật cũng là những điều làm giảm năng lực ứng phó của người
nghèo trước những thiệt hại của thiên tai.
Với dự báo về một tương lai không thuận lợi, nếu không có những hoạt động thích ứng kịp
thời ngay từ bây giờ, thì Việt Nam, từ một quốc gia có tỷ trọng xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế
giới, sẽ phải đối mặt với nguy cơ về an ninh lương thực và cảnh đói nghèo với “cái vòng luẩn
quẩn” của các nước nghèo. Nghèo đói gia tăng luôn đồng nghĩa với sự cắt giảm phần dinh
dưỡng cần thiết để đảm bảo một cuộc sống khỏe mạnh và trường thọ. Như vậy, BĐKH có thể
đang và sẽ tước đoạt đi các quyền cơ bản: cơ hội học tập, tiếp cận thông tin, chăm sóc sức
khỏe và một cuộc sống no đủ của người dân, đẩy lùi những nỗ lực phát triển công nghệ ở
nước ta.

Hình 1. Vòng luẩn quẩn của nhu cầu sinh kế – khai thác quá
mức – cạn kiệt nguồn lợi – nghèo khó
9

VASS, 2006. HDR.

171


2.3. An ninh sức khỏe của con người trên toàn cầu
Sức khỏe của con người gắn liền với mọi biến động của môi trường sống và mối liên quan
này cực kỳ phức tạp và khó lường. Các chuyên gia y tế đã tổng kết, có đến trên 40% bệnh tật
nảy sinh là do nguyên nhân từ môi trường sống. Hiện nay, BĐKH đang là mối nguy hiểm
tiềm tàng đe dọa an ninh sức khỏe của con người trên toàn cầu.
Trước hết là ảnh hưởng gián tiếp của BĐKH, khi thời tiết thay đổi, sẽ kéo theo những nguy cơ
về sóng nhiệt, hạn hán, bão lũ lớn, gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản, thương tật của
người dân mọi quốc gia đều gia tăng..., mà hiện trạng về số lượng, sự nguy cấp và xu hướng
của nó vẫn đang được chúng ta chứng kiến hàng ngày. Theo nhận định, tác động gián tiếp do

BĐKH thực sự nghiêm trọng, sẽ tác động đến an ninh lương thực, điều kiện vệ sinh, dẫn đến
nguy cơ suy dinh dưỡng trầm trọng, tiêu chảy và suy giảm miễn dịch..., làm giảm mạnh chất
lượng dân số.
Nhiệt độ chung của toàn cầu sẽ tăng thêm khoảng 2-3oC, sẽ làm gia tăng tỷ lệ người mắc và tử
vong do các loại bệnh truyền nhiễm và bệnh lây qua côn trùng: sốt rét, sốt xuất huyết…, dịch
bệnh ở vật nuôi, gia súc gia cầm, gây lây nhiễm sang người. Trong vòng 25 năm qua, đã xuất
hiện hơn 30 bệnh lạ của con người, trong đó có các bệnh truyền nhiễm cực kỳ nguy hiểm lan
truyền từ động vật như: SARS, cúm gia cầm H5N1, bệnh lợn tai xanh và HIV/AIDS, gây ra
nhiều diễn biến phức tạp và bất thường hơn (sốt xuất huyết, viêm não mủ, ung thư...), gây ra
những thiệt hại không nhỏ và làm suy giảm chất lượng dân số. Ở Ôxtrâylia, hiện dịch sốt xuất
huyết đã gia tăng rất mạnh, nguyên nhân là do hạn hán kéo dài, làm người dân phải tích trữ
nước thường xuyên bằng các bể chứa đã vô tình cung cấp nơi trú ẩn cho muỗi. Đặc biệt, tỷ lệ
bệnh tật, tỷ lệ tử vong tăng do ô nhiễm môi trường, do các đợt nắng nóng bất thường và do có
là sự xuất hiện các chủng loại vi sinh vật gây bệnh mới.
Việt Nam và nhiều nước khác cũng không ngoại lệ. Tháng 8/2007, khi những khách du lịch
Italy trở về từ Ấn Độ với bệnh sốt Chikungunya, một dạng gần của sốt xuất huyết, dịch sốt
này lại được dịp lây lan cho cả một thị trấn nhỏ ở miền Bắc nước Italy, hơn 100 trong số
2.000 cư dân của thị trấn mắc bệnh với triệu chứng lâm sàng như sốt cao, nổi ban đỏ, đau đớn
ở xương và khớp. Không khí ấm bất thường trong mùa đông đã cho phép loài muỗi vằn sinh
sản sớm và gia tăng mật độ. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), đây là lần đầu tiên bệnh
nhiệt đới bùng nổ ở châu Âu gây ra do BĐKH.
Do nhiều loại bệnh sẽ gia tăng dưới tác động của sự thay đổi nhiệt độ, thời tiết và hoàn cảnh,
nhất là các bệnh truyền qua vật trung gian như sốt rét (muỗi, ve), sốt xuất huyết (muỗi), viêm
não (muỗi) qua môi trường nước (các bệnh đường ruột) và các bệnh khác (suy dinh dưỡng,
bệnh về phổi, dị ứng phấn hoa…). Những bệnh này luôn tồn tại ở những khu vực vừa xảy ra
thiên tai, đặc biệt có ảnh hưởng lớn tới sức khỏe của dân cư ở các vùng kém phát triển, đông
dân và có tỷ lệ đói nghèo cao. Ngoài ra, không khí bị ô nhiễm còn làm gia tăng chi phí cho
khám chữa bệnh đường hô hấp như viêm phế quản, viêm phổi..., ảnh hưởng đến sức khỏe của
hàng triệu người, không loại trừ quốc gia nào.


2.4. An ninh môi trường
Chúng ta đang nói về những nguy cơ cũng như những tác động không mong muốn của môi
trường đến chất lượng cuộc sống con người. Các mối đe dọa từ môi trường đối với con người
172


phần lớn lại là do con người tạo ra: khai thác cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm nguồn nước, ô
nhiễm đất đai, sa mạc hóa, hoặc nạn chặt phá rừng, ô nhiễm không khí..., dẫn đến các hiểm
họa thiên tai bao gồm: bão, lụt, hạn hán, động đất, sóng thần..., đã gây nên biết bao nhiêu tổn
thất cho loài người mà chúng ta không thể tính nổi. Thực tế, những tổn thất về con người và
vật chất do những vấn đề môi trường dưới tác động của BĐKH gây ra vượt quá những tổn
thất về người và của do các biến động xã hội và chiến tranh trong những thập kỷ trước đây: có
tới 20 triệu người chết hàng năm vì các nguyên nhân từ môi trường: bão lụt, sóng thần, ô
nhiễm..., so với 20 triệu người chết trong xung đột vũ trang từ sau 1945 đến nay. Ước tính,
chỉ riêng số người tại một số quốc gia châu Á đã thiệt mạng và mất tích trong thảm họa sóng
thần vào tháng 12 năm 2004 đã là hơn 200.000 người. Theo dự báo, trong mấy chục năm sắp
tới, sự uy hiếp của các vấn đề môi trường sẽ có thể còn vượt xa tất cả những uy hiếp về quân
sự. Hơn nữa, BĐKH và suy thoái môi trường là một những nguyên nhân gốc rễ của sự di cư ồ
ạt trên thế giới hiện nay.
An ninh môi trường đang ở cấp báo động, do việc khai thác quá mức nguồn tài nguyên không
thể tái tạo trên thế giới của con người, đã dẫn tới nguồn tài nguyên đang dần cạn kiệt. Theo
ước tính của các chuyên gia Liên Hợp Quốc, giọt dầu cuối cùng từ các mỏ dầu đang hoạt
động trên Trái đất sẽ được hút nốt vào năm 2045-2050. Sau sự cạn kiệt về dầu mỏ, sẽ là nguy
cơ cạn kiệt các nguồn nước sạch cần thiết cho việc duy trì sự sống và phát triển kinh tế. Nước
ngọt cũng là nguồn tài nguyên có hạn, chỉ có 2,53% tổng lượng nước trên Trái đất là nước
ngọt có thể dùng cho sản xuất và sinh hoạt của con người và nguồn nước này phân bố không
đồng đều trên các khu vực. Trong khi đó, do dân số không ngừng gia tăng, nhu cầu phục vụ
sản xuất, phát triển kinh tế và nhu cầu tiêu dùng nước sạch cũng ngày càng tăng, chưa nói đến
một thực tế là các nguồn nước trên thế giới cũng đang có nguy cơ cạn kiệt và ô nhiễm.


2.5. An ninh cá nhân trong bối cảnh BĐKH
Trong một thế giới đầy phức tạp như hiện nay, thì cuộc sống con người ở mọi quốc gia – giàu
hay nghèo – cũng đang bị đe dọa do nạn bạo lực khó lường trước. Các mối đe dọa đáng quan
tâm là: (i) đe dọa từ các hình phạt từ phía thể chế nếu vi phạm pháp luật, như tra tấn, lao động
khổ sai...; (ii) đe dọa từ các cuộc nội chiến, xung đột vũ trang...; (iii) đe dọa từ xung đột sắc
tộc tôn giáo; (iv) đe dọa từ các băng nhóm tội phạm, tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia hay
bạo lực đường phố; (v) đe dọa đối với phụ nữ và trẻ em: bạo lực gia đình, lạm dụng lao động
và khai thác trẻ em, buôn bán phụ nữ và trẻ em...; và (vi) mối đe dọa có thể còn có đối với cả
bản thân con người, khi một sức ép nào đó buộc phải tự tử....10. Tuy nhiên, tùy điều kiện cụ
thể của từng quốc gia mà các hình thức đe dọa tới an ninh cá nhân cũng sẽ khác nhau.
BĐKH có thể làm gia tăng sự khan hiếm các nguồn tài nguyên thiết yếu và làm thay đổi quá
trình phân bổ các nguồn tài nguyên đó, làm trầm trọng thêm an ninh lương thực, an ninh năng
lượng, gia tăng khoảng cách giàu-nghèo..., từ đó làm gia tăng những nguy cơ bất ổn định về
chính trị, xung đột, khủng bố, làm sâu sắc thêm các mâu thuẫn chính trị-xã hội giữa các quốc
gia ở nhiều nơi. Trong số đó, những người nghèo, người tỵ nạn khí hậu sẽ là đối tượng dễ bị

10

HDR, 1994: 30.

173


đe dọa an ninh cá nhân hơn cả. Dự báo đến năm 2025, khoảng 5 tỷ người có thể sẽ sống trong
những khu vực có nguy cơ căng thẳng, xung đột, liên quan đến thiếu nước và lương thực.
Thực tế đất nước ta cho thấy, sau những thảm họa thiên tai thường kéo theo những bất ổn lớn
từ trong gia đình, cộng đồng đến ra ngoài xã hội: nghèo đói, túng quẫn và bế tắc thường được
coi là điều kiện cho những nguy cơ mất an ninh cá nhân, để có thể phát sinh tranh chấp, xung
đột bạo lực hoặc buôn bán người.


2.6. An ninh cộng đồng
Hầu hết con người gắn vấn đề bảo vệ an ninh của mình vào trong một nhóm người hoặc một
cộng đồng nhất định, như gia đình, cộng đồng dân cư, một tổ chức hay một nhóm sắc tộc. Nói
rộng hơn, an ninh của một thành viên cộng đồng cũng có thể được bảo đảm khi người đó sống
ở trong một quốc gia, bao gồm nhiều cộng đồng khác nhau hợp thành. Đương nhiên, một
cộng đồng thường có khả năng tập hợp lực lượng mạnh hơn để chống lại các mối đe dọa từ
bên ngoài. Nếu một nhóm hay một cộng đồng nào đó được an toàn, thì khả năng mỗi thành
viên trong cộng đồng cũng được an toàn là rất cao. Tuy nhiên, từ sau Chiến tranh lạnh,
khuynh hướng xung đột giữa các cộng đồng tăng lên. Dẫn chứng có thể rất nhiều: chiến tranh
ở Cosovo, xung đột của người Cuốc ở miền Bắc Irăc, hệ quả của chúng làm giảm mức độ an
toàn cộng đồng và an toàn cá nhân của các thành viên cộng đồng đó.
Tuy nhiên, với an ninh cộng đồng dưới tác động của BĐKH thì điển hình nhất vẫn là những
xung đột cộng đồng tập trung ở châu Phi, khu vực có những điều kiện sống đặc biệt khó khăn,
như ở Darfur chẳng hạn. Darfur là một vùng đất nằm ở cực Tây của Sudăng, giáp Cộng hòa
Trung Phi, Tchad và Libya. Với diện tích 493.180 km², Darfur bao gồm một cao nguyên với
địa chất khô cằn, có rặng núi Marra cao 3.000 m ở chính giữa với những điều kiện khí hậu
khắc nghiệt: mùa mưa chỉ có trong ba tháng, từ tháng 6 đến tháng 9, được coi là nguồn nước
quan trọng nhất tưới xanh Darfur. Miền cực Bắc có khi mấy năm liền không mưa. Miền cực
Nam, mưa nhiều hơn, trung bình là 700 mm/năm. Hàng năm, chỉ đến khi mưa đổ xuống
Darfur, vùng này mới có thể lại bình yên. Những người du mục thường thả đàn lạc đà
trên sườn đồi lởm chởm đá giữa cánh đồng do nông dân định cư sở hữu và để chúng ăn những
thứ còn sót lại sau mùa gặt. Nhưng sau hàng thập kỷ dài hạn hán, nơi này không còn là đất
lành nữa. Khi người nông dân bắt đầu rào các cánh đồng canh tác của mình thì xung đột nổ ra
giữa họ và các bộ lạc du mục. Nạn đói giữa thập niên 1980 đã phá hủy hầu hết những cơ sở xã
hội địa phương còn lại và mở đầu cho một thời kỳ loạn lạc. Trong suốt 15 năm, cuộc xung đột
Darfur lan rộng trở thành một cuộc chiến tranh tàn khốc. 2,5 triệu dân thường tỵ nạn đã phải
sống tạm bợ trong một hoàn cảnh sống vô cùng nguy khốn. Cuộc xung đột tiếp theo lại bắt
đầu từ năm 2003 vì nhiều lý do, trong đó phải kể nạn hạn hán kéo dài làm sa mạc hóa đất, gây
khan hiếm nước trầm trọng. Nạn thiếu nước gay gắt nhất ở miền Bắc Darfur khiến các bộ tộc
du mục không có đủ nước nuôi súc vật của họ nên họ đã xâm nhập vào vùng đất khác, nơi các

bộ tộc ngụ canh sinh sống. Để giải quyết xung đột này, năm 2006, Hòa ước Darfur đã được
ký kết tạm thời để các bên cùng tham dự, nhằm tái lập trật tự, xây dựng hòa bình và hòa giải.
Hiện nay, việc cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước để chi phối, kiểm soát các nguồn tài
nguyên thiết yếu của thế giới đang có chiều hướng trở nên gay gắt hơn. Xu hướng đó có thể
dẫn tới việc gia tăng sự đối đầu giữa các cộng đồng về quân sự liên quan đến việc phân bố lại

174


các nguồn lực của thế giới. Tổ chức Di trú Quốc tế ước tính, năm 2005, trên toàn thế giới có
khoảng 191 triệu người di cư so với 176 triệu người năm 2000, trong đó, có từ 30 triệu đến 40
triệu người đang di cư bất hợp pháp. Phần lớn những người di cư đều từ các nước đang phát
triển sang các nước phát triển11. Họ tạo nên áp lực lớn đối với xã hội của các cộng đồng tiếp
nhận, từ tạo việc làm, cung cấp dịch vụ giáo dục cũng như chăm sóc sức khỏe, đến việc cung
cấp chỗ ở và đảm bảo an ninh cho họ. Bản thân những người nhập cư còn cạnh tranh với
người bản địa về việc làm, gia tăng thêm mâu thuẫn giữa các cộng đồng dân cư ở nhiều nước
phát triển.
Chính vì vậy, nhiều đánh giá cho rằng, tác động của BĐKH đối với hòa bình và an ninh của
thế giới là rất lớn, khó lường, có tác động lâu dài, có thể còn nghiêm trọng hơn cả chủ nghĩa
khủng bố quốc tế. Tầm ảnh hưởng của BĐKH là mang tính toàn cầu. Do đó, các chiến lược
hay biện pháp mang tính quốc gia cục bộ, kể cả của các nước phát triển nhất, cũng không thể
đối phó một cách hiệu quả trước thách thức này. Nhiều dự báo đã khẳng định, đến năm 2050,
sẽ có khoảng 150 triệu người có thể phải rời khỏi những khu vực đất trũng vùng duyên hải do
nước biển dâng. Khi băng ở Bắc cực tan hết, tàu thuyền có thể tự do đi lại trên đó, thì vấn đề
sử dụng và quản lý khu vực địa lý ở cực Bắc này cũng sẽ trở thành nhũng vấn đề không nhỏ.
Nếu những điều này xảy ra, thì cơ cấu địa-chính trị cũng như không gian chiến lược ở một số
khu vực trên thế giới có thể sẽ có những thay đổi lớn, dẫn tới việc thiết lập lại hệ thống quốc
phòng – an ninh của các quốc gia để phù hợp với thực tiễn mới đặt ra. Đây là vấn đề không
nhỏ về an ninh cộng đồng trong bối cảnh BĐKH.


2.7. An ninh chính trị
Liên Hợp Quốc đã gắn an ninh chính trị với việc "tôn trọng các quyền cơ bản của con người",
bởi trong bản thân các quyền cơ bản của con người cũng đã bao hàm luôn cả quyền về chính
trị. Như vậy, nội hàm của an ninh chính trị cũng được mở rộng với những ý nghĩa nhân văn
hơn, thiết thực hơn đối với người dân của mỗi quốc gia. Điều này cũng có thể hiểu được là
nếu quốc gia nào vi phạm nhân quyền cũng đe dọa tới an ninh chính trị. Ngược lại, đảm bảo
an ninh chính trị của một quốc gia được bắt đầu từ việc đảm bảo để người dân của họ được
hưởng những quyền cơ bản: quyền sống, quyền làm việc, quyền phát triển mà không phải
chịu sự bất cứ một sự cản trở hay ngược đãi của bất cứ một lực lượng nào. Thậm chí, trong
phân bổ ngân sách, chúng ta có thể xem xét quy mô ngân sách cho phát triển con người, cụ
thể: cho giáo dục, chăm sóc sức khỏe và các dịch vụ xã hội khác trong tương quan với ngân
sách quốc phòng, tức ngân sách cho an ninh quốc gia thì cũng có thể coi đây là một tiêu chí
để đánh giá mức độ an ninh chính trị của quốc gia đó12.
Do thay đổi về cơ cấu địa-chính trị và phân bổ các nguồn lực trên thế giới, như đã nêu kỹ ở
phần trên, BĐKH cũng có thể làm thay đổi các hình thái tập hợp lực lượng quốc tế. Nhiều ý
kiến cho rằng, trong vài thập kỷ tới, tài nguyên sẽ được sử dụng như một loại "vũ khí" ngày
càng quan trọng hơn để mặc cả lợi ích trong quan hệ quốc tế giữa các cộng đồng quốc gia.
Cuộc chạy đua chính trị về địa lý và chính trị đối với vùng Bắc cực là một ví dụ điển hình, khi
11

Theo International Organisation for Migration, “Global Estimates and Trends”, truy cập ngày
9/11/2007 tại địa chỉ />12
HDR. 1994: 31.

175


báo chí các nước Nga, Mỹ, Canađa và Đan Mạch cùng đua nhau tuyên bố về chủ quyền đối
với vùng đất cao nhất địa cầu này. Cho dù việc tranh giành này có nhằm vào tiềm năng tài
nguyên vô giá dưới lòng đất hay không, thì lợi thế về mặt giao thông đường biển với sự rút

ngắn đoạn đường tới 6.400 km khi không phải đi qua kênh đào Panama, khi băng tan hết, sẽ
là một loại “vũ khí chiến lược” quan trọng để khẳng định vị thế và mặc cả lợi ích. Trong
trường hợp này, các quốc gia phải ngồi lại và thống nhất với nhau không chỉ về những giải
pháp ứng phó với BĐKH, mà cả việc phân bố nguồn tài nguyên có hạn của thế giới một cách
hợp lý, trên cơ sở tôn trọng các quyền con người và chủ quyền của các quốc gia.
Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, đã từng coi sự di cư xuyên biên giới của một lượng lớn
người tỵ nạn là một đe dọa "phi quân sự" đến nền hòa bình và an ninh thế giới, nhận định
rằng, sự bùng nổ tỵ nạn do các vấn đề môi trường và BĐKH cũng chẳng kém gì do sự mất ổn
định chính trị. Như vậy, từ những vấn đề của an ninh môi trường, sẽ dẫn tới những vấn đề của
an ninh chính trị nghiêm trọng. Những thực tế sau đây đã khẳng định điều đó: Khu vực
Sahara của châu Phi, nơi đất đai có tốc độ sa mạc hóa nhanh nhất trên toàn cầu, cũng là nơi có
làn sóng tỵ nạn cao nhất. Riêng năm 1989, châu Phi đã có khoảng 10 triệu người thuộc 9 quốc
gia phải rời bỏ quê hương và trở thành tỵ nạn môi trường hay tỵ nạn khí hậu. Bão lụt và suy
thoái môi trường ở Bangladesh cũng đã đẩy một lượng lớn người tỵ nạn xuống vùng Assam
của Ấn Độ, gây ra nhiều cuộc xung đột sắc tộc giữa các cộng đồng. Trung Quốc trong thập kỷ
1990, cũng đã có tới 6 triệu trong tổng số 120 triệu dân phải di cư nội bộ vì những nguyên
nhân từ môi trường. Năm 1996, UNEP nhận định, toàn thế giới đã có khoảng 25 triệu người
dân của các quốc gia đang phát triển tỵ nạn môi trường. Năm 2008, Cao ủy Liên Hợp Quốc về
Người tỵ nạn (UNHCR) cho biết, tính đến cuối năm 2008, trên toàn thế giới đã có tới 42 triệu
người tỵ nạn và kế hoạch hồi hương chắc chắn sẽ diễn ra lâu hơn và phức tạp hơn.
Mực nước biển tăng lên sẽ đầu tiên đe dọa sự sống của những người dân trên những quốc đảo,
như Kirubati, Tuvalu hay Duke of York, một trong những hải đảo gần Papua Niu Ghinê ở
Nam Thái Bình Dương, là những quốc đảo đang từ từ chìm xuống đại dương. Khi trên những
vùng thấp nhất của đảo Duke of York, các viên chức Chính phủ đã kịp di tản 20.000 người
dân của đảo vào năm 2000 đến các vùng đảo khác có vị trí cao hơn, thì cư dân Kirubati vẫn
đang mong ngóng một sự chấp nhận từ bất cứ nước nào khác, nơi có thể cho phép 100.000
dân của họ đến tỵ nạn khí hậu, bởi chỉ trong một tương lai không xa, quốc đảo này sẽ hoàn
toàn biến mất trên bản đồ thế giới. Đảo Lohachara của Ấn Độ cũng đang biến mất dưới nước
biển do việc khí hậu nóng lên toàn cầu, để lại trên 70.000 người dân tỵ nạn trên các hải đảo
lân cận đang phải sống trong những điều kiện vô cùng khó khăn và số phận của họ thật mong

manh trước sức mạnh không thể đảo ngược của thiên nhiên.
Bờ biển tại các quốc gia Tây Phi như Bênanh, Ghana, Bờ biển Ngà, Ghinê và Nigiêria cũng
đang mất dần trung bình 10 thước mỗi năm, và mực nước biển trên bờ biển Tây Phi có thể
tiếp tục dâng cao. Việt Nam cũng không là một ngoại lệ. Một vài khu vực của tỉnh Cà Mau,
mỏm cực Nam của nước ta, hay nhiều khu vực ở đồng bằng sông Cửu Long cũng là một trong
những vùng ven biển có thể sẽ ngập chìm trong nước biển trong một tương lai không xa.
Cuộc sống của 380.000 dân cư trên quốc đảo Maldives trên Ấn Độ Dương cũng đang trong
tình trạng bị đe dọa như vậy. Theo các chuyên gia khí hậu, khi mực nước biển dâng cao thêm
từ 0,25-0,58 m trong thế kỷ 21 này, thì phần lớn lãnh thổ Maldives sẽ bị ngập chìm trong
176


nước biển. Và cả một dân tộc với 380.000 người sẽ trở thành những kẻ tha hương, vô Tổ
quốc13. Trước nguy cơ đó, Tổng thống mới đắc cử Mohammed Nasheed đang ấp ủ một kế
hoạch di dân khổng lồ chưa từng có trên thế giới là sẽ di dời từng bước toàn bộ cư dân của
mình khỏi quốc đảo này bằng cách thiết lập một quỹ đầu tư với hy vọng sẽ mua được một
vùng đất mới. Số tiền dành cho kế hoạch di dân này sẽ được trích ra từ doanh số thu được của
ngành du lịch14. Tất nhiên, số tiền tích cóp này có thể vẫn không đủ để Tổng thống Nasheed
thực hiện kế hoạch di dân khổng lồ của mình, vẫn cần phải nhờ đến sự trợ giúp của quốc tế. Ý
tưởng mạnh dạn chưa từng có của vị Tổng thống về một cuộc di dân khổng lồ đã gây ra một
tiếng vang lớn, buộc tất cả các nước trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia công nghiệp phát
triển, thấy rõ hơn trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ đồng loại và hành tinh xanh chung
của nhân loại trước những thảm họa sinh thái đang đến gần15.
Đối phó với những thách thức đa chiều và phức tạp của vấn đề BĐKH ngày càng trở thành ưu
tiên quan trọng trong chiến lược an ninh, đối ngoại của các quốc gia phát triển như Mỹ, Anh,
Trung Quốc, Nhật và được cộng đồng quốc tế quan tâm rộng rãi. Nhận thức toàn cầu về
những nguy cơ tiềm tàng từ vấn đề BĐKH ngày càng được nâng cao và sâu sắc hơn. Các
chính phủ đều nhận thấy cần có cách tiếp cận và phương thức mới trong hoạch định và triển
khai chính sách đối ngoại-an ninh trên tầm quốc tế để đối phó với thách thức này, như thiết
lập các "mạng lưới ngoại giao" toàn cầu, trong đó, kết hợp chặt chẽ giữa ngoại giao, quốc

phòng, an ninh và bảo vệ môi trường...
KẾT LUẬN
Trở lại câu chuyện về đảo Easter xưa kia. Có ý kiến cho rằng, trong thế kỷ 21 này, nếu con
người không thống nhất được trách nhiệm quản lý các nguồn tài nguyên sinh thái chung trên
Trái đất, thì BĐKH đang trở thành phiên bản thứ 2 của câu chuyện đó trên phạm vi toàn cầu.
Tuy nhiên, có một điểm khác biệt quan trọng giữa 2 phiên bản, đó là: trước đây, khi lâm vào
cuộc khủng hoảng sinh thái, người dân đảo Easter đã không thể lường trước được hậu quả của
nó và do những hạn chế về công nghệ và sự đơn độc của một quốc đảo giữa đại dương, họ đã
không thể làm được điều gì nhiều để kiểm soát và ngăn chặn tình hình, khi khủng hoảng đã
trở nên nghiêm trọng. Còn ngày nay, chúng ta không thể bào chữa với các thế hệ tương lai
rằng chúng ta không biết gì và không có cách nào để giải quyết. Chúng ta đã có nhiều bằng
13

Là một quốc đảo ở giữa Ấn Độ Dương, gồm 26 cụm đảo san hô với 1.192 đảo, nhưng chỉ có tổng
diện tích 298 km2, là một trong 10 nước nhỏ nhất thế giới. Trong số 1.192 đảo, chỉ có gần 200 đảo
có diện tích tương đối rộng là có cư dân. Maldives được coi là quốc gia bằng phẳng nhất Trái đất:
Nơi cao nhất chỉ cách mặt nước biển 2,5 m, phần lớn lãnh thổ Maldives chỉ cao hơn mặt nước biển
chưa đầy 1 m. Trong suốt thế kỷ 20, dưới tác động của BĐKH, mực nước biển ở Ấn Độ Dương đã
tăng thêm khoảng 20 cm và mực nước vẫn tiếp tục dâng cao, đe dọa cuộc sống của 380.000 người.
14
Là một nước nghèo nhất thế giới với tỷ lệ thất nghiệp lên tới 20%, thu nhập về du lịch của Maldives
hiện chiếm tới 30% GDP. Riêng trong năm 2006, có tới 470.000 du khách đã đến Maldives để nghỉ
ngơi trên các bãi biển hoang sơ, giữa những rừng dừa ngút ngàn và những rặng san hô tuyệt đẹp.
15
Theo Stephan Faris. Dự báo: Những hậu quả của sự biến đổi khí hậu, từ vùng Amazon lên Bắc cực,
từ Darfur đến thung lũng Napa đã được xuất bản tháng 1/2009, do NXB Henry Holt ấn hành. Và
theo Mark Lynas. Sáu độ: Tương lai trên một tinh cầu nóng hơn.

177



chứng khoa học về những thảm họa sinh thái có thể diễn ra, chúng ta cũng đã phải chờ hơn 30
năm với những cuộc tranh luận triền miên và điểm giới hạn an toàn cho sự sống của loài
người đang đến gần. Chúng ta cũng có những nguồn lực cần thiết để ngăn chặn cuộc khủng
hoảng sinh thái này, hoặc ít nhất cũng đã tìm được cách để giảm thiểu những tác động của nó
đối với sự sống loài người.
Hơn nữa, những thực tế do tác động của BĐKH vẫn đang diễn ra trước mắt chúng ta: nhiều
miền đất và dân cư của họ vẫn đang chìm dần xuống đại dương, những dòng người tỵ nạn khí
hậu vẫn tiếp tục kéo dài và trở nên đông hơn, hỗn loạn hơn, những người nghèo đang khắc
khoải sống trước bao nhiêu nguy cơ đe dọa và một tương lai mà họ không mong đợi, tương lai
của những đứa trẻ vô gia cư đang chờ đợi từng miếng ăn cứu trợ và tương lai của con cháu
chúng ta..., cũng có thể sẽ là một phiên bản mới của bức tranh đang diễn ra và có thể sẽ còn
tồi tệ hơn thế, nếu chúng ta không thống nhất hành động theo một chiến lược chung vì lợi ích
của các quốc gia trên toàn cầu, ngay bây giờ – khi còn chưa quá muộn.
Nếu như những nghịch cảnh đang diễn ra có động đến lòng trắc ẩn của mọi người, thì mỗi
người cũng chỉ cần tiết kiệm điện sử dụng mỗi ngày 1 vài phút, dùng internet hợp lý hơn, hay
sử dụng thực phẩm là đạm động vật vừa đủ ở mức cần thiết.., thì một việc nhỏ như vậy cũng
có thể tạo nên những sức mạnh kỳ diệu với những ý nghĩa lớn lao cho cuộc sống.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ABC News Online, 2005. Indonesia Reduces Possible Tsunami Death Toll. 7 April 2005,
/>2. Báo Đất Việt, 2009. Tương lai nào cho những trẻ tỵ nạn thế giới. Báo Đất Việt,
03/5/2009.
3. Commission on Human Security, 2003. Human Security Now. New York.
4. Dasgupta, S., Laplante, B., Meisner, C., Wheeler and D., Yan, J., 2007. The Impact of
Sea Level Rise on Developing Countries: A Comparative Analysis. World Bank Policy
Research Working Paper 4136.
5. Lê Hồng Hiệp, 2009. Từ dịch bệnh đến an ninh con người. TuanVietNam. 5/5/2009.
6. International Organisation for Migration, 2007. Global Estimates and Trends. Http://
www.iom.int/jahia/Jahia/pid/254, 9/11/2007.

7. Kelly, M., Luong Huy Quang and Nguyen Huu Ninh, (undated). Migration, Resilience
and Global Change in the Coastal Zone: Policy Implications for Communal Trends.
(Presentation) CERED/UEA.
8. Léopold-Michel Cadière, 2005. An Tĩnh cổ lục. NXB Nghệ An, Vinh.
9. Mark Lynas, 2007. Six Degrees: Our Future on a Hotter Planet. Caspar Henderson. 25
March 2007.

178


10. Monroe, James S. and Reed Wicander, 1997. The Changing Earth: Exploring Geology
and Evolution. 2nd Edition. Belmont: West Publishing Company: 112-113.
11. Monroe, James S. and Reed Wicander, 2005. Physical Geology: Exploring the Earth. 5th
Edition. Thomson Brooks/Cole.
12. Nguyễn Thị Nghĩa. Một số vấn đề về an ninh môi trường và tội phạm môi trường.
Http://www.nea.gov.vn.
13. Trịnh Thị Kim Ngọc, 2008. Phát triển con người Việt Nam trước thách thức của biến đổi
khí hậu. Kỷ yếu Hội thảo Việt Nam học lần thứ III: Việt Nam hội nhập và phát triển.
Tháng 12/2008.
14. Peter Chaudhry and Greet Ruysschaert, 2007. Climate Change and Human Development
in Vietnam 2007/2008.
15. Đức Phường (tổng hợp theo Science và Scientific American). Nông nghiệp toàn cầu –
Mối đe dọa từ biến đổi khí hậu.
16. Stephan Faris, 2009. Darfur and Madivers in Impact of Climate Change. Henry Holt
Published Hourse.
17. Tạ Minh Tuấn, 2008. An ninh con người và những mối đe dọa toàn cầu. Tạp chí Cộng sản
điện tử, 13/5/2008.
18. UNDP, 1994. New Dimensions of Human Security in Human Development Report.
HDR. Http://hdr.undp.org/reports/global/ 994/en/pdf/hdr_1994_ch2.pdf.
19. UNDP, 2007. Fighting Climate Change: Human Solidarity in a Divided World

2007/2008. HDR.
20. VASS, 2006. Viet Nam’s Poverty Update 2006: Puzzles and Policy Questions. Viet Nam
Academy of Social Sciences (Presentation).
21. World Food Programme, 2006. World Hunger Series 2006: Hunger and Learning.
Http://www.wfp.org/policies/introduction/other/documents/pdf/World_Hunger_Series_20
06_En.pdf.

179



×