Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Chất lượng công tác phát triển đảng viên của đảng bộ tỉnh ắt tạ pư nước cộng hoà dân chủ nhân dân lào trong giai đoạn hiện nay”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.17 KB, 21 trang )

A. MỞ ĐẦU
Công tác phát triển đảng viên có vị trí vai trò rất quan trọng nhằm tăng
cường sức chiến đấu, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trên tất cả các lĩnh vực đời
sống xã hội, góp phần trẻ hoá đội ngũ đảng viên và tạo nguồn cán bộ cho Đảng.
Đảng muốn mạnh phải không ngừng nâng cao trình độ giác ngộ, lập
trưởng chiến đấu, ý thức tổ chức kỷ luật cho đảng viên, tăng sự đoàn kết nhất trí
trong nội bộ Đảng, liên hệ chặt chẽ với quần chúng nhân dân, ngoài ra Đảng còn
phải luôn được bổ sung những phần tử tích cực, tiên tiến trong giai cấp công
nhân, nông dân và trí thức vào Đảng. Phát triển là nhằm tăng thêm nguôn sinh
lực mới cho Đảng, trẻ hoá đội ngũ đảng viên, đảm bảo sự kế thừa và phát triển về
lực lượng cũng như đường lối chính trị trong cuộc đấu tranh cách mạng. Chính vì
vậy, trong hơn 58 năm qua, Đảng Nhân dân Cách mạng (NDCM) Lào luôn chú
trọng đến công tác phát triển đảng viên, coi đây là một việc làm có tính quy luật
và có ý nghĩa chiến lược.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, để thực hiện nhiệm vụ mục tiêu của
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước đòi hỏi Đảng NDCM Lào phải không
ngừng đổi mới và tự hoàn thiện về mọi mặt để Đảng ngày càng vững mạnh đáp
ứng yêu cầu của thời đại. Đảng viên là nhân tố tạo thành Đảng, chất lượng đảng
viên quyết định sự tồn tại của Đảng, Đảng chỉ mạnh khi có một đội ngũ đảng
viên đông đảo về số và đảm bảo về chất lượng. Trong một tổ chức đảng nếu có
một đội ngũ đảng viên có phẩm chất đạo đức trong sáng, có trí tuệ, có năng lực
đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ chính trị thì các tổ chức đó mạnh.
Trong thời kỳ phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới,
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công tác phts triển
đảng viên có ý nghĩa quan trọng đối với nâng cao chất lượng đổi ngũ đảg viên
của Đảng. Đảng phải đẩy mạnh công tác phát triển Đảng trong tất cả các ngành,
các cấp, các linh vực, ở các thành phần kinh tế, các dân tộc, các giới, các miền

1



của đất nước. Có như vậy thì sự nghiệp đổi mới do Đảng NDCM Lào khởi xướng
và lãnh đạo mới thực hiện thành công.
Trước thực trạng của công tác phát triển đang viên của nước Cộng hoà
Dân chủ Nhân dân Lào và yêu cầu của nhiệm vụ mới cùng với tầm quan trọng
của việc phát triển đảng viên hiện này, em xin trình bày đề tài: “Chất lượng công
tác phát triển đảng viên của Đảng bộ tỉnh ẮT TẠ PƯ nước Cộng hoà Dân chủ
Nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay”
Kết cấu của đề tài gồm 3 phần:
A. Mở đầu.
B. Nội dung.
I. Cơ sở lý luận của công tác phát triển đảng viên.
II. Thực trang công tác phát triển đảng viên của tỉnh ẮT TẠ PƯ.
III. Một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng
viên của Đảng bộ tỉnh ẮT TẠ PƯ nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào trong
giai đoạn hiện nay.
C. Kết luận.

2


B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về người đảng viên cộng sản.
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Trong tác phẩm tuyên ngôn Đảng cộng sản, Mác - Ăngghen chỉ rõ “Về
mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các Đảng
công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận thúc đẩy phong trào tiến lên; về mặt lý
luận họ hơn hẳn bộ phận còn lại của giai cấp công nhân ở chỗ họ hiểu rõ những
điều kiện, tiến trình và kết quả chung của giai cấp vô sản”.

Năm 1845, trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, Mác - Ăngghen đã nêu
quan niệm chung nhất về người đảng viên Đảng cộng sản, đó phải là những con
người trung thành nhất, có khả năng thu hút, lãnh đạo được quần chúng theo
mình và đảm bảo giải quyết được những nhiẹm vụ của lịch sử đặt ra cho Đảng là
lật đổ giai cấp tư sản, thiết lập chính quyền của giai cấp vô sản, thủ tiêu chế độ tư
hữu để tiến tới xây dựng một xã hội không còn giai cấp và không còn tư hữu.
Những tư tưởng, quan điểm đó của Mác - Ăngghen luôn là cơ sở lý luận
nhất quán cho việc xây dựng tiêu chuẩn cho người đảng viên Đảng cộng sản.
Lênin là người trực tiếp kế thừa sự nghiệp của Mác - Ăngghen và đa hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ đó.
Quan điểm về người đảng viên cộng sản, thì Lênin người đảng viên cộng
sản là người có giác ngộ chính trị, gắn liền với một tổ chức đảng và có ý thức tổ
chức kỷ luật cao. Người chỉ rõ: “Đảng viên của Đảng là người cộng sản là người
thừa nhận cương lĩnh chính trị của Đảng, ủng hộ Đảng bằng những phương tiện
vật chất và tự mình tham gia một trong những tổ chức của Đảng”. Như vậy,
Lênin đề cao nguyên tắc đảng viên không được rời bỏ nguyên tắc tập trung.
3


Đưa ra tiêu chuẩn về người đảng viên, Lênin đã bảo vệ tính tiên phong
của Đảng, nâng cao danh diệu đảng viên, phòng ngừa phần tử cơ hội vào Đảng,
từ đó bảo vệ vai trò tiên phong của Đảng.
Gần một thế kỷ trôi qua với bao biến động, nhưng những quan điểm của
Lêninvẫn còn luôn có giá trị mà tất cả các Đảng cộng sản muốn vững mạnh thì
phải tuân theo.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh là lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, Người đã tiếp thu
chủ nghĩa Mác – Lênin vận dụng sáng tạo vào quá trình xây dựng và trưởng
thành của Đảng cộng sản Việt Nam.
Trong mỗi bước đi của cách mạng, mỗi bước phát triển của phong trào,

Người luôn đồn công sức vào việc dìu dắt và rèn luyện Đảng cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh cho rằng: Đảng mạnh là do chi bộ mạnh, chi bộ mạnh là do các
đảng viên đều tốt. Vì vậy, theo Người đảng viên phải là người giác ngộ lý tưởng
cộng sản chủ nghĩa, lòng trung thành với sự nghiệp của Đảng, của giai cấp công
nhân, suốt đời phấn đấu hi sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa cộng sản.
Hồ Chí Minh yêu cầu người đảng viên cộng sản là phải luôn liên hệ mật
thiết với quần chúng, phát huy quyền lam chủ làm chủ của nhân dân, hết lòng hết
sức phục vụ nhân dân. Người chỉ rõ: người đảng viên phải có ý thức tổ chức kỷ
luật, tinh thần đoàn kết thống nhất, phải chịu khó học tập và phải có thái độ,
phương pháp hoch tập đúng đắn. Đó chính là yếu cầu cơ bản của người đảng viên
cộng sản cần phải có theo quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh.
Người đảng viên cộng sản được Hồ Chí Minh quan niệm phải là người có
đức, có tài, đức xem là gốc, tài là quan trọng. Người đảng viên phải thuân nhuần
quan điểm “lấy dân làm gốc” bao nhiêu lợi đều vì dân, baonhiêu quyền hạn đều
của dân, việc gì có lợi cho dân thì phải hết sức làm, việc gì có hại chodân phải hết
sức tránh, phải yêu kinh nhân dân.
4


Những quan trên của Hồ Chí Minh về người đảng viên cộng sản là cơ sở
cho việc Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra nhiệm, tiêu chuẩn, quyền hạn của người
đảng viên trong từng thời kỳ cách mạng. Đó cũng là những định hướng cơ bản để
tiến hành công tác đảng viên và công tác xây dung Đảng để đảm bảo không
ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn
và nhiệm vụ của cách mạng.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
công tác phát triển đảng viên.
1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
Trong quá trình hoạt động Mác – Lênin rất quan tâm đến côngtác phát

triên triển đảng viên. Theo Lênin: “Đảng chung tá ra đời những lực lượng trẻ của
chúng ta đang tăng lên gấp đôi (bội) họ có khả năng thay thế và hồi sinh cho
những nhóm tác giả cũ cũng đã mất lòng tin của Đảng”. Như vậy, Người yêu cầu
phải tuyển mộ những chiến sĩ trẻ tuổi một cách mạnh dạn hơn, rộng rãi hơn và
nhanh chóng hơn và hàng ngũ tổ chức của chúng ta. Phải quan tâm phát triển ở
tất cả các ngành, các lĩnh vực, phát triển ở các thành phần kinh tế, các dân tộc,
các tôn giáo, Có vậy thì trí tuệ của Đảng thì mới hùng hậu, mọi tổ chức xã hội
đều có sự lãnh đạo của Đảng.
Trong công tác phát triển, phải coi trọng chất lượng, chống khuynh
hướng chảy theo số lượng, phát triển gượng ép để cơ sở nào đó khỏi bị
“trắng”,như vậy hạ thấp tiêu chuẩn đảng viên, làm loãng chất lượng đảng viên.
Lênin nói: “Những đảng viên vô hữu danh vô thức cho không chúng ta cũng
không cần, Đảng độc nhất nắm chính quyền trên thế giới quan tâm đến việc nâng
cao chất lượng đảng viên, đến việc thanh trừ bọn “luôn lọt vào Đảng ra khỏi hàng
ngũ của mình chứ không phải làm tăng thêm số lượng đảng viên, đó chính là
Đảng của chúng ta, Đảng của giai cấp công nhân cách mạng”. Phát triển rồi phải
tiếp tục giáo dục, rèn luyện thử thách đảng viên trong thời kỳ dự bị để người đó

5


xứng đáng là chiến sĩ tiên phong của giai cấp công nhân, phấn đấu suet đời cho
chủ nghĩa cộng sản.
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác phát triển đảng viên mới.
Kế thừa những di sản quý báu của chủ nghĩa Mác – Lênin, sinh thời chủ
tịch Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm đến công tác xây dung Đảng và công
tác phát triển đảng. Theo Người “Cần phải củng cố và phát triển đảng…cần chủ ý
kết nạp thêm đảng viên các dân tộc và nữ đảng viên để mở rộng đảng”, “cần chú
ý kết nạp ngững phần tử ưu tú, gương mẫu, trước hết trong xã viên hợp tác xã,
trong đoàn thanh niên lao động vào Đảng”. Trong công tác phát triển đảng Hồ

Chí Minh căn dặn “Phải chọn lọc đảng viên mới một cách hết sức cẩn then”,
“Đảng phải phát triển tổ chức của mình một cách then trọng, vững chắc và rộng
rãi trong quần chúng”. Chất lượng đảng phải được coi trọng ngay từ khi mới kết
nạp, đồng thời tăng cường giáo dục cho đảng viên cũ và mới. Có như vậy đọi ngũ
đảng viên của Đảng mới xứng đáng là những chiến sĩ tiên phong của giai cấp
công nhân, suet đời phấn đấu hy sinh vì sự nghiệp cách mạng.
1.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về người đảng viên và
công tác phát triển đảng viên.
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt quá trình hoạt động của mình đã luôn
xác định đảng viên và công tác phát triên đang viên có một vị trí đặc biệt quan
trọng trong công tác xây dung Đảng nói riêng và trong sự nghiệp cách của Đảng
nói chung.
1.3.1. Quan điểm của Đảng về người đảng viên cộng sản.
Điều lệ Đảng quy định: đảng viên Đảng Công sản Việt Nam là chiến sĩ
cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, suốt đời phấn
đấu cho mục đích lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai công nhân
và nhân dân lao động lên trên lợi ích của cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh cương
lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước,
6


có lao động, có bóc lột, hoàn thành nhiệmvụ được giao, có đoạ đực và lối sống
lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân, phải pục tùng tổ chức, kỷ luật của
Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Tiêu chuẩn trên là điều kiện cơ bản mà mỗi đảng viên phải có, nó là cơ sở
để phân rõ rang giới giữa đảng viên và quần chúng ngoài Đảng. Vì phạm những
quy định ấy thì không còn là đảng viên nữa.
1.3.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác phát triển
đảng viên.

Đảng Cộng sản Việt Nam là một cơ thể chính trị xã hội sống, có phát
triển. Công tác phát triển đảng nhằm tăng thêm sinh lực cho Đảng, trẻ hoá Đảng.
Để chất lượng đảng viên đảm bảo ngay từ khi kết nạp mới thì trước hết cần nắm
vững phương hướng phát triển đảng, đó là bồi dưỡng, kết nạp vào Đảng những
người ưu tú là đoàn viên thanh viên cộng sản Hồ Chí Minh, trong công nhân,
nông dân, trí thức, lực lượng vũ trang, phụ nữ, dân tộc ít người.
Khi kết nạp đảng viên mới phải nắm vững những điều kiện và tiêu chuẩn
của người được kết nạp vào Đảng. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam tại điểm 2
điều 1 quy định: “Công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên; thừa nhận và tự nguyện
thực hiện cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm đảng viên, hoạt
động trong một tổ chức Đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân
dân tín nhiệm đều có thể xét kết nạp”.
1.4. Quan điểm của Đảng Nhân dân cách mạng Lào về công tác phát
triển đảng viên.
Đảng Nhân dân cách mạng Lào là một cơ thể sống còn của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và giai cấp tri thức tiến tiến của nước Cộng hoà Dân chủ
Nhân dân Lào.
Công tác phát triển đảng viên là một trong những nhiệm vụ thường xuyên
không thể thiếu được, nhằm tăng cường sức chiến đấu và bảo đảm kế thừa, phát
triển liên tục của Đảng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
7


Phải có ý thức đầy đủ về công tác phát triển đảng viên là nhân tố quan
trọng góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Để khắc
phục cách làm chạy theo số lượng, Đảng cần phải nắm vững phương hướng phát
triển đảng. Muốn vậy, các tổ chức cơ sở đảng phải đấu tranh loại bỏ tư tưởng dễ
dãi, ban ơn, định kiến, toàn cầu trong công tác phát triển đảng viên.
Điều lệ Đảng Nhân dân cách mạng Lào, tại điều1 quy định về điều kiện
và mục tiêu kết nạp đảng viên mới như sau:

1. Công dân Lào từ 18 - 55 tuổi tích cực rèn luyện trong phong trào cách
mạng của quần chúng và được sự tín nhiệm của quần chúng.
2. Có trách nhiệm cao, tự giác về chình trị – tư tưởng theo lý tưởng của
Đảng, và có kinh nhiệm làm việc.
3. Có lý lịch đầy đủ, rõ ràng, trong sáng; có đạo đức cách mạng; có sức
khoẻ và là người gương mẫu trong phong trào quần chúng.
4. Tự nguyện thực hiện kỷ luật Đảng và cương lĩnh chính trị của Đảng.

8


II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN CỦA
ĐẢNG BỘ TỈNH ẮT TẠ PƯ
2.1. Đặc điểm tình hình kinh tế, chính trị – xã hội
2.1.1. Đặc điểm tình hình kinh tế.
Tỉnh ẮT TẠ PƯ nằm ở miền Nam của CHDCND Lào, với diện tích là
10.320 km2, chia làm 2 loại hình chính, đó là vùng đồng bằng với diện tích
3.199,2 km2 ha và vùng núi cao nguyên với diện tích 7.120,8 km2, chiếm 69%
diện tích của toàn tỉnh ẮT TẠ PƯ.
ẮT TẠ PƯ giáp với biên giới của tỉnh Xê Kông về phía Bắc 137,6 km và
giáp với tỉnh Chăm Pa Sắc về phía Tây 180 km và có biên giới với hai quốc gia
có nền kinh tế phát triển hơn như giáp tỉnh Lạt Tạ Nạ Khi Li (Campuchia) về
phía Nam 224,25 km và giáp với tỉnh Kon Tum của Việt Nam về phía Đông
58km.
Ưu thế về tài nguyên, tỉnh ẮT TẠ PƯ có diện tích đất nông nghiệp
khoảng 180.000 ha, trong đó diện tích lúa mùa là 18.500 ha, diện tích lúa chiêm
là 500 ha, diện tích lúa rẫy là 200 ha, và diện tích trồng rau và trồng cây ăn quả,
cây công nghiệp là 850 ha, thâm canh trồng lúa mùa, lúa chiêm cho năng suất từ
3 - 4 tấn/ha. Tỉnh ẮT TẠ PƯ còn có rừng các loại, có thể khai thác là 732.000 ha.
Ngoài ra trên địa bàn diện tích của tỉnh ẮT TẠ PƯ còn có mỏ khoáng sản, những

9


chất quý nằm dưới đất mọi vùng như: mỏ thạch cao, ngọc thạch, đất môn, đất
đen, vàng, bạc, đồng, muối… mà hiện nay một số mỏ khai thác xuất khẩu và một
số mỏ (vàng, thạch cao, …) đang bắt đầu khai thác.
Trong 5 năm, kinh tế của tỉnh ĂT TẠ PƯ liên tục phát triển, trung bình
tăng 5,76%/năm. Tổng số lượng sản phẩm đạt 177.996,845 tỉ kíp, bằng 26,36%
của GDP. Thu nhập bình quân 120 USD/đầu người/năm 1996, đến năm 2005 tăng
lên 241 USD/ đầu người/năm.
Trong cơ cấu tăng trưởng kinh tế trên, thì nông nghiệp tăng 5,6%,
chiếm 58,75% của GDP; công nghiệp tăng 5,76%, chiếm 20,37% GDP và dịch
vụ tăng 6,33%, chiếm 20,88% GDP.
Toàn tỉnh có diện tích trồng lúa là 19.174 ha, so với 1996 tăng lên 1,8 lần.
Diện tích nương 415 ha, sản xuất thóc đạt 363.683 tấn, bình quân
360kg/người/năm; so với năm 1996 tăng 1,3 lần. Hiện nay, toàn tỉnh đã có 13
công trình thủy lợi. Trong đó, có kênh mương 3 nơi, có máy bơm nước bằng điện
8 nơi, có khả năng đáp ứng nhu cầu trong diện tích mùa thu và mùa mưa đủ khả
năng tưới cho 1687 ha lúa và hoa màu. Vì vậy đã tạo điều kiện cho nhân dân tỉnh
có khả năng sản xuất gạo và nhiều vật nuôi, cây trồng đáp ứng cho được nhu cầu
tiêu thụ trong phạm vi toàn tỉnh (riêng gạo ngoài tiêu dùng trong tỉnh, còn thừa
bán ra cho các tỉnh khác và nước ngoài ) (Xem bảng 1). Riêng cây công nghiệp từ
năm 2001 đến nay trồng được 2.265 ha.
Khu vực nông thôn của tỉnh ẮT TẠ PƯ thích hợp với trồng lúa nước,
một số huyện có thể sản xuất lúa nước được hai mùa trong năm; ngoài trồng lúa
thì nhân dân trồng thêm các loại rau, hoa quả, mía, ngô v.v... Trước đây, người
dân trồng trọt, chăn nuôi dựa vào thói quen, thiên nhiên là chính, nhưng cho đến
nay họ biết quan tâm áp dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất nên đã ngày
càng tăng năng suất cây trồng và nhiều sản phẩm nông nghiệp thành hàng hóa.
2.1.2. Đặc điểm chính trị - xã hội

10


Tỉnh ẮT TẠ PƯ cũng như các tỉnh khác trong phạm vi cả nước, được
chấp hành cơ cấu hành chính để vận hành quyền lực Nhà nước theo đường lối
lãnh đạo của Đảng, đó là Đảng NDCM Lào. Tỉnh ẮT TẠ PƯ chia làm 5 huyện
và dưới sự chỉ đạo của một Chủ tịch tỉnh (Chủ tịch tỉnh cũng vừa là bí thư tỉnh
uỷ), một số trong 5 chủ tịch huyện cũng vừa là tỉnh uỷ viên. Toàn tỉnh có 207
làng, dân số là 112.171 người.
Hệ thống giáo dục - y tế: Giáo dục là một trong những chỉ số cơ bản nói
lên chất lượng cuộc sống, trình độ học vấn của mỗi quốc gia, phản ánh mức độ
phát triển của xã hội, cũng như trình độ văn minh của quốc gia đó.
Trên cơ sở đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, cũng như chiến
lược phát triển giáo dục. Hệ giáo dục có vai trò quan trọng để phấn đấu cho việc
giáo dục trở thành công việc và nghiệp vụ của mỗi người dân, 5 năm qua việc
giáo dục đã được Đảng bộ tỉnh cũng như địa phương hết sức quan tâm và được
thành phần khác giúp đỡ, hỗ trợ về vốn, phương tiện giáo dục, bồi dưỡng cán bộ,
xây dựng một số cán bộ hạ tầng làm cho việc giáo dục có thế mạnh và từng bước
phát triển. Về phía cán bộ cũng đã thực hiện và hoàn thiện theo chương trình mới
có hiệu quả cao hơn từ năm 2004 – 2005 toàn tỉnh có 242 ngôi trường, có 739
lớp, hiện nay có 981 giáo viên, trong đó 402 người là nữ. Giảng viên có trình độ
sơ cấp 428 người, trung cấp 350 người, cao học 203 người, so với yêu cầu thực tế
thì còn thấp và chưa đáp ứng. Toàn tỉnh có 9 trường mầm non và có 346 trẻ em
tới trường, tiểu học 217, có 16 trường phổ thông, toàn tỉnh có 22.666 học sinh.
Theo thống kê có thể xoá mù chữ chiếm 19,10%. Đồng thời cũng đã chú trọng
việc bồi dưỡng trình độ văn hoá trong người dân, cán bộ, cảnh sát, an ninh và
tỉnh cũng có sự cố gắng và chuẩn bị thành lập 1 trường dạy nghề sơ cấp, trung
cấp và có khả năng dạy rất nhiều nghề từ năm 2007 trở đi.
Song song với giáo dục, vấn đề cần quan tâm đến là sức khoẻ cộng đồng
trong các tầng lớp dân cư, đó cũng chính là nhằm tái tạo sức lao động cho toàn xã

hội. Trên địa bàn tỉnh có bệnh viện lớn của Trung ương và tỉnh. Dựa trên đường
11


lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay, chúng ta có thể
tiến hành khám và chữa bệnh cho người dân 184 làng, chiếm 88% tổng số làng.
Toàn tỉnh có 5 bệnh viện, trong đó có 1 bệnh viện cấp tỉnh, 4 bệnh viện cấp
huyện, có 22 trạm y tế, có 242 cán bộ y tế. Hiện nay đời sống nhân dân đã từng
bước cải thiện, như đã được sử dụng giống mới, phun nước lên 69,6%; sử dụng
nhà vệ sinh 35,7%, tỷ lệ người chết 3/1000, tỷ lệ sinh 7/1000, tỷ lệ chết của trẻ
em dưới 1 tuổi là 82/1000 người, tỷ lệ chết trẻ em dưới 5 tuổi là 101/1000 người,
tỷ lệ mẹ tử vong là 468/100.000 người và tuổi thọ bình quân 58 tuổi.
2.2 Thực trạng công tác phát triển Đảng.
2.2.1. Thành tựu.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng khoá VIII của Ban chấp hành Trung
ương Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng khoá VII của Đảng bộ tỉnh ẮT TẠ PƯ
về công tác phát triển đảng viên, làm cho đội ngũ của ngày càng đông về số
lượng, mạnh về chất lượng.
Công tác phát triển đảng viên mới là một trong những nhiệm vụ thường
xuyên của cấp uỷ Đảng, nhằm tăng cường sức chiến đấu và bảo đảm tính kế thừa,
phát triển liên tục của đảng viên, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Nhận
thức rõ tâm quan trọng của công tác này, trong thời gian qua, Ban chấp hành
Đảng bộ tỉnh ẮT TẠ PƯ chỉ đạo các ban chi uỷ, chi bộ trực thuộc triển khai
thường xuyên công tác phát triển đảng viên mới, nhằm tăng cường củng cố và
xây dung các chi bộ trực thuộc, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở dảng trong đoàn Đảng bộ.
Năm 2001 Đảng bộ tỉnh ẮT TẠ PƯ có 3.239 đảng viên, đến năm 2007
tỷ lệ đảng viên so với dân số toàn tỉnh đạt 2,83 % (bình quân 37,5 người dân có
một đảng viên). Số thôn, làng chưa có đảng viên chiếm 39,42% và có 43,82% số
thôn, làng chưa có tổ chức đảng, ít đảng viên. Nhiều lĩnh vực, địa bàn trọng điểm

chưa có đảng viên.
12


Theo báo cáo chính trị của Đảng bộ tỉnh ẮT TẠ PƯ trong 5 năm (Đại hội
khoá VII của Đảng bộ tỉnh), từ năm 2001 đến năm 2005, Đảng bộ tỉnh ẮT TẠ
PƯ đã được những kết kết đáng phấn khởi, đã tạo ra những nguồn đối tượng đảng
khá đông, mở được 18 lớp bồi dưỡng đối tượng đảng cho 1575 quần chúng ưu tú:
Năm 2001 mở 2 lớp cho 128 quần chúng.
Năm 2002 mở 3 lớp cho 235 quần chúng.
Năm 2003 mở 4 lớp cho 386 quần chúng.
Năm 2004 mở 4 lớp cho 397 quần chúng.
Năm 2004 mở 5 lớp cho 429 quần chúng
Qua các lớp bồi dưỡng đối tượng Đảng đã giúp cho quần chúng hiểu rõ
và nhận thức đúng đắn hơn về vai trò lãnh đạo của Đảng, tiêu chuẩn và trách
nhiệm của người đảng viên. Vì vậy, quần chúng ưu tú tích cực rèn luyện, phấn
đáu vào Đảng ngày càng nhiều hơn, chất lượng bgày càng cao hơn.
Trong 5 năm qua toàn địa bàn tỉnh đã kết nạp được 623 đồng chí ưu tú
vào Đảng trong đó nữ 179 đồng chí. Số đảng viên mới được kết nạp hầu hết đều
phát huy vai trò trách nhiệm và tác dung lãnh đạo trong phong trào cách mạng ở
cơ sở. Đặc biệt trong 623 đồng chí được kết nạp từ 2001 đã có nhiều đồng chí
được bầu vào cấp uỷ và cán bộ lãnh đạo.
Những kết quả đã đạt được trên đây đã góp phần tích cực vào việc xây
dựng và củng cố đội ngũ đảng viên ngày càng thực sự trở thành hạt nhân lãnh đạo
phong trào cách mạng ở cơ sở, đồng thời cũng tạo ra được chuyển biến mới trong
công tác vận động quần chúng nhân dân tích cực tham gia xây dựng Đảng.
2.2.2 Những tồn tại và khuyết điểm
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác phát triển đảng viên
trong 5 năm còn có những nhược điểm sau:
Nhiều Đảng bộ, chi bộ còn chưa thực sự chú trọng trong việc tạo nguồn

đối tượng Đảng. Có nơi, có lúc nhận xét đối tượng một cách dập khuôn máy mọc.
13


Do vậy, khi xem xét đối tượng để kết nạp vào Đảng còn heph hòi, thiếu thực tế.
Trong 5 năm từ năm 2001 – 2005 số quần chúng được kết nạp vào Đảng bằng
33,7% so với tổng đối tượng đã được học bồi dưỡng. Điều đó chứng tỏ bồi
dưỡng, giáo dục, rèn luyện và giúp đỡ quần chúng đã học đối tượng Đảng ở các
chi bộ còn nhiều hạn chế, chất lượng cử chọn quần chúng đi học bồi dưỡng ở một
chi bộ chưa cao.
Công tác phát triển đảng viên nhìn chung còn chậm và chưa đều, một số
cấp uỷ không duy trì đươc chế được xét duyệt đối tượng hàng quý, hàng tháng,
hàng năm. Có Đảng uỷ mỗi năm chỉ xét được một đến hai đợt, thiếu kiểm tra,
đôn đóc việc bồi dưỡng ở các chi bộ trực thuộc. Một số chi bộ trong quá trình
xem xét đối tượng để kết nạp vào Đảng thiếu ý thức ren luyện, tu dưỡng dẫn đến
vi phạm bị xử ký đưa ra khỏi Đảng.
Những yếu kém và tồn tại trên đây đòi hỏi các cấp uỷ Đảng cần phải rút
kinh nghiệm kịp thời và có biện pháp chỉ đạo cụ thể để khắc phục những thiếu sót
và nhược điểm, làm cho từng đảng viên thấy rõ trách nhiệm của mình đối với
nhiệm vụ phát triển đảng viên trong những năm tới.
2.2.3. Nguyên nhân và bài học kinh nghiệm.
* Nguyên nhân ưu điểm.
Những năm qua đã đạt được kết quả trên đây, trước hết là nhờ sự quan
tâm chỉ đạo kịp thời của các cấp uỷ Đảng, các chi bộ Đảng, làm cho cán bộ, quần
chúng ngày càng nhận thức đúng đắn vai trò lãnh đạo của Đảng, trách nhiệm của
người đảng viên, tin tưởng vào sự nghiệp lãnh đạo của Đảng.
Các tổ chức quần chúng, nhất là tổ chức cơ sở đoàn đã có nhiều cố gắng
trong việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, thu hút đông đảo quần
chúng vào các tổ chức, đã tao ra nhiều phong tào phù hợp, đáp ứng được nhu cầu
thiết thực của quần chúng. Từ phong trào cách mạng đó đã xuất hiện những nhân

tố tích cực là nguồn giới thiệu cho Đảng xem xét bồi dưỡng kết nạp.
14


* Nguyên nhân nhược điểm.
Do sự tác động của nền kinh tế thị trường và cơ chế tổ chức quản lý kinh
tế mới, cộng với sự ảnh hưởng tâm lý xã hội, trình độ văn hoá và lối sông thực
dụng đã làm ảnh hưởng đến nhận thức tư tưởng và làm hạn chế ý thức rèn luyện
phấn đấu vào Đảng của quần chúng.
Việc phân công giúp đỡ quần chúng chưa cụ thể, chưa sâu sắc. Một số
đảng viên có biểu hiện định kiến cá nhân, hẹp hòi nên làm cho một số quần
chúng chán nản trong quá trình phấn đáu.
Một số cán bộ đảng viên thiếu đầu tầu gương mẫu, không làm gương cho
quần chúng học tập và làm theo, thẩm chí một số đảng viên vi phạm khuyết điểm
không được xử lý kỷ luật nghiêm minh và kịp thời nên có tác động đến cách nhìn
nhận và đánh giá và ảnh hưởng đến tư tưởng phấn đấu của quần chúng.
Chưa phối hợp chặt chẽ giữa sự lãnh đạo của cấp uỷ với việc tuyên
truyền, vận động, giáo dục của các tổ chức đoàn thể nên không tạo ra được môi
trường và hành lang cho quần chúng phấn đấu.
* Những bài học kinh nghiệm.
Từ thực tế công tác phát triển đảng viên mới của tỉnh ẮT TẠ PƯ trong
những năm qua có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cơ bản sau đây:
Một là, các tổ chức cơ sở đảng phải chủ động, tích cực xây dung chương
trình, kế hoạch đối với công tác phát triển đảng viên.
Hai là, phải thông qua phong trào hoạt động cách mạng quần chúng
hướng vào các nhiệm vụ học tập, phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng – an
ninh, làm xuất hiện ngày càng nhiều đoàn viên ưu tú, những quần chúng tiên tiến,
tích cực.
Ba là, chăm lo xây dung Đảng trong sạch vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên.

15


Bốn là, tổ chức đảng các cấp, quan tâm đến việc nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần cho nhân dân.

III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN Ở TỈNH ẮT TẠ PƯ NƯỚC
CHDCNH LÀO HIỆN NAY.
Công tác phát triển đảnng viên ở nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào
nói chung và ở tỉnh ẮT TẠ PƯ nói riêng, trong thời gian tới cần được thực hiện
một số giải pháp như sau:
3.1. Thống nhất nhận thức trong toàn Đảng bộ về tầm quan trọng của
công tác phát triển đảng viên trong đội ngũ trí thức Đảng bộ tỉnh ắT Tạ PƯ
hiện nay.
Phát triển đảng viên là nhiệm vụ thường xuyên trong công tác xây dựng
Đảng. Do vậy, thống nhất nhận thức cho cán bộ, đảng viên, nhất là cấp uỷ Đảng
các cơ quan đơn vị, doanh nghiệp thuộc Đảng bộ tỉnh ẮT TẠ PƯ về tầm quan
trọng của công tác phát triển đảng viên trong đội ngũ trí thức để tạo ra những
chuyển biến ngay trong năm tới là giải pháp rất cần thiết. Để đưa giải pháp này đi
vào thực tiễn, cần thực hiện đồng bộ một số vấn đề sau:
Một là, đẩy mạnh việc mở rộng lớp bồi dưỡng nâng cao đào tạo cho cán
bộ, đảng viên, nhất là cấp uỷ cơ sở.
Hai là, phát huy vai trò của đảng viên thông qua nhiều hình thức, đặc biệt
là nêu gương.
Ba là, từng tổ chức đảng xây dung chương trình, kế hoạch phát triển
đảng viên để đạt được các mục tiêu về số lượng, chất lượng và trẻ hoá đội ngũ.
16



Bốn là, thực hiện nghiêm túc và vận dụng sáng tạo các quy định của cấp
trên phù hợp với tình hình cụ thể của cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp về công tác
phát triển đảng viên.
3.2. Quán triệt và cụ thể tiêu chuẩn đảng viên phù hợp với đặc điểm
của đội ngũ trí thức của Đảng bộ tỉnh ẮT TẠ PƯ .
Nhất là, về lập trường giai cấp, bản lĩnh chính trị.
Hai là, đội ngũ trí thức phải thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của Đảng
bộ, chi bộ nơi công tác; có đạo đức, lối sống trong sáng; có tinh thần cần tiến.
3.3. Thường xuyên xây dung, củng cố tổ chức cơ sở đảng, nâng cao
chất lượng đảng viên của các cấp uỷ Đảng và chi bộ.
Cấp uỷ Đảng trước hết là cán bộ chủ chốt, phải they rõ thực trạng của đội
ngũ cán bộ đảng viên trước yêu cầu, nhiệm vụ mới, từ đó nhận thức được tầm
quan trọng của chất lượng công tác phát triển đảng viên trong đội ngũ trí thức ở
Đảng bộ tỉnh ẮT TẠ PƯ .
3.4. Nâng cao chất lượng hoạt động của đoàn thanh niên, công đoàn,
tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động trí thức phấn đấu thành
đảng viên.
Một là, đối với công tác lãnh đạo đoàn thanh niên phải xây dung đội ngũ
cán bộ làm công tác đoàn, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục chính trị – tư tưởng
cho đoàn viên và mở rộng vận động củng cố nâng cao chất lượng chi đoàn.
Hai là, Đảng bộ tỉnh ẮT TẠ PƯ phải lãnh đạo, tham mưu với chủ trương
cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đào mọi điều kiện về kinh phí và phương tiện cho
công tác đoàn, Hội hoạt động. Coi đó là đầu tư cho chiến lược con người ở địa
phương.
Ba là, có quy chế làm việc giữa tổ chức đảng với lãnh đạo cơ quan, đơn
vị và các tổ chức trong hệ thống chính trị.
17


3.5. Phát huy tính tự giác, tự rèn luyện của đội ngũ trí thức để trở

thành đảng viên.
Một là, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để đội ngũ trí thức phát huy
tính tự giác và kỷ năng của bản thân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
Hai là, đội ngũ trí thức trẻ cần phải tự tin, biết phát huy thế mạnh để
vươn lên trong mọi hoạt động.
Ba là, phát huy tinh thần hăng hái, dám nghĩ, dám làm. dám chịu trách
nhiệm của đội ngũ trí thức trong Đảng bộ tỉnh ẮT TẠ PƯ.
3.6. Nắm vững phương châm, thực hiện đúng các nguyên tắc, thủ tục
kếp nạp đảng viên.
Thực tiễn cho thấy, chỉ có thể làm tốt công tác giáo dục về Đảng cho
thanh niên giúp họ phấn đấu trở thành đảng viên khi tổ chức đảng ở các cơ sở là
tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh là đội ngũ đảng viên thật sự phát huy vai trò
tiên phong, gương mẫu của mình; những đảng viên mới kết nạp tham gia sinh
hoạt, hoạt động trong một tổ chức vững mạnh, họ sẽ mau chóng trở thành.
3.7. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh ẮT TẠ PƯ đối
với các tổ chức cơ sở đảng về công tác phát triển đảng viên trong đội ngũ trí
thức.
Một là, Đảng bộ tỉnh ẮT TẠ PƯ cần đề ra các chương trình, kế hoạch
hàng năm về công tác phát triển đảng viên trong đội ngũ trí thức.
Hai là, bên cạnh việc đưa ra các chương trình, kế hoạch hàng năm, Đảng
bộ tỉnh ẮT TẠ PƯ cần rà soát lại đối tượng, công tác tạo nguồn, mở lớp bồi
dưỡng để giúp cấp uỷ cấp dưới trong công tác phát triển đảng viên.
Ba là, Đảng bộ tỉnh ẮT TẠ PƯ cần có sự quan tâm, lãnh đạo kịp thời
đối với những tổ chức cơ sở đảng còn tồn tại tình trạng có quần chúng nhưng
không làm được công tác phát triển đảng viên.
18


Bốn là, Đảng bộ tỉnh ẮT TẠ PƯ cần có chính sách hợp lý về vật chất và

tinh thần đối với đội ngũ cán bộ ở những nơi còn khó khăn, đang chuyển đổi mô
hình hoạt động.

C. KẾT LUẬN
Công tác phát triển đảng viên là một yêu cầu khách quan, phù hợp với
quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Một Đảng muốn tồn tại và phát triển
không thể không bổ sung vào đội ngũ của mình ngày càng nhiều người ưu tú
được rèn luyện, trưởng thành từ các phong trào cách mạng quần chúng. Lịch sử
hơn 53 năm hoạt động của Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã khẳng định được
điều đó. Đảng đã và đang giữ vai trò sứ mệnh lãnh đạo toàn xã hội thực hiện
công cuộc đổi mới đất nước. Vấn đề phát triển đảng viên đang là một yêu cầu cấp
bách trong giai đoạn hiện nay.
Sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước Cộng hoà dân chủ nhân
dân Lào đang đứng trước những cơ hội và thách thức lớn, những thuận lợi và khó
khăn, thời cơ và nguy cơ đan xen làm cho việc thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ
của thời kỳ đẩy mạnh công nghiêp hoá, hiện đại hoá đất nước càng khó khăn và
phức tạp, do vậy càng cần có một đội ngũ đảng viên có trình độ, có năng lực
được rèn luyện và trưởng thành trong phong trào cách mạng và đáp ứng mọi
nhiệm vụ của thời kỳ đổi mới. Để làm được như vậy, Đảng phải tăng cương côg
tác phát triển đảng viên trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Trong tình hình đó, đòi hỏi toàn Đảng nói chung và Đảng bộ tỉnh ẮT TẠ
PƯ nói riêng phải không ngừng đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, nỗ lực tìm tòi
những giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác phát triển đảng viên nhằm đảm
19


bảo cho Đảng vững mạnh, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ mà sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đặt ra.

20



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo tổng kết của Đảng bộ tỉnh ẮT TẠ PƯ, năm 2001 – 2005.
2. Báo cáo tổng kết của Ban tổ chức tỉnh ẮT TẠ PƯ ban về công tác xây dựng
Đảng, năm 2005 – 2006.
3. Điều lệ Đảng Nhân dân cách mạng Lào, năm 2006.
4. Mấy vấn đề về xây dựng Đảng vững mạnh đáp ứng nhiệm vụ mới, Nxb
CTQG, H. 1999.
5. PTS. Ngô Kim Ngân về nâng cao chất lượng đảng viên trong sự nghiệp đổi
mới, Nxb CTQG, H.1999.
6. Những tạp chí xây dựng Đảng (Đảng Cộng sản Việt Nam).
7. Những tạp chí xây dựng Đảng (Đảng Nhân dân cách mạng Lào)
8. Những tạp chí cộng sản.
9. Tạp chí nghiên cứu lý luận.

21



×