Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

BÁO CÁO THU HOẠCH THỰC TẬP THIÊN NHIÊN: ẢNH HƯỞNG CỦA HOẠT ĐỘNG DU LỊCH ĐẾN MÔI TRƯỜNG ĐẤT NƯỚC KHU VỰC TAM ĐẢ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.11 MB, 51 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
KHOA MÔI TRƯỜNG
---------------

BÁO CÁO THU HOẠCH
THỰC TẬP THIÊN NHIÊN

Chuyên đề: ẢNH HƯỞNG CỦA HOẠT ĐỘNG DU LỊCH ĐẾN MÔI TRƯỜNG
ĐẤT NƯỚC KHU VỰC TAM ĐẢ

Sinh viên

:

Lê Đức Dũng
Cung Hồng VIệt
Nguyễn Đức Khánh
Phan Minh Vũ

Lớp

:

ĐH5QM1

Nhóm

:

5


Hà Nội, 6/2017


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chuyên đề báo cáo thực tập thiên nhiên này trước hết em xin gửi
đến quý thầy, cô giáo trong khoa Môi Trường trường Đại học Tài Nguyên và Môi
Trường lời cảm ơn chân thành nhất.
Em xin chân thành cảm ơn Ban Lãnh Đạo và các đồng chí kiểm lâm làm việc ở
Vườn Quốc Gia Tam Đảo và các cô chú trong đoàn hướng dẫn đã tạo điều kiện thuận
lợi cho em được tìm hiểu thực tế thiên nhiên đồng thời giải đáp các thắc mắc của
chúng em trong suốt chuyến đi Tam Đảo.
Cuối cùng em xin cảm ơn các thầy, cô giáo hướng dẫn chúng em trông chuyến đi
thực tế lần này đã giúp đỡ, cung cấp những kiến thức bổ ích để em hoàn thành tốt
chuyên đề thực tập thiên nhiên này.
Đồng thời nhà trường đã tạo cho em có cơ hội được thưc tập ở một địa điểm
thiên nhiên bổ ích, để em có thể trau dồi thêm kiến thức của mình thêm phong phú.
Qua công việc thực tập này em nhận ra nhiều điều mới mẻ và bổ ích để giúp ích cho
công việc sau này của bản thân.
Vì kiến thức bản thân còn hạn chế, trong quá trình thực tập, hoàn thiện chuyên đề
này em không tránh khỏi những sai sót, kính mong nhận được những ý kiến đóng góp
từ thầy, cô.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!


Mục lục


Danh mục bảng

Danh mục hình ảnh



Mở đầu
1. Đặt vấn đề
Hiện nay du lịch được xem là ngành kinh tế không khói quan trọng của nhiều
quốc gia trên Thế Giới, trong đó Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Du
lịch trở nên phổ biến và là nhu cầu không thế thiếu của con người khi đời sống tinh
thần của họ ngày càng được nâng cao và phong phú. Là một ngành dịch vụ, hoạt động
du lịch nhằm thỏa mãn những nhu cầu vui chơi, giải trí; tìm hiểu thiên nhiên xã hội,
các nét đẹp văn hóa; nghiên cứu, học tập;… Cùng với sự phát triển của các ngành kinh
tế khác, du lịch cũng fần có những tác động, ảnh hưởng tới tự nhiên, môi trường.
Khu du lịch Tam Đảo thuộc huyện Tam Đảo là một khu vực rộng lớn có tổng
diện tích tự nhiên là 214.85ha với phong cảnh địa chất chủ yếu là một vùng núi non
hùng vĩ, bao quát cả vùng đồng bằng Bắc Bộ rộng lớn. Thời tiết tại đây khá mát mẻ và
dễ chịu, rất phù hợp với các hoạt đông du lịch, nghỉ mát lý tưởng với sự luân chuyển
thời tiết rõ rệt trong một ngày, điều này tạo nên sự thú vị và cuốn hút đối với khác du
lịch.
Từ khi được đưa vào khai thác du lịch đến này thì Khu du lịch Tam Đảo vẫn luôn
là một trong những địa điểm du lịch nổi tiếng và thu hút một lượng lớn khác du lịch
mỗi năm với nhiều mục đích khác nhau như nghỉ dưỡng hay nghiên cứu học tập. Hoạt
động du lịch phát triển đã mang đến cho khu vực Tam Đảo một diện mạo mới và cuộc
sống với điều kiện tốt hơn cho người dân ở đây từ các hoạt động khai thác du lịch.
Mặc dù vậy, sự phát triển này cũng đem lại nhiều vấn đề, trong đó nổi bật là các vấn
đề liên quan đến môi trường, cụ thể là ảnh hưởng tới môi trường đất tại đây.
Chính vì vậy, đề tài “Đánh giá ảnh hưởng của hoạt động du lịch tới môi
trường đất, nước tại Khu du lịch Tam Đảo” được thực hiện nhằm đánh giá mối
quan hệ giữa các hoạt động du lịch trên địa bàn với thực trạng chất lượng đất khu vực.
Từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế các ảnh hưởng đó.
2. Mục tiêu của chuyên đề
2.1 Mục tiêu chung

Tìm hiểu về ảnh hưởng của hoạt động du lịch tới môi trường đất, nước tại Khu
vực thực tập – Khu du lịch Tam Đảo.
2.2 Mục tiêu cụ thể
- Tìm hiểu về các hoạt động du lịch tại Khu du lịch Tam Đảo và đánh giá về ảnh
hưởng của các hoạt động này tới môi trường đất tại đây.
- Đề xuất các phương pháp giúp cải thiện hoạt động quản lý các hoạt động du
lịch và bảo vệ môi trường đất.

5


Phần 1: Lộ trình, điểm khảo sát và các nội dung thực tập

Hình 1 Bản đồ lộ trình chuyến đi thực tập

6


Hình 2 Quang cảnh trên đường lên Tam Đảo (Ảnh chụp: Cung Hồng Việt)

Theo đúng như lịch trình mà Nhà trường đã lên sẵn và thông báo cho sinh viên,
đúng 13h30 ngày 05/06/2017, chúng tôi có mặt tại cổng trường Đại học Tài nguyên và
Môi trường Hà Nội đê điểm danh, tập trung và lên xe di chuyển tới địa điểm thực tập
là Thị trấn Tam Đảo – cách Hà Nội 80km bao gồm 50km theo quốc lộ 2 và khoảng 24
km theo quốc lộ 2B trong đó thì bao gồm đoạn đường khoảng 13km là đường đèo khá
dốc. Đúng 14h00, chuyến xe mang số 08 của chúng tôi bắt đầu lăn bánh, đánh dấu bất
đầu chuyến đi thực tế đầu tiên của chúng tôi sau 2 năm đầu của Đại học kéo dài 3 ngày
2 đêm.
Sau hơn 2 giờ đồng hồ trên xe thì chúng tôi đã có mặt tại Tam Đảo vào lúc
16h15. Tam Đảo là một nơi có khí hậu nhiệt đới gió mùa, với lượng mưa trung bình có

thể đạt tới 2800mm tập trung trong mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10 hàng năm và
chiếm khoảng 90% lượng mưa cả năm. Với độ cao hơn 1000m so với mực nước biển,
khí hậu tại đây khá là mát mẻ và ôn hòa, nhiệt độ có sự chuyển biến rõ rệt trong ngày
với 4 kiểu khí hậu của 4 mùa trong năm. Điều này làm cho mọi người trong xe đều
cảm thấy thoải mái và vui vẻ vì được giải thoát khỏi cái nắng cháy da thịt lên tới 41°C
lúc bấy giờ tại Hà Nội. Sau khi tới nơi, tập trung điểm danh, chúng tôi nhận phòng
nghỉ ngơi tại khách sạn Tuấn Anh nằm ở khu vực trung tâm Tam Đảo. Sau khi dùng
bữa tối tại khách sạn, chúng tôi có một buổi tối nghỉ ngơi và tự do tham quan, khám
phá khu du lịch nổi tiếng này trước khi bắt đầu có cuộc khảo sát đầu tiên vào ngày
hôm sau (06/06/2017).
8h30 sáng ngày 06/06/2017, toàn đoàn tập trung tại bãi xe trước cửa khách sạn
điểm danh, nghe cán bộ hướng dẫn của Vườn quốc gia Tam Đảo hướng dẫn, giới thiệu
tổng quan về hiện trạng đa dạng sinh học của vườn và các mô hình sinh kế của người
dân tại Thị trấn Tam Đảo. Sau đó cả đoàn được tách ra 2 nhóm đi khảo sát tại Rùng
Rình và nhóm còn lại đi tìm hiểu về các mô hình sinh kế của người dân tại Thị trấn
7


Tam Đảo. Theo lịch trình, chúng tôi được phân đi tìm hiểu về hoạt động sinh kế của
người dân Thị trấn Tam Đảo đầu tiên.

8


Hình 3 Cánh đồng su su (Ảnh chụp: Cung Hồng Việt)

Đường đi khảo sát là đường đèo, được trải nhựa nên rất dễ đi. Trên đường đi,
người hướng dẫn giới thiệu về các mô hình sinh kế của người dân từ xưa tới nay, ban
đầu khi hoạt động du lịch chưa phát triển, cây trồng được trồng chủ yếu là chè từ
những năm 90 của thế kỉ trước. Nhưng sau khi hoạt động du lịch phát triển và được

khai thác triệt để, người dân đã biết kết hợp hoạt động nông nghiệp với du lịch bằng
cách chuyển đổi sang loại cây khác. Với khí hậu thích hợp, ban đầu xuất hiện một vài
hộ trồng su su, khách du lịch từ nơi khác tới rất thích su su tại đây, nên sau đó, su su đã
đường trồng rộng rãi tại đây.
Ảnh 2: Cánh đồng su su (Ảnh chụp: Cung Hồng Việt)
Cùng với đó, các khách sạn, nhà nghỉ và các khu chợ cũng được hình thành nhằm
phục vụ cho khai thác du lịch. Càng nhiều khách du lịch đến với Tam Đảo thì đời sông
của người dân tại đây ngày càng được cải thiện. Khoảng 11h00 trưa, chúng tôi quay
trở lại khách sạn, nghỉ ngơi dùng bữa trưa và ghi chép lại những gì mình thu thập được
sau chuyến đi khảo sát buổi sáng.
Sáng gày hôm sau (07/06/2017), do trời mưa vào lúc sáng sớm nên chúng tôi
được cán bộ hướng dẫn của vườn quốc gia giới thiệu về vườn qua máy chiếu. Rất may
sau đó, thời tiết tốt hơn, trời đã ngớt mưa, vì vậy thầy hướng dẫn đã quyết định chuyến
khảo sát vẫn sẽ được tiếp tục theo đúng như lịch trình đó là khảo sát tại đỉnh Rùng
Rình – cao 1300m.

9


Hình 4 Đường lên đỉnh Rùng Rình (Ảnh chụp: Cung Hồng Việt)

Do trời mưa từ đêm trước đó nên đường đi vào phía trong khá là khó đi vì có
nhiều vũng ngập nước rộng và dài chắn lối đi. Vì vậy, chúng tôi không lên được tới
đỉnh, dừng chân tại bãi đậu xe và được người hướng dẫn cung cấp thêm những thông
tin về Vườn quốc gia Tam Đảo.

10


Phần 2: Ảnh hưởng của hoạt động du lịch tới môi trường đất, nước khu vực thực

tập
Nghiên cứu thực địa được nhiều ngành khoa học sử dụng với ý nghĩa là một hình
thức tham khảo chung để thu thập hoặc lấy những thông tin mới bên ngoài phòng thí
nghiệm hoặc nơi làm việc.
Phương pháp nghiên cứu thực địa
Đây là phương pháp truyền thống của địa lý học và được sử dụng rộng rãi trong
du lịch để tích lũy tài liệu thực tế về sự hình thành, phát triển và đặc điểm của tổ chức
lãnh thổ nghỉ ngơi du lịch. Trong nhiều trường hợp (ví dụ: nghiên cứu hoạt động du
lịch cá nhân không có người đứng ra tổ chức, tìm hiểu các luồng du lịch…). Đây là
phương pháp duy nhất để thu được lượng thông tin đáng tin cậy và xây dựng ngân
hàng tư liệu cho các phương pháp phân tích khác (bản đồ, toán học, cân đối…).
Phương pháp quan sát
Phương pháp quan sát là phương pháp thu thập dữ liệu đơn giản, dễ thực hiện
nhưng rất hữu ích, muốn phương pháp này đạt kết quả tốt cần phải có một mẫu nghiên
cứu cụ thể. Có hai cách khác nhau trong việc thực hiện phương pháp quan sát:
Quan sát, nghiên cứu các tài liệu có sẵn trong một thời gian
Quan sát để ghi nhận lại thái độ của đối tượng nghiên cứu
Phương pháp phân tích hệ thống du lịch Tam Đảo
Hệ thống lãnh thổ du lịch như một thành tạo toàn vẹn về hoạt động và lãnh thổ có
sự lựa chọn các chức năng xã hội nhất định. Một trong những chức năng đó là việc hồi
phục, tái sản xuất sức khỏe, khả năng lao động, thể lực và tinh thần của con người. Hệ
thống lãnh thổ du lịch được tạo thành từ nhiều phân hệ khác nhau về bản chất nhưng
có mối quan hệ mật thiết với nhau. Đó là phân hệ khách du lịch, phân hệ tổng thể tự
nhiên lịch sử - văn hóa, phân hệ công trình kỹ thuật phục vụ du lịch, phân hệ cán bộ
công nhân viên phục vụ và bộ phận điều khiển.
Như vậy, hệ thống lãnh thổ du lịch có đặc điểm tổng hợp với tính năng đa dạng
và phức tạp của mối liên hệ. Của các chức năng xã hội, điều kiện và các yếu tố phát
triển, của các hình thức tổ chức theo lãnh thổ.
Việc sử dụng phương pháp tiếp cận hệ thống cho phép tìm kiếm và nêu lên các
mô hình của đối tượng nghiên cứu, thu thập và phân tích thông tin ban đầu, vạch ra các

chỉ tiêu thích hợp, xác định cấu trúc tối ưu của hệ thống lãnh tổ du lịch.
Phân tích hệ thống lãnh thổ du lịch nhằm mục đích nghiên cứu cơ chế hoạt động
bên trong của hệ thống trong quá trình tác động qua lại giữa các thành phần cũng như
cả hoạt động bên ngoài và tác động qua lại của nó với môi trường xung quanh.
Phương pháp lấy mẫu ngoài hiện trường và phân tích trong phòng thí
nghiệm:
11


Tiến hành lấy mẫu, đo đạc và phân tích chất lượng môi trường khu vực dự kiến
thực hiện dự án và khu vực xung quanh bao gồm:hiện trạng môi trường đất, nước,
không khí để làm cơ sở đánh giá các tác động của hoạt động du lịch đến khu vực thực
tập.
Phương pháp tổng hợp, so sánh
Tổng hợp các số liệu thu thập được, so sánh với Tiêu chuẩn, quy chuẩn Việt
Nam. Từ đó đánh giá hiện trạng chất lượng môi trường nước, đất tại khu vực nghiên
cứu, dự báo đánh giá và đề xuất các giải pháp giảm thiểu tác động tới môi trường do
các hoạt động du lịch.
Phương pháp chụp ảnh và ghi chép
- Phương pháp chụp ảnh là phương pháp thu thập dữ liệu, thông tin một cách
nhanh chóng, cụ thể, dễ dàng, chính xác.
- Phương pháp ghi chép là phương pháp thu thập thông tin, dữ liệu qua sách báo,
internet hoặc tìm hiểu dân cư địa phương, hướng dẫn viên.
- Phương pháp và chú ý khi chụp ảnh vùng rừng núi:
Sử dụng chân máy để lấy sáng lâu hơn giúp bức ảnh sắc nét và màu sắc rõ hơn.
Thường xuyên chụp ảnh tại cùng một địa điểm sẽ thu được những kết quả mỹ
mãn hơn.
Hiểu biết các điểm khác thường của khu vực bạn chụp ảnh, chẳng hạn như: thời
tiết bất thường, thú hoang, côn trùng gây hại và nấm độc, thực vật nguy hiểm…
Quan sát qua ống kính máy ảnh để quan sát đúng hình ảnh 2 chiều qua khung

ảnh.
Xem hình ảnh qua ống kính: chi tiết nào thể hiện, chi tiết nào thiếu. Những gì nhìn
thấy qua ống kính khác với những gì bạn nhìn thấy.
Đưa vào khung hình những gì mình thấy thú vị và loại bỏ những gì không đáng.
Một số máy ảnh và ống kính cho phép người chụp có thể lấy cận các vật thể nhỏ.
Càng gần càng tốt là thường là cách tốt nhất khi chụp cảnh thiên nhiên.
Nếu chủ thể có bố cục dọc, hãy xoay máy lại cho tương thích.
Thử các góc nhìn mới lạ và tập trung vào tiêu điểm.
Dùng các động từ để hình dung về các bức ảnh sẽ chụp, chứ không chỉ là các
danh từ gọi tên chủ thể.Người cầm máy nên hòa nhập vào sự việc và dự đoán những gì
sắp xảy ra tiếp theo và chờ đợi nắm bắt ngay những khoảnh khắc ấy. Chẳng hạn
như một chú ong hút mật, gió thổi qua cánh đồng…
Chọn đúng độ phơi sáng, giữ chắc tay máy, sử dụng chế độ chụp tay
Phương pháp ghi chép khi tiếp nhận thông tin từ giáo viên, hướng dẫn viên:
Phương pháp cornell.
Phương pháp lập bảng.
12


Phương pháp ghi theo dàn ý.
Phương pháp lập bản đồ.
Phương pháp chép nguyên câu.

13


Phần 3: Đặc điểm tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, môi trường, kinh tế xã hội các
khu vực nghiên cứu
3.1 Đặc điểm tự nhiên:
3.1.1. Vị trí địa lý

Tam Đảo là huyện được tái lập ngày 1/1/ 2004, trên cơ sở điều chỉnh địa giới
hành chính một số xã, thị trấn thuộc huyện Bình Xuyên, Tam Dương, Lập Thạch và thị
xã Vĩnh Yên. Hiện tại, huyện Tam Đảo có 9 đơn vị hành chính cấp xã (thị trấn) là Đại
Đình, Tam Quan, Hồ Sơn, Hợp Châu, Yên Dương, Đạo Trù, Bồ Lý, Minh Quang và
thị trấn Tam Đảo.

Hình 5 Bản đồ Vườn quốc gia Tam Đảo

Toạ độ địa lý: Từ 21độ 21' đến 21 độ 42' vĩ độ bắc và 105 độ 23' đến 105 độ 44'
kinh độ đông.

14


3.1.2. Địa hình, địa đạo
VQG Tam Đảo chiếm giữ toàn bộ hệ núi Tam Đảo, có cấu tạo hình khối đồ sộ,
nằm ở phía bắc đồng bằng Bắc Bộ, chạy dài theo hướng tây- bắc- đông- nam. Cả khối
núi có đặc điểm chung là đỉnh nhọn, sườn dốc, độ chia cắt sâu và dày. Chiều dài khối
núi gần 80km, có gần 20 đỉnh cao sàn sàn trên 1000m được nối với nhau bằng đường
dông núi sắc, nhọn. Đỉnh cao nhất là đỉnh Nord (1592m) là ranh giới địa chính của 3
tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang và Thái Nguyên. Chiều ngang biến động trong khoảng
10-15km. Núi cao, bề ngang lại hẹp nên sườn núi rất dốc, bình quân 25-35 độ, nhiều
nơi trên 35o nên rất hiểm trở và khó đi.
- Dựa vào độ cao, độ dốc, địa mạo có thể phân chia dẫy núi Tam Đảo thành
bốn kiểu địa hình chính:
+Thung lũng giữa núi và đồng bằng ven sông suối: độ cao tuyệt đối < 100m, độ
dốc cấp I ( <70). Phân bố dưới chân núi và tiếp giáp với đồng bằng.
+Đồi núi cao trung bình: Độ cao tuyệt đối 100-400m. Độ dốc cấp II ( 8 0-150) trở
lên. Phân bố xung quanh chân núi và tiếp giáp với đồng bằng.
+Núi thấp: Độ cao tuyệt đối 400-700m. Độ dốc trên cấp III ( 16 0-260). Phân bố

giũa hai kiểu địa hình đồi cao và núi trung bình.
+Núi trung bình: Độ cao tuyệt đối >700m – 1590m. Độ dốc > cấp III. Phân bố ở
phần trên của khối nứi. Các đỉnh và đường dông đều sắc và nhọn.
3.1.3. Địa chất
Dãy núi Tam Đảo được cấu tạo từ đá phun trào axít tuổi Triat thuộc hệ tầng Tam
Đảo. Thành tạo phun trào này kéo dài theo phương Tây Bắc- Đông Nam với chiều dài
khoảng 80km, rộng khoảng 10km, có quan hệ kiến tạo với các thành tạo tuổi Devon ở
phía Bắc và Tây Nam. Các đá phun trào Tam Đảo bị xâm nhập phức hệ Núi Điêng
xuyên cắt.
Hệ tầng phun trào axít Tam Đảo bao gồm chủ yếu là đá riolit, riolit pocphia,
riodacit, bề dày tổng cộng khoảng 800m. Đá riolit chứa các ban tinh fenspat và thạch
anh cỡ nhỏ đến vừa, chiếm khoảng 5-10% khối lượng. Thành tạo riolit Tam Đảo bị
phân cắt bởi hệ thống khe nứt, tạo ra các khổi kích thước khác nhau, bị chèn ép thành
tấm, đôi chỗ thành phiến, dập vỡ mạnh. Lấp đầy các khe nứt trong đá là các mạch
thạch anh.
+ Vỏ phong hóa và lớp thổ nhưỡng:
Điều tra, nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy VQG Tam Đảo có 4 loại đất
chính gồm:

15


Đất Feralit mùn vàng: phát triển trên đá Macma axit, loại đất này xuất hiện ở độ
cao từ 700 m trở lên, có diện tích là 8968ha, chiếm 24,31% diện tích của vườn.
Đất Feralit mùn vàng đỏ: phân bố trên núi thấp, phát triển trên đá Macma kết
tinh, loại đất này có diện tích 9292ha, chiếm 25,19% diện tích và xuất hiện ở độ cao từ
400m ( 700m.
Đất Feralit đỏ vàng: phát triển trên nhiều loại đá khác nhau, loại đất này thường
thấy ở độ cao từ 100 (400m, có diện tích là 17606 ha, chiếm 47,33% diện tích Vườn).
Đất dốc tụ và phù sa: loại đất này ở độ cao từ 100m trở xuống, thường thấy ở ven

chân núi, thung lũng hẹp, ven sông suối lớn, có diện tích là 1017ha, chiếm 2,76% diện
tích Vườn.
3.1.4. Khí Hậu
Do địa hình phức tạp, nhất là sự khác biệt về địa hình giữa vùng núi cao với đồng
bằng thấp ven sông nên khí hậu, thời tiết của huyện Tam Đảo được chia thành 2 tiểu
vùng rõ rệt (các tiểu vùng về khí hậu, không trùng với địa giới hành chính cấp xã). Cụ
thể:
- Tiểu vùng miền núi, gồm toàn bộ vùng núi Tam Đảo thuộc trị trấn Tam Đảo và
các xã Minh Quang, Hồ Sơn, Tam Quan, Đại Đình, Đạo Trù... có khí hậu mát mẻ,
nhiệt độ trung bình 180C-190C, độ ẩm cao, quanh năm có sương mù tạo cảnh quan đẹp.
Khí hậu tiểu vùng miền núi mang sắc thái của khí hậu ôn đới, tạo lợi thế trong phát
triển nông nghiệp với các sản vật ôn đới và hình thành các khu nghỉ mát, phát triển du
lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng vào mùa hè.
- Tiểu vùng khí hậu vùng thấp, bao gồm phần đồng bằng của các xã Minh Quang,
Hồ Sơn, Tam Quan, Đại Đình, Đạo Trù và toàn bộ diện tích của các xã còn lại. Tiểu
vùng khí hậu của vùng mang các đặc điểm khí hậu gió mùa nội chí tuyến vùng Đông
Bắc Bắc Bộ. Nhiệt độ của tiểu vùng trung bình ở mức 22 0C-230C, độ ẩm tương đối
trung bình khoảng 85-86%, lượng mưa trung bình 2.570 mm/năm và thường tập trung
vào tháng 6 đến tháng 9 trong năm.
3.1.5. Mạng lưới thủy văn
- Trong khu vực có hai hệ thống sông chính, đó là sông Phó Đáy ở phía tây
( Tuyên Quang, Vĩnh Phúc) và sông Công ở phía đông ( Thái Nguyên). Đường phân
thủy rõ rệt nhất của hai hệ thống sông này là đường dông nối các đỉnh núi suốt từ Mỹ
Khê ở cực nam đến Đèo Khế ở điểm cực bắc.
- Mạng lưới sông suối hai sườn Tam Đảo dồn xuống hai hệ thống sông này có
dạng chân rết khá dày đặc và ngắn., có cấu trúc dốc và hẹp lòng từ đỉnh xuống chân
núi. Từ chân núi trở đi sông lại có dạng uốn khúc phức tạp trên mặt cánh đồng khá
bằng phẳng, tương ứng với dạng địa hình đã tạo ra nó.

16



Mật độ sông suối khá dày ( trên 2km/km2), các suối có thung lũng hẹp, đáy nhiều
ghềnh thác, độ dốc lớn, khả năng điều tiết nước kém, chúng là kết quả của quá trình
xâm thực.
- Do đặc điểm khí hậu mưa lơn, mùa mưa dài, lượng bốc hơi ít ( ở đỉnh Tam
Đảo) nên cán cân nước dư thừa. Đó là nguyên nhân làm cho các dòng chảy từ đỉnh
Tam Đảo xuống có nước quanh năm.
Nhưng chế độ thủy văn lại chia thành hai mùa rõ rệt: mùa lũ và mùa cạn. Mùa lũ
trùng với mùa mưa ( từ tháng 4 đến tháng 10), mùa cạn từ tháng 11 đến tháng 3 năm
sau. Lũ lớn thường xảy ra vào tháng 8, lũ thường tập trung và rút cũng nhanh. Sự phân
phối dòng chảy rất không đều giữa hai mùa.
Như vậy lưu vực sông Phó Đáy lớn hơn sông Công và tổng lượng nước chảy
cũng lớn hơn sông Công. Độ lệch lượng nước chảy mùa lũ và mùa cạn cũng rất lớn.
Môđun dòng chảy các mùa cũng thay đổi rất đáng kể.
- Lưu lượng dòng chảy lớn nhất tuyệt đối là 331m3/s, so với lưu lượng nhỏ nhất
tuyệt đối 3,7m3/s thì lớn gấp 90 lần.
- Lượng bùn cát lơ lửng 3,2kg/s với tổng lượng bùn cát là 101.000T/năm.
- Môđun xâm thực trên sông Phó Đáy tới 84,8T/km2 .
- Dòng chảy mùa cạn do không có mưa to nên nguồn nước cung cấp cho sông
hoàn toàn là do nước ngầm ( phụ thuộc vào lớp vỏ phong hóa địa chất và lượng mưa
phùn mùa đông ). Cả hai sông đều có dòng chảy rất nhỏ. Như vậy khả năng cung cấp
nước cho mùa đông là rất hạn chế.
Các dòng sông suối trong vùng không có khả năng vận chuyển thủy, chỉ có thể
dùng làm nguồn thủy điện nhỏ cho từng gia đình dưới chân núi.
Trong vùng cũng có những hồ chứa cỡ lớn như Hồ Núi Cốc, Hồ Đại Lải, các hồ
cỡ trung bình hoặc nhỏ như Hồ Xạ Hương, Khôi Kỳ, Phú Xuyên, Linh Lai, Hồ Sơn,
….Đó là nguồn dự trữ nước khá phong phú phục vụ nhu cầu dân sinh và sản xuất của
nhân dân trong vùng.
3.2.Tài nguyên thiên nhiên:

3.2.1. Tài nguyên đất
-Về số lượng: Theo số liệu kiểm kê năm 2010, tổng diện tích tự nhiên của huyện
Tam Đảo là 23.587,62. Đất nông, lâm, thủy sản là 19.020,42 ha chiếm 82,64% tổng
diện tích đất tự nhiên. Đáng lưu ý là, trong đất sản xuất nông nghiệp, đất trồng cây
hàng năm có 3.179,21 ha, chiếm 72,68%, trong đó đất trồng lúa là 2.618,96 ha, chiếm
82,38%, đất trồng cây hàng năm. Đất cây lâu năm là 1.194,86 ha, chiếm 27,32% diện
tích đất sản xuất nông nghiệp. Diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản chỉ có 28,00 ha
trong khi diện tích mặt nước chuyên dùng lên đến 1.624,82 ha.

17


+ Trong 14.618,35 ha đất lâm nghiệp, đất rừng sản xuất chỉ có 1.752,28 ha, đất
rừng phòng hộ có 537,66 ha, đất rừng đặc dụng lên đến 12.328,41 ha. Đây là tiềm
năng quý, nhưng cũng đặt ra nhiều vấn đề bảo vệ trong phát triển kinh tế.
+ Với quỹ đất như trên, bình quân diện tích đất tự nhiên trên đầu người khá thấp
(khoảng 0,36 ha). Nhưng do đã giao cho VQG Tam Đảo, Lâm trường Tam Đảo và các
tổ chức khác trên địa bàn nên thực tế diện tích sản xuất bình quân đầu người ở Tam
Đảo cũng thấp hơn. Đây là một sức ép rất lớn trong phát triển kinh tế - xã hội vì phần
lớn dân số và lao động trong huyện đang thu hút vào lĩnh vực nông nghiệp
Đơn vị: ha
TT

Loại Đất
2005
Tổng diện tích tự nhiên
23.573,10
I
Đất nông nghiệp
19.569,88

1
Đất sản suất nông nghiệp
4.692,90
2 Đất mặt nước nuôi trồng thuỷ sản
30,99
3
Đất sản xuất lâm nghiệp
14.822,21
II
Đất phi nông nghiệp
3.882,79
III
Đất chưa sử dụng
120,43
1
Đất đồi núi chưa sử dụng
73,48
2
Núi đá không có rừng cây
1,82
3
Đất bằng chưa sử dụng
45,13

2006
23.573,10
19.509,83
4.650,12
34,03
14.804,90

3.943,12
120,15
72,95
1,82
45,38

2008
23.587,62
19.353,41
4.594,71
33,59
14.704,33
4.114,94
119,27
73,40
1,84
44,03

2010
23.587,62
19.020,42
4.374,07
28,00
14.618,35
4.472,02
95,18
72,80
1,82
20,56


Bảng 1 Tình hình đất đai của huyện Tam Đảo 2005-2010

- Về chất lượng: Trên địa bàn huyện Tam Đảo có các loại đất chính như đất đồi
núi, đất phù sa cổ ven sông, đất dốc tụ ven đồi, núi. Nhìn chung chất lượng đất đai của
Tam Đảo không thuộc loại cao.
- Về biến động: Đất nông nghiệp giảm từ 19.569.88 ha năm 2005 xuống
19.020,42 năm 2010, tức giảm 549,46 ha.
3.2.2. Động vật
- Khu hệ động vật Tam Đảo với 307 loài, trong đó thú: 64 loài, chim 239 loài, bò
sát 76 loai và 28 loài lưỡng cư. Khu hệ côn trùng đã ghi nhận 437 loài của 271 giống
thuộc 46 họ. VQG Tam Đảo gồm 11 loài đặc hữu hẹp, trong đó có 2 loài bò sát, 1 loài
lưỡng cư và 8 loài côn trùng. Ngoài ra Tam Đảo còn có 22 loài động vật đặc hữu ở
miền bắc Việt Nam, 6 loài đặc hữu của Việt Nam, 56 loài nằm trong sách đỏ Việt
Nam.Loài lưỡng cư đặc hữu của Tam Đảo là cá cóc Tam Đảo (Paramesotriton
deloustali).
- Nếu so với khu hệ thú trên cạn của toàn quốc (295 loài, 37 họ, 18 bộ), thì khu
hệ thú ở Vườn quốc gia Tam Đảo chiếm tới 30,84% tổng số loài, 73% tổng số họ và

18


44,44% tổng số bộ. Điều đó cho thấy khu hệ thú VQG Tam Đảo có tầm quan trọng cao
trong bảo tồn đa dạng sinh học các loài thú hoang dã Việt Nam.

19


3.2.3. Thực vật
- Theo các báo cáo đã được thực hiện, Tam Đảo có đến 904 loài thuộc 478 chi,
213 họ thực vật bậc cao. Trong đó ngành thông đất 2 loài, ngành cỏ tháp bút 1 loài,

ngành dương xỉ 57 loài, thực vật hạt trần 12 loài và thực vật hạt kín 832 loài. 64 loài
thực vật ở Tam Đảo là những loài quý hiếm.
3.3. Đặc điểm kinh tế xã hội:
3.3.1. Đặc điểm kinh tế và dân số
- Năm 2010 dân số của toàn huyện Tam Đảo là 71.528 người, mật độ dân số
trung bình là 303 người/km2, trong đó dân tộc thiểu số chiếm trên 41,9%.
Đơn vị: người
Chỉ tiêu
1.Tổng dân số
2. Tổng LĐ đang làm việc
- Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản

2004
2005
2009
2010
2015
2020
67.235 67.990 70.694 71.528 75.734 80.187
31.197 32.002 34.136 34.579 37.252 40.132
20.23 19.92 17.95 18.18 19.77 20.04
5
1
6
9
4
7
- Công nghiệp, TTCN, xây dựng 5.269 5.588 7.305 7.400 8.195 10.03
3
- Dịch vụ

5.603 6.493 8.875 8.990 9.313 10.05
2
3. Chất lượng nguồn lao động
- Lao động chưa qua đào tạo
30.14 30.82 31.16 29.39 26.07 24.07
9
1
6
2
6
9
- Công nhân kỹ thuật
225
320
1.092 2.974 5.588 7.224
- Trình độ trung cấp
490
512
922
1.176 2.608 4.013
- Cao đẳng, đại học trở lên
333
349
956
1.037 2.980 4.816
Bảng 2 Biến động nguồn lao động huyện Tam Đảo giai đoạn 2004-2010

Nguồn: Phòng Thống kê huyện Tam Đảo - Tài liệu phục vụ Quy hoạch
Tam Đảo là huyện miền núi mới được tái lập, điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu,
trình độ dân trí còn thấp và chưa đồng đều, nhất là đối với đồng bào dân tộc sống ở

vùng núi. Nhìn chung nguồn lao động của Tam Đảo có chất lượng thấp.Với những đặc
trưng về dân số và nguồn lao động như trên, Tam Đảo vừa có thuận lợi trong phát triển
kinh tế, vừa có những khó khăn, đặc biệt là trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng tăng tỷ trọng các ngành thương mại, dịch vụ du lịch và tiểu thủ công nghiệp.
3.3.2.Các giá trị truyền thống dân tộc, văn hóa và tôn giáo.
Tam Đảo là huyện miền núi có nhiều dân tộc anh em và nhiều yếu tố truyền
thống, văn hóa, lịch sử tạo những điều kiện tiền đề cho sự phát triển Kinh tế - Xã hội
của Huyện.

20


Huyện Tam Đảo có 110 di tích đình, chùa, đền, miếu, trong đó có nhiều di tích có
giá trị văn hoá cao, minh chứng cho một thời kỳ du nhập, phát tích và hưng thịnh của
Phật giáo vào Việt Nam.
Hiện nay, Tam Đảo còn lưu giữ được một làn điệu dân ca truyền thống của dân
tộc Sán Dìu, đó là hát Soọng Cô. Bên cạnh hát Soọng Cô, khu vực xã Đạo Trù còn có
“Chợ tình”, do thời gian và sự phát triển của Kinh tế - Xã hội, chợ tình Đạo Trù hiện
nay đã mai một, nhưng có thể khôi phục lại.
Tam Đảo là huyện miền núi có 3 xã thuộc Chương trình 135. Vì vậy, Tam Đảo đã
và đang tiếp tục nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước qua các
Chương trình phát triển kinh tế đối với các xã vùng cao, các xã thuộc diện đặc biệt khó
khăn.

21


PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1 Các hoạt dộng du lịch tại khu du lịch Tam Đảo
4.1.1.Tâm linh các đền- tín ngưỡng – văn hóa

Du lịch tâm linh - tín ngưỡng – văn hoá Tam Đảo đã và đang có sự phát triển khá
mạnh mẽ. Trên thị trấn Tam Đảo quanh năm mây phủ có đền thờ Bà chúa Thượng
Ngàn có từ lâu đời. Thu hút khách thập phương và khách du lịch lên thăm viếng rất
đông. Tiếp đến là Đền Thạch kiếm ở độ cao trên 900m, trên dông núi Mỏ Quạ, ngang
thôn 2 sang. Đền Mẫu trên đường đi lên thị trấn Tam Đảo, gần lối rẽ vào Rùng Rình.
Đền thờ Năng Thị Tiêu, năm 1946 bị phá làm nhà bưu điện, nay đã được xây dựng lại.
Đến thị trấn Tam Đảo không thể không nói đến đền thờ Đức Thánh Trần ở gần thôn 2
trên độ cao 800m. Đền cao 6-7m, mái cong, xung quanh đã trồng nhiều cây gỗ và cây
cảnh.
4.1.2 Du lịch nghỉ dưỡng
Với lợi thế về vị trí địa lý, khí hậu mét mẻ, hàng năm Tam Đảo đã thu hút một
lượng khách du lịch đến nghỉ dưỡng, nghỉ cuối tuần chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số
khách đến Tam Đảo. Mùa hè hàng năm, từ giữa tháng 4 đến đầu tháng 9, vào những
ngày nghỉ cuối tuần (nhất là những ngày nắng, nóng) công suất sử dụng buồng, phòng
của các khách sạn, nhà nghỉ tại khu nghỉ mát thị trấn Tam Đảo gần như quá tải. Khách
du lịch đến với Tam Đảo sau một tuần làm việc nhằm nghỉ ngơi, dưỡng sức cho một
tuần làm việc mới, đồng thời cũng để tránh những sự đông đúc, ồn ào, ô nhiễm của các
đô thị lớn và các khu công nghiệp. Bên cạnh nhu cầu nghỉ cuối tuần, Tam Đảo những
năm qua còn biết đến là một điểm nghỉ dưỡng lý tưởng.
4.1.3.Du lịch thể thao
Tam Đảo được nhiều vận động viên quốc gia và nhiều doanh nhân biết đến, bởi
nơi đây có Trung tâm thể thao Quốc gia III và sân golf Tam Đảo được đầu tư xây dựng
đồng bộ, hiện đại. Ngoài ra ở độ cao trên 1.100m có đài truyền hình Việt Nam được
khởi công xây dựng năm 1973 và khánh thành năm 1978 rất nổi tiếng và tạo cảm giác
thích thu với nhiều du khách. Từ chân núi đi lên đến Đài phải leo qua 1520 bậc. Đài
thường có mây bao phủ tạo nên một quang cảnh thơ mộng, tạo cho du khách cảm giác
như ở trên thiên đường.
4.1.4.Du lịch sinh thái
Vườn quốc gia Tam Đảo có hệ động vật, thực đa dạng phong phú, với nhiều cảnh
quan thiên nhiên đẹp, thuận tiện về giao thông là địa điểm lý tưởng cho du lịch sinh

thái.

22


4.1.5.Du lịch khám phá
a. Tháp truyền hình:

Hình 6 Tháp truyền hình Tam Đảo (Ảnh: Đức Dũng)

Nằm trên đỉnh Thiên Thị có độ cao 1.375 m. Ðường đi lên tuy vất vả nhưng lãng
mạn, nên thơ. Dọc đường lên là hoa phong lan, hoa cúc quỳ và các loài hoa dại không
tên khác nở đầy lối đi, tỏa hương thơm lạ, mầu sắc rực rỡ...

23


Hình 7 Đường lên tháp Truyền Hình (Ảnh: Đức Dũng)

Ở nơi đây nhiều loại bướm đủ mầu rập rờn trên hoa lá, đậu, bay theo du khách
như các sứ giả đón khách ghé thăm. Lên tới đỉnh, phóng tầm mắt ra bốn phía là mênh
mông trời, đất, gió, mây...Sau khi leo bộ lên gần 1.400 bậc đá đứng trên đỉnh Thiên
Thị, và đứng dưới chân ngọn tháp truyền hình cao hơn 100 m, với cảm giác của một
người vừa chinh phục đỉnh cao, hít một hơi căng đầy lồng ngực luồng không khí trong
lành của Tam Ðảo, ta chợt thấy lòng mình thật thanh thản.

24


Hình 8 Bướm, Hoa chụp trên đường lên tháp (Ảnh:Đức Dũng )


b. Đền Bà Chúa Thượng Ngàn:
Nếu vì thời gian eo hẹp, không thể leo lên được đỉnh Thiên Thị, bạn hãy leo gần
200 bậc đá đến Ðền Bà chúa Thượng Ngàn. Ngôi đền là nơi lưu giữ một truyền thuyết
đẹp. Với khung cảnh mộng mơ của thị trấn miền mây trắng vẫn còn nguyên vẹn.

25


×