Tải bản đầy đủ (.doc) (140 trang)

Luận văn chính sách phát triển nguồn nhân lực du lịch hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (555.07 KB, 140 trang )

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Du lịch là được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn của một quốc gia
“Ngành công nghiệp không khói” của quốc gia, đóng góp cho thu nhập quốc
dân một nguồn thu lớn. Hà Nội, trái tim của cả nước, là trung tâm kinh tế văn
hóa chính trị của đất nước. Hàng năm, Hà Nội thu hút hàng triệu du khách
trong và ngoài nước đến thăm quan và du lịch, mang lại một nguồn thu ngân
sách lớn cho thành phố Hà Nội. Để thúc đẩy ngành du lịch Hà Nội ngày càng
phát triển, yêu cầu đặt ra cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành du
lịch nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới và hội nhập của nước ta.
Trước tình hình trên đòi hỏi phải nghiên cứu, tìm giải pháp nhằm hoàn
thiện chính sách phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch Hà Nội. Là một cán
bộ công tác trong ngành du lịch, với kinh nghiệm nhiều năm làm việc, tôi
nhận thấy cần phải có sự nghiên cứu đánh giá nghiêm túc thực trạng đội ngũ
cán bộ du lịch Hà Nội, để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiền chính
sách phát triển nguồn nhân lực. Với lý do trên, tôi chọn đề tài: “Chính sách
phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch trên địa bàn thành phố Hà
Nội” làm luận văn Thạc sỹ quản lý hành chính công của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
- Nghiên cứu về nguồn nhân lực nói chung đã nhiều công trình dưới
các dạng đề tài khoa học các cấp, các luận án tiến sĩ và luận văn thạc
sĩ....... (xin được nêu ra trong quá trình làm luận văn).
- Nghiên cứu về nguồn nhân lực trong ngành Du lịch nói chung,
cũng đã có nhiều công trình luận văn, luận án đã được công bố........(xin
được nêu ra trong quá trình làm luận văn).


- Chính sách phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch trên địa bàn
thành phố Hà Nội thì hầu như chưa có công trình nào? Vì vậy đây là luận
văn nghiên cứu tương đối cơ bản hệ thống về chính sách phát triển


nguồn nhân lực ngành du lịch ở một địa bàn cụ thể.
- Vì vậy đây là đề tài nghiên cứu mới không trùng lặp với các công
trình đã nghiên cứu trước.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
- Mục đích:
Trên cơ sở làm rõ thực trạng nguồn nhân lực ngành du lịch Hà Nội,
luận văn đề xuất một số giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển nguồn
nhân lực ngành Du lịch Hà Nội.
- Nhiệm vụ:
+ Trình bầy cơ sở khoa học và thực tiễn nguồn nhân lực trong ngành du
lịch;
+ Phân tích thực trạng nguồn nhân lực ngành du lịch Hà Nội trong giai
đoạn hiện nay.
+ Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển nguồn nhân
lực ngành Du lịch Hà Nội.
- Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản về hoàn thiện chính
sách phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch Hà Nội.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực ngành du lịch nói riêng..
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp luận chủ chủ nghĩa Mác- Lênin. Ngoài
ra, luận văn sử dụng một số phương pháp khác: phân tích và tổng hợp; lịch sử

2


- lôgíc, thống kê xã hội học, so sách đối chiếu..., nhằm làm rõ nội dung mà

luận văn đề cập.
5. Ý nghĩa, lý luận và thực tiễn của đề tài
- Luận văn đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển nguồn nhân
lực ngành Du lịch Hà Nội.
- Luận văn đưa ra những kiến nghị góp phần hoàn thiện chính sách phát
triển nguồn nhân lực ngành Du lịch Hà Nội.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các đồng nghiệp khi
nghiên cứu về chính sách phát triển nguồn nhân lực và có thể là cơ sở để
ngành du lịch Hà Nội đổi mới, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của
mình...
6. Kết cấu của luận văn gồm:
Phần mở đầu; Phần nội dung; Phần kết luận; Phần tài liệu tham khảo.
Phần nội dung chính kết cấu gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học về chính sách phát triển nguồn nhân lực
ngành Du lịch Hà Nội.
Chương 2: Chính sách phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch Hà
Nội.
Chương 3: Một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện
chính sách phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch Hà Nội.

3


Chương 1.
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH
I. KHÁI NIỆM VỀ NGUỒN NHÂN LỰC VÀ CHÍNH SÁCH PHÁT
TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
1.1. Nguồn nhân lực ngành Du lịch
1.1.1. Nguồn nhân lực

1.1.1.1. Khái niệm: Thuật ngữ nguồn nhân lực được sử dụng rộng rãi ở các
nước có nền kinh tế phát triển từ những năm 80 của thế kỷ XX với ý nghĩa
là nguồn lực con người, phản ánh sự đánh giá lại vai trò yếu tố con người
trong quá trình phát triển. Sự xuất hiện của thuật ngữ “nguồn nhân lực” thể
hiện sự công nhận của phương thức quản lý mới trong việc sử dụng nguồn
lực con người.
Khái niệm nguồn nhân lực có nguồn gốc từ bộ môn kinh tế học và
kinh tế chính trị, được gọi một cách truyền thống là lao động - một trong
bốn yếu tố của sản xuất.
Hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau về nguồn nhân lực. Có định
nghĩa tiếp cận theo hướng coi nguồn nhân lực là nguồn lực với yếu tố vật
chất, tinh thần tạo nên năng lực, sức mạnh phục vụ cho sự phát triển chung
của các tổ chức, với cách tiếp cận này nguồn nhân lực được hiểu là nguồn
lực con người của các tổ chức có quy mô, loại hình, chức năng khác nhau,
có khả năng và tiềm năng tham gia vào quá trình phát triển của tổ chức
cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, khu vực và thế giới.
Báo cáo đánh giá về những tác động của toàn cầu hoá đối với nguồn nhân
lực của Liên hiệp quốc đã định nghĩa nguồn nhân lực là trình độ lành nghề,
kiến thức và năng lực thực có và những năng lực tiềm tàng của con người.
Cách tiếp cận này đánh giá cao tiềm năng của con người, đồng thời mở ra

4


khả năng xây dựng các cơ chế thích hợp trong quản lý, sử dụng nguồn nhân
lực.
Tuy có những định nghĩa khác nhau tuỳ theo góc độ tiếp cận, nhưng
các định nghĩa về nguồn nhân lực đều đề cập đến các đặc trưng chung là:
- Số lượng nguồn nhân lực, trả lời cho câu hỏi là có bao nhiêu người
và sẽ có thêm bao nhiêu nữa trong tương lai. Sự phát triển về số lượng

nguồn nhân lực dựa trên hai nhóm yếu tố bên trong, bao gồm nhu cầu thực
tế công việc đòi hỏi phải tăng số lượng lao động; và các yếu tố bên ngoài
của tổ chức như sự gia tăng về dân số hay lực lượng lao động do di dân.
- Chất lượng nhân lực, là yếu tố tổng hợp của nhiều yếu tố bộ phận
như trí tuệ, trình độ, sự hiểu biết, đạo đức, kỹ năng, sức khoẻ, năng lực
thẩm mỹ,... của người lao động. Trong các yếu tố trên thì trí lực và thể lực
là hai yếu tố quan trọng trong việc xem xét đánh giá chất lượng nguồn nhân
lực.
- Cơ cấu nguồn nhân lực: đây là yếu tố không thể thiếu khi xem xét
đánh giá về nguồn nhân lực. Cơ cấu nhân lực thể hiện trên các phương diện
khác nhau: cơ cấu về trình độ đào tạo, dân tộc, giới tính, độ tuổi,…
Nguồn nhân lực là nguồn lực con người. Nguồn lực đó được xem xét
ở hai khía cạnh. Trước hết, với ý nghĩa là nguồn gốc, là nơi phát sinh ra
nguồn lực. Nguồn nhân lực nằm ngay trong bản thân con người, đó cũng là
sự khác nhau cơ bản giữa nguồn lực con người và các nguồn lực khác. Thứ
hai, nguồn nhân lực được hiểu là tổng thể nguồn lực của từng cá nhân. Với
tư cách là một nguồn lực của quá trình phát triển, nguồn nhân lực là nguồn
lực con người có khả năng sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã
hội, được biểu hiện ra là số lượng và chất lượng nhất định tại một thời điểm
nhất định.
Với cách hiểu như vậy, nội hàm nguồn nhân lực không chỉ bao hàm
những người trong độ tuổi lao động, cũng không chỉ bao hàm về mặt chất

5


lượng, mà còn chứa đựng các hàm ý rộng hơn, gồm toàn bộ trình độ chuyên
môn mà con người tích luỹ được, có khả năng đem lại thu nhập trong tương
lai. Trong lý thuyết về tăng trưởng kinh tế, con người được coi là phương
tiện hữu hiệu cho việc đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế bền vững.

Nguồn nhân lực cũng được nhìn nhận về khía cạnh số lượng, không
chỉ những người trong độ tuổi mà cả những người ngoài độ tuổi lao động.
Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động của một nước hay một
địa phương sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó; nguồn lực
con người được thể hiện thông qua số lượng dân cư, chất lượng con người
(bao gồm thể lực, trí lực và năng lực phẩm chất), tức là không chỉ bao hàm
số lượng, chất lượng, cơ cấu nguồn nhân lực hiện tại, mà còn bao hàm của
nguồn cung cấp nhân lực trong tương lai của mỗi tổ chức, mỗi địa phương,
mỗi quốc gia, khu vực và thế giới.
Nguồn nhân lực được hình thành trên cơ sở các cá nhân có vai trò
khác nhau và được liên kết với nhau theo những mục tiêu nhất định. Nguồn
nhân lực là toàn bộ vốn kiến thức, kỹ năng và sức người cần đầu tư vào
công việc để đạt được thành công.
Từ những phân tích trên, trong Luận án này khái niệm nguồn nhân
lực được hiểu như sau: Nguồn nhân lực là một phạm trù dùng để chỉ sức
mạnh tiềm ẩn của dân cư, khả năng huy động tham gia vào quá trình tạo ra
của cải vật chất và tinh thần cho xã hội trong hiện tại cũng như trong tương
lai. Sức mạnh và khả năng đó được thể hiện thông qua số lượng, chất lượng
và cơ cấu dân số, nhất là số lượng và chất lượng con người cơ sở đủ điều
kiện tham gia vào nền sản xuất xã hội.
Nguồn nhân lực là nguồn lực quan trọng, có tính chất quyết định đến
sự thành bại của tổ chức. Bất kể một tổ chức nào dù mạnh hay yếu thì yếu
tố con người vẫn là yếu tố đầu tiên và cơ bản nhất. Trước xu thế toàn cầu
hóa hiện nay, các thay đổi là cần thiết trong lực lượng lao động của mỗi

6


quốc gia nhằm định hướng, giúp cho các nhà hoạch định chính sách, các
doanh nhân thấy được và định hướng sự phát triển nguồn nhân lực của mình

và từ đó đáp ứng các cơ hội và thách thức do hội nhập quốc tế mang lại.
1.1.1.2. Thị trường lao động
Sức lao động được xem là một loại hàng hoá đặc biệt. Để loại “hàng
hoá” này lưu thông, trao đổi cần có thị trường, đó chính là thị trường lao
động. Thị trường lao động không chỉ là nơi giải quyết nhu cầu của người
“mua” và người “bán” mà còn là một trong những yếu tố quan trọng để phát
triển nguồn nhân lực.
- Khái niệm thị trường lao động: Lao động, trong kinh tế học, được
hiểu là một yếu tố sản xuất do con người tạo ra và là một dạng dịch vụ hay
hàng hóa. Người có nhu cầu về hàng hóa này là người sản xuất. Còn người
cung cấp hàng hóa này là người lao động. Như mọi hàng hóa và dịch vụ
khác, lao động được trao đổi trên thị trường, gọi là thị trường lao động. Thị
trường lao động là nơi cung và cầu về lao động gặp nhau. Ngày nay, ở các
nước có nền kinh tế chuyển đổi, song song với việc mở rộng tự do kinh
doanh, phát triển thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường vốn và chứng
khoán, thì thị trường lao động cũng đang được hình thành.
Có nhiều khái niệm về thị trường lao động, mỗi một thị trường lao
động lại có những đặc điểm riêng của mình. Nói đến “thị trường lao động”,
trong các ấn phẩm khoa học và các phương tiện thông tin đại chúng có thể
thấy có những cách diễn đạt khác nhau như: “thị trường lao động”, “thị
trường sức lao động”, “thị trường dân số tích cực kinh tế”, “thị trường
nguồn nhân lực”…
Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì: “Thị trường lao động là thị
trường trong đó có các dịch vụ lao động được mua và bán thông qua quá
trình để xác định mức độ có việc làm của lao động, cũng như mức độ tiền
công”. Khái niệm này nhấn mạnh đến các dịch vụ lao động được xác định

7



thông qua việc làm được trả công.
Khái niệm “thị trường lao động” có nhiều cách hiểu do xuất phát từ
chính tính đa dạng và sự đặc biệt của bản thân thị trường lao động. Mỗi khái
niệm nêu trên đều có những khía cạnh đúng, nhưng theo quan điểm của
chúng tôi, các phương pháp tiếp cận nêu trên cần có những điều chỉnh, bổ
sung cần thiết dựa vào những gì thị trường lao động tồn tại và nó hoạt động
trong bối cảnh không gian nào để hiểu rõ hơn về sự hình thành và phát triển
của thị trường lao động trong nền kinh tế đang chuyển đổi mạnh mẽ sang
quan hệ thị trường.
Thống nhất quan điểm với tác giả Phạm Đức Chính, chúng tôi cho
rằng: Khái niệm “thị trường lao động” mà nhà khoa học kinh tế Nga Kostin
Leonit Alecxeevich đưa ra là tương đối đầy đủ: “Thị trường lao động là một
cơ chế hoạt động tương hỗ giữa người sử dụng lao động và người lao động
trong một không gian kinh tế xác định, thể hiện những quan hệ kinh tế và
pháp lý giữa họ với nhau”. Hay nói chi tiết hơn, thị trường lao động là tập
hợp những quan hệ kinh tế, pháp lý, xuất hiện giữa người sở hữu sức lao
động (người lao động) và người sử dụng nó (người thuê lao động) về vấn đề
chỗ làm việc cụ thể, nơi và hàng hóa và dịch vụ sẽ được làm ra. Quá trình
sử dụng sức lao động, lao động sẽ được hình thành trong sản xuất chứ
không phải trên thị trường.
- Bản chất của thị trường lao động: Thị trường nói chung và thị
trường lao động nói riêng là một khái niệm rất tổng hợp, nhưng thường
được xác định rất cụ thể đối tượng mua và bán. Đối tượng mua và bán của
thị trường lao động là “lao động”, hoặc “sức lao động”. Nhà kinh tế người
Mỹ Ronald Erenberg và Robert Smith khẳng định: trên thị trường lao động
được mua và bán “dịch vụ lao động”.
Trong nền kinh tế thị trường, sức lao động là một loại hàng hóa,
được mua, được bán, có giá cả, giá trị và giá trị sử dụng. Nhưng loại hàng

8



này có những đặc điểm: Khi mua và bán giá trị của hàng hóa được thanh
toán, còn giá trị sử dụng được trưng tập, mặt hàng đó được chuyển thành sở
hữu của người mua. Tuy nhiên, người chủ sở hữu sức lao động vẫn là chủ
sở hữu sức lao động của mình, sức lao động không bị tách rời và không thể
bị tách rời. Vì vậy có hai loại ý kiến về vấn đề này. Một là, các nhà nghiên
cứu theo lý thuyết kinh tế thị trường của C.Mác thì cho rằng, trên thị trường
lao động chỉ có mua và bán sức lao động. Hai là, các nhà kinh tế theo
trường phái “tổng hợp tân cổ điển hiện đại” đưa ra những khái niệm khác
nhau về vấn đề này là sức lao động không bán được, mà là bán dịch vụ lao
động; sức lao động không bán được, mà được cho thuê trong điều kiện các
bên cùng có lợi; sức lao động không bán được, mà chỉ bán quyền sử dụng
nó.
Khái niệm “sức lao động” liên quan tới không chỉ một người, mà cả
cộng đồng người lao động. Cộng đồng đó khác hẳn với nguồn nhân lực và
dân số tích cực kinh tế không chỉ về bản chất, mà cả về định lượng. Sức lao
động chỉ là một phần của nguồn lao động, mà chính phần này được bán
trong thị trường lao động (hay còn gọi là lao động làm thuê), nếu xét về mặt
định lượng thì ít hơn phần dân số tích cực kinh tế ở các nước phát triển,
phần lao động làm thuê chiếm khoảng 80-85% dân số tích cực kinh tế,
phần còn lại là các nhà doanh nghiệp, chủ ngân hàng, chủ trang trại và
những người hoạt động lao động cá thể.
Trên thị trường lao động, đối tượng để xem xét mua và bán là chỗ
làm việc xác định, những điều kiện lao động kèm theo và tiền công được
đặt ra, và cuối cùng là xác định người nào vào chỗ làm việc đó, vấn đề sẽ
được người thuê lao động quyết định. Khi đó người thuê lao động luôn có
thể không chấp nhận hoặc sa thải bất kỳ người công nhân nào mà anh ta
cảm thấy không có lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Vì vậy,
người công nhân về mặt kinh tế luôn phải phụ thuộc vào ông chủ, tức là


9


không có sự bình đẳng nào ở đây cả.
Vì lao động không thể trở thành hiện thực, nếu không có sức lao
động và muốn sức lao động được thực hiện, thì phải có lao động. Lao động,
đó là một quá trình tạo ra của cải vật chất và tinh thần, cùng các loại dịch
vụ. Quá trình này được bắt đầu sau khi sự giao dịch trên thị trường lao động
đã được ký kết, quan hệ thị trường kết thúc và quá trình sản xuất được bắt
đầu. Để trở thành hàng hóa thì đối tượng phải có sẵn trước khi bán, nhưng
đối với lao động thì lại không diễn ra như vậy. Khi bán thì hàng hóa sẽ
chuyển từ người bán sang người mua. Với lao động, chúng ta cũng không
thấy sự chuyển đổi này. Vì vậy, quan điểm cho rằng, trên thị trường lao
động được bán chính bản thân “lao động” là không chính xác hay nói cách
khác là không có cơ sở khoa học. Trong tuyên bố Philadelphia - một phần
cấu thành của điều lệ ILO-cũng đã viết, “Hội nghị một lần nữa khẳng định
những nguyên tắc cơ bản, mà ILO đã dựa vào đó để ra tuyên bố rằng, lao
động không phải là hàng hóa”.
Xuất phát từ quan điểm, đối tượng mua và bán trên thị trường lao
động là “sức lao động”, vì vậy, nếu xét về phương diện lý thuyết thì thị
trường đó phải được gọi là “thị trường sức lao động”. Nhưng trên thực tế,
trong các văn bản chính thống của ILO, cũng như ở nhiều nước phát triển
và ở Việt Nam thường được dùng tên gọi “thị trường lao động”, do đó để
thống nhất cách gọi, ở đây thuật ngữ “thị trường lao động” được dùng như
là một khái niệm đồng nhất với “thị trường sức lao động”.
Thị trường lao động là biểu hiện kinh tế - xã hội phức tạp. Tại đó
hàng ngày có tới hàng chục ngàn người lao động và thuê lao động (hoặc đại
diện của họ) gặp nhau và tác động ảnh hưởng lẫn nhau. Những quyết định
của họ phụ thuộc không chỉ vào các yếu tố khách quan, mà còn rất nhiều

yếu tố chủ quan. Những yếu tố cơ bản của thị trường lao động là: cầu sức
lao động; cung sức lao động; giá cả của sức lao động (tiền lương); cạnh

10


tranh trên thị trường lao động; cơ sở hạ tầng của thị trường lao động.
Thị trường lao động bao gồm những chủ thể sau: Những người thuê
lao động (người mua) và đại diện của họ; những người làm thuê (người
bán) và đại diện của họ; nhà nước và các đại diện của mình; các tổ chức môi
giới trung gian.
Một quan điểm khác về bản chất của thị trường lạo động đang gây
tranh cãi lớn là: Thị trường lao động bao gồm cả “thị trường chỗ làm việc”,
là sự thống nhất biện chứng của hai thị trường: chỗ làm việc và sức lao
động. Tuy nhiên dễ thấy là: Chỗ làm việc thì không thể bán được và cũng
không có giá cả, đó chỉ là một phần không thể tách rời của thị trường sức
lao động, nếu không có nó thì người thuê lao động không thể thuê công
nhân được. Hay nói cách khác, sức lao động là chủ thể của việc làm, còn
chỗ làm việc - là đối tượng của việc làm.
- Những đặc trưng của thị trường lao động: Thị trường lao động,
cũng giống như loại thị trường khác, cũng có những nguyên tắc và cơ chế
hoạt động, nổi bật là quan hệ cung-cầu là phương Tuy nhiên, thị trường lao
động có những đặc trung gắn với tính chất và những đặc thù của quá trình
tái sản xuất sức lao động, chủ yếu là:
+ Không tách rời quyền sở hữu hàng hóa (sức lao động) khỏi chủ sở
hữu. Trên thị trường lao động, người mua chỉ có quyền sử dụng và làm chủ
từng phần khả năng lao động - sức lao động, trong một khoảng thời gian
nhất định. Người mua không đơn giản là mua sức lao động như những loại
hàng hóa khác, mà có quan hệ với người có những quyền hạn nhất định như
một cá nhân tự do mà anh ta phải tuân thủ. Nếu vi phạm những quyền hạn

đó, người mua phải chịu trách nhiệm pháp lý và có thể có những tổn thất về
kinh tế. Người mua này được gọi là người thuê lao động (người sử dụng lao
động);
+ Giữa người bán và người mua có trách nhiệm phối hợp hành động

11


với nhau tương đối dài so với thị trường hàng hóa, lương thực và thực
phẩm. Điểm này đặt một dấu ấn trong mối quan hệ tương hỗ hai bên và
đóng một vai trò không ít quan trọng trong khả năng cạnh tranh của công ty.
Người lao động, với tư cách là một cá thể, có thể tự kiểm soát chất lượng
công việc của mình với những nỗ lực khác nhau, thể hiện mức độ trung thực
khác nhau với công ty đã thuê họ. Người thuê phải tính đến những yếu tố đó
để quản lý sản xuất, nghĩa là phải xây dựng một cơ chế đãi ngộ, kích thích,
tạo động lực đối với người lao động một cách phù hợp như: điều kiện làm
việc, tiền lương, tiền thưởng và các phúc lợi xã hội khác;
+ Tồn tại những cấu trúc, thể chế loại đặc biệt (hệ thống pháp luật
phân nhánh, những chương trình kinh tế-xã hội, dịch vụ việc làm các tổ
chức công đoàn, liên hiệp hội các nhà doanh nghiệp...) sinh ra đặc thù quan
hệ giữa các chủ thể của thị trường lao động. Vì vậy, cần phải thể chế hóa
thật chi tiết mọi hướng hoạt động của họ;
+ Chất lượng lao động ở từng người lao động có khác nhau theo giới
tính, tuổi tác, thể lực, trí tuệ, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ công tác, động
lực làm việc... Vì vậy, mức độ cá thể hóa cao khi ký kết giao kèo, gắn với
trình độ chuyên môn khác nhau của sức lao động, sự đa dạng của công nghệ
và tổ chức lao động, nên việc đánh giá chất lượng lao động khi tuyển dụng,
trả công phù hợp cho từng người gặp nhiều khó khăn và phức tạp;
+ Nhiều điểm độc đáo trong trao đổi sức lao động so với trao đổi
hàng hóa vật chất. Quá trình trao đổi hàng hóa vật chất được bắt đầu trong

lĩnh vực lưu thông, còn quyền sử dụng khả năng lao động được chuyển sang
người mua theo những gì đã được ấn định trong hợp đồng hay thoả ước tập
thể. Quá trình trao đổi được tiếp tục trong sản xuất dưới hình thức trao đổi
sức lao động đang hoạt động, lao động thực tế thành lương danh nghĩa và
kết thúc trong lĩnh vực lưu thông của cải vật chất, có nghĩa là trên thị trường
hàng hóa và dịch vụ được trao đổi lương danh nghĩa thành phương tiện

12


sống. Việc trao đổi hàng hóa vật chất được bắt đầu và kết thúc trong lĩnh
vực lưu thông hàng hóa vật chất. Từ đặc điểm này đưa đến 2 kết quả: thứ
nhất, thị trường lao động liên kết xung quanh mình các thị trường khác
nhau; thứ hai, tiền công lao động thực tế được thực hiện tương ứng với kết
quả cuối cùng, có nghĩa là với giá sản phẩm mà lao động đó làm ra. Điểm
này đặt cầu sức lao động phụ thuộc vào cầu hàng hóa và dịch vụ cuối cùng.
+ Đối với người lao động, vấn đề quan trọng không chỉ là tiền công
và tiền lương, mà còn là nội dung và điều kiện lao động, bảo đảm duy trì
chỗ làm việc, tương lai công việc và triển vọng thăng tiến trong nghề
nghiệp, bầu không khí làm việc trong tập thể và quan hệ giữa người lao
động với người thuê lao động...
1.1.2. Nguồn nhân lực ngành Du lịch
1.1.2.1. Các khái niệm cơ bản về Du lịch:
Du lịch là một ngành kinh tế có tốc độ phát triển nhanh chóng và
mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu. Từ chỗ ban đầu là hoạt động mang tính tâm
linh của giới quý tộc, tầng lớp thượng lưu, đến nay du lịch đã trở thành một
hiện tượng phổ biến và là nhu cầu không thể thiếu trong đời sống của mọi
người dân. Du lịch phát triển góp phần tăng nguồn thu ngoại tệ cho các
quốc gia và giải quyết nhiều công ăn việc làm cho xã hội; thúc đẩy sự phát
triển của các ngành có liên quan như xây dựng, thương mại, sản xuất hàng

tiêu dùng, bảo hiểm, giao thông vận tải, bưu chính - viễn thông... Hiện nay,
hằng năm trên toàn cầu trung bình có trên 900 triệu lượt người đi du lịch.
Con số này sẽ đạt hơn 1 tỉ vào năm 2010 và 1,6 tỉ vào năm 2020, trong đó
60% dòng khách đi du lịch có mục đích tìm hiểu nền văn hóa khác so với
nền văn hóa nơi họ sinh sống. Theo thống kê của Tổ chức Du lịch thế giới
(UNWTO) năm 2008, lượng khách du lịch quốc tế trên toàn cầu đạt 922
triệu, du lịch toàn cầu đã đem lại nguồn thu tới 944 tỉ USD, tạo việc làm
cho trên 300 triệu người [55]. Du lịch đã trở thành ngành kinh tế quan trọng

13


bậc nhất thế giới, xuất khẩu du lịch chiếm khoảng 30% xuất khẩu dịch vụ
thương mại thế giới và 6% tổng xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. “Với tư
cách là ngành xuất khẩu, hiện nay du lịch đã vươn lên đứng vị trí thứ 4 sau
ngành nhiên liệu, hoá dầu và sản xuất ô-tô” [21, Tr 5-6].
Vì hiệu quả to lớn đó, nhiều nước trên thế giới đã chọn Du lịch là
ngành ưu tiên phát triển số 1 trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
mình. Hội nghị Bộ trưởng Du lịch thế giới năm 1994 tại Osaka (Nhật Bản)
đã khẳng định: “Du lịch là nguồn lớn nhất tạo ra GDP và việc làm của thế
giới, chiếm tới 1/10 mỗi loại, đồng thời đầu tư cho Du lịch và các khoản thu
từ thuế liên quan tới Du lịch tương ứng cũng tăng cao. Những sự gia tăng
này cùng với các chỉ tiêu khác của Du lịch dự đoán sẽ tiếp tục tăng trưởng
một cách vững chắc và như vậy Du lịch sẽ là đầu tàu kéo nển kinh tế thế
giới trong thế kỷ 21”.
Mặc dù hoạt động du lịch có nguồn gốc hình thành từ lâu và phát
triển với tốc độ rất nhanh, nhưng khái niệm “du lịch” lại được hiểu rất khác
nhau, như Giáo sư, Tiến sỹ Berneker nhận định “Đối với du lịch, có bao
nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu định nghĩa”[31, Tr 6]. Lý do chính
của hiện tượng này là mãi đến thế kỷ thứ 19, du lịch mới trở thành một hiện

tượng đại chúng nên khoa học du lịch ra đời muộn hơn so với một số ngành
khoa học khác; tồn tại nhiều cách tiếp cận khác nhau của các tác giả và do
tính chất đặc thù của hoạt động du lịch.
Thuật ngữ Du lịch trong ngôn ngữ nhiều nước bắt nguồn từ tiếng Hy
Lạp với ý nghĩa đi một vòng. Thuật ngữ này được La tinh hoá thành tornus
và sau đó thành tourisme (tiếng Pháp), tourism (tiếng Anh) [40, tr 6-7].
Cho đến nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm Du lịch,
có những tác giả tập trung giải thích du lịch như một hiện tượng di chuyển,
lưu trú ngoài nơi cư trú thường xuyên; nhóm khác lại tập trung vào bản thân
du khách và khía cạnh kinh tế của Du lịch.

14


Giáo sư, tiến sĩ Hunziker và giáo sư, tiến sĩ Krapf – Hai người được
coi là đặt nền móng cho cho lý thuyết về cung du lịch đưa ra định nghĩa như
sau: “Du lịch là tập hợp các mối quan hệ và các hiện tượng phát sinh trong
các cuộc hành trình và lưu trú của những người ngoài địa phương, nếu việc
lưu trú đó không thành cư trú thường xuyên và không dính dáng đến hoạt
động kiếm lời” [31, tr 13].
Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO), một tổ chức thuộc Liên Hiệp
Quốc, đưa ra định nghĩa: “Du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động của những
người du hành, tạm trú, trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu,
trải nghiệm hoặc trong mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như mục
đích hành nghề và những mục đích khác nữa, trong thời gian liên tục nhưng
không quá một năm, ở bên ngoài môi trường sống định cư; nhưng loại trừ
các du hành mà có mục đích chính là làm tiền. Du lịch cũng là một dạng
nghỉ ngơi năng động trong môi trường sống khác hẳn nơi định cư.”
Hội nghị quốc tế về du lịch và lữ hành được tổ chức ở Ottawa,
Canada vào tháng 6/1991 đã thống nhất đưa ra định nghĩa về du lịch như

sau: “Du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động của những người du hành, tạm
trú, với mục đích tham quan, khám phá hoặc với mục đích nghỉ ngơi, giải
trí, thư giãn; cũng như mục đích kinh doanh và những mục đích khác nữa,
trong thời gian liên tục nhưng không quá một năm, ở bên ngoài môi trường
sống định cư.”
Ngành Du lịch Việt Nam có lịch sử phát triển 50 năm, nhưng chỉ thực
sự phát triển nhanh vào những năm đầu của thập kỷ 90 của thế kỷ trước.
Nếu so sánh với các ngành kinh tế khác, Du lịch được xếp vào một trong
những ngành mới. Do đó, hệ thống các thuật ngữ, khái niệm cơ bản của
ngành Du lịch chỉ mới được chuẩn hoá trong thời gian gần đây.
Trước khi Luật Du lịch được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam thông qua năm 2005, ở nước ta khái niệm “du lịch” cũng

15


được hiểu theo nhiều cách khác nhau, tuỳ thuộc cách tiếp cận mỗi tác giả.
Từ khi có Luật Du lịch, khái niệm du lịch ở nước ta được sử dụng tương đối
thống nhất theo cách giải thích thuật ngữ của Luật. Luật Du lịch giải thích
khái niệm du lịch như sau: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến
chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp
ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng
thời gian nhất định” [22. tr, 10].
Đây là một định nghĩa súc tích, mang tính khái quát, bao hàm được
cả 2 khía cạnh cơ bản của du lịch là chuyến đi ngoài nơi cư trú với mục đích
tham quan nghỉ dưỡng và các hoạt động liên quan đến chuyến đi đó. Do
vậy, Luận án chọn cách định nghĩa này của Luật Du lịch.
Luật Du lịch cũng giải thích một số thuật ngữ liên quan khác của Du
lịch như sau [22. tr, 10-11]:
- Hoạt động du lịch: Là hoạt động của khách du lịch, tổ chức, cá nhân

kinh doanh du lịch, cộng đồng dân cư và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên
quan đến du lịch.
- Tài nguyên du lịch: Là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di
tích lịch sử - văn hoá, công trình lao động sáng tạo của con người với các
giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là
yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô
thị du lịch.
- Tham quan: Là hoạt động của khách du lịch trong ngày tới thăm nơi
có tài nguyên du lịch với mục đích tìm hiểu, thưởng thức những giá trị của
tài nguyên du lịch.
- Sản phẩm du lịch: Là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thoả mãn nhu
cầu của khách du lịch trong chuyến đi.
- Dịch vụ du lịch: Là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận
chuyển, lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, thông tin hướng dẫn và những

16


dịch vụ khác nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.
1.1.2.2. Nguồn nhân lực ngành Du lịch:
- Khái niệm:
Trong hoạt động du lịch, từ phía “cung du lịch” có nhiều thành phần
tham gia vào hoạt động phục vụ khách du lịch là:
+ Tại các đầu mối giao thông: Một loạt các hoạt động phục vụ khách
du lịch đi qua bằng phương tiện giao thông đường hàng không, đường bộ,
đường sắt, đường biển để đến điểm du lịch của họ được tổ chức tại hệ thống
cơ sở vật chất kỹ thuật đặc thù như: sân bay, nhà ga, mạng lưới đường xá,
cảng, các kho nhiên liệu, các phương tiện máy móc và sửa chữa,… Các dịch
vụ và phương tiện phục vụ khách du lịch bao gồm: nhà hàng, quầy bar, cơ
sở lưu trú, ngân hàng, viễn thông, các cửa hàng bán lẻ, của hàng sách…, và

hoạt động của một số cơ quan quản lý nhà nước liên quan đến phục vụ
khách du lịch như: biên phòng, xuất nhập cảnh, hải quan cũng được tổ chức
tại đây.
+ Tại điểm đến du lịch:
a) Hoạt động của các doanh nghiệp phục vụ du lịch tuyến trước hay
các doanh nghiệp có giao dịch trực tiếp với du khách bao gồm: Dịch vụ lưu
trú - khách sạn, nhà nghỉ, khu nghỉ mát; dịch vụ ăn uống - nhà hàng, quán
Bar; dịch vụ vui chơi giải trí - các phương tiện thể thao, rạp hát, sòng bạc,
công viên giải trí, viện bảo tàng, các sự kiện và hoạt động lễ hội; dịch vụ lữ
hành, vận chuyển-các hãng lữ hành, phòng bán vé hàng không, xe tuyến,
tàu hỏa, tàu thủy, taxi, xe cho thuê.
b) Hoạt động của các doanh nghiệp và dịch vụ hỗ trợ du lịch tuyến
sau bao gồm các doanh nghiệp cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho các doanh
nghiệp phục vụ du lịch tuyến trước như: công ty xây dựng, kiến trúc, công
ty quảng cáo, công ty bia rượu, nước giải khát, công ty phát hành thẻ tín
dụng, công ty vận tải, thương mại bán buôn, bán lẻ hàng hóa, vệ sinh môi

17


trường, cung cấp điện , nước, kỹ thuật, sức khỏe, y tế…
c) Hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành có liên
quan đến hoạch định chính sách, điều hành, kiểm soát, quản lý các dịch vụ
phục vụ du lịch như: cơ quan cấp phép, đăng ký kinh doanh, cơ quan bảo
đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội, cơ quan quản lý rừng quốc gia, bảo tồn
thiên nhiên, cơ quan quản lý văn hóa…
d) Hoạt động của cộng đồng dân cư liên quan đến phục vụ du lịch,
như: các gia đình, cá nhân, các tổ chức cộng đồng của dân tộc ít người
tham gia quá trình phục vụ khách du lịch một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
e) Hoạt động của các đơn vị đào tạo cung cấp nguồn nhân lực cho các

doanh nghiệp du lịch tuyến trước và tuyến sau.
Như vậy, xét một cách tổng quát, nguồn nhân lực ngành Du lịch bao
gồm toàn bộ lực lượng lao động trực tiếp và gián tiếp liên quan đến quá
trình phục vụ khách du lịch. Do đó, khi đề cập đến khái niệm nguồn nhân
lực ngành Du lịch thì không chỉ đề cập đến các lao động nghiệp vụ phục vụ
khách một cách trực tiếp mà còn cả các lao động ở cấp độ quản lý, lao động
làm công tác đào tạo và các lao động gián tiếp khác phục vụ khách du lịch.
Căn cứ vào mối liên hệ với đối tượng lao động (khách du lịch), lao động du
lịch được chia thành hai nhóm: lao động trực tiếp và lao động gián tiếp. Lao
động trực tiếp bao gồm những công việc trực tiếp phục vụ khách du lịch
như trong khách sạn, nhà hàng, lữ hành, các cửa hàng bán lẻ phục vụ khách
du lịch, cơ quan quản lý du lịch,… Lao động gián tiếp bao gồm những công
việc cung ứng, hỗ trợ cho các hoạt động trực tiếp phục vụ khách du lịch
như: cung ứng thực phẩm cho khách sạn nhà hàng, cung ứng hàng hoá cho
các cửa hàng bán lẻ phục vụ khách du lịch, các dịch vụ của Chính phủ hỗ
trợ phát triển du lịch, đào tạo nhân lực du lịch, xây dựng khách sạn, sản xuất
máy bay, các trang thiết bị phục vụ khách du lịch… Tất nhiên các lao động
trực tiếp phục vụ khách du lịch bao giờ cũng có ảnh hưởng trực tiếp và lớn

18


nhất đến chất lượng dịch vụ, từ đó đến chất lượng sản phẩm du lịch.
Từ những phân tích trên, nguồn nhân lực ngành Du lịch được hiểu là
lực lượng lao động tham gia vào quá trình phát triển du lịch, bao gồm lao
động trực tiếp và lao động gián tiếp.
Trong phạm vi nghiên cứu của Luận án này chỉ đề cập đến lực lượng
lao động trực tiếp trong ngành Du lịch.
- Vai trò và đặc điểm của nguồn nhân lực ngành Du lịch: Lực lượng
lao động trong ngành Du lịch được chia thành 3 nhóm với những vai trò

khác nhau:
a) Nhóm lao động chức năng quản lý nhà nước về du lịch, nhóm này
có vai trò quan trọng trong việc xây dựng chiến lược phát triển du lịch của
quốc gia và từng địa phương, tham mưu hoạch định chính sách phát triển du
lịch. Họ đại diện cho Nhà nước để hướng dẫn, giúp đỡ tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp du lịch kinh doanh có hiệu quả; khiểm tra, giám sát các hoạt
động kinh doanh.
b) Nhóm lao động chức năng sự nghiệp ngành Du lịch. Đây là bộ
phận có trình độ học vấn cao, có kiến thức chuyên sâu về ngành Du lịch, có
chức năng đào tạo, nghiên cứu khoa học về du lịch và có vai trò to lớn trong
việc phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch, tác động lớn đến chất lượng
và số lượng của nguồn nhân lực ngành Du lịch hiện tại và trong tương lai.
c) Nhóm lao động chức năng kinh doanh. Nhóm lao động này chiếm
số lượng đông đảo nhất trong hoạt động của ngành Du lịch và cần được
nghiên cứu kỹ lưỡng nhất.
Nhóm lao động chức năng kinh doanh có một số đặc điểm riêng là:
+ Cơ cấu độ tuổi trẻ, tỷ lệ lao động nữ cao hơn so với lao động nam:
xuất phát từ tính đặc thù của ngành Du lịch đòi hỏi phải có lực lượng lao
động có sức khoẻ, trẻ trung và nhanh nhẹn, nên hình thành lực lượng lao
động có cơ cấu độ tuổi trẻ. Nhiều lĩnh vực phục vụ khách du lịch như lễ tân,

19


bàn, bar, buồng đòi hỏi có sự duyên dáng, cẩn thận và khéo léo của người
phụ nữ, vì vậy tỷ lệ lao động nữ thường cao hơn lao động nam.
+ Không đồng đều về chất lượng và cơ cấu: Có sự phân bố không
đồng đều theo lãnh thổ và các nghiệp vụ du lịch. Xuất phát từ tính định
hướng tài nguyên rõ nét của ngành Du lịch, các hoạt động du lịch thường
diễn ra tại các khu, điểm du lịch, những nơi có nhiều tài nguyên du lịch và

được đầu tư đồng bộ về hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật ngành, vì vậy phần
lớn lao động đã qua đào tạo đều làm việc tại những khu du lịch, trung tâm
du lịch lớn, ở những khu vực còn lại thường thiếu lao động.
Trong ngành Du lịch có nhiều công việc với yêu cầu lao động giản
đơn, không đòi hỏi phải đào tạo ở trình độ cao mới thể hiện được, dẫn đến
tình trạng tỷ lệ lao động chưa tốt nghiệp phổ thông trung học khá cao.
Ngược lại, ở những bộ phận tiếp xúc trực tiếp với khách du lịch, đội ngũ lao
động thường được trang bị đầy đủ các kỹ năng về chuyên môn nghiệp vụ,
giao tiếp và tỷ lệ thông thạo ngoại ngữ tương đối cao.
+ Có sự biến động mạnh về số lượng theo thời gian trong năm: Do
ảnh hưởng của tính thời vụ du lịch các hoạt động du lịch thường diễn ra sôi
động trong một thời gian nhất định của năm (còn gọi là mùa cao điểm), vào
thời điểm cao điểm của mùa du lịch, các doanh nghiệp du lịch thường phải
tuyển dụng thêm các lao động thời vụ để đáp ứng nhu cầu kinh doanh, phục
vụ khách của mình. Đến mùa thấp điểm, doanh nghiệp du lịch chấm dứt
hợp đồng lao động với những lao động thời vụ.
Lực lượng lao động làm việc trực tiếp trong các doanh nghiệp du lịch
lại được chia thành 4 nhóm cơ bản với vai trò và đặc trưng khác nhau trong
quá trình hoạt động kinh doanh du lịch:
a) Nhóm lao động chức năng quản lý chung: Nhóm này gồm những
người đứng đầu các đơn vị kinh tế cơ sở (doanh nghiệp kinh doanh khách
sạn, hãng lữ hành du lịch, vận chuyển du lịch, là tổng giám đốc, giám đốc,

20


phó giám đốc hoặc các chức danh tương đương). Lao động của người lãnh
đạo trong lĩnh vực kinh doanh du lịch có những điểm riêng biệt, bởi đối
tượng, công cụ và sản phẩm lao động của họ có tính đặc thù, thể hiện:
- Là loại lao động trí óc đặc biệt: Trong quá trình ra quyết định và tổ

chức thực hiện quyết định thể hiện rõ nét nhất đặc điểm lao động trí óc của
người lãnh đạo trong lĩnh vực kinh doanh du lịch.
- Là loại lao động tổng hợp: Với tư cách là một nhà chuyên môn, lao
động của lãnh đạo là lao động của người tìm kiếm nhân tài, sử dụng người
giỏi, tổ chức và điều hành công việc một cách trôi chảy cho mục đích kinh
doanh có hiệu quả cao. Với tư cách là nhà hoạt động xã hội, người lãnh đạo
trong kinh doanh du lịch còn tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội khác
trong đơn vị và theo yêu cầu của địa phương, ngành và đất nước (các tổ
chức đoàn thể quần chúng, các hiệp hội khoa học, kinh tế, kinh doanh,
chính trị, thể thao, văn hoá...).
Những đặc điểm trên đòi hỏi người lãnh đạo phải được đào tạo chu
đáo, bài bản, có bằng cấp quản lý và quản lý du lịch.
b) Nhóm lao động chức năng quản lý theo các nghiệp vụ kinh tế:
Nhóm này bao gồm lao động thuộc phòng kế hoạch đầu tư và phát triển;
lao động thuộc phòng tài chính-kế toán (hoặc phòng kinh tế); lao động
thuộc phòng vật tư thiết bị, phòng tổng hợp; lao động thuộc phòng quản lý
nhân sự... Nhiệm vụ chính của lao động thuộc các bộ phận này là tổ chức
hạch toán kinh doanh, tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp, tổ chức lao
động, tổ chức các hoạt động kinh doanh, hoạch định quy mô và tốc độ
phát triển doanh nghiệp. Lao động thuộc nhóm này có khả năng phân tích
các vấn đề, đang hoặc sắp xảy ra trong doanh nghiệp của mình, các tác động
của các biến số vĩ mô của nền kinh tế, ảnh hưởng tới nhiệm vụ của mình
hoặc doanh nghiệp. Họ phải có khả năng “tổng hợp” tốt, việc “phân tích” tình
hình và nghiệp vụ của mỗi lao động không giống nhau, nhưng kết quả cuối

21


cùng của việc “phân tích” đó phải cung cấp được “thông tin” cho lãnh đạo xử
lý và đề ra được quyết định quản lý đúng đắn trong kinh doanh. Do đó, để có

được những thông tin này, mỗi lao động thuộc các bộ phận quản lý chức năng
đồng thời phải có khả năng biết “tổng hợp” vấn đề. Bản tổng hợp vấn đề đòi
hỏi phải chính xác, có giá trị thực tiễn và có thể dùng để tham mưu cho lãnh
đạo. Lao động quản lý chức năng phải được đào tạo theo đúng chuyên ngành
và có những kiến thức, hiểu biết về các lĩnh vực kinh doanh du lịch.
c) Nhóm lao động chức năng đảm bảo điều kiện kinh doanh của
doanh nghiệp du lịch: Lao động thuộc nhóm này gồm nhân viên thường
trực bảo vệ; nhân viên làm vệ sinh môi trường; nhân viên phụ trách công tác
sửa chữa điện nước; nhân viên cung ứng hàng hoá; nhân viên tạp vụ... trong
các công ty, khách sạn hoặc các doanh nghiệp kinh doanh du lịch. Họ không
trực tiếp cung cấp sản phẩm và dịch vụ cho du khách. Nhiệm vụ chính của
họ là cung cấp những nhu yếu phẩm, phương tiện làm việc cho những lao
động thuộc các bộ phận khác của doanh nghiệp. Doanh nghiệp đòi hỏi bộ
phận lao động này phải luôn trong tình trạng sẵn sàng nhận và hoàn thành
nhiệm vụ; có những quyết định kịp thời, giải quyết tốt mọi công việc hàng
ngày cũng như những việc đột xuất; năng động và linh hoạt trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ.
d) Nhóm lao động trực tiếp cung cấp dịch vụ cho khách: Đây là
những lao động trực tiếp tham gia vào quá trình kinh doanh du lịch, trực
tiếp cung cấp dịch vụ và phục vụ cho du khách. Nhóm lao động này rất
đông đảo, thuộc nhiều ngành nghề khác nhau và đòi hỏi phải tinh thông
nghề nghiệp. Trong khách sạn có lao động thuộc nghề lễ tân; nghề buồng;
nghề chế biến món ăn; nghề bàn và pha chế đồ uống; Trong kinh doanh lữ
hành có lao động làm công tác điều hành chương trình du lịch, marketing
du lịch và đặc biệt có lao động thuộc nghề hướng dẫn du lịch... Trong ngành
vận chuyển khách du lịch có lao động thuộc nghề điều khiển phương tiện

22



vận chuyển du lịch... Các nghề trên lại được chi tiết hoá thành từng việc cụ
thể, phân công cho từng chức danh nghề nghiệp khác nhau và số lượng tuỳ
theo quy mô của các doanh nghiệp mà có thể thêm bớt lao động ở các vị trí,
hoặc bố trí một người kiêm nhiều việc.
Kinh doanh du lịch là chủ yếu nhằm cung cấp các dịch vụ và giải
quyết các mối quan hệ giữa con người với con người, nên đòi hỏi nhân viên
phải có các kỹ năng giao tiếp, sự thân thiện và hình thức hấp dẫn... Đặc biệt,
một số công việc trong ngành khách sạn và nhà hàng tương tự như các hoạt
động nội trợ trong gia đình. Do các đặc điểm này, lực lượng phụ nữ tham
gia lao động trong ngành Du lịch thường chiếm tỷ trọng cao.
Ngoài ra, kinh doanh du lịch nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của
du khách về nhiều loại hàng hoá, dịch vụ mang tính chất đơn lẻ hoặc tổng
hợp (như các tour du lịch trọn gói), ở bất cứ địa điểm nào và vào bất kỳ thời
gian nào. Các đặc điểm sản phẩm và tiêu dùng du lịch này tạo ra nhiều loại
công việc có thể thu hút sự tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp của nhiều loại,
nhiều bộ phận lao động trong xã hội. Do đó, càng làm tăng khả năng cung
(về số lượng) lao động du lịch trên thị trường và sự tham gia lao động trong
ngành Du lịch là rất cao. Vấn đề này có ý nghĩa rất lớn đối với các nước
kém phát triển, vì các nước này có nguồn lao động dồi dào và dân số trong
độ tuổi lao động nhưng lại có trình độ chuyên môn thấp.
1.2. Phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch
1.2.1. Khái niệm:
Thuật ngữ phát triển nguồn nhân lực gắn liền với sự hoàn thiện, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, được thể hiện ở việc nâng cao trình độ giáo
dục quốc dân, trình độ kỹ thuật, chuyên môn, sức khoẻ và thể lực cũng như ý
thức, đạo đức của nguồn nhân lực.
Con người muốn tồn tại và phát triển cần phải được thỏa mãn những
nhu cầu thiết yếu về sản phẩm vật chất và tinh thần. Muốn sản xuất, con

23



người phải có cơ sở nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính, nguồn lực công
nghệ... và hợp thành các nguồn lực cho sự phát triển, trong đó nguồn lực con
người là yếu tố cách mạng nhất và động nhất. Để có được những sản phẩm
đó con người phải tiến hành sản xuất ra chúng. Chính bởi vậy, bản thân con
người trở thành mục tiêu của sự phát triển. Nhu cầu con người ngày càng
phong phú về số lượng và nâng cao về chất lượng thì sản xuất càng được cải
tiến để tạo ra những sản phẩm phù hợp. Để thực hiện được việc đó, nguồn
nhân lực phải được phát triển. Nguồn lực con người như vậy không chỉ là đối
tượng mà còn là động lực của sự phát triển.
Con người được xem là nguồn lực căn bản và có tính quyết định của
mọi thời đại. Trong các cách để tạo ra năng lực cạnh tranh, thì lợi thế thông
qua con người được xem là yếu tố căn bản. Nguồn lực nhân lực là yếu tố
bền vững và khó thay đổi nhất trong mọi tổ chức.
Phát triển nguồn nhân lực là tổng thể các hình thức, phương pháp,
chính sách và biện pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn
phát triển, nhất là trong bối cảnh dân số, lao động và kinh tế của nước ta [3.
Tr 85].
Phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch là tổng thể các hình thức,
phương pháp, chính sách và biện pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất
lượng cho nguồn nhân lực (trí tuệ, thể chất và phẩm chất tâm lý – xã hội) làm
gia tăng số lượng và điều chỉnh cơ cấu nguồn nhân lực ngành Du lịch cho
phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và phát triển du lịch trong
từng giai đoạn phát triển.
Phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch bao hàm quá trình đào tạo
nhân lực về kiến thức chung liên quan đến nghề nghiệp, kiến thức nghề
nghiệp, kỹ năng nghề nghiệp, văn hóa và sức khỏe nghề nghiệp.
1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực ngành Du


24


lịch:
- Trình độ phát triển kinh tế và phát triển du lịch: Trình độ phát triển
kinh tế tạo nên nền tảng vật chất để giải quyết các vấn đề về nguồn nhân
lực. Ở những quốc gia có trình độ kinh tế phát triển cao, mặt bằng chung
của đời sống nhân dân và các thiết chế xã hội đạt mức cao, Nhà nước có
điều kiện đầu tư giải quyết tốt vấn đề giáo dục, đào tạo ngồn nhân lực, các
chính sách xã hội, do vậy chất lượng nguồn nhân lực cũng được nâng cao.
Trình độ phát triển kinh tế cũng ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển
du lịch và đến lượt mình, trình độ phát triển du lịch sẽ quyết định đến số
lượng, chất lượng và xu thế phát triển của nguồn nhân lực ngành Du lịch.
- Trình độ phát triển của giáo dục đào tạo: Giáo dục đào tạo là yếu tố
cấu thành quan trọng của phát triển nguồn nhân lực; chất lượng của giáo
dục đào tạo ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nguồn nhân lực, thông qua
giáo dục đào tạo các quốc gia hình thành nguồn nhân lực của mình với trình
độ đào tạo, cơ cấu ngành nghề phù hợp với yêu cầu phát triển. Trình độ phát
triển của đào tạo du lịch ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của nguồn nhân
lực ngành Du lịch.
- Tốc độ gia tăng dân số: Ở những nước đang phát triển, quy mô dân
số lớn, tốc độ gia tăng cao chính là lực cản đối với tốc độ tăng trưởng kinh
tế và phát triển nguồn nhân lực. Tốc độ gia tăng dân số cao gây sức ép lên
các cơ sở hạ tầng xã hội, ảnh hưởng đến việc hoạch định các chính sách xã
hội của nhà nước, trong đó có chính sách về giáo dục đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cần hạ thấp tỷ lệ
phát triển dân số ở mức hợp lý.
- Các chính sách kinh tế - xã hội vĩ mô: Các chính sách kinh tế - xã
hội vĩ mô của Nhà nước như chính sách giáo dục đào tạo; chính sách tuyển

dụng, sử dụng lao động, lao động tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao
động... đều có tác động trực tiếp đến nguồn nhân lực.

25


×