Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Phân tích và đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (817.65 KB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
--------------------------------------

NGUYỄN THỊ HẢI VÂN

PHÂN TÍCH VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP
NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG
TẠI NGÂN HÀNG No&PTNT CHI NHÁNH HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Chuyên ngành : Quản trị Kinh doanh

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC :
TS.PHẠM THỊ THU HÀ

Hà Nội – Năm 2011


Nguyễn Thị Hải Vân

Cao học: 2009 - 2011

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động của Ngân hàng thương mại Việt Nam trong những năm qua đã
có sự phát triển mạnh mẽ, góp phần thúc đẩy đà phát triển kinh tế của đất nước.
Hoạt động tín dụng trong ngân hàng thương mại nước ta đã và đang là
một trong những hoạt động kinh doanh chính đem lại nguồn thu chủ yếu cho các
Ngân hàng thương mại. Nhưng cùng với việc đem lại thu nhập đáng kể cho ngân
hàng thì lĩnh vực tín dụng cũng là lĩnh vực có rủi ro lớn nhất. Hậu quả của rủi ro


tín dụng thường rất nặng nề : làm tăng thêm chi phí của ngân hàng, thu nhập lãi
bị chậm hoặc mất đi cùng với sự thất thoát vốn vay, làm xấu đi tình hình tài
chính và cuối cùng là làm tổn hại đến uy tín và vị thế của ngân hàng.
Rủi ro tín dụng luôn song hành với hoạt động tín dụng, không thể loại bỏ
hoàn toàn mà chỉ có thể áp dụng các biện pháp để phòng ngừa hoặc giảm thiểu
thiệt hại tối đa khi rủi ro xảy ra.
Ngân hàng No&PTNT Hà Nội là một trong những Ngân hàng Thương
mại hàng đầu trên địa bàn Thủ đô, là một trong những chi nhánh đầu đàn trong
hệ thống ngân hàng No Việt Nam, vấn đề tăng trưởng bền vững đã và đang được
đặt ra hàng đầu trong công cuộc đổi mới và hội nhập, đặc biệt là trong việc hạn
chế rủi ro tín dụng. Với tỷ lệ chiếm 70 – 75% trên tổng thu nhập cho thấy các
sản phẩm tín dụng có vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh, có ảnh
hưởng lớn đến các lĩnh vực kinh doanh khác của NHNo&PTNT Hà Nội.
Với tầm quan trọng của hoạt động tín dụng và mối tương quan của hoạt
động này với các hoạt động kinh doanh khác tại NHNo&PTNT Hà Nội, việc
nghiên cứu đo lường và đưa ra các giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng là việc hết
sức cần thiết và có ý nghĩa thiết thực cho công cuộc xây dựng phát triển bền
vững của NHNo&PTNT Hà Nội.

1


Nguyễn Thị Hải Vân

Cao học: 2009 - 2011

Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, em đã chọn đề tài “Phân
tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại
Ngân hàng NHNo&PTNT Hà Nội” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn

- Nghiên cứu cơ sở lý thuyết về rủi ro trong hoạt động tín dụng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng rủi ro trong hoạt động tín dụng tại
NHNo&PTNT Hà Nội.
- Đề xuất những giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT Hà Nội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại.
- Phạm vi nghiên cứu: Rủi ro trong hoạt động cho vay ngắn, trung và dài
hạn tại NHNo&PTNT Hà Nội giai đoạn 2008 – 2010
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp được sử dụng trong quá trình nghiên cứu là phương
pháp phân tích lôgic hệ thống, thống kê, so sánh, chọn mẫu, tư duy trừu tượng.
5. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá và làm rõ một số vấn đề lý luận và phương pháp luận của
rủi ro tín dụng đối với hoạt động cho vay và sự cần thiết phải hạn chế rủi ro tín
dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và NHNo&PTNT Hà
Nội nói riêng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT Hà Nội,
tổng kết những kết quả đạt được, tìm ra những hạn chế và nguyên nhân dẫn đến
hạn chế đó.
- Đề xuất những quan điểm, phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm hạn
chế rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT Hà Nội, đồng thời đề xuất một số kiến
nghị với các cấp, các ngành để thực hiện.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần phụ lục, danh mục các chữ viết tắt, danh mục bảng, biểu, lời
nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
2


Nguyễn Thị Hải Vân


Cao học: 2009 - 2011

Chương I: Những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
thương mại.
Chương II: Thực trạng rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT Hà Nội.
Chương III: Giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại
NHNo&PTNT Hà Nội.

3


Nguyễn Thị Hải Vân

Cao học: 2009 - 2011

CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. 1. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng là một trung gian tài chính, sẽ huy động vốn nhàn rỗi trong
xã hội và dùng chính số tiền cho các cá nhân và tổ chức vay lại và rất hiếm khi
có tình trạng cùng một một lúc tất cả các chủ tiền gửi đến đòi nợ ngân hàng, đó
chính là nguyên tắc cơ bản đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng.
Ngân hàng Thương mại là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ cơ bản nhất
của ngân hàng đó là huy động vốn và cho vay vốn. NHTM là cầu nối giữa các cá
nhân và tổ chức. Hoạt động của NHTM nhằm mục đích kinh doanh một hàng
hoá đặc biệt đó là “vốn - tiền”, trả lãi huy động vốn thấp hơn lãi suất cho vay
vốn, phần chênh lệch lãi suất đó chính là lợi nhuận của NHTM. Hoạt động của
NHTM phục vụ cho mọi nhu cầu về vốn của mọi tầng lớp dân chúng, loại hình

doanh nghiệp và các tổ chức khác trong xã hội.
Ngân hàng Thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực
tiền tệ, là một trung gian tài chính đi vay để cho vay. Qua định nghĩa đơn giản
trên, NHTM đã thể hiện như là một doanh nghiệp thực sự song đó là loại hình
Doanh nghiệp dịch vụ tài chính.
Sự đa dạng trong các dịch vụ và chức năng của ngân hàng dẫn đến việc
chúng được gọi là các “Bách hoá tài chính”.
Vậy đặc điểm của ngân hàng thương mại là gì? có gì khác so với một
doanh nghiệp kinh doanh khác? Đặc trưng quan trọng nhất của NHTM là
trung gian tài chính, sản phẩm là dịch vụ tài chính nên có tính chất dễ thay đổi,
dễ bị bắt chước, không có bản quyền.
- Quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở hoàn trả.

4


Nguyễn Thị Hải Vân

Cao học: 2009 - 2011

- Nguồn vốn của NHTM có tính thanh khoản cao (do chủ yếu là tiền gửi )
nên hoạt động của NHTM chủ yếu là thị trường tiền tệ. Lãi suất là biểu hiện
đặc trưng về hoạt động kinh doanh của một trung gian tài chính.
- Ngân hàng luôn chịu sự kiểm soát chặt chẽ của pháp luật vì nghiệp vụ
ngân hàng luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro: rủi ro tín dụng, rủi ro về vốn, rủi ro
thanh khoản, rủi ro lãi suất…
- Yếu tố lòng tin trong hoạt động ngân hàng là rất cao.
- Các NHTM phải có hệ thống chi nhánh rộng khắp, cơ sở vật chất kỹ
thuật cao, đầu tư lớn.
- Quá trình hoạt động của ngân hàng hoàn toàn phụ thuộc vào khách hàng.

- Đội ngũ nhân sự phải chuyên nghiệp, thân thiện với khách hàng. Các
nhà quản lý phải có năng lực cao trong việc xử lý nhanh chóng các vấn đề có
khả năng xảy ra trước khi nó gây nên ảnh hưởng tiêu cực đến với ngân hàng.
- Kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ là lĩnh vực kinh doanh rất nhạy cảm,
chịu tác động bởi rất nhiều nhân tố về kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý, truyền
thống văn hoá… mỗi một nhân tố này có sự thay đổi dù là nhỏ nhất cũng đều tác
động rất nhanh chóng và mạnh mẽ đến môi trường kinh doanh chung. Chẳng
hạn: Chỉ cần một tin đồn thổi dù là thất thiệt cũng có thể gây nên cơn chấn động
rất lớn, thậm chí đe dọa sự tồn vong của cả hệ thống các tổ chức tín dụng. Một
NHTM hoạt động yếu kém, khả năng thanh khoản thấp cũng có thể trở thành
gánh nặng cho nhiều tổ chức kinh tế và dân chúng trên địa bàn…
- Do hoạt động của các NHTM có liên quan đến tất cả các chủ thể, đến
mọi mặt hoạt động kinh tế - xã hội, cho nên, để tránh sự hoạt động của các
NHTM mạo hiểm nguy cơ đổ vỡ hệ thống, tất cả Ngân hàng Trung ương
(NHTW) các nước đều có sự giám sát chặt chẽ thị trường này và đưa ra hệ thống
cảnh báo sớm để phòng ngừa rủi ro.
1.1.2.Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng Thương mại.
NHTM cung cấp các dịch vụ tài chính cho công chúng và các tổ chức
trong nền kinh tế, nhưng các Tổ chức tài chính phi Ngân hàng như Công ty
5


Nguyễn Thị Hải Vân

Cao học: 2009 - 2011

chứng khoán, Công ty Bảo hiểm cũng đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ
của ngân hàng. Ngược lại, Ngân hàng cũng đối phó với các đối thủ cạnh tranh
bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ, hướng cả về lĩnh vực bất động
sản và môi giới chứng khoán và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác. Dưới đây là

một số hoạt động cơ bản của NHTM.
• Hoạt động huy động vốn.
Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, vốn là nguyên liệu đầu vào
cho hoạt động của ngân hàng, trong khi vốn chủ sở hữu của NHTM thì chiếm tỷ
trọng nhỏ, vì vậy ngân hàng phải huy động vốn từ các nguồn trong nền kinh tế:
* Nhận tiền gửi:
Một trong những nguồn quan trọng đó là các khoản tiền gửi, nó luôn
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn huy động của ngân hàng. Các Ngân hàng phải
trả lãi cho tiền gửi như phần thưởng cho khách hàng về việc khách hàng hi sinh
nhu cầu chi tiêu trước mắt để ngân hàng tạm thời sử dụng vốn trong một thời
gian nhất định cho việc kinh doanh. Ngoài ra để thu hút được nhiều vốn cho
kinh doanh ngân hàng cạnh tranh lãi suất đồng thời có các hình thức khuyến mại
vật chất khác như : Quà tặng, phiếu bốc thăm trúng thưởng…
* Ngoài nhận tiền gửi là nguồn vốn chính thì ngân hàng còn huy động vốn
bằng cách đi vay các tổ chức tín dụng, vay NHTW, phát hành trái phiếu, kỳ phiếu…
• Hoạt động sử dụng vốn .
* Ngân quỹ
Ngân quỹ là nghiệp vụ tạo lập quản lý và sử dụng các quỹ dự trữ để đáp
ứng yêu cầu quản lý kinh doanh của NHTM :
- Dự trữ bằng tiền mặt : là tiền dự trữ tại quỹ bao gồm tiền giấy, tiền kim
loại, mục đích là đáp ứng nhu cầu rút bằng tiền mặt của người gửi tiền, đáp ứng
nhu cầu bằng tiền của khách hàng vay để thanh toán cho người không có tài
khoản tại ngân hàng và đáp ứng nhu cầu thường xuyên của ngân hàng.
- Dự trữ bằng tài khoản thanh toán tại Ngân hàng Nhà Nước : Đảm bảo khả
năng thanh toán chi trả giữa các ngân hàng.
6


Nguyễn Thị Hải Vân


Cao học: 2009 - 2011

- Dự trữ bắt buộc là mức dự trữ do NHNN ấn định bắt buộc các NHTM
phải thực hiện.
Các Ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp
và nhiều cá nhân. Nhờ đó ngân hàng có nhiều mối liên hệ chặt chẽ với nhiều
khách hàng. Từ kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu
ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ ngân quỹ, trong đó
ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến
hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín
dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
Trong khi các ngân hàng có xu hướng chuyên môn hoá vào dịch vụ quản
lý tiền mặt cho các tổ chức, hiện nay có một xu hướng đang gia tăng về việc
cung cấp dịch vụ tương tự cho người tiêu dùng. Sở dĩ có khuynh hướng này là vì
các công ty môi giới chứng khoán, các tập đoàn tài chính khác cung cấp cho
người tiêu dùng tài khoản môi giới với hàng loạt dịch vụ tài chính liên quan.
* Tín dụng
Tín dụng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản có của ngân hàng, là
cơ sở để tạo ra thu nhập, quyết định đến sự phát triển của ngân hàng và cũng là
hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất.
Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế
là cho vay đối với những người bán. Sau đó là bước chuyển tiếp từ cho vay chiết
khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng có nhu cầu về
vốn trong sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện cho vay đối
với những cá nhân có nhu cầu tiêu dùng, hướng tới họ như một khách hàng tiềm
năng. Giờ đây tín dụng tiêu dùng là một trong những loại hình tín dụng đem lại
thu nhập khá cao và cũng là lĩnh vực mà các ngân hàng quan tâm khai thác mở
rộng.
* Đầu tư.
Đầu tư là hoạt động trong đó ngân hàng đem nguồn vốn của mình trực

tiếp tham gia vào kinh doanh một lĩnh vực nào đó. Các hình thức đầu tư của
7


Nguyễn Thị Hải Vân

Cao học: 2009 - 2011

ngân hàng như kinh doanh chứng khoán, góp vốn liên doanh…Ở Việt nam, các
ngân hàng chủ yếu tham gia đầu tư ở mức độ đơn giản, chủ yếu là tham gia vào
kinh doanh chứng khoán vì có khả năng quay vòng vốn nhanh hơn cả so với các
hình thức đầu tư khác. Ưu điểm của nghiệp vụ này là ngân hàng trực tiếp tham
gia kinh doanh, nắm bắt nhanh chóng, chính xác các thông tin để kịp thời có các
biện pháp khi thấy dấu hiệu không tốt, giúp giảm rủi ro cho nguồn vốn. Tuy
nhiên để thực hiện được nghiệp vụ này thì đòi hỏi ngân hàng phải có vốn lớn, ổn
định trong lâu dài.
• Cung cấp các dịch vụ.
Các ngân hàng xu hướng ngày càng mở rộng cung cấp các dịch vụ cho
khách hàng nhằm tăng thu nhập và chiếm thị phần, giúp đẩy nhanh chu chuyển
vốn, tiết kiệm thời gian, của cải cho xã hội…
* Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán
Tài khoản tiền gửi giao dịch là tài khoản tiền gửi cho phép người gửi tiền
viết séc thanh toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khoản
này được xem là một trong những bước đi quan trọng trong công nghiệp ngân
hàng vì nó cải thiện đáng kể hiệu quả của quá trình thanh toán - mở đầu cho
thanh toán không dùng tiền mặt, tạo sự nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi
phí, rút ngắn thời gian kinh doanh, nâng cao thu nhập cho khách hàng. Khi ngân
hàng mở rộng phạm vi thanh toán, tiện ích tạo ra cho khách hàng ngày càng
nhiều khuyến khích khách hàng gửi tiền ngày càng nhiều nhờ thanh toán hộ. Có
nhiều hình thức thanh toán được ngân hàng đưa ra như séc, nhờ thu, nhờ chi, …

* Dịch vụ bảo lãnh
Dịch vụ bảo lãnh đang ngày càng phát triển trong các ngân hàng do tính
tiện lợi cho cả ngân hàng và khách hàng. Do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của các
khách hàng, nên ngân hàng có uy tín sẽ bảo lãnh cho khách hàng của mình trong
việc mua chịu hàng hoá, trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của các
tổ chức tín dụng khác…
* Dịch vụ cho thuê két
8


Nguyễn Thị Hải Vân

Cao học: 2009 - 2011

Ngân hàng thực hiện lưu giữ hộ những tài sản tài chính, bảo quản vàng và
các giấy tờ có giá, các tài sản và các giấy tờ có giá khác cho khách hàng trong
két với nguyên tắc bí mật, an toàn và thuận lợi.
* Dịch vụ uỷ thác
Ngân hàng có rất nhiều chuyên gia trong lĩnh vực tài chính, vì vậy nhiều
cá nhân, doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài
chính hộ. Dịch vụ uỷ thác đã phát triển sang cả uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát
hành, uỷ thác đầu tư…
* Dịch vụ môi giới, đầu tư chứng khoán.
Trên thị trường tài chính hiện nay nhiều ngân hàng đang phấn đấu để trở
thành một “Bách hoá tài chính” thực sự, cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho
phép thoả mãn mọi nhu cầu tại một địa điểm. Đây là lý do các ngân hàng cung
cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác.
Hiện nay có rất nhiều ngân hàng có công ty chứng khoán riêng, hoạt động bài
bản với quy mô lớn.
* Dịch vụ thông tin tư vấn

Xuất phát từ đặc điểm kinh doanh riêng có của hệ thống ngân hàng đã tạo
cho nó lợi thế hơn hẳn trong việc cung cấp cho khách hàng những lời khuyên tốt
nhất về đầu tư, quản lý tài chính, thành lập, mua bán, sát nhập doanh nghiệp, qua
đó giúp khách hàng giảm thiệt hại và nâng cao thu nhập cho khách hàng. Thực
hiện nghiệp vụ này, ngân hàng không những thu được phí mà còn mở rộng
quan hệ, nắm bắt chính xác tình hình kinh doanh của họ, từ đó đưa ra quyết
định cho vay, ngoài ra còn củng cố, tăng cường vị trí, uy tín của ngân hàng một
cách hiệu quả nhất.
1.1.3 Hoạt động tín dụng của NHTM:
Tín dụng có nguồn gốc từ tiếng La Tinh là sự tin tưởng, tín nhiệm hoặc
nói cách khác đi là sử dụng sự tin tưởng hoặc tín nhiệm để thực hiện các quan hệ
vay mượn từ đó một lượng giá trị vật chất hoặc tiền tệ trong một thời gian nhất
định.
9


Nguyễn Thị Hải Vân

Cao học: 2009 - 2011

Từ đó quan hệ tín dụng được hiểu là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một
lượng giá trị (dưới hình thức tiền tệ hoặc hiện vật) từ người sở hữu sang người
sử dụng để sau một thời gian nhất định thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn
lượng giá trị ban đầu. Tín dụng biểu hiện ra bên ngoài như là sự vận động đơn
phương của giá trị thuộc hai quá trình ngược chiều nhau trong một thời gian cụ
thể.
Tóm lại: Tín dụng được hiểu là quan hệ vay mượn giữa các chủ thể trong
nền kinh tế, trong đó chủ thể này chuyển nhượng cho chủ thể khác quyền sử
dụng một lượng giá trị (có thể dưới hình thức hàng hoá hoặc tiền tệ) với những
điều kiện và trong một thời gian nhất định mà hai bên đã thoả thuận dựa trên

nguyên tắc hoàn trả.
Khi Ngân hàng thực hiện vai trò trung gian tín dụng thì tín dụng Ngân
hàng được hiểu dưới hai góc độ sau:
+ Ngân hàng đóng vai trò huy động vốn: Các NHTM có khả năng thu hút
nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi với những thời hạn khác nhau của các tổ chức kinh
tế như tiền gửi, gửi tiền thanh toán....với mức lãi suất khác nhau.
+ Ngân hàng đóng vai trò người cho vay: Dựa trên cơ sở vốn huy động
được Ngân hàng thực hiện cho vay đối với các tổ chức kinh tế, cá nhân có nhu
cầu sử dụng vốn để phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh và tiêu dùng trong nền
kinh tế.
Tín dụng Ngân hàng vì vậy được hiểu là quan hệ vay mượn vốn lẫn nhau
giữa Ngân hàng – Doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ với
một bên là các tổ chức kinh tế, cá nhân, dân cư trong nền kinh tế trong một
khoảng thời gian nhất định dựa trên nguyên tắc có hoàn trả gốc và lãi đúng kỳ
hạn.
Tuy nhiên trong phạm vi luận văn này tác giả chỉ xem xét tín dụng Ngân
hàng dưới góc độ Ngân hàng là người cho vay thì tín dụng Ngân hàng được hiểu
là một hợp đồng thể hiện quan hệ vay mượn giữa NHTM – bên chuyển nhượng
tiền cho chủ thể có nhu cầu sử dụng vốn để đầu tư sản xuất kinh doanh hoặc tiêu
10


Nguyễn Thị Hải Vân

Cao học: 2009 - 2011

dùng trong một thời gian nhất định và cam kết hoàn trả cả gốc và lãi theo thời
gian đã thoả thuận.
Về cơ bản, hoạt động tín dụng của các NHTM dựa trên một số nguyên tắc
nhất định nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời, đó là:

+ Tiền vay phải được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả: Nguyên tắc
này nhằm giúp cho ngân hàng có thể quản lý, giám sát được luồng luân chuyển
đồng vốn của mình, và đảm bảo rằng vốn của ngân hàng được an toàn, ngân
hàng có khả năng thu lợi nhuận trong đầu tư các dự án. Hơn nữa, nguyên tắc này
còn giúp cho khác hàng sử dụng có hiệu quả nguồn vốn vay của mình.
+ Tiền vay phải được hoàn trả đầy đủ và đúng hạn: Trong kinh tế thị
trường, cho vay là giao dịch chuyển quyền sử dụng tiền vốn đầu tư trong một kỳ
hạn nhất định. Tiền vay phải được bảo đảm không bị giảm giá, nó phải được thu
hồi đầy đủ và có sinh lời. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo cho sự phát triển kinh
tế xã hội được ổn định, các mối quan hệ của ngân hàng phát triển theo xu hướng
an toàn và ổn đinh. Rủi ro không thu hồi được nợ gốc trong các hoạt động cho
vay sẽ đẩy ngân hàng vào tình trạng thua lỗ, thậm chí phá sản.
Tại Việt Nam các quyết định 1627/2001_QĐ_NHNN ngày 31 tháng 12
năm 2001 của Thống Đốc Ngân hàng về việc ban hành quy chế cho vay của tổ
chức Tín dụng đối với khách hàng, Quyết định 666/ QĐ – HĐQT – TDHo ngày
15/6/2010 thay thế quyết định số 72/QĐ – HĐQT – TD ngày 31 tháng 3 năm
2002 về việc: Ban hành Quy định cho vay đối với khách hàng trong hệ thống
Ngân hàng No&PTNT Việt Nam như sau:
Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó Tổ chức tín dụng giao cho
khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đính và thời gian nhất
định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
Định nghĩa trên được các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác áp dụng để
làm tiền đề căn bản cho hoạt động cho vay của mình.
Ngân hàng chỉ xem xét và quyết định cấp tín dụng khi Doanh nghiệp có
đủ các điều kiện sau:
11


Nguyễn Thị Hải Vân


Cao học: 2009 - 2011

Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách
nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật.
Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
Có khả năng tài chính đảm bảo nợ trong thời hạn cam kết.
Có dự án đầu tư, phương án kinh doanh khả thi và có hiệu quả.
Thực hiện các quy định về đảm bảo tiền vay theo đúng quy định của pháp
luật.
Nói chung để hạn chế rủi ro tín dụng, các Ngân hàng luôn không ngừng
đa dạng hoá các hình thức tín dụng, phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp. Căn
cứ vào các tiêu thức khác nhau, tín dụng Ngân hàng đối với doanh nghiệp có
thể chia thành các loại như sau:
¾

Căn cứ vào thời gian, tín dụng Ngân hàng được chia làm ba loại:

Tín dụng ngắn hạn là các khoản tín dụng có thời gian cho vay đến 12
tháng. Loại hình tín dụng này thông thường được áp dụng với nhiều loại hình
khách hàng dưới hình thức vay hạn mức hay từng lần. Thông thường khách hàng
sẽ có một phần tài sản để đảm bảo cho toàn bộ món vay.
Tín dụng trung hạn là các khoản tín dụng có thời hạn cho vay từ 12
tháng đến 60 tháng. Đây thường là hình thức Ngân hàng cấp tín dụng cho các dự
án mua sắm máy móc thiết bị, các dự án xây kho bãi...Thông thường tài sản hình
thành từ vốn vay sẽ được dùng để thế chấp Ngân hàng.
Tín dụng dài hạn là các khoản tín dụng có thời gian cho vay từ 60 tháng
trở lên. Đây thường là hình thức Ngân hàng cấp tín dụng cho các dự án mua sắm
dây truyền thiết bị đồng bộ, dự án xây dựng cơ sở hạ tầng....Tài sản thế chấp chủ
yếu là tài sản hình thành từ vốn vay.
¾


Căn cứ vào biện pháp bảo đảm, tín dụng Ngân hàng được chia làm

hai loại
Tài sản bảo đảm cho các khoản tín dụng cho phép Ngân hàng có được
nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ từ quá trình
sản xuất kinh doanh không có hoặc không đủ.
12


Nguyễn Thị Hải Vân

Cao học: 2009 - 2011

Tín dụng có bảo đảm bằng tài sản là các khoản tín dụng mà theo đó
nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản
cầm cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay của doanh nghiệp hoặc bảo lãnh
bằng tài sản của bên thứ ba. Loại hình tín dụng này đảm bảo cho Ngân hàng có
độ an toàn cao hơn, khả năng mất vốn thấp hơn do Ngân hàng có thể phát mại
tài sản để thu hồi vốn trong trường hợp khách hàng không có khả năng thanh
toán nợ đến hạn.
Tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản là các khoản tín dụng mà theo
đó nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp không được cam kết bảo đảm thực hiện
bằng tài sản cầm cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay của doanh nghiệp
hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Loại hình tín dụng này khá rủi ro với
Ngân hàng nên Ngân hàng chỉ áp dụng đối với khách hàng có uy tín, được Ngân
hàng tín nhiệm và là khách hàng truyền thống, chiến lược của Ngân hàng.
¾

Căn cứ vào mức độ rủi ro, tín dụng Ngân hàng được chia làm nhóm nợ


Nợ đủ tiêu chuẩn (nhóm 1) bao gồm: Các khoản nợ trong thời hạn mà tổ
chức tín dụng đánh giá là có đủ khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn.
Nợ cần chú ý (nhóm 2) bao gồm: Các khoản nợ được Ngân hàng đánh
giá là có khả năng thu hổi đầy đủ các gốc và lãi nhung có dấu hiệu khách hàng
suy giảm khả năng trả nợ.
Nợ dưới tiêu chuẩn (nhóm 3) bao gồm: Các khoản nợ được Ngân hàng
đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này
được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi.
Nợ nghi ngờ (nhóm 4) bao gồm: Các khoản nợ được Ngân hàng đánh giá
là khả năng tổn thất cao.
Nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5) bao gồm: Các khoản nợ được Ngân
hàng đánh giá là không đủ khả năng thu hồi, mất vốn.
Nhìn chung tín dụng Ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng trong nền
kinh tế, nó thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung vốn và phân bổ lại nguồn lực đầu
tư của xã hội vào các lĩnh vực của nền kinh tế một cách có hiệu quả. Tín dụng
13


Nguyễn Thị Hải Vân

Cao học: 2009 - 2011

của một hệ thống Ngân hàng lành mạnh phản ánh năng lực hấp thụ vốn của nền
kinh tế quốc gia; mức rủi ro thấp của nền kinh tế chính là điều kiện để kêu gọi
các dòng vốn từ bên ngoài đầu tư vào để phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên
do các Ngân hàng cho doanh nghiệp vay đầu tư sản xuất kinh doanh thuộc nhiều
lĩnh vực như xây dựng, sản xuất công nghiệp, thương nghiệp, tiêu dùng, dịch vụ
lữ hành...nên sau khi cho vay thì quyền sở hữu vốn tạm thời tách khỏi quyền sử
dụng vốn, do vậy tính chủ động của Ngân hàng kém đi, dễ lâm vào thế bị động

đối với người vay vốn và có thể gặp rủi ro mất một phần vốn hay toàn bộ vốn.
1.2 Rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm rủi ro tín dụng
Rủi ro là khả năng xảy ra các biến cố ngoài mong đợi gây tổn thất, thiệt hại
về tài sản.
Rủi ro là yếu tố gắn liền hoạt động tín dụng của các Ngân hàng. Trong nỗ
lực nhằm thu hút lợi nhuận, các Ngân hàng không thể chối bỏ rủi ro, nghĩa là
không thể không cho vay mà chỉ có thể tìm cách làm cho hoạt động này trở nên
an toàn và hạn chế đến mức tối đa những tổn thất có thể có bằng cách đề ra cho
mình một chiến lược hạn chế rủi ro phù hợp.
Hoạt động Ngân hàng luôn tiềm ẩn những rủi ro như rủi ro thanh khoản, rủi
ro tỷ giá, rủi ro lãi suất, rủi ro kỳ hạn, rủi ro đạo đức nhưng đặc biệt nhất vẫn là
rủi ro tín dụng.
Theo quan điểm của Uỷ ban Basle thuộc Ngân hàng thanh toán quốc tế:
“Rủi ro tín dụng là khả năng mà khách hàng vay hoặc bên đối tác không thực
hiện được các nghĩa vụ của mình theo những điều khoản đã cam kết”.
Theo Quyết định số 493/QĐ - NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro thì
“Rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả năng
xảy ra tổn thất trong hoạt động Ngân hàng của Tổ chức tín dụng do khách hàng
14


Nguyễn Thị Hải Vân

Cao học: 2009 - 2011

không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam
kết”.
Như vậy, có thể có nhiều cách khác nhau để định nghĩa rủi ro tín dụng song

theo quan điểm của tác giả rủi ro tín dụng được hiểu một cách đơn giải nhất đó
là rủi ro không thu hồi được nợ khi các khoản nợ đến hạn.
Rủi ro tín dụng được phản ánh trên hai mặt:
- Định lượng: Rủi ro tín dụng phản ánh bởi số lượng nợ quá hạn, nợ
xấu....của mỗi NHTM
- Định tính: Rủi ro tín dụng có mối quan hệ ngược chiều nhau với chất
lượng tín dụng. Chất lượng tín dụng càng cao thì mức độ rủi ro tín dụng
càng thấp và ngược lại.
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động tín dụng – một hoạt động quan trọng
của Ngân hàng thương mại vì quy mô tài sản sinh lời được phân bổ vào các
khoản cho vay là lớn nhất. Vì vậy khi thực hiện cấp tín dụng NHTM thường
phải phân tích các yếu tố của người vay để đạt được mức độ an toàn cao nhất,
trong đó cần thiết đưa ra các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng.
Có nhiều quan điểm khác nhau khi định nghĩa hạn chế rủi ro tín dụng. Có
quan điểm cho rằng hạn chế rủi ro tín dụng là khả năng thực hiện các chính
sách, quy trình tín dụng dựa trên cơ cấu tổ chức được thiết lập, cơ sở công nghệ
Ngân hàng hiện có, khả năng chỉ đạo điều hành của Ban lãnh đạo, khả năng triển
khai của đội ngũ nhân viên và các công cụ hỗ trợ thực hiện hạn chế sự xuất hiện
rủi ro tín dụng nhằm giảm thiểu tổn thất cho Ngân hàng. Hạn chế rủi ro tín dụng
là một quy trình diễn ra liên tục kể từ khi khách hàng có nhu cầu vay vốn cho
đến khi thu hồi hết vốn.
Quan điểm khác thì cho rằng hạn chế rủi ro tín dụng là quá trình xây dựng
và thực thi các chiến lược, các chính sách quản lý và kinh doanh tín dụng nhằm
đạt được mục tiêu an toàn phát triển bền vững, tăng cường các biện pháp phòng
15


Nguyễn Thị Hải Vân

Cao học: 2009 - 2011


ngừa, hạn chế và giảm thấp nợ xấu, nợ quá hạn trong hoạt động tín dụng, từ đó
tăng doanh thu, giảm chi phí và nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng.
Theo quan điểm của tác giả thì hạn chế rủi ro tín dụng là việc đảm bảo hiệu
quả và không ngừng nâng cao chất lượng họat động tín dụng của NHTM trong
điều kiện thị trường biến động và nguy cơ rủi ro không ngừng gia tăng.
Rủi ro tín dụng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của Ngân
hàng, nó có thể làm suy giảm uy tín của Ngân hàng, làm cho khả năng thanh
toán của Ngân hàng giảm sút, lợi nhuận thấp, thậm chí còn thua lỗ hoặc phá sản.
Vì vậy việc nhận biết các biểu hiện của rủi ro tín dụng, ngăn ngừa, hạn chế và
quản lý nó là vấn đề quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý trong lĩnh vực Ngân
hàng.
1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng
Trong thực tế có nhiều biểu hiện khoản vay sẽ gặp khó khăn. Khó khăn có
thể xảy ra ngay khi bắt đầu cho vay, hoặc xuất hiện chậm hơn, hoặc đột ngột
phát sinh mà không có dấu hiệu báo trước. Rất khó có thể kết luận một khoản
vay có vấn đề vì các biến cố xảy ra là bất ngờ, không dự đoán trước được. Tuy
nhiên Ngân hàng có thể dựa vào một số các dấu hiệu sau để cảnh báo rủi ro cho
hoạt động tín dụng:
* Dấu hiệu về khoản vay của khách hàng :
- Khách hàng trả không đầy đủ gốc/lãi khi đến hạn hoặc trả không đúng
hạn
- Khách hàng có nhu cầu cơ cấu lại thời hạn trả nợ
- Chu kỳ vay tăng ( chủ yếu đối với món vay theo hạn mức )
* Dấu hiệu liên quan đến khách hàng vay :

16



Nguyễn Thị Hải Vân

Cao học: 2009 - 2011

- Trình độ và cách thức tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh, quản lý
nhân sự của khách hàng còn hạn chế, không phát huy hiệu quả tối ưu nguồn lực
sản xuất
- Tình hình tài chính của khách hàng :
+ Giá trị sản lượng và doanh thu của doanh nghiệp suy giảm
+ Chậm trễ trong thanh toán lương cho nhân viên
+ Các hệ số thanh toán, vòng quay vốn lưu động thấp hoặc giảm sút
+ Các khoản nợ thương mại gia tăng một cách bất thường
+ Tăng doanh số bán hàng nhưng lãi giảm hoặc lỗ
+ Có biểu hiện giảm vốn chủ sở hữu do lợi nhuận âm
+ Khách hàng chậm trễ nộp báo cáo tài chính, các số liệu trong báo cáo tài
chính không trung thực, bất hợp lý.
+ Thực trạng về sản xuất, kinh doanh không đạt kết quả như phương án, kế
hoạch đã đưa ra.
- Xuất hiện các rủi ro cho lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh của
khách hàng.
-

Cơ cấu vốn không hợp lý - dùng vốn vay ngắn hạn sang tài trợ cho tài sản

cố định...., sử dụng vốn sai mục đích.
- Sự vi phạm pháp luật của người đứng đầu doanh nghiệp.
- Biến động bất lợi của giá trị tài sản đảm bảo
- Mức độ bảo hiểm của khách hàng thấp.
- Doanh nghiệp chuyển lĩnh vực kinh doanh sang những ngành nghề mà
không thuộc chuyên môn của mình, lĩnh vực có độ rủi ro cao.

- Yếu tố đầu vào không thuận lợi: giá cả nguyên vật liệu đầu vào tăng,
không nhập được những nguyên liệu đặc chủng....
17


Nguyễn Thị Hải Vân

Cao học: 2009 - 2011

* Dấu hiệu liên quan đến môi trường kinh doanh :
- Biến động bất lợi của nền kinh tế : lạm phát, sự tăng lãi suất đầu vào,
khủng hoảng hoặc suy thoái kinh tế, sự thay đổi chính sách kinh tế gây khó khăn
cho doanh nghiệp (chính sách tiền lương, chính sách giá cả, lãi suất), sự biến
động bất lợi trong ngành nghề kinh doanh của khách hàng.
- Đối với doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu thì có biến động bất
lợi về tỷ giá hối đoái.
a. Chỉ tiêu nợ xấu:
Tỷ lệ nợ xấu =

Dư nợ xấu
Tổng dư nợ tín dụng

x 100%

Do nợ xấu ảnh hưởng lớn tới lợi nhuận của ngân hàng nên dựa vào chỉ tiêu
nợ xấu Ngân hàng có thể đánh giá mức hạn chế rủi ro tín dụng Ngân hàng đang
thực hiện có mang lại an toàn cho hoạt động tín dụng hay không. Tỷ lệ nợ xấu
càng cao cho thấy biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng của Ngân hàng không hiệu
quả, Ban lãnh đạo Ngân hàng cần có các chỉ đạo cấp thiết để giảm thấp tỷ lệ nợ
xấu.

Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 Quyết định số
18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/4/2007 (sửa đổi của Quyết định 493) của NHNN
về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong
hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng thì tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ
lệ để đánh giá mức độ rủi ro tín dụng của tổ chức tín dụng.
Nợ của Ngân hàng thương mại được chia thành 5 nhóm trong đó nợ xấu là
các khoản nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5.
¾

Nợ đủ tiêu chuẩn (nợ nhóm 1) bao gồm:
Các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín dụng đánh giá là có đủ khả năng thu

hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn.

18


Nguyễn Thị Hải Vân

Cao học: 2009 - 2011

Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả
năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời
hạn còn lại.
Trường hợp khách hàng trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo kỳ hạn đã được cơ
cấu lại tối thiểu trong vòng một năm đối với các khoản trung và dài hạn, ba
tháng đối với các khoản nợ ngắn hạn và được tổ chức tín dụng đánh giá là có
khả năng trả đầy đủ nợ gốc và lãi đúng thời hạn theo thời hạn đã được cơ cấu lại,
tổ chức tín dụng có thể phân loại nợ đó vào nhóm 1.
¾


Nợ cần chú ý (nợ nhóm 2) bao gồm:
Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày
Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là

doanh nghiệp, tổ chức thì tổ chức tín dụng phải có hồ sơ đánh giá khách hàng về
khả năng trả nợ đầy đủ nợ gốc và lãi đúng kỳ hạn được điều chỉnh lần đầu)
Các khoản nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5 là nợ xấu, gồm:
¾

Nợ dưới tiêu chuẩn (nợ nhóm 3) bao gồm:
Các khoản nợ quá hạn từ 91 đến 180 ngày
Các khoản nợ cơ cấu tại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều

chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2.
Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng
trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.
Nợ nhóm 3 là các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không có khả
năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được tổ chức tín dụng
đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi.
¾

Nợ nghi ngờ (nợ nhóm 4) bao gồm:
Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày
19


Nguyễn Thị Hải Vân

Cao học: 2009 - 2011


Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo
thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai.
Nợ nhóm 4 là các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là khả năng tổn
thất cao.
¾

Nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5) bao gồm:
Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở

lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn
trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai;
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá
hạn hoặc đã quá hạn.
Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý
Nợ nhóm 5 là các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không còn
khả năng thu hồi, mất vốn.
Ngoài ra, đối với trường hợp một khách hàng có nhiều hơn một khoản nợ
với tổ chức tín dụng mà có bất kỳ khoản nợ bị chuyển sang nhóm rủi ro cao hơn
thì tổ chức tín dụng bắt buộc phải phân loại các khoản nợ còn lại của khách hàng
đó vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro. Trường hợp
các khoản nợ (kể cả các khoản nợ trong hạn và các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn
trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại) mà tổ chức tín dụng có đủ cơ sở
để đánh giá là khả năng trả nợ của khách hàng bị suy giảm thì tổ chức tín dụng
chủ động tự quyết định phân loại các khoản nợ đó vào các nhóm nợ rủi ro cao
hơn tương ứng với mức độ rủi ro.


20


Nguyễn Thị Hải Vân

Cao học: 2009 - 2011

b. Chỉ tiêu nợ khoanh, xoá nợ
Nợ khoanh, xoá nợ

Tỷ lệ nợ khoanh =

Tổng dư nợ tín dụng

x 100%

Nợ khoanh là những khoản cho vay không thu hồi được, đây thường là các
khoản cho vay chính sách và Nhà nước được phép “khoanh” lại.
Xoá nợ là những khoản cho vay không còn nguồn để thu hồi nợ (Công ty
phá sản), sau một thời gian nhất định khi khoản vay đã được xử lý rủi ro mà
Ngân hàng mặc dù đã dùng nhiều biện pháp khác nhau nhưng vẫn không có khả
năng thu hồi được nợ thì được phép xoá nợ.
Tỷ lệ nợ khoanh, xoá nợ phát sinh khiến Ngân hàng phải trích lập dự phòng
rủi ro của toàn bộ những khoản nợ khoanh, xóa nợ và hạch toán vào chi phí hoạt
động kinh doanh nên lợi nhuận của Ngân hàng vì thế bị giảm sút, thậm chí nếu
tỷ lệ nợ khoanh và xoá nợ lớn thì Ngân hàng có thể bị thua lỗ hoặc phá sản. Vì
vậy dựa vào chỉ tiêu này Ngân hàng có thể đánh giá các biện pháp hạn chế rủi ro
tín dụng hiện Ngân hàng đang áp dụng có phù hợp hay không, có thực sự làm
giảm rủi ro mất vốn của Ngân hàng hay không.
c. Chỉ tiêu dư nợ tín dụng có tài sản bảo đảm.

Tỷ lệ dư nợ tín dụng
=
có TSBĐ

Dư nợ tín dụng có TSBĐ
Tổng dư nợ tín dụng

x 100%

Ngân hàng xem xét cho khách hàng vay vốn không phải chỉ chú trọng vào
TSBĐ nợ vay mà chủ yếu căn cứ vào năng lực tài chính, hoạt động sản xuất
kinh doanh, phương án, dự án đầu tư của khách hàng. Tuy nhiên, trong trường
hợp xảy ra rủi ro, khách hàng kinh doanh thua lỗ, dự án đầu tư không hiệu quả,
không còn khả năng trả nợ thì nếu còn TSBĐ nợ vay thì ngân hàng có thể phát
mại tài sản để thu hồi nợ. Vì vậy, đây là một trong những chỉ tiêu quan trọng
phản ánh mức độ hạn chế rủi ro tín dụng của NHTM. Nếu tỷ lệ dư nợ tín dụng
có tài sản bảo đảm cao sẽ đảm bảo an toàn cho khoản vay, ngược lại, tỷ lệ này
thấp cho thấy rủi ro không thu hồi được vốn của Ngân hàng ở mức cao. Hay nói
21


Nguyễn Thị Hải Vân

Cao học: 2009 - 2011

một cách khác, tài sản bảo đảm cho khoản vay càng lớn thì rủi ro tín dụng xảy ra
càng thấp. Đó chính là mối quan hệ biện chứng trong quan hệ tín dụng.
d. Dự phòng rủi ro tín dụng.
“Dự phòng rủi ro” là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn
thất có thể xảy ra do khách hàng của tổ chức tín dụng không thực hiện nghĩa vụ

theo cam kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí
hoạt động của tổ chức tín dụng. Dự phòng rủi ro bao gồm: dự phòng cụ thể và
dự phòng chung.
Dự phòng cụ thể là khoản tiền được trích lập trên cơ sở phân loại cụ thể các
khoản nợ để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra.
Dự phòng chung là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn
thất chưa xác định được trong quá trình phân loại và trích lập dự phòng cụ thể và
trong các trường hợp khó khăn về tài chính của các tổ chức tín dụng khi chất
lượng các khoản nợ suy giảm.
Như vậy, bản chất của dự phòng rủi ro là nhằm hạn chế thiệt hại xảy ra cho
Ngân hàng khi không thu hồi được vốn cho vay. Tuy nhiên, nếu khoản dự phòng
rủi ro lớn chứng tỏ biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng không hiệu
quả dẫn đến hoạt động tín dụng gặp nhiều rủi ro vì khoản nợ vay xếp vào nhóm
nợ càng cao thì tỷ lệ phải trích dự phòng rủi ro càng cao. Theo Quyết định số
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN
ngày 25/4/2007 (sửa đổi quyết định 493) của NHNN quy định cụ thể tỷ lệ trích
lập dự phòng đối với các nhóm nợ của NHTM:
Nhóm 1: 0%
Nhóm 2: 5%
Nhóm 3: 20%
Nhóm 4: 50%
22


Nguyễn Thị Hải Vân

Cao học: 2009 - 2011

Nhóm 5: 100%.
Riêng đối với các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý thì được trích lập

dự phòng cụ thể theo khả năng tài chính của Tổ chức tín dụng.
Như vậy có thể nhận thấy:
Rủi ro tín dụng tại NHTM là một khái niệm vừa cụ thể, vừa trừu tượng. Nó
là một chỉ tiêu kinh tế mang tính tổng hợp phản ánh các biện pháp giảm thiểu rủi
ro tín dụng của NHTM, nó thể hiện bản chất các hoạt động cho vay của một
ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại và phát triển.
Rủi ro tín dụng của NHTM có thể chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, chủ
quan hay khách quan. Hiểu đúng bản chất về rủi ro tín dụng, phân tích và đánh
giá đúng các nhân tố ảnh hưởng tới rủi ro tín dụng, cũng như xác định được chính
xác nguyên nhân dẫn đến việc cho vay gặp rủi ro, từ đó có các biện pháp khắc
phục nhằm giữ cho tỷ lệ nợ xấu tối thiểu cũng đạt ở mức cho phép là dưới 5%.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới rủi ro tín dụng của NHTM
1.3.1. Nhân tố chủ quan
1.3.1.1. Chính sách tín dụng của Ngân hàng.
Chính sách tín dụng của ngân hàng là hệ thống các chủ trương, định hướng
quy định chi phối hoạt động tín dụng nhằm sử dụng hiệu quả nguồn vốn để tài
trợ cho các doanh nghiệp, các hộ gia đình, các cá nhân trong phạm vi cho phép.
Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ có tác dụng hạn chế rủi ro tín dụng,
thu hút thêm khách hàng, phân tán rủi ro, tuân thủ theo pháp luật, chấp hành tốt
chính sách của Nhà nước, đảm bảo khả năng sinh lời cho ngân hàng cũng như
tạo động lực cho nền kinh tế và xã hội phát triển. Mỗi NHTM đều có những đặc
điểm riêng, vì vậy muốn hạn chế rủi ro tín dụng phải xây dựng chính sách, chiến
lược tín dụng phù hợp với ngân hàng mình trong từng giai đoạn cụ thể.

23


Nguyễn Thị Hải Vân

Cao học: 2009 - 2011


Chính sách cho vay của một NHTM thể hiện phương hướng hoạt động cho
vay của ngân hàng, để trong những giai đoạn nhất định, chính sách cho vay là cơ
sở để hình thành nên quy trình cho vay với hướng dẫn nghiệp vụ chi tiết, các
bước cụ thể trong quá trình cấp cho vay. Chính sách cho vay phải vạch ra cho
Cán bộ tín dụng phương hướng hoạt động và một khung tham chiếu rõ ràng để
làm căn cứ xem xét các nhu cầu vốn. Điều này tạo sự thống nhất chung trong
hoạt động cho vay nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời.
Nội dung cơ bản của chính sách cho vay thông thường bao gồm : miêu tả
thị trường cho vay mục tiêu của ngân hàng, chính sách khách hàng, chính sách
quy mô và giới hạn cho vay; xác định quyền hạn, trách nhiệm của cán bộ tham
gia quá trình cấp cho vay; chính sách phương pháp xác định lãi suất, các khoản
phí và thời hạn vay vốn, kỳ hạn trả nợ, hướng dẫn tiếp nhận, đánh giá tài sản thế
chấp; phát hiện, phân tích và xử lý các khoản vay có vấn đề.
1.3.1.2. Quy trình tín dụng
Quy trình tín dụng bao gồm những quy định cần thiết thực hiện trong quá
trình khép kín bao gồm: Chuẩn bị cấp tín dụng (tiếp nhận hồ sơ xin vay vốn,
thẩm định hồ sơ và các điều kiện của khách hàng), quyết định cấp tín dụng,
kiểm tra trước, trong và sau khi cấp tín dụng, thu hồi nợ vay cả gốc và lãi trong
trường hợp cho vay hoặc phí bảo lãnh, phí thanh toán quốc tế....Việc xây dựng
tốt quy trình tín dụng, việc thực hiện tốt các quy định ở từng bước và sự phối
hợp chặt chẽ, khoa học giữa các bước trong quy trình góp phần hạn chế rủi ro
trong hoạt động cho vay của Ngân hàng.
Tuy nhiên để hạn chế tối đa rủi ro tín dụng thì bên cạnh việc xây dựng quy
trình tín dụng hợp lý, chất lượng cán bộ tín dụng cũng là một trong những yếu tố
phải được quan tâm đặc biệt.
1.3.1.3. Năng lực của cán bộ tín dụng

24



×