Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Giao thoa văn hóa vật thể giữa các tộc người ở trà vinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 125 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
----------

LÂM THỊ HỒNG NHỦ

GIAO THOA VĂN HÓA VẬT THỂ GIỮA CÁC TỘC
NGƢỜI Ở TỈNH TRÀ VINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ ỨNG DỤNG

Hà Nội – 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
----------

LÂM THỊ HỒNG NHỦ

GIAO THOA VĂN HÓA VẬT THỂ GIỮA CÁC TỘC
NGƢỜI Ở TỈNH TRÀ VINH
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam (theo chương trình ứng dụng)
Mã số: 60.22.03.13
LỜI CAM ĐOAN

LUẬN VĂN THẠC SĨ ỨNG DỤNG

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
được trích dẫn trong luận văn là trung thực. Các tư liệu được trích dẫn đúng quy
định. Công trình nghiên cứu này chưa từng được ai công bố trong bất kỳ một công


trình nào NGƯỜI
khác. HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Lê Hiến Chƣơng
Tác giả luận văn

Hà Nội – 2017
Lâm Thị Hồng Nhủ
1


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy, cô đã giảng dạy và hướng
dẫn thực hiện đề tài khoa học này, trong thời gian tôi được đào tạo Cao học tại
Trường Đại học Trà Vinh. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu và Phòng Sau
đại học -Trường Đại học Trà Vinh, Bảo tàng Khmer tỉnh Trà Vinh, Thư viện tỉnh
Trà Vinh đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi học tập và làm luận văn. Tôi xin bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Lê Hiến Chương đã tận tình hướng dẫn, khuyến khích
tôi trong quá trình thực hiện luận văn. Tôi không quên cảm ơn gia đình, bạn bè và
đồng nghiệp đã luôn giúp đỡ, động viên để tôi hoàn thành luận văn này.
Trà Vinh, tháng 2/2017

Lâm Thị Hồng Nhủ

2


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

Trang

4

1. Lý do chọn đề tài

4

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

5

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

10

4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu

11

5. Đóng góp của luận văn

12

6. Cấu trúc luận văn

12

Chƣơng 1: LÝ LUẬN VỀ GIAO THOA VĂN HÓA

14


1.1. Khái niệm văn hóa

14

1.2. Khái niệm giao thoa văn hóa và quá trình giao thoa, tiếp biến văn hóa
của cộng đồng cư dân trên địa bàn tỉnh Trà Vinh.
1.3. Dân tộc và tộc người

18

Chƣơng 2: KHÁI QUÁT VỀ TỈNH TRÀ VINH

25

2.1. Điều kiện tự nhiên

25

2.2. Quá trình hình thành và phát triển

27

2.3. Cư dân và truyền thống

31

Chƣơng 3: BIỂU HIỆN GIAO THOA VĂN HÓA VẬT THỂ GIỮA
NGƢỜI KINH, KHMER, HOA Ở TRÀ VINH
3.1. Kiến trúc


46

3.2. Loại hình cư trú

69

3.3. Ẩm thực

83

Chƣơng 4: CÁC YẾU TỐ DẪN ĐẾN GIAO THOA VĂN HÓA VẬT
THỂ GIỮA NGƢỜI KINH, KHMER, HOA Ở TRÀ VINH
4.1. Cội nguồn lịch sử văn hóa

106

4.2. Quá trình cộng cư lâu dài

108

4.3. Quan hệ hôn nhân

110

4.3. Chính sách của Nhà nước đối với các dân tộc thiểu số

111

KẾT LUẬN


115

TÀI LIỆU THAM KHẢO

119

3

20

46

106


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trên thế giới, các dân tộc không sống biệt lập mà sống trong mối quan hệ
qua lại nhiều chiều với nhau. Cùng với sự phát triển của lịch sử, mối quan hệ giữa
các dân tộc ngày càng trở nên phong phú, đa dạng. Trên cơ sở nhận thức các dân
tộc không sống biệt lập, văn hóa dân tộc bao giờ cũng mang tính chất mở, một dân
tộc mà không có giao lưu văn hóa thì sẽ khô cằn, tàn lụi và sẽ biến mất khỏi vũ đài
lịch sử. Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, công nghệ; với sự bùng
nổ của hệ thống thông tin đại chúng, của tin học... thì sự giao thoa văn hóa vật thể
giữa các dân tộc là nhu cầu cấp thiết.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Mỗi dân tộc đều có những giá trị văn
hóa đặc sắc, góp phần tạo nên nền văn hóa Việt Nam vừa thống nhất, vừa đa dạng.
Trong quá trình khai phá vùng đất mới – vùng đất màu mỡ ở đồng bằng sông Cửu
Long, chắc chắn có công sức của nhiều tộc người thuộc các ngữ hệ Nam Á, Nam
Đảo. Chính họ đã tạo nền tảng văn hóa dân tộc ngày nay, nhưng phải nói rằng từ

thế kỉ XVII trở lại đây, khi người Việt, người Khmer, người Hoa đoàn tụ trong một
đại gia đình Việt Nam thì việc phát triển về kinh tế, xã hội và văn hóa ở đồng bằng
sông Cửu Long nói chung và Trà Vinh nói riêng mới được đẩy mạnh.
Trà Vinh – một tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long, là vùng đất
tụ họp dân tứ xứ, nhưng do hoàn cảnh lịch sử, kinh tế và điều kiện tự nhiên mà ba
tộc người chính: Việt, Hoa, Khmer sinh sống ở đây tự điều chỉnh, biến đổi phù hợp
với sinh hoạt, cách nghĩ của mình. Người Kinh chiếm 69%, người Khmer chiếm
29%, người Hoa và số ít người Chăm chiếm phần còn lại. Chính bởi do nhiều thế
kỷ cộng cư với nhau trên một địa bàn nên quá trình đồng văn cũng là một quá trình
phát triển xã hội vận động theo quy luật chung của các tỉnh đồng bằng sông Cửu
Long. Sự giao lưu và tiếp biến văn hóa đó thể hiện rất rõ trong nhiều thành tố văn
hóa dân gian của ba dân tộc Kinh- Khmer- Hoa ở Trà Vinh.
Trong quá trình cộng cư này các tộc người ở Trà Vinh đã tạo thành một sức
mạnh tổng hợp to lớn trong việc khắc phục và chế ngự những thiên tai địch họa,
4


xây dựng xóm làng, làm cho vùng đất này trước kia chỉ là rừng rậm hoang vu,
nhiễm phèn, đầm lầy nê địa đã trở thành một vùng đất trù phú, đem lại một nguồn
lợi to lớn từ thiên nhiên, đất hoang dần dần thu hẹp, xóm làng mọc lên, và đời sống
kinh tế ngày càng được nâng cao.
Cùng với sự phát triển của xã hội, giao lưu văn hoá các dân tộc là vấn đề có
tính lịch sử không chỉ riêng gì ở Việt Nam mà còn diễn ra phổ biến ở các quốc gia,
các dân tộc khác, khi nhân loại ngày càng đang tìm cách xích lại gần nhau, học hỏi
lẫn nhau trong xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá cũng như là sự phát triển của khoa
học kỹ thuật và công nghệ. Đây là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng, đòi hỏi
không riêng gì ở các nhà quản lý xã hội mà còn là trách nhiệm đặt trên đôi vai của
những nhà nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn.
Trong xu thế hội nhập văn hóa giữa các tộc người sinh sống trên đất nước
Việt Nam và hội nhập theo hướng toàn cầu hóa giữa Việt Nam và quốc tế giới khoa

học rất cần những công trình nghiên cứu trường hợp nhằm phân tích sâu từng đặc
điểm cũng như các bình diện của giao lưu văn hóa tộc người trên từng địa vực cụ
thể, nhất là ở Trà Vinh – một tỉnh có quá trình giao lưu văn hóa mạnh mẽ giữa 3
tộc người diễn ra mấy thế kỷ qua, đồng thời góp phần làm phong phú thêm nền lịch
sử văn hóa của dân tộc Việt Nam, vừa mang tính nhân văn vừa mang tính xã hội
sâu sắc và đó cũng là một trong những hướng phát triển du lịch Việt Nam đưa văn
hoá Việt Nam ra bên ngoài mà ta đã thấy. Xuất phát từ những lý do nêu trên nên tác
giả quyết định chọn và đi sâu tìm hiểu về: “Giao thoa văn hóa vật thể giữa các
tộc người ở Trà Vinh làm luận văn thạc sĩ.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề giao thoa văn hóa giữa các tộc người ở Việt Nam đã từ đâu được các
nhà khoa học đặc biệt quan tâm nghiên cứu. Trước hết phải kể đến công trình của Lê
Văn Hảo (1979): “Tìm hiểu quan hệ giao lưu văn hóa Việt – Chàm qua kho tàng văn
nghệ dân gian của người Việt và người Chàm” [29]. Ở bài viết này, tác giả đã phân
tích khá sâu sắc quan hệ giao lưu văn hóa Việt – Chàm qua âm nhạc dân gian, và qua
các câu chuyện kể dân gian.
5


Năm 1993, Phan Thị Yến Tuyết có công trình: “Nhà ở - trang phục – ăn uống
của các dân tộc vùng đồng bằng sông Cửu Long” [61]. Trong bài viết này, tác giả đã
nêu khá chi tiết những dạng thức văn hóa vật chất như nhà ở, trang phục, ăn uống
của các dân tộc, trong đó có người Việt, Khmer, Hoa. Các dạng thức này không tồn
tại độc lập mà nó luôn phản ánh, liên kết hỗn tương với những yếu tố tinh thần và xã
hội. Những dạng thức văn hóa ấy vừa thể hiện được đặc trưng văn hóa của từng tộc
người, vừa mang tính chất chung nhất do giao tiếp văn hóa giữa các dân tộc trong
quá trình cùng cộng cư với nhau ở vùng sông nước Cửu Long.
Trong công trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước năm 1993, mã số
KX.04.12, “Luận cứ khoa học cho việc xác định chính sách đối với cộng đồng người
Khmer và người Hoa ở Việt Nam” [5] do Phan Xuân Biên chủ nhiệm đã nêu ra các

chính sách đặc thù, phù hợp với những tín ngưỡng, phong tục, tập quán của đồng
bào dân tộc thiểu số, vừa bảo tồn và phát huy những sắc thái văn hóa độc đáo của
từng dân tộc, vừa đảm bảo tính thống nhất của nền văn hóa Việt Nam.
Trên tạp chí Nghiên cứu Đông Nam, Châu Thị Hải (1996) có bài viết: “Diễn
biến địa lý và lịch sử trong quá trình tiếp xúc và giao lưu văn hóa Việt - Hoa” [266]
đã chỉ ra những con đường mà yếu tố Trung Hoa đi vào Việt Nam. Bất kể bằng con
đường nào thì sự giao thoa văn hóa vẫn biểu hiện phong phú trong các lĩnh lực ăn ở,
mặc, phong tuc, tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng, ngôn ngữ, văn tự, kiến trúc, điêu
khắc, hội họa.
Phạm Đức Dương, Châu Thị Hải (1998):“Bước đầu tìm hiểu sự tiếp xúc và
giao lưu văn hóa Việt Hoa trong lịch sử” [17]. Đề tài được sự tham gia của một số
cán bộ nghiên cứu trong và ngoài Viện, đã đề cập tới nhiều khía cạnh của vấn đề.
Trong đó có nhiều bài đã tập trung tìm hiểu vai trò của người Trung Hoa trong việc
chuyển tải văn hóa ở Việt Nam, nêu rõ những đặc điểm của sự hội nhập văn hóa Việt
– Hoa và những biểu hiện cụ thể của sự hội nhập đó trên các lĩnh vực văn hóa, kiến
trúc, nghệ thuật tạo hình, trong sự phát triển các ngành nghề thủ công.
Huỳnh Lứa với công trình: Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thể kỉ
XVII, XVIII, XIX (2000) [38] và Vũ Minh Giang (chủ biên) với công trình Lược sử
6


vùng đất Nam Bộ Việt Nam (2008) [23] đã khẳng định Nam Bộ là một bộ phận
không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam. Các công trình này miêu tả khá hoàn
chỉnh về cuộc sống của cộng đồng cư dân Nam Bộ và mối quan hệ đoàn kết, giao
thoa văn hóa giữa các dân tộc Việt, Hoa, Khmer, Chăm cùng các dân tộc ít người
khác.
Đàng Năng Hòa (2001), với bài viết “Nhìn lại giao lưu văn hóa Chăm - Việt
qua âm nhạc dân gian”[32], qua tìm hiểu và so sánh đã phân tích khá cụ thể những
nét tương đồng và gần gũi về âm nhạc giữa hai dân tộc.
Luận văn của Trần Hạnh Minh Phương (2003), “Giao lưu văn hóa Việt- Hoa

qua các cơ sở tín ngưỡng – tôn giáo của người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh” [44]
đã phân tích cụ thể những biểu hiện của văn hóa Việt qua các tín ngưỡng – tôn giáo
Hoa (chùa, quán, nhà thờ, hội thánh), cũng như ảnh hưởng của giao lưu văn hóa Việt
– Hoa đối với các hoạt động tại các cơ sở tín ngưỡng – tôn giáo Hoa.
Năm 2011, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí
Minh đã tổ chức Hội thảo Khoa học: “Cộng đồng dân tộc Khmer trong quá trình
phát triển và hội nhập”.Trong kỉ yếu này có hơn 20 bài viết của nhiều tác giả khác
nhau như: Nguyễn Thanh Luân, Võ Thị Mỹ: “Người Khmer và những tương đồng
văn hóa các dân tộc đồng bằng sông Cửu Long” [38], Đinh Lưu Giang: “Một số
đặc điểm của song ngữ Khmer – Việt vùng Nam Bộ” [22]. Các bài viết này là nguồn
tư liệu quý giá, giúp tác giả nhận diện bản sắc văn hóa riêng của từng tộc người,
cũng như giao thoa và tiếp biến văn hóa giữa các dân tộc.
Trên tạp chí Khoa học và Công nghệ, Huỳnh Ngọc Thu (2011) có bài viết:
“Giao lưu tiếp biến văn hóa ở cộng đồng đa dân tộc (Việt, Khmer, Hoa) tại xã Bình
An, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang” [62]. Ở công trình này, tác giả đã phân tích
cụ thể những biểu hiện mang tính văn hóa chung của ba dân tộc được biết đến trong
phương thức sản xuất nông nghiệp, nghề thủ công, buôn bán; những biểu hiện mang
tính biến đổi văn hóa được biết đến qua nghi lễ vòng đời người và những biểu hiện
trong văn hóa vật chất và những biểu hiện mang tính hội tụ trong sinh hoạt văn hóa
cộng đồng được biết đến qua các lễ hội, các yếu tố tôn giáo – tín ngưỡng và phong
7


tục tập quán. Còn Lương Thị Hạnh có công trình:“Giao thoa văn hóa giữa các tộc
người Tày, Nùng, Kinh ở Bắc Cạn” [27]. Bài viết đã trình bày sự giao thoa văn hóa
giữa người Tày với người Nùng về trang phục, nhà ở, cách ăn uống , sinh hoạt văn
hóa tinh thần, ngôn ngữ; sự giao thoa văn hóa giữa người Tày với người Kinh về
ngôn ngữ, văn học nghệ thuật, tín ngưỡng.
Sách: “Ăn cơm mới, nói chuyện cũ: Hậu Giang- Ba Thắc chứng tích, nhân vật
đất đai, thủy thổ của miền Nam cũ” (2012) [51] của Vương Hồng Sển, cuốn sách

gồm 18 câu chuyện, đa phần được viết vào năm 1996. Qua các câu chuyện kể, chúng
ta hình dung ra được văn hóa cộng cư của các dân tộc sông tại đồng bằng sông Cửu
Long, trong đó có Trà Vinh.
Trần Hồng Liên (2012) với công trình: “Hội nhập và Giao lưu văn hóa của
người Hoa ở Việt Nam (trên lĩnh vực văn hóa, tín ngưỡng)” [33] đã làm rõ qua kiến
trúc trang trí, các thần linh được thờ tự, qua nghi lễ, lễ hội.
Bùi Xuân Đính trong sách “Các tộc người ở Việt Nam” (2012) [19] đã nêu ra
những yếu tố văn hóa vật thể và văn hóa tinh thần chủ yếu của các tộc người trên
lãnh thổ Việt Nam một cách khái quát, riêng ở vùng Nam Bộ tập trung vào bốn tộc
người Việt, Khmer, Hoa, Chăm.
Trần Phỏng Điều (2012) với bài viết “Sự giao thoa ngôn ngữ giữa các dân
tộc ở Nam Bộ” [18] đã làm rõ những từ mà tiếng Việt mượn có nguồn gốc Khmer,
những từ mà tiếng Việt mượn có nguồn gốc Quảng Đông, Triều Châu.
Năm 2013, Võ Văn Sen trong “Nam Bộ đất và người”( tập 9) [50], đã tập
hợp các bài viết các công trình nghiên cứu của Hội viên hội Khoa học Thành phố Hồ
Chí Minh và Hội Khoa học Lịch sử các tỉnh thành Nam Bộ qua đó đã làm sáng tỏ
được lịch sử, văn hóa, tộc người vùng đất Nam Bộ nói chung và Trà Vinh nói riêng.
Đinh Văn Liên (1985) với bài viết Giao lưu văn hóa giữa các dân tộc ở vùng
đồng bằng sông Cửu Long trong Mấy đặc điểm văn hóa đồng bằng sông Cửu Long
[34] đã chỉ ra được những giao lưu văn hóa của ba dân tộc Kinh, Khmer, Hoa trên
các phương diện sinh hoạt kinh tế, văn hóa vật chất, phong tục tập quán và văn hóa
tinh thần.
8


Trần Minh Thuận (2013) trong “Một số biểu hiện của sự giao lưu và tiếp xúc
văn hóa của cư dân vùng đồng bằng sông Cửu Long trong lịch sử” [56] tác giả đề
cập đến quá trình giao lưu văn hóa giữa người Việt, người Khmer, người Hoa: Người
Khmer đã chịu ảnh hưởng của phong tục thờ cúng tổ tiên. Họ cũng đặt ly hương,
chân đèn, mâm quả như người Việt, người Hoa và chưng bày bàn thờ Phật chung

với bàn thờ tổ tiên. Khảo sát dưới góc độ văn hóa chúng ta thấy sự tiếp xúc văn hóa
giữa người Hoa và người Việt diễn ra mạnh mẽ hơn so với giữa người Việt và người
Khmer.
Lê Thị Bé Hằng (2013) trong công trình “Giao lưu văn hóa Việt- Khmer ở
vùng đồng bằng sông Cửu Long (1975 -2000)” [30] nghiên cứu các khía cạnh về
biểu hiện của sự giao lưu văn hóa từ lịch sử tụ cư và cộng cư cũng như đặc điểm cư
trú, cơ sở kinh tế - xã hội của hai tộc người Việt và Khmer, đồng thời đi sâu tìm hiểu
và làm sáng tỏ về nét văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của hai tộc người này.
Qua đó, so sánh, đối chiếu những đặc trưng văn hóa tìm ra những nét tương đồng về
giao lưu văn hóa người Việt – Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Năm 2014, ba luận văn: Phan Văn Giàu: “Nghi lễ vòng đời của người Khmer
Vĩnh Long” [24], Võ Hải Minh: “Văn hóa ẩm thực của người Khmer Nam Bộ
(trường hợp tỉnh Vĩnh Long)” [40], Hồ Văn Minh: “Lễ cưới người Khmer Vĩnh
Long” [41]. Ba luận văn trên đã nêu chi tiết tính chất giao lưu và những biến đổi các
thành tố văn hóa như nghi lễ vòng đời người, ẩm thực, cũng như lễ cưới người
Khmer Vĩnh Long. Trên cơ sở đó giúp tác giả có hướng nghiên cứu sâu hơn về giao
thoa và biến đổi văn hóa giữa hai tộc người Việt – Khmer.
Gần đây nhất (2015) luận văn thạc sĩ của Sơn Quan: “Giao lưu văn hóa Việt
– Khmer ở huyện Vũng Liêm, tỉnh Sóc Trăng” [48] và luận văn thạc sĩ của Trương
Tú Nhân: “Giao lưu văn hóa Việt – Hoa- Khmer tại phường Vĩnh phước, thị xã Vĩnh
Châu, tỉnh Sóc Trăng” [44]. Hai công trình đã tập trung nghiên cứu sự giao lưu và
biến đổi văn hóa trên lĩnh vực văn hóa vật thể và phi vật thể như kiến trúc, trang
phục, ẩm thực,…tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục giữa hai dân tộc người Việt và
người Khmer ở huyện Vũng Liêm, tỉnh Sóc Trăng.
9


Từ những phân tích trên cho thấy vấn đề giao thoa, tiếp biến văn hóa giữa
các tộc người ở Việt Nam đã được các nhà khoa học đào sâu nghiên cứu từ rất lâu.
Tuy nhiên, theo tác giả nhận thấy, ở đồng bằng sông Cửu Long việc nghiên cứu

khía cạnh giao lưu tiếp biến văn hóa (đặc biệt là văn hóa vật thể) dưới tác động của
đô thị hóa chưa được nghiên cứu sâu đối với từng thành tố văn hóa, mà nghiên cứu
mang tính tổng thể chung, nhất là đối với Trà Vinh, một tỉnh đang trên chặng
đường mới của văn minh đô thị.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đề tài chủ yếu tìm hiểu trong phạm vi tỉnh Trà Vinh, giới hạn trong khoảng
thời gian từ 1986 đến nay. Vì tỉnh này là nơi tụ cư lâu đời của đông đảo cộng đồng
người Việt cũng như người Khmer, Hoa. Bên cạnh đó với việc tìm hiểu văn hóa
người Việt, Khmer, Hoa từ năm 1986 – nay, đây là giai đoạn có những dấu ấn cũng
như những biểu hiện rất rõ nét trong sự giao thoa văn hóa vật thể, góp phần làm
phong phú thêm lịch sử văn hóa Việt Nam.
Luận văn tìm hiểu một số vấn đề lý luận về giao lưu văn hóa, trong phần này
tác giả sẽ nêu một số khái niệm liên quan về giao thoa văn hóa như: khái niệm văn
hóa, giao thoa văn hóa, dân tộc và tộc người. Để thấy được giao thoa văn hóa luôn
có tính qui luật, là một tất yếu trong sự phát triển văn hóa dân tộc, là hiện tượng phổ
biến của lịch sử văn hóa nhân loại. Cũng như làm rõ một số vấn đề thực tiễn về
tổng quan tỉnh Trà Vinh, quá trình cộng cư của các dân tộc ở Trà Vinh.
Luận văn còn đi sâu tìm hiểu và làm sáng tỏ về nét văn hóa vật chất và văn
hóa tinh thần của các tộc người này. Qua đó, so sánh, đối chiếu những đặc trưng
văn hóa tìm ra những nét giao thoa văn hóa vật thể người Việt, Khmer, Hoa ở Trà
Vinh.
Tuy nhiên, việc phát huy tính thống nhất và tính đa dạng là hai yêu cầu bắt
buộc trong sự phát triển của nền văn hóa nước ta. Tính đa dạng yêu cầu phải bảo
tồn, khai thác và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc, tôn
trọng những sắc thái riêng trong văn hóa các dân tộc. Nhưng tính đa dạng phải được
đặt trong mối quan hệ với tính thống nhất, tính thống nhất được thể hiện ở những
10


giá trị chung giữa các dân tộc.

4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu và công bố các kết quả nghiên cứu, chúng tôi đã
tiếp cận lý thuyết về giao thoa và tiếp biến văn hóa để vận dụng vào việc nghiên
cứu mối quan hệ văn hóa giữa các tộc người ở Trà Vinh. Đồng thời, chúng tôi sử
dụng một số phương pháp chủ yếu sau:
Phương pháp lịch sử: được vận dụng làm rõ những sự kiện lịch sử cụ thể
phản ánh những giá trị văn hóa của các tộc người Khmer, Hoa từ thế kỉ XIX cho
đến nay sao cho đúng những gì nó đã diễn ra và tồn tại theo một thời gian xác định.
Phương pháp quan sát tham dự: tiến hành thăm dò, rà soát, quan sát và ghi
nhận về sự giao thoa và biến đổi các thành tố văn hóa có liên quan đến nội dung
khảo sát của luận văn ở địa bàn tỉnh Trà Vinh.
Phương pháp hệ thống cấu trúc: nhằm thiết lập một hệ thống cấu trúc cho
chuyên đề dựa trên nguồn dữ liệu liên quan với những đặc điểm văn hóa tộc người,
văn hóa thương mại và giao lưu tiếp biến văn hóa tại Trà Vinh.
Phương pháp phân tích tư liệu: phân tích nhiều nguồn tư liệu khác nhau để
tìm hiểu về lịch sử vấn đề nghiên cứu và tìm ra những hướng mới trong nghiên cứu
giao thoa văn hóa giữa các tộc người ở Trà Vinh.
Phương pháp điền dã dân tộc học: quan sát thực địa, ghi chép sưu tầm tư
liệu tại các huyện ở tỉnh Trà Vinh, phỏng vấn nhóm dân cư địa phương, phỏng vấn
các chuyên gia để bổ sung thêm tư liệu nghiên cứu.
Phương pháp so sánh: qua những tư liệu thu thập được, tác giả dùng phương
pháp so sánh, đối chiếu để tìm ra những nét tương đồng và khác biệt về văn hóa
truyền thống giữa các tộc người và những biến đổi văn hóa giữa các tộc người này
trong tiến trình công nghiệp hóa ở tỉnh Trà Vinh.
Bên cạnh đó, luận văn ít nhiều sử dụng các phương pháp liên ngành như văn
hóa học với nhân học, xã hội học, dân tộc học, đồng thời tác giả cũng đã tìm hiểu và
vận dụng khai thác đối chiếu trong một số khái niệm để làm rõ nội dung đề tài.

11



Trong quá trình nghiên cứu trong chúng sử dụng linh hoạt các phương pháp
trên, tùy mục đích cụ thể mà sẽ ưu tiên sử dụng phương pháp nào cho phù hợp.
5. Đóng góp của luận văn
Dân tộc Khmer, Hoa là 2 trong 54 dân tộc ở nước ta có nền văn hóa đặc sắc,
thể hiện trên nhiều lĩnh vực. Đặc biệt văn hóa Khmer hòa quyện chặt chẽ với tôn
giáo (Phật giáo tiểu thừa), và chính điều đó làm ảnh hưởng sâu rộng tới toàn bộ đời
sống vật chất và tinh thần của người dân Việt Nam. Người Khmer, Hoa Trà Vinh đã
có những đóng góp nhất định vào kho tàng văn hóa chung của người Việt – đồng
bằng sông Cửu Long nói chung và Trà Vinh nói riêng, những sắc thái được tiếp
nhận làm phong phú thêm nét bản sắc văn hóa người Việt. Đồng thời, người Khmer,
Hoa cũng tự tiếp nhận vào nền văn hóa của mình không ít yếu tố văn hóa của người
Việt, kiến trúc, loại hình cư trú, ẩm thực,...
Những giá trị văn hóa do dân tộc Khmer, Hoa cũng như những giá trị văn
hóa vật thể của người Việt ở Trà Vinh đã sáng tạo ra trong quá trình lịch sử vô cùng
đa dạng và phong phú, bao gồm cả văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể đã thể
hiện những bản sắc riêng trong mỗi nền văn hóa của mỗi dân tộc, những bản sắc
văn hóa riêng ấy được hòa quyện vào nhau tạo nên sư giao lưu, tiếp biến và giao
lưu trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc, đã làm phong phú thêm bản sắc văn hóa dân tộc.
Nghiên cứu về giao thoa văn hóa vật thể giữa các tộc người ở Trà Vinh từ
năm 1986 đến giai đoạn hiện nay, ngoài việc thể hiện ý thức giữ gìn những truyền
thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, bản thân còn có thêm nhiều nhận thức mới về
những nét mới trong văn hóa của các dân tộc Việt Nam mà điển hình là ở Trà Vinh.
Luận văn còn cung cấp kiến thức bao quát, bổ ích về lĩnh vực văn hóa dân tộc và ít
nhiều giúp cho công tác giảng dạy ở trường Phổ thông được tốt hơn.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn được cấu trúc với bốn chương cụ
thể như sau:
Chƣơng 1: Lý luận về giao thoa văn hóa: Trình bày một số vấn đề lý luận
chung về khái niệm văn hóa, giao thoa văn hóa, dân tộc và tộc người; một số vấn đề

12


thực tiễn về tổng quan tỉnh Trà Vinh, quá trình cộng cư của các dân tộc ở Trà Vinh.
Chƣơng II: Khái quát về tỉnh Trà Vinh: Trình bày một số vấn đề thực tiễn
về tổng quan tỉnh Trà Vinh, quá trình cộng cư của các dân tộc ở Trà Vinh.
Chƣơng 3: Biểu hiện giao thoa văn hóa vật thể giữa ngƣời Kinh. Khmer,
Hoa ở Trà Vinh: Phân tích những những biểu hiện giao thoa văn hóa vật thể như
kiến trúc, loại hình cư trú, ẩm thực.
Chƣơng 4: Những yếu tố tác động đến giao thoa văn hóa vật thể giữa các
tộc ngƣời ở Trà Vinh: Phân tích cội nguồn lịch sử văn hóa, quá trình cộng cư lâu
dài, quan hệ hôn nhân, chính sách của Nhà nước đối với các dân tộc thiểu số.

13


CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ GIAO THOA VĂN HÓA
1.1. Khái niệm văn hóa
Khái niệm văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều nét nghĩa
và cách hiểu khác nhau.Tùy theo lĩnh vực nghiên cứu các nhà khoa học có những
góc nhìn về văn hóa ở từng lĩnh vực khác nhau trong cách định nghĩa về văn hóa
theo hai nét nghĩa: nghĩa rộng hay nghĩa hẹp.
1.1.1. Văn hóa theo nghĩa rộng
Trong các định nghĩa khác nhau về văn hóa theo nghĩa rộng, các nhà khoa
học gặp nhau ở những điểm chung khái quát nhất đó là xem văn hóa là sản phẩm
của con người sáng tạo ra trong quá trình lao động và hoạt động thực tiễn trong
cuộc sống.
Nhà nhân loại học người Anh Edward Burnett Tylor (1832 – 1917) trong
công trình nghiên cứu – Văn hóa học là gì ? đã định nghĩa: Văn hóa là một tổng thể

phức hợp gồm kiến thức, đức tin, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, và bất
cứ những khả năng, tập quán nào mà con người thu nhận được với tư cách là một
thành viên của xã hội [76]. Theo định nghĩa này văn hóa là những gì mà văn hóa
bao hàm.
Nhà ngôn ngữ học người Mỹ Edward Sapir (1884 - 1939), Định nghĩa văn
hóa theo từ góc nhìn về quá trình kế thừa xã hội, truyền thống dựa trên quan điểm
về tính ổn định của văn hóa: Văn hóa chính là bản thân con người, cho dù là những
người hoang dã nhất sống trong một xã hội tiêu biểu cho một hệ thống phức hợp
của tập quán, cách ứng xử và quan điểm được bảo tồn theo truyền thống. [63]
Nhà xã hội học người Mỹ William Isaac Thomas (1863 - 1947), định nghĩa
văn hóa qua các quan niệm về giá trị, coi văn hóa là các giá trị vật chất và xã hội
của bất kỳ nhóm người nào (các thiết chế, tập tục, phản ứng cư xử,...) [63]
Nhà tâm lý học người Mỹ William Graham Sumner (1840 - 1910), nhấn
mạnh văn hóa ở quá trình thích nghi với môi trường, quá trình học hỏi, hình thành
thói quen, lối ứng xử của con người. Theo ông: Văn hóa là tổng thể những thích
14


nghi của con người với các điều kiện sinh sống của họ chính là văn hóa, hay văn
minh...Những sự thích nghi này được bảo đảm bằng con đường kết hợp những thủ
thuật như biến đổi, chọn lọc và truyền đạt bằng kế thừa.[73]
Nhìn chung những điểm khái quát về văn hóa của các nhà khoa học trên có
sự đồng nhất với khái niệm về văn hóa của Trần Ngọc Thêm, trong cuốn Tìm về bản
sắc văn hóa Việt Nam, cho rằng: Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật
chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực
tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của
mình.[52]
1.1.2. Văn hóa theo nghĩa hẹp
Theo Trần Ngọc Thêm trong Khái luận về văn hóa [54], văn hóa theo nghĩa
hẹp được hạn định ở các phương diện về chiều sâu hoặc chiều rộng, theo không

gian hoặc theo thời gian,…
- Giới hạn theo chiều sâu, văn hóa được hiểu là những giá trị tinh hoa của nó
(nếp sống văn hoá, văn hoá nghệ thuật…).
- Giới hạn theo chiều rộng, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị trong
từng lĩnh vực (văn hoá giao tiếp, văn hoá kinh doanh…).
- Giới hạn theo không gian, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị đặc thù
của từng vùng (văn hoá Tây Nguyên, văn hoá Nam Bộ…).
- Giới hạn theo thời gian, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị trong từng
giai đoạn (văn hoá Hoà Bình, văn hoá Đông Sơn…).
Nói chung văn hóa theo nghĩa hẹp là cái mà con người học được chứ không
phải kế thừa về mặt sinh học. Về phương diện này trong cách hiểu nôm na của tiếng
Việt văn hóa có các nghĩa như sau:
- Là trình độ học vấn của mỗi người. Trình văn hóa lớp 10/10 hay 10/ 12,…
- Là trình độ ứng xử giữa con người với con người (phép lịch sự). Ví dụ: ăn
nói có văn hóa, ăn mặc có văn hóa.
Tóm lại, văn hóa là tất cả những giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra trên cái nền của thế giới tự nhiên và phát triển trong mối quan hệ tương
15


tác giữa con người với con người trong xã hội. Và cũng chính văn hóa đã tạo nên
phần NGƯỜI của CON NGƯỜI để duy trì sự bền vững của xã hội. Văn hóa được
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được
tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người.
Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các
kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong giá
trị vật chất và tinh thần mà con người tạo ra.
1.1.3. Văn hóa hóa vật thể và văn hóa phi vật thể
Sản phẩm của con người bao gồm hai giá trị đó giá trị vật chất và giá trị tinh
thần.Vì vậy, văn hoá theo nghĩa rộng gồm cả văn hoá vật chất (văn hóa vật thể) và

văn hóa tinh thần (văn hóa phi vật chất hay văn hóa phi vật thể). Trong luận văn
này, người viết thống nhất gọi văn hóa vật chất là văn hóa vật thể và văn hóa tinh
thần là văn hóa phi vật thể.
1.1.3.1. Văn hóa vật thể
Văn hóa vật thể là một bộ phận của văn hóa nhân loại, thể hiện đời sống tinh
thần của con người dưới hình thức vật chất; là kết quả của hoạt động sáng tạo, biến
những vật và chất liệu trong thiên nhiên thành những đồ vật có giá trị sử dụng và
thẫm mĩ nhằm phục vụ cuộc sống con người. Chính vì vậy thuộc tính bản chất của
văn hóa thể hiện trước hết là ở tính thực tiễn.
Vật chất tồn tại trong thế giới tự nhiên đơn thuần chỉ là sản phẩm của tự
nhiên. Nhưng khi được con người sử dụng vật chất đó để phục vụ cho nhu cầu của
đời sống thì vật chất đó trở thành sản phẩm của con người hay sản phẩm văn hóa.
Một hòn đá ngoài tự nhiên là sản phẩm của tự nhiên. Nhưng nếu được con người
biết tận dụng những công năng từ những hình thù riêng biệt của hòn đá để phục vụ
cho nhu cầu sinh tồn của mình như sử dụng mặt vát nhẵn bóng để nghiền thức ăn,
mặt sắc, nhọn để làm dao cắt, làm rìu, làm cuốc thì hòn đá đó trở thành sản phẩm
của văn hóa.
Như vậy sản phẩm của văn hóa là những sản phẩm do ý chí của loài người
chế ngự tự nhiên hoặc bộ máy hoạt động của loài người điều khiển giới tự nhiên.
16


Sản phẩm văn hóa là đều do trí tuệ và bàn tay con người sáng tạo ra, con người là
tác giả sáng tạo văn hóa, là chủ thể của quá trình hoạt động lịch sử văn hóa.
Văn hóa vật thể là năng lực sáng tạo của con người được thể hiện và kết tinh
trong sản phẩm vật chất. Văn hóa vật thể tồn tại một cách hữu hình được con người
nhận biết một cách trực tiếp qua các giác quan (nhà cửa, cung điện, chùa chiền,
quần áo, các phương tiện,...).
Tóm lại, văn hóa vật thể là toàn bộ sản phẩm vật chất mà con người tạo ra
trong quá trình lao động sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất ăn, mặc, ở, đi lại,

công cụ sản xuất, phương tiện sản xuất… văn hóa vật thể nói lên trình độ phát triển
của con người trong lĩnh vực sản xuất vật chất, thể hiện trình độ chiếm lĩnh và khai
thác những vật thể trong tự nhiên.
Thông qua việc nghiên cứu về những giá trị văn hóa vật thể của một cộng
đồng dân tộc, một quốc gia cụ thể người ta thấy được trình độ phát triển văn hóa,
kinh tế, xã hội,…của một cộng đồng dân tộc, một quốc gia cụ thể.
1.1.3.2. Văn hoá phi vật thể
Văn hóa phi vật thể là tổng thể các giá trị được sáng tạo ra trong đời sống
tinh thần và hoạt động tinh thần của con người. Văn hóa tinh thần là những ý niệm,
tư tưởng, tín ngưỡng, phong tục, tập quán, giá trị chuẩn mực đạo đức, lối sống,
ngôn ngữ, nghệ thuật, lễ hội,...
Lĩnh vực văn hóa phi vật thể gồm các thành tố: văn hóa tư tưởng, văn hóa
giáo dục, văn hóa nghệ thuật, văn hóa lối sống, văn hóa lễ hội… Những thành tố
này có quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành nền tảng tinh thần xã hội.
Văn hóa tinh thần tồn tại trong trí nhớ, tư tưởng, chữ viết, các loại hình nghệ
thuật như văn học, âm nhạc, sân khấu,… qua truyền miệng, chữ viết, quá trình diễn
xướng dân gian,.. Giá trị văn hóa tinh thần tạo nên một hệ thống chi phối bởi trình
độ nhận thức của từng cá nhân trong cộng đồng.
Sự phân chia văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần mang tính quy ước, bởi
trong đời sống không có cái gì là thuần túy Vật chất hoặc Tinh thần.
Căn cứ vào mức độ mục đích sử dụng vật chất hay phi vật chất của đối tượng
17


văn hóa để phân biệt đối tượng đó thuộc về văn hóa vật thể hay văn hóa phi vật thể.
Những sản phẩm làm ra trước hết để phục vụ cho các nhu cầu vật chất như: ăn,
mặc, ở,… thì dù có giá trị nghệ thuật cao đến mức độ nào vẫn thuộc dạng văn hóa
vật thể. Những sản phẩm làm ra trước hết để phục vụ cho các nhu cầu tinh thần dù
có được vật chất hóa chúng vẫn thuộc dạng văn hoá phi vật thể. Ví dụ, một tác
phẩm văn học được in thành sách, một pho tượng, một bức tranh,… dùng để trang

trí trong phòng khách thì vẫn mang giá trị tinh thần hơn là giá trị vật chất.
Căn cứ vào hình thức lao động tạo ra sản phẩm xã hội thì người ta xếp hoạt
động sản xuất vật chất vào dạng văn hóa vật chất. Hình thức lao động này phải sử
dụng nhiều năng lực cơ bắp, mồ hôi… còn hoạt động sản xuất tinh thần được xếp
vào văn hóa tinh thần. Hình thức lao động này chủ yếu sử dụng năng lực trí tuệ.
Hai thành phần văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể có mối quan hệ mật
thiết với nhau.
1.2. Khái niệm giao thoa văn hóa
Nền văn hoá của bất cứ dân tộc nào, trong bất cứ thời kỳ lịch sử nào cũng
đồng thời có sự kế thừa, sử dụng những di sản của quá khứ và sáng tạo ra những giá
trị văn hoá mới trên cơ sở ý thức hệ tư tưởng của một hình thái xã hội nhất định
(công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến,…), một thời kỳ lịch sử nhất
định. Chính vì vậy mà văn hóa bao giờ cũng mang dấu ấn của lịch sử xã hội.
Văn hóa luôn có sự vận động, phát triển cùng với sự biến đổi của điều kiện
tự nhiên và sự phát triển của xã hội loài người. Điều kiện tự nhiên và điều kiện xã
hội là điều kiện lao động, sản xuất và sinh tồn của con người. Con người muốn tồn
tại trong thế giới tự nhiên và xã hội luôn biến động buộc con người phải có sự thay
đổi cách sống, cách làm việc, cách suy nghĩ,… để thích ứng.
Trong quá trình vận động và phát triển của văn hóa có những yếu tố mới của
tự nhiên và xã hội tác động đến con người. Ban đầu, con người khó có thể thích ứng
và hòa nhập đôi khi dẫn đến mâu thuẫn, xung đột gay gắt về giá trị vật chất và tinh
thần của cái cũ và cái mới, cái truyền thống và cái hiện đại, giữa văn hóa tộc người
này với văn hóa tộc người khác, giữa nền văn hóa này với nền văn hóa khác,…
18


Nhưng con người sau đó biết chấp nhận sự tồn tại của cái riêng biệt, cái khác biệt
của những giá trị văn hóa mới, của văn hóa tộc người này với văn hóa tộc người
khác, của nền văn hóa này với nền văn hóa khác. Từ việc biết chấp nhận sự tồn tại
hiển nhiên những giá trị văn hóa mới dẫn đến hiện tượng một cá nhân, một bộ phận

hay toàn thể tộc người này tiếp nhận, hòa hợp với những giá trị văn hóa khác biệt
của tộc người khác để tạo ra một lối sống văn hóa mới. Lối sống văn hóa mới này
làm cho giá trị văn hóa truyền thống của tộc người có sự pha trộn không còn thuần
chất dân tộc nhưng đâu đó vẫn còn giữ được những bản sắc văn hóa riêng biệt của
dân tộc của họ. Chính những bản sắc riêng biệt còn lưu giữ này đã làm cho tộc
người này có sự khác biệt với tộc người khác trên cùng một địa bàn cư trú mà
không làm cho dân tộc đó mất đi. Nghĩa là họ hòa nhập nhưng không hòa tan. Lối
sống hòa nhập văn hóa của tộc người này với lối sống văn hóa của tộc người khác
và ngược lại tạo ra một lối sống văn hóa mới của một tộc người góp phần làm cho
văn hóa tộc người trở nên phong phú, đa dạng, nhiều màu sắc. Đồng thời sự hòa
nhập lối sống văn hóa của các tộc người trên cùng một địa bàn cư trú cũng tạo nên
bản sắc văn hóa đặc trưng của cộng đồng cư dân vùng miền ấy.
Lối sống văn hóa tộc người này có sự tương tác với lối sống văn hóa của tộc
người khác hoặc sự tương tác hòa hợp của lối sống văn hóa của cộng đồng cư dân
sống trong cùng địa bàn cư trú lẫn nhau tạo ra lối sống văn hóa mới khác biệt với
văn hóa truyền thống của một tộc người cụ thể, tạo ra một lối sống văn hóa đặc
trưng riêng biệt của một cộng đồng cư dân cụ thể. Lối sống văn hóa mới này chính
là sản phẩm của quá trình giao thoa văn hóa.
Như vậy, giao thoa văn hóa là sự tương tác giữa các nền văn hóa (văn hóa
phương Đông, phương Tây,…), giữa các tộc người cùng sinh sống trong một quốc
gia (người Kinh, Khmer, Hoa, Mường, Tày,…), giữa những người cùng nhóm xã
hội (giữa giáo viên với giáo viên), giữa các nhóm xã hội khác nhau (tương tác giữa
một doanh nhân và một bác sĩ,…), giữa cá nhân người này với người khác trong
cùng vùng, miền, địa phương,… hoặc khác vùng miền, địa phương hay lãnh thổ
quốc gia,...
19


Nhìn chung khái niệm giao thoa văn hóa được hiểu theo hai nghĩa rộng, hẹp.
Nghĩa rộng: giao thoa văn hóa là quá trình tiếp xúc văn hóa ít nhất giữa hai tộc

người. Nghĩa hẹp: giao thoa văn hóa là hiện tượng ảnh hưởng của một nền văn hóa
này đến một nền văn hóa khác,... Quá trình tương tác, giao lưu văn hóa xảy ra hiện
tượng những yếu tố của nền văn hóa này xâm nhập vào nền văn hóa kia (tiếp thu
thụ động); hoặc nền văn hóa này vay mượn những yếu tố của nền văn hóa kia tiếp
thu chủ động ); rồi trên cơ sở những yếu tố nội sinh và ngoại sinh mà điều chỉnh, cải
biên cho phù hợp, gây ra sự giao thoa văn hóa.
Giao thoa văn hóa chính là sản phẩm của quá trình giao lưu - tiếp biến văn
hoá, là một hiện tượng thường xuyên xảy ra trong lịch sử nhân loại đối với bất cứ
cộng đồng và quốc gia nào muốn tồn tại và phát triển, quá trình này diễn ra từ quy
mô nhỏ giữa các tộc người khác nhau trên cùng một lãnh thổ quốc gia dân tộc cho
đến giữa các quốc gia khác nhau trên thế giới. Sự giao lưu đã tạo điều kiện cho việc
tiếp nhận những giá trị mới, trước hết là văn minh vật chất, những giá trị cũ, lạc hậu
dần dần bị mất đi, những nhân tố mới tích cực, theo hướng phát triển được hình
thành. Giao thoa văn hoá là một trong những nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy
quá trình phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc và của toàn nhân loại.
Trong quá trình tiếp biến và giao thoa văn hóa, dù bị áp đặt hay tự nguyện,
văn hóa Việt Nam nói chung cũng như văn hóa cư dân người Việt ở tỉnh Trà Vinh
không những giữ được bản sắc văn hóa của mình mà còn trở nên giàu đẹp thêm nhờ
biết tiếp thu và cải biến thành của mình(Việt hóa) nhiều yếu tố mới từ bên ngoài,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước qua các giai đoạn lịch
sử, đồng thời cũng phù hợp với hệ giá trị tinh thần cốt lõi của văn hóa dân tộc.
1.3. Dân tộc và tộc ngƣời
1.3.1. Dân tộc
Trong Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, xuất bản năm 1998, nghĩa
của từ “dân tộc” bao hàm hai nét nghĩa sau:
Theo nghĩa rộng, dân tộc là cộng đồng người hình thành trong lịch sử có
20


chung một lãnh thổ, các quan hệ kinh tế, một ngôn ngữ văn học và một số đặc trưng

văn hóa và tính cách. Dân tộc Việt Nam, dân tộc Nga,dân tộc Pháp,… Với hai nội
hàm nghĩa như trên cho thấy với khái niệm dân tộc ở cấp độ quốc gia (Nation) được
dùng để chỉ Dân tộc Việt Nam (tất cả những người là công dân Việt Nam, sinh sống
trên đất Việt Nam và Việt kiều ở nước ngoài)
Theo nghĩa hẹp, dân tộc là tên gọi chung những cộng đồng người cùng
chung một ngôn ngữ, lãnh thổ, đời sống kinh tế và văn hóa, hình thành trong lịch sử
từ sau bộ lạc. Việt Nam là một nước có nhiều dân tộc. Đoàn kết các dân tộc để cứu
nước. Cán bộ người dân tộc,… Với nghĩa này, dân tộc được dùng để chỉ các cộng
đồng tộc người cụ thể (Ethnic) như dân tộc Việt (Kinh), dân tộc Chăm, dân tộc Hoa,
dân tộc Ba Na, dân tộc Thái,...
Như vậy, dân tộc Việt Nam bao gồm nhiều tộc người khác nhau liên kết lại,
hay nói đúng hơn, dân tộc Việt Nam là khối đại đoàn kết của 54 dân tộc anh em
đang sinh sống hòa hợp, cùng nhau xây dựng, tồn tại, phát triển trong khối thống
nhất, đa dạng, đậm đà bản sắc Việt. Các thành phần dân tộc sống trên địa bàn tỉnh
Trà Vinh là một bộ phận của khối đại đoàn kết đó.
1.3.2.Tộc ngƣời
Theo Phan Hữu Dật: Tộc người là cộng đồng người hình thành trong lịch sử,
trên một lãnh thổ nhất định, cùng có chung những đặc điểm tương đối bền vững về
ngôn ngữ, văn hóa, tâm lý, ý thức sự thống nhất của mình và làm cho mình khác với
các tộc người khác, thông qua tên tự gọi. [14]
Theo nghĩa rộng tộc người là một cộng đồng người hình thành trong lịch sử.
Như vậy yếu tố cộng đồng người phải được xem xét ở góc độ nhân chủng học. Đây
là yếu tố nền tảng của việc xác định nguồn gốc tộc người. Căn cứ vào yếu tố này
chúng ta có thể xác định được các tộc người được sinh ra từ những bộ phận chủng
tộc nào, nguồn gốc tổ tiên của họ ở đâu và nhận biết qua hình thái đặc trưng bên
ngoài về vóc dáng, màu da, tóc, mũi, môi,… để xác định chủng tộc đó là chủng tộc
nào.
Tộc ngƣời theo nghĩa hẹp là: cộng đồng người cùng có chung những đặc
21



điểm tương đối bền vững về ngôn ngữ, văn hóa, tâm lý, ý thức sự thống nhất của
mình và làm cho mình khác với các tộc người khác, thông qua tên tự gọi.
Xét về yếu tố ngôn ngữ, tộc người có thể được hiểu là một cộng đồng người
có chung tiếng mẹ đẻ. Như vậy, tộc người tương đương với nhóm ngôn ngữ như
vậy mỗi tộc người có riêng một thứ ngôn ngữ để giao tiếp. Chữ viết, tiếng nói là
một tiêu chí quan trọng để xác định thành phần tộc người. Ngôn ngữ là tài sản
chung của tộc người, là phương tiện chuyển tải nền văn hoá của tộc người.
Xét về mặt văn hóa, tâm lý, ý thức trong sự thống nhất của cộng đồng tộc
người trong bản thân cá nhân tộc người đã làm cho cộng đồng mỗi tộc người có sự
khác biệt với các cộng đồng tộc người khác. Mỗi tộc người trong quá trình sinh tồn
đều sáng tạo ra cho mình những giá trị riêng để phù hợp với điều kiện tự nhiên và
xã hội. Trong quá trình lịch sử, giá trị ấy dần trở thành những truyền thống văn hoá
riêng cho dân tộc mình, trở thành tập quán, nếp sống, bản sắc độc đáo riêng của mỗi
dân tộc. Văn hoá tộc người được hình thành và phát triển trong mối quan hệ giữa
con người với môi trường tự nhiên, chính sự tác động qua lại giữa con người với tự
nhiên, tự nhiên với con người, con người với con người trong cộng đồng tộc người
là cái gốc của văn hóa tộc người [43, tr.33], điều đó tạo nên sự khác biệt về văn hóa
giữa tộc người này với tộc người khác. Chính vì vậy tâm lý, ý thức tự giác tộc người
thống nhất hình thành nên giá trị văn hóa của một tộc người đây chính là yếu tố cốt
lõi để định danh một tộc người.
Cũng xét về mặt tiêu chí trên để xác định để xác định tộc người còn cho thấy,
cùng một tộc người cư trú trên nhiều địa bàn, lãnh thổ khác nhau thì bản sắc văn
hóa của tộc người đó cũng có những sự khác biệt. Ví dụ, tộc người Khmer Trà Vinh
có những nét văn hóa khác biệt đôi chút với tộc người Khmer An giang; tộc người
Khmer Nam bộ có những nét văn hóa khác biệt so với tộc người Khmer
Campuchia,…
Từ khái niệm về tộc người được hiểu theo hai nghĩa rộng và hẹp cho ta cách
hiểu về tộc người như sau:
Tộc người là các khái niệm có tính lịch sử, bởi thế mỗi giai đoạn cụ thể có

22


thể nó sẽ được nhận thức thay đổi khác nhau.
Về nhân chủng học, một tộc người có thể không thuần chủng về chủng tộc
do quá trình lai phối giữa chủng tộc này với chủng tộc khác, giữa tộc người này với
tộc người khác. Một chủng tộc người cư trú trên nhiều địa bàn khác nhau về môi
trường tự nhiên, môi trường xã hội phát sinh ra nhiều tộc người khác nhau do chính
sự thích nghi tạo nên sự khác biệt về văn hóa tộc người. Một tộc người cư trú trên
nhiều địa bàn cư trú khác nhau sẽ có những bản sắc văn hóa khác nhau.
Trên thể giới có khoảng 3000 tộc người (ước tính) và trên 200 quốc gia. Vì
thế xét về mặt quốc gia và vùng lãnh thổ, một tộc người có thể cư trú trên nhiều
quốc gia, vùng lãnh thổ. Một quốc gia, vùng lãnh thổ có nhiều tộc người cư trú. Ví
dụ, tộc người Việt (Việt kiều) hiện cư trú trên nhiều quốc gia trên thế giới..; trong
khi đó trên đất chúng ta có rất nhiều tộc người Thái, người Hoa, người Khmer,…
sinh sống.
Về ngôn ngữ - tiếng nói, ngôn ngữ - tiếng nói của một tộc người có thể bị
mai một và mất đi, thay vào đó một tộc người có thể vay mượn ngôn ngữ, tiếng nói
của một hay nhiều hơn ngôn ngữ, tiếng nói của tộc người khác do nhu cầu giao tiếp
mang tính phổ thông chi phối (một bộ phận kiều bào của ta đang sống ở nước ngoài
mất dần tiếng mẹ đẻ). Một tộc người đánh mất ngôn ngữ, tiếng nói vô hình chung
đánh mất văn hóa tộc người dần dần có thể tộc người này bị đồng hóa và tự thân
biến mất và trở thành một tộc người khác không rõ định danh. Trên thực tế đã từng
có hiện tượng này mà cụ thể là một số tộc người ở Trung Quốc do bị Hán hóa.
Xét về mặt pháp lý, mỗi một tộc người cư trú trên một quốc gia đều có quyền
bình đẳng về kinh tế, chính trị, xã hội như nhau và có trách nhiệm nghĩa vụ với tư
cách là công dân của quốc gia đó.
Xét về ý thức tộc người, ý thức tộc người bao hàm sự tự khẳng định của cộng
đồng qua quá trình lịch sử gồm cộng đồng kí ức, cộng đồng hiện tại và cả cộng
đồng tương lai với những giá trị chính trị, đạo đức cùng khát vọng về sự phát triển.

Ý thức tộc người vừa hòa nhập tự nhiên vào đời sống tinh thần của cộng đồng vừa
có khả năng tạo ra khoảng cách để xác lập đời sống riêng của tộc người. Ý thức tộc
23


người, do vậy, là sản phẩm văn hoá đồng thời là điểm xuất phát của sáng tạo và gìn
giữ văn hoá tộc người. Ý thức tộc người là nhân tố trực tiếp làm nên tinh thần, cốt
cách của dân tộc. Đây là những yếu tố cơ bản dùng để xác định bản sắc văn hóa của
tộc người.
Trong quá trình vận động, các tộc người luôn có ý thức xây dựng, phát triển
đồng thời giữ gìn, bảo vệ nhà nước, dân tộc, kinh tế, văn hóa của cộng đồng mình.
Đó cũng chính là quá trình giữ gìn bản sắc của một hoặc nhiều cộng đồng tộc người
mà đại thể là tinh thần dân tộc. Thực tế cho thấy, việc giữ gìn tộc người trước hết là
giữ gìn tộc danh và ý thức về tộc người. Tức là những yếu tố thuộc lĩnh vực văn
hoá, dân tộc chứ chưa phải lĩnh vực nhà nước.
Các tộc người được phân bố xen kẽ với nhau trong phạm vi lãnh thổ quốc
gia, tộc người chiếm đa số về số lượng thường giữ vai trò chủ thể của nền văn hóa.

24


×