Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Thế chấp phần vốn góp trong công ty theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (920.99 KB, 91 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ VÂN TRANG

THẾ CHẤP PHẦN VỐN GÓP TRONG CÔNG
TY THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2017
i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ VÂN TRANG

THẾ CHẤP PHẦN VỐN GÓP TRONG CÔNG TY
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số
: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGÔ HUY CƢƠNG

Hà Nội – 2017


ii


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ
Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Trần Thị Vân Trang

iii


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THẾ CHẤP PHẦN VỐN GÓP TRONG
CÔNG TY ............................................................................................................... 7
1.1. Khái quát chung về thế chấp phần vốn góp ...................................................... 7
1.1.1. Các khái niệm liên quan đến thế chấp phần vốn góp ..................................... 7
1.1.2. Bản chất của hoạt động thế chấp phần vốn góp trong công ty .................... 13
1.1.3. Đặc điểm pháp lý của tài sản thế chấp là phần vốn góp theo pháp luật Việt
Nam ........................................................................................................................ 15
1.2. Vai trò của hoạt động thế chấp tài sản là phần vốn góp đối với doanh nghiệp
................................................................................................................................ 20

1.3. Hệ thống pháp lý về hoạt động thế chấp phần vốn góp của doanh nghiệp trong
nền kinh tế Việt Nam ............................................................................................. 22
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THẾ
CHẤP PHẦN VỐN GÓP TRONG CÔNG TY ................................................. 27
2.1. Tổng quan nền kinh tế Việt Nam từ khi gia nhập WTO đến nay ................... 27
2.2. Pháp luật Việt Nam hiện hành về thế chấp phần vốn góp trong công ty. ...... 29
2.2.1. Đối tượng thế chấp phần vốn góp trong công ty .......................................... 33
2.2.3. Nội dung hợp đồng về thế chấp phần vốn góp ............................................ 36
2.2.4. Quyền, nghĩa vụ của bên thế chấp và bên nhận thế chấp phần vốn góp trong
công ty .................................................................................................................... 39
2.2.5. Hệ quả của thế chấp và Xử lý tài sản thế chấp là phần vốn góp .................. 43
2.3. Đánh giá thực trạng thế chấp phần vốn góp trong công ty tại Việt Nam ....... 54
2.3.1. Những kết quả đạt được ............................................................................... 54
2.3.2. Hạn chế ........................................................................................................ 56
2.3.3. Nguyên nhân ............................................................................................... 63
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY
ĐỊNH CỦA VIỆT NAM VỀ THẾ CHẤP PHẦN VỐN GÓP TRONG CÔNG
TY .......................................................................................................................... 66
iv


3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về thế chấp tài sản là phần vốn góp và hoạt
động xử lý tài sản ................................................................................................... 66
3.1.1. Các yêu cầu cải cách, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo định hướng của
Đảng và nhà nước................................................................................................... 66
3.1.2. Hoàn thiện quy định về thế chấp phần vốn góp nhằm đảm bảo nhu cầu phát
triển nền kinh tế, phù hợp với sự phát triển trong và ngoài nước .......................... 69
3.2. Phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về thế chấp phần vốn góp
trong công ty tại Việt Nam ..................................................................................... 71
3.3. Kiến nghị với các cơ quan quản lý .................................................................. 77

KẾT LUẬN ........................................................................................................... 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 83
11. ........................................................................................................................... 83

v


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật dân sự

LDN

: Luật Doanh nghiệp

WTO

: Tổ chức Thương mại Thế giới

vi


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài và tình hình nghiên cứu
Ngày nay cùng với quá trình toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại đã và đang
đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi cho các quốc gia phải tăng cường mở cửa, hợp tác
kinh tế quốc tế trên tất cả các mặt. Hội nhập và tham gia vào sân chơi của thế
giới là xu thế không thể đảo ngược đối với mỗi quốc gia trong quá trình xây

dựng và phát triển nền kinh tế - xã hội của từng nước.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường hiện nay khi mà các giao dịch
dân sự, thương mại được xác lập ngày càng nhiều thì các tranh chấp, kiện tụng
cũng theo đó ngày một gia tăng. Theo đó, hoạt động thế chấp quyền tài sản nói
chung và thế chấp phần vốn góp nói riêng được xem là một trong những công cụ
pháp lý căn bản, mang hiệu quả cao nhằm hạn chế nhưng rủi ro phát sinh từ
những giao dịch vay vốn, tín dụng. Đồng thời, hoạt động này có tác động mạnh
mẽ đối với doanh nghiệp nhằm góp phần giúp doanh nghiệp có sự linh động
trong nguồn vốn để có thể vận hành một cách dễ dàng hơn.
Những năm gần đây, khi Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO) đã tạo tiền đề cho việc phát triển các mối
quan hệ có liên quan đến thế chấp trong những giao dịch dân sự, thương mại,
đặc biệt trong các quan hệ cấp tín dụng. Vậy hành lang pháp lý cho các quan hệ
thế chấp nói chung và thế chấp phần vốn góp của doanh nghiệp nói riêng đã thực
sự an toàn, hiệu quả. Đồng thời, quyền và lợi ích hợp pháp của bên có quyền
trong quan hệ đã được bảo đảm hay chưa? Cho đến thời điểm này, các văn bản
pháp luật đã được ban hành như: BLDS năm 2015, Luật Doanh nghiệp 2014,
Đất Đai năm 2013, Luật kinh doanh Bất động sản năm 2014…và đặc biệt sự ra
đời của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính
phủ về giao dịch bảo đảm và Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22 tháng
1


02 năm 2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo
đảm, đã đánh một dấu mốc quan trọng trong lĩnh vực giao dịch bảo đảm nói
chung và quan hệ thế chấp nói riêng. Các dự thảo Luật Đăng ký giao dịch bảo
đảm, Luật đăng ký Bất động sản đang trong quá trình hoàn thiện.
Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật về phần vốn
góp và thế chấp phần vốn góp của doanh nghiệp còn phát sinh mâu thuẫn, không

mang tính thống nhất. Từ thực trạng nêu trên, nghiên cứu một cách có hệ thống,
khoa học các quy định của pháp luật về thế chấp phần vốn góp để hiểu đúng và
thực hiện đúng, cũng như phát hiện những điểm bất cập nhằm hoàn thiện chúng
là một công việc thực sự cần thiết và cấp bách.
Liên quan đến nội dung giao dịch đảm bảo nói chung và thế chấp phần vốn
góp nói riêng thì đã có nhiều đề tài khoa học, luận văn, bài viết trên tạp chí đã đề
cập một cách trực tiếp hoặc lồng ghép vào những nội dung liên quan. Đối với
giao dịch đảm bảo thì có sự nghiên cứu tương đối nhiều, có thể kể đến như: Sách
chuyên khảo của tập thể tác giả do Tiến sỹ Lê Thị Thu Thủy làm chủ biên
(2006), Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản của các tổ chức tín dụng,
NXB Tư pháp, Hà Nội. Sách của Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện (1999), Một số suy
nghĩ về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự trong luật dân sự Việt Nam, NXB
Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh. Sách chuyên khảo của PGS.TS Đỗ Văn Đại
(2012), Luật nghĩa vụ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ -Bản án và bình luận bản
án, Tập 1&2, NXB Chính trị quốc gia. Đề tài khoa học, 2010, Lý luận và thực
tiễn về biện pháp thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay trong các
hợp đồng tín dụng của Trường Đại học Luật Hà Nội, do Thạc sĩ Vũ Thị Hồng
Yến làm chủ nhiệm đề tài. Nhận tài sản bảo đảm là phần vốn góp: Từ quy định
pháp luật đến thực tiễn của Thạc sĩ Bùi Đức Giang - Công ty Luật Audier and
2


Partners Vietnam LLC & NCS khoa Luật, Đại học Paris 2 Panthéon Assas,
Pháp. Thạc sĩ Nguyễn Quang Hương Trà, 2011, "Bàn về khái niệm giao dịch
bảo đảm nhìn từ giác độ đối tượng của hoạt động đăng ký", Tạp chí Dân chủ và
pháp luật, số chuyên đề Pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm….trong đó các
công trình này ít nhiều đều đề cập đến vấn đề thế chấp phần vốn góp trong công
ty. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu triển khai trực tiếp về nội dung thế chấp
phần vốn góp còn khá khiêm tốn.
Với mục đích làm phong phú thêm nội dung nghiên cứu về thế chấp phần

vốn góp, tôi lựa chọn đề tài: "Thế chấp phần vống góp trong công ty theo pháp
luật Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ luật học với mong muốn
sẽ góp phần hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề
thế chấp phần vốn góp nhằm khẳng định tầm quan trọng của biện pháp thế chấp
này đối với doanh nghiệp nói chung trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện
nay. Đồng thời, qua đó nhằm góp phần phát hiện những hạn chế của pháp luật về
thế chấp nói chung và thế chấp phần vốn góp nói riêng cũng như những khó
khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi ở Việt Nam. Từ đó, đề xuất, kiến nghị
một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về thế chấp phần vốn
góp nói riêng và hệ thống pháp luật kinh tế nói chung, nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật về giao dịch đảm bảo ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
2. Phạm vi và mục đích nghiên cứu
Pháp luật về thế chấp phần vốn góp là một lĩnh vực tương đối rộng và phức
tạp thuộc phạm vi điều chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau. Trong khuôn khổ
luận văn thạc sĩ, phạm vi nghiên cứu luận văn thạc sĩ được giới hạn trong các
văn bản pháp luật về thế chấp phần vốn góp như: BLDS năm 2015, Luật Doanh
nghiệp 2014, Đất Đai năm 2013, Luật kinh doanh Bất động sản năm 2014…và
một số văn bản có liên quan như: Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng
3


12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm và Nghị định số 11/2012/NĐCP ngày 22 tháng 02 năm 2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ
về giao dịch bảo đảm... Nội dung luận văn giới hạn trong vấn đề lý luận về thế
chấp phần vốn góp được pháp luật Việt Nam quy định. Giới hạn khảo sát của
luận văn là quá trình áp dụng pháp luật thế chấp phần vốn góp tại Việt Nam.
Thông qua việc nghiên cứu trong phạm vi được đề ra ở trên, tác giả mong
muốn cung cấp cho người đọc một cách tổng thể các quy định về hoạt động thế
chấp phần vốn góp trong công ty. Trên cơ sở đó, nghiên cứu thực trạng, tình
hình thế chấp phần vốn góp tại Việt nam để có thể đánh giá được mức độ bảo vệ

của các quy định pháp luật trong thực tế. Đồng thời, dựa vào thực trạng đó để
nghiên cứu về nguyên nhân của thực trạng trên từ đó đưa ra những giải pháp để
tháo gỡ vướng mắc còn tồn tại.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để có thể đạt được mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, đòi hỏi luận văn
phải giải quyết các vấn đề sau:
Thứ nhất, đề cập khái quát về nội dung về quyền tài sản, thế chấp tài sản,
thế chấp phần vốn góp trong công ty và trình bày tổng quát việc hình thành việc
thế chấp tài sản trong quy định của pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, phân tích, đánh giá, các quy định về thế chấp phần vốn góp trong
công ty được hệ thống pháp luật Việt Nam quy định.
Thứ ba, nêu và phân tích thực trạng thi hành pháp luật Việt Nam về thế
chấp phần vốn góp trong công ty. Trên cơ sở đó phân tích nguyên nhân của thực
trạng trên và đưa ra các giải pháp, đề xuất để đảm bảo tốt việc thực hiện những
quy định về thế chấp phần vốn góp trong công ty.

4


Những năm trở lại đây, thế chấp phần vốn góp trong công ty là vấn đề đang
được nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều đối tượng quan tâm. Chọn hoạt động thế
chấp phần vốn góp trong công ty làm đối tượng nghiên cứu, chúng ta có điều
kiện đi sâu phân tích những vấn đề lý luận chung và các quy định của pháp luật
của Việt Nam về vấn đề này, khẳng định tính tất yếu khách quan của việc thế
chấp phần vốn góp trong quá trình phát triển kinh tế của thế giới và ở Việt Nam
hiện nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình
nghiên cứu luận văn đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch

sử của chủ nghĩa Mac - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quan điểm
của Đảng cộng sản Việt Nam. Theo đó, người viết đặt các vấn đề về thế chấp
phần vốn góp trong mối liên hệ, quan hệ với nhau, không nghiên cứu một cách
riêng lẻ đồng thời có sự so sánh với các quy định đã hết hiệu lực cũng như sắp
được áp dụng.
Một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu được áp dụng:
Phương pháp phân tích, phương pháp diễn giải: Những phương pháp này
được sử dụng phổ biến trong việc làm rõ các quy định của pháp luật về giao dịch
bảo đảm nói chung và thế chấp phần vốn góp nói riêng.
Phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh: Những phương pháp này
được người viết vận dụng để đưa ra ý kiến nhận xét quy định của pháp luật hiện
hành có hợp lý hay không, đồng thời nhìn nhận trong mối tương quan so với quy
định liên quan hoặc pháp luật của các nước khác…
Phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch: Được vận dụng để triển khai
có hiệu quả các vấn đề liên quan đến thế chấp phần vốn góp, đặc biệt là các kiến
5


nghị hoàn thiện. Cụ thể như trên cở sở đưa ra những kiến nghị mang tính khái
quát, súc tích người viết dùng phương pháp diễn dịch để làm rõ nội dung của
kiến nghị đó…
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả đạt được của luận văn góp phần làm sáng tỏ phương diện lý luận
trong khoa học pháp lý của vấn đề thế chấp phần vốn góp trong công ty. Cụ thể:
Xây dựng được khái niệm và đưa ra những tiêu chí cơ bản nhất để xác định thế
chấp tài sản vốn góp trong công ty, phân tích thực trạng điều chỉnh pháp luật đối
với vấn đề này, chỉ ra những bất cập của pháp luật và đưa ra phương hướng hoàn
thiện pháp luật về thế chấp phần vốn góp tại Việt Nam.
Ngoài ra, những giải pháp hoàn thiện pháp luật là cơ sở quan trọng để các
cơ quan chức năng trong phạm vi, thẩm quyền của mình sửa đổi, bổ sung, hoàn

thiện pháp luật trong lĩnh vực tương ứng. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là tài liệu
tham khảo hữu ích không chỉ với đội ngũ giảng viên, sinh viên mà còn có giá trị
đối với các cán bộ đang làm công tác hoạch định chính sách và xây dựng pháp
luật về giao dịch bảo đảm ở Việt Nam.
6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn gồm 3 chương, cụ thể:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thế chấp phần vốn góp trong công ty.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về thế chấp phần vốn góp đối với doanh
nghiệp hiện nay.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật Việt
Nam về thế chấp phần vốn góp trong công ty.

6


CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THẾ CHẤP PHẦN VỐN GÓP
TRONG CÔNG TY
1.1. Khái quát chung về thế chấp phần vốn góp
1.1.1. Các khái niệm liên quan đến thế chấp phần vốn góp
Hiện nay, đa phần người ta thường hiểu một cách đơn giản rằng: Thế chấp
phần vốn góp trong công ty có nghĩa là dùng quyền lợi của chủ thể đã tiến hành
góp vốn được ghi nhận trong điều lệ hay bút toán, sổ ghi của công ty để bảo đảm
cho việc vay nợ nếu không trả đúng hạn. Tuy nhiên, xét trong quan hệ thương
mại như hiện nay thì cách hiểu như trên có phần không chính xác.
Xét dưới góc độ ngôn ngữ, xét về định nghĩa thì "Thế chấp" là một từ có
nguồn gốc Hán Việt: "Thế là bỏ đi, thay cho" [13, tr.154], còn "Chấp là cầm,
giữ, bắt" [2, tr. 394]. Trong khi đó, phần vốn góp được xem là tài sản của cá
nhân, tổ chức và được nhắc đến là của cải vật chất dùng vào mục đích sản xuất
hoặc tiêu dùng. Khi phân loại tài sản theo chu kỳ sản xuất, ta có tài sản cố định

và tài sản lưu động. Còn khi phân loại tài sản theo đặc tính cấu tạo của vật chất,
ta có tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Như vậy, phần vốn góp được xem như
là tài sản của các cá nhân, tổ chức dùng khi tham gia vào các mối quan hệ được
pháp luật kinh tế điều chỉnh.
Để có thể đưa ra một khái niệm cơ bản, từ điển tiếng Việt giải thích: "Thế
chấp phần vốn góp là việc dùng [tài sản] dùng làm vật bảo đảm, thay thế cho số
tiền vay nếu không có khả năng trả đúng kỳ hạn"[23]. Xuất phát từ ngữ nghĩa cơ
bản của từ thế chấp phần vốn góp như trên thì chúng ta có thể hiểu đó là một
cách thức mà bên có quyền và bên có nghĩa vụ đã lựa chọn để bảo đảm cho việc
thực hiện nghĩa vụ thông qua phần vốn góp trong công ty; giá trị của phần vốn
góp có khả năng thay thế cho nghĩa vụ bị vi phạm. Từ đó, ta nhận thấy, thế chấp
7


phần vốn góp là việc một bên dùng phần vốn góp trong công ty mà chủ thể này
đã tiến hành góp vốn bằng tài sản trước đó để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự đối với bên kia và nếu bên thế chấp phần vốn góp không thực hiện nghĩa vụ
dân sự thì sẽ phải chuyển giao phần vốn góp trong công ty đó cho bên nhận thế
chấp. Phần vốn góp trong công ty làm đối tượng của hoạt động thế chấp do bên
thế chấp đứng tên với tư cách là chủ sở hữu bị giới hạn quyền sở hữu (Quyền
định đoạt), các bên cũng có thể thỏa thuận giao cho người thứ ba giữ tài sản thế
chấp.
Thế chấp tài sản nói chung là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự đã xuất hiện từ thời La Mã cổ đại. Theo các học giả La Mã, Luật về Cầm
cố và Thế chấp là luật thứ hai xuất hiện sau Luật về quyền dụng ích. Hình thức
đầu tiên của cách thức bảo đảm có tên gọi là Fiducia Cum Creditore (còn được
gọi là bán đợ). Người có nghĩa vụ chuyển giao một phần quyền sở hữu đối với
một số tài sản của mình (quyền định đoạt - Abusus) cho bên có quyền, khi người
có nghĩa vụ thực hiện xong nghĩa vụ thì bên có quyền hoàn trả lại tài sản. Đây là
biện pháp bảo đảm chuyển giao tài sản cùng với chuyển giao quyền sở hữu vật.

Mặc dù vậy, hiện nay khái niệm chưa thể hiện rõ được mục đích cũng như bản
chất của thế chấp tài sản nói chung và thế chấp phần vốn góp nói riêng trong các
hoạt động kinh tế. Đồng thời, những khái niệm trên chưa được đề cập đến dưới
phương diện là một khái niệm pháp lý trong bất kỳ văn bản pháp luật nào.
Dưới góc độ pháp lý, phần vốn góp trong công ty theo quy định của BLDS
2015 là tài sản vô hình. Vậy nên thế chấp tài sản vô hình không phải là một biện
pháp bảo đảm mới ở Việt Nam, song trong thực tế không ít ngân hàng thương
mại còn lúng túng khi xác lập các hợp đồng bảo đảm đối với loại tài sản này.
Không chỉ các ngân hàng thương mại mà với nhiều nhà đầu tư nước ngoài trong
đó có các ngân hàng không phải là người cư trú (offshore banks), cũng không
8


phải đơn giản khi xác định được nhận thế chấp loại tài sản vô hình nào từ doanh
nghiệp hay tổ chức tín dụng Việt Nam là bên vay vốn và đưa ra các điều khoản
phù hợp nhất để bảo vệ quyền lợi của mình cho phù hợp với pháp luật Việt Nam
hiện hành.
Để có cái nhìn tổng quan về thế chấp phần vốn góp thì cần tìm hiểu một số
khái niệm có liên quan. Theo đó, tại khoản 13 Điều 4 Luật doanh nghiệp năm
2014 đã đưa ra khái niệm về góp vốn, cụ thể: “Góp vốn là việc góp tài sản để
tạo thành vốn điều lệ của công ty. Góp vốn bao gồm góp vốn để thành lập doanh
nghiệp hoặc góp thêm vốn điều lệ của doanh nghiệp đã được thành lập.” Như
vậy, tài sản để tham gia vào việc góp vốn là rất đa dạng. Tuy nhiên, để tài sản
góp vốn trở thành phần vốn góp, thì những tài sản trên phải được tiến hành các
thủ tục định giá để xác định giá trị của tài sản góp vốn. Cụ thể, tại khoản 1 Điều
35 LDN quy định “Tài sản góp vốn có thể là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do
chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công
nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng Việt
Nam…”. Từ những quy định trên cho thấy có sự phân biệt rõ ràng giữa phần vốn
góp và tài sản góp vốn.

Tại khoản 21 Điều 4 LDN giải thích về phần vốn góp như sau: “Phần vốn
góp là tổng giá trị tài sản của một thành viên đã góp hoặc cam kết góp vào công
ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh. Tỷ lệ phần vốn góp là tỷ lệ giữa phần
vốn góp của một thành viên và vốn điều lệ của công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty hợp danh...”. Theo các quy định của pháp luật, chủ sở hữu phần vốn góp
(người góp vốn) có các quyền sau: Quyền tài chính: được phân chia lợi nhuận
của doanh nghiệp tương ứng với tỷ lệ giá trị phần vốn góp; gánh chịu phần lỗ
tương ứng với tỷ lệ giá trị phần vốn góp nếu doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, khi
đang hoạt động cũng như khi doanh nghiệp kết thúc hoạt động; nhận phần tài
9


sản còn lại tương ứng với tỷ lệ phần vốn góp sau khi đã thanh toán hết các nghĩa
vụ của doanh nghiệp khi doanh nghiệp bị giải thể, phá sản… Quyền phi tài chính
như quyền biểu quyết, quyền thông tin…Ngoài ra, phần vốn góp với tư cách là
một tài sản vô hình có thể giá trị được bằng tiền nên chủ sở hữu được tự do
chuyển giao trong giao dịch dân sự. Tuy nhiên, việc chuyển giao này bị hạn chế
bởi một số quy định theo LDN nhằm bảo đảm sự hoạt động lành mạnh của các
doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Như vậy, phần vốn góp là một tài sản đặc biệt, được hình thành thông qua
việc góp vốn vào doanh nghiệp và tồn tại song song với sự tồn tại của doanh
nghiệp. Phần vốn góp không phải là tài sản cụ thể như những tài sản khi đem
góp vốn mà là các quyền và mang tư cách pháp nhân khi tham gia hoạt động dân
sự nói chung.Tài sản khi được người góp vốn đem góp vào doanh nghiệp theo
một trình tự, thủ tục nhất định thì nó đã trở thành tài sản thuộc sở hữu của doanh
nghiệp (pháp nhân). Do đó, cá nhân người góp vốn không còn quyền sở hữu đối
với tài sản đã góp vốn. Đổi lại, họ được công nhận là chủ thể sở hữu phần vốn
góp của công ty được ghi trong điều lệ, bút toán sổ ghi và có các quyền lợi như
đã nêu trên.
Đối với hoạt động thế chấp quyền tài sản đối với phần vốn góp trong doanh

nghiệp: Bộ luật dân sự 2005 thì tại Bộ luật dân sự 2015 đã hướng đến giao dịch
bảo đảm có đối tượng theo hướng mở, tức là không quy định rõ ràng nhằm tránh
việc bỏ sót một số đối tượng tài sản có thế trở thành đối tượng trong giao dịch.
Điều đó được quy định cụ thể như sau: Điều 317 quy định Thế chấp tài sản “ 1.
Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản
thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho
bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp).

10


2. Tài sản thế chấp do bên thế chấp giữ. Các bên có thể thỏa thuận giao
cho người thứ ba giữ tài sản thế chấp.” [3].
Vì vậy, với những quy định trên BLDS năm 2015 đã thể hiện rõ việc thế
chấp phần vốn góp chỉ là một bộ phận nhỏ trong hoạt động thế chấp tài sản nói
chung và mang hầu hết các nét đặc trưng của hoạt động thế chấp tài sản. Đây là
một khái niệm mang tính chất bao quát trên tất cả mọi phương diện của hoạt
động thế chấp tài sản. Điều đó đã khẳng định một bước tiến trong hành lang
pháp lý điều chỉnh về hoạt động thế chấp nói chung và thế chấp phần vốn góp
trong công ty nói riêng trong mối quan hệ Dân sự. Ngoài ra, BLDS 2015 quy
định về tài sản đảm bảo, không liệt kê chi tiết nhằm tránh tình trạng bỏ sót
những loại hình tài sản khác trong các giao dịch đảm bảo nói chung và thế chấp
nói riêng, cụ thể: Quy định tại Điều 295 về Tài sản bảo đảm: “ 1. Tài sản bảo
đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp cầm giữ tài sản,
bảo lưu quyền sở hữu.
2. Tài sản bảo đảm có thể được mô tả chung, nhưng phải xác định được.
3. Tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong
tương lai.
4. Giá trị của tài sản bảo đảm có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị
nghĩa vụ được bảo đảm”. Nhưng tại BLDS 2015 cũng như LDN 2014 không

đưa ra khái niệm về thế chấp phần vốn góp mà chỉ đề ra quy định chung.[36]
Thông qua hoạt động của phần vốn góp trong công ty thì việc xác định phần
vốn góp là một quyền tài sản đã có nhiều ý nghĩa quan trọng. Trong số các văn
bản dưới luật, có thể dẫn chiếu tới Điều 10 của Hệ thống tiêu chuẩn thẩm định
giá Việt Nam (tiêu chuẩn số 12 về Phân loại tài sản) ban hành kèm theo Quyết
định số 129/2008/QĐ-BTC của Bộ Tài chính về việc ban hành 06 tiêu chuẩn
thẩm định giá ngày 31/12/2008. Theo đó quyền tài sản là một khái niệm pháp lý
11


bao hàm tất cả quyền, quyền lợi và lợi tức liên quan đến quyền sở hữu, nghĩa là
người chủ sở hữu được hưởng một hay những quyền lợi khi làm chủ tài sản đó.
Quyền sở hữu tài sản là một nhóm những quyền năng mà mỗi quyền năng có thể
tách rời với quyền sở hữu và chuyển giao trong giao dịch dân sự, bao gồm:
quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt. Quyền tài sản gắn với lợi ích
thu được từ quyền tài sản được gọi là tài sản thực và là đối tượng thẩm định giá.
Quyền tài sản là tài sản vô hình. Quy định này đã công nhận quyền tài sản là
một loại tài sản vô hình, khẳng định quyền sở hữu của chủ sở hữu quyền tài sản,
đồng thời nhấn mạnh tới khía cạnh lợi ích kinh tế của quyền tài sản.
Tuy nhiên, trên thực tế, quyền tài sản đối với phần vốn góp trong doanh
nghiệp là một khái niệm khá trừu tượng, phần vốn góp trong công ty là quyền tài
sản (tài sản vô hình) và do đó không thể giao được về mặt vật chất cho chủ nợ có
bảo đảm.[31] Hơn nữa, chúng thể thiện quyền chủ nợ của người nắm giữ (chủ sở
hữu) cổ phần hay phần vốn góp đối với công ty dẫn đến khó khăn trong việc áp
dụng chế định này. Do đó, thế chấp là biện pháp bảo đảm phù hợp nhất đối với
phần vốn góp và cổ phần bởi vì thế chấp không đặt ra yêu cầu chuyển giao tài
sản thế chấp cho bên nhận thế chấp và pháp luật Việt Nam công nhận thế chấp là
biện pháp bảo đảm duy nhất đối với quyền đòi nợ. Trong khi Luật doanh nghiệp
năm 2014 chỉ quy định về chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố,... đối với phần vốn
góp trong doanh nghiệp (khoản 6 Điều 50, điểm e khoản 1 Điều 182). Với quy

định như trên thì BLDS, LDN đã điều chỉnh một cách tương đối hợp lý các vấn
đề liên quan đến việc áp dụng những quy định về thế chấp phần vốn góp của
quan hệ thương mại trong và ngoài nước, phù hợp với thực tiễn áp dụng tại Việt
Nam. Tạo ra nền tảng pháp lý cơ sở cho các hoạt động nhằm hạn chế và kiểm
soát các giao dịch bảo đảm ở nước ta trong tiến trình hội nhập kinh tế - quốc tế.

12


Tuy nhiên, thông qua thực tiễn và những quy định về thế chấp thì có thế
đưa ra khái niệm như sau: Thế chấp phần vốn góp là một hoạt động giao dịch
bảo đảm được pháp luật dân sự kinh tế điều chỉnh mà ở đó, bên thế chấp mang
tài sản vô hình là phần vốn góp của mình (quyền lợi được quy định trong điều lệ
hay bút kí, sổ ghi của công ty mà bên thế chấp đã tiế hành góp vốn trước đó) để
đảm bảo cho một nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận thế chấp. Trong trường hợp,
bên thế chấp không thực hiện nghĩa vụ dân sự đã cam kết trước đó thì tài sản
đảm bảo là phần vốn góp sẽ do bên nhận thế chấp tiến hành các thủ tục xử lý tài
sản đảm bảo theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Bản chất của hoạt động thế chấp phần vốn góp trong công ty
Với nhiều cách tiếp cận khác nhau khi tìm hiểu về bản chất của thế chấp nói
chung và thế chấp phần vốn góp đã giúp cho chúng ta hiểu được bản chất của
hoạt động này.
Dưới góc độ là một giao dịch dân sự nói chung thì: Bản chất của quan hệ
thế chấp phần vốn góp trong công ty nhằm đảm bảo thực hiện hợp đồng tín
dụng và là quan hệ hợp đồng…" . Với cách tiếp cận này đã làm rõ được mối
quan hệ giữa bên thế chấp với bên nhận thế chấp về việc: bên thế chấp dùng tài
sản là phần vốn góp trong một công ty của mình để bảo đảm cho việc thực hiện
nghĩa vụ đối với bên nhận thế chấp. Theo đó, bên nhận thế chấp có quyền kiểm
tra việc khai thác, sử dụng tài sản thế chấp của bên thế chấp để tránh trường hợp
tài sản đó bị tiêu hủy, giảm sút giá trị, có quyền yêu cầu giao tài sản thế chấp để

xử lý khi có sự vi phạm.
Tuy nhiên, các quyền trên của bên nhận thế chấp đối với tài sản thế chấp
mang tính "gián tiếp" thông qua hành vi thực hiện nghĩa vụ của bên thế chấp
theo hợp đồng đã ký kết mà không có quyền trực tiếp trên tài sản thế chấp. Nếu
có hoạt động vi phạm diễn ra thì các nghĩa vụ đã cam kết thì bên nhận thế chấp
13


chỉ có thể khởi kiện ra Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bên thế chấp thực hiện
đúng, đầy đủ nghĩa vụ. Từ đó, ta nhận thấy, tính "bảo đảm" của hoạt động thế
chấp phần vốn góp trong công ty sẽ diễn ra hoàn toàn phụ thuộc vào một bên.
Trong trường hợp thế chấp là phần vốn góp thì việc này có thể ảnh hưởng đến
quyền lợi của các thành viên khác trong công ty. Từ đó, làm cho thế chấp phần
vốn góp trong công ty trở thảnh đối tượng của nhiều mối quan hệ phức tạp khác.
Khác với các loại hình giao dịch bảo đảm khác, thế chấp phần vốn góp
trong công ty chịu sự điều chỉnh của nhiều mối quan hệ khác nhau và mang tính
đa phương, đa chiều. Trong hoạt động này, phần vốn góp trong công ty được
đưa ra thế chấp không gây ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của công ty.
Ngoài ra, khi tiếp cận dưới góc độ là quyền bảo đảm thì "Thế chấp phần
vốn góp trong công ty được xem là một biện pháp bảo đảm được pháp luật ghi
nhận và bảo đảm thực hiện đối với các bên trong quan hệ thế chấp" [12]. Theo
đó, với bản chất là một biện pháp bảo đảm được pháp luật ghi nhận đã cho phép
bên nhận thế chấp có quyền tác động trực tiếp đến tài sản thế chấp mà không
phụ thuộc vào ý chí của bất kỳ chủ thể nào. Cụ thể, bên nhận thế chấp có quyền
truy đòi tài sản đảm bảo từ sự chiếm giữ của bất kỳ ai (trừ trường hợp pháp luật
có quy định khác) để xử lý và có quyền ưu tiên thanh toán trước từ số tiền thu
được khi xử lý tài sản thế chấp.
Trên cơ sở phân tích bản chất của hoạt động thế chấp phần vốn góp trong
công ty cho chúng ta thấy rõ đây là một biện pháp bảo đảm và có nội hàm bao
quát cả hai cách tiếp cận nêu trên, đó là biện pháp thế chấp vừa có yếu tố vật

quyền và yếu tố trái quyền. Như vậy, trên cơ sở hợp đồng thế chấp phần vốn góp
trong công ty được xác lập (là quan hệ có tính trái quyền), bên nhận thế chấp
phần vốn góp tiến hành hoàn thiện quyền của mình trên tài sản thế chấp để có
quyền truy đòi và quyền ưu tiên thanh toán (là quan hệ có tính vật quyền). Như
14


vậy, thế chấp phần vốn góp là một biện pháp chứa đựng cả yếu tố trái quyền và
cả yếu tố vật quyền, chúng tương hỗ cho nhau để thực hiện tốt nhất chức năng
bảo đảm của mình mà không có sự đối lập với nhau.
Hợp đồng thế chấp phần vốn góp trong công ty chịu sự điều chỉnh của
BLDS, LDN và một số văn bản có liên quan. Đồng thời, hoạt động này còn có
mối quan hệ phụ thuộc về hiệu lực đối với hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ cần
được bảo đảm thực hiện.
Tuy nhiên, trong xu thế phát triển của nền kinh tế theo hướng minh bạch
hóa tình trạng pháp lý của tài sản, đăng ký công khai phải được coi là căn cứ để
xác định quyền ưu tiên giữa các chủ thể cùng có lợi ích liên quan đến thế chấp
phần vốn góp trong công ty đã và đang tạo tiền đề cho sự phát triển của doanh
nghiệp nói chung.
1.1.3. Đặc điểm pháp lý của tài sản thế chấp là phần vốn góp theo pháp
luật Việt Nam
Theo PGS. TS Ngô Huy Cương, thế chấp nói chung có bốn đặc điểm chủ
yếu như sau:
Đặc điểm thứ nhất: Thế chấp là một vật quyền.
Đặc điểm thứ hai: Thế chấp là một quyền phụ thuộc.
Đặc điểm thứ ba: Thế chấp đối kháng với người thứ ba.
Đặc điểm thứ tư: Thế chấp không thể bị phân chia. [Ngô Huy Cương, “Bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”, Bài giảng điện tử, 2015].
Xét từ các đặc điểm chung này cho thấy: (1) Thế chấp phần vốn góp là một
vật quyền phụ thuộc mặc dù phần vốn góp là tài sản vô hình. Thông thường tài

sản hữu hình liên quan tới vật; còn tài sản vô hình liên quan tới quyền. Tuy
nhiên quan niệm về vật từ thời La Mã cổ đại đã được các luật gia mở rộng tới cả
các tài sản vô hình. Khẳng định thế chấp phần vốn góp là một vật quyền phụ
15


thuộc có ý nghĩa lớn trong việc áp dụng luật, có nghĩa là các qui tắc thế chấp có
thể áp dụng chung tất cả các thế chấp không kể đối tượng của thế chấp là tài sản
vô hình hình hay hữu hình. Tuy nhiên khi bắt giữ tài sản để lấy nợ trên giá bán,
thì buộc phải có các qui chế pháp lý khác nhau để áp dụng riêng cho việc bắt giữ
hay xử lý tài sản vô hình. Đối với tài sản vô hình cũng có những qui chế pháp lý
khác nhau trong việc xử lý tài sản thế chấp, chẳng hạn việc xử lý tài sản thế chấp
là phần vốn góp có sự khác biệt với xử lý tài sản là quyền sở hữu trí tuệ... (2)
Thế chấp phần vốn góp đối kháng lại với người thứ ba. Điều này có nghĩa là khi
người nhận thế chấp phần vốn góp đã đăng ký thế chấp thì có quyền theo đuổi
phần vốn góp chống lại các chủ nợ khác và có quyền ưu tiên lấy nợ trên giá bán
phần vốn góp đó. (3) Thế chấp phần vốn góp không thể bị phân chia, có nghĩa là
người nhận thế chấp có quyền lấy nợ trên toàn bộ các phần của phần vốn góp đó
dù phần vốn góp đó bị phân chia ra cho những người khác. Pháp luật Việt Nam
hiện hành không có đầy đủ các qui tắc để bao quát toàn bộ các đặc điểm nói trên
của thế chấp bằng phần vốn góp. Vì vậy nếu xuất phát từ các qui định của Bộ
luật Dân sự năm 2015 chúng ta có thể thấy những hệ quả có thể khác phần nào.
Qua nghiên cứu, phân tích một số khái niệm cũng như bản chất của hoạt
động thế chấp phần vồn góp trong công ty theo pháp luật Việt Nam, có thể rút
các đặc điểm pháp lý cơ bản sau về thế chấp phần vốn góp trong công ty:
Thứ nhất, hoạt động thế chấp tài sản nói chung và thế chấp phần vốn góp
nói riêng phải đặt trong sự chi phối có tính lôgic với chế định về quyền sở hữu
và được đặt bằng những nền tảng cơ bản của học thuyết về sở hữu nói chung. Và
phần vốn góp trong công ty có chủ sở hữu mang tính tập thể và là của doanh
nghiệp. Quyền sở hữu theo quy định của pháp luật là căn cứ cơ bản để hình

thành nên hoạt động thế chấp phần vốn góp của doanh nghiệp, bởi lẽ, chỉ có chủ

16


sở hữu của tài sản mới có quyền dùng tài sản của mình thế chấp bảo đảm cho
việc thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc của người khác.
Thêm vào đó, trong phạm vi quyền sở hữu của mình, chủ sở hữu của tài sản
thông qua hợp đồng thế chấp phần vốn góp trong doanh nghiệp có thể chuyển
giao quyền định đoạt tài sản cho bên nhận thế chấp trong thời hạn bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ và chỉ còn giữ lại quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản. Chỉ có chủ sở
hữu hay người được chủ sở hữu ủy quyền mới có thể thế chấp tài sản, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác. BLDS năm 2015 của Việt Nam khoản 1, Điều
295 quy định: “ Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ
trường hợp cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu…” Điều đó có nghĩa là chỉ có
chủ sở hữu mới có quyền quyết định đưa tài (trong trường hợp này là phần vốn
góp trong công ty) tham gia vào hoạt động thế chấp và trường hợp khác theo quy
định của pháp luật Việt Nam. Tóm lại, việc xác định tài sản thế chấp đều xuất
phát từ những nguyên tắc cơ bản của chế định tài sản và quyền sở hữu.
Hai là, phần vốn góp trong công ty được đưa ra thế chấp là đối tượng của
hợp đồng thế chấp, là tài sản vô hình không thể chuyển giao cho các bên. Do vậy
phải tuân thủ các điều kiện nói chung của đối tượng hợp đồng là tính xác định
(cụ thể, chi tiết) và có thể chuyển giao trong các giao lưu dân sự. Tính xác định
của tài sản thế chấp thể hiện ở hai giác độ: tính xác định về pháp lý và tính xác
định về vật lý. Đối với tài sản là vật, các bên phải xác định được vật đó là động
sản hay bất động sản, người đang thực tế chiếm giữ là ai (nếu người chiếm giữ
không đồng thời là chủ sở hữu đối với tài sản thì họ có mối quan hệ như thế nào
với bên thế chấp), xác định được giá trị của tài sản đó. Ngoài ra, phần vốn góp
trong công ty phải đáp ứng tính xác định về chủ sở hữu của tài sản, tình trạng
pháp lý của tài sản như: Được LDN quy định rõ ràng; có thể chuyển giao trong

hoạt động thương mại bị chi phối bởi hai yếu tố: không bị pháp luật cấm không
17


phải là tài sản có gắn với yếu tố nhân thân, có giá trị lịch sử, có giá trị tín
ngưỡng, tâm linh.
Yếu tố có thể chuyển giao trong hoạt động kinh doanh có thể giải thích là
phần vốn góp trong công ty có thể chuyển nhượng được, có thể chuyển dịch
quyền sở hữu cho người khác để khấu trừ cho giá trị của nghĩa vụ mà biện pháp
thế chấp bảo đảm.
Ba là, phần vốn góp trong công ty là tiền đề để các bên xác lập hợp đồng
thế chấp nhưng giá trị của phần vốn góp mới là nội dung mà bên nhận thế chấp
hướng tới vì chỉ có giá trị của phần vốn góp mới bù đắp được giá trị của nghĩa
vụ bị vi phạm. Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì phần vốn góp của các
cá nhân, tổ chức là tổng giá trị tài sản của một thành viên đã góp hoặc cam kết
góp vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và cả cổ phần chủ thể
đó tham gia đóng góp vào các công ty cổ phần. Tỷ lệ phần vốn góp là tỷ lệ giữa
phần vốn góp của một thành viên và vốn điều lệ của công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty hợp danh, công ty cổ phần.[35]
Phần vốn góp trong công ty được thể hiện thông qua hoạt động góp vốn.
Tài sản góp vốn theo quy định của LDN [5] luôn đa dạng và ở trong tình trạng
luôn có sự thay đổi chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác. Có thể tài sản góp
vốn ở giai đoạn giao kết hợp đồng thế chấp chưa hình thành nhưng sau đó đã
hình thành và xác lập quyền sở hữu cho bên thế chấp; tài sản thế chấp có thể là
vật hữu hình tại thời điểm giao kết hợp đồng thế chấp nhưng sau đó bị tiêu hủy,
mất mát, bán, trao đổi với người khác thì số tiền bảo hiểm hay tiền thanh toán
được coi như thuộc về tài sản thế chấp hoặc tài sản đó có thể tăng hay giảm sút
giá trị do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan tác động.
Chính đặc điểm này giúp cho bên nhận thế chấp cần có các biện pháp phù
hợp để quản lý tài sản thế chấp, đúng hơn là quản lý giá trị của thế chấp phần

18


vốn góp trong công ty trong suốt thời hạn thế chấp hoặc phải đưa vào hợp đồng
các điều khoản thỏa thuận về hậu quả pháp lý của việc thay đổi tài sản góp vốn.
Nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của bên nhận thế chấp thì pháp luật
cũng cần có các quy định về thủ tục đăng ký thế chấp coi như là một cách thức
để công bố tình trạng pháp lý hạn chế đối với tài sản, để có tác dụng cảnh báo
đối với chủ thể khác có ý định xác lập các giao dịch tiếp theo.
Bốn là, phần vốn góp trong công ty khi đem ra thế chấp vẫn là tài sản vô
hình thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp. Chính bởi vậy, trong thời hạn thế
chấp, bên thế chấp vẫn có quyền sử dụng, quyền hưởng lợi, cho thuê, thế chấp
tiếp nếu có sự đồng ý từ bên nhận thế chấp hay thực hiện các giao dịch khác đối
với phần vốn góp này.
Điều 2398 thuộc quyền IV phần các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
của BLDS Pháp có quy định: "Động sản không thể trở thành đối tượng của thế
chấp" [12], điều đó trên thực tế có thể ảnh hưởng đến việc đưa phần vốn góp là
bất động sản ra thế chấp. Trong khi đó, tại Điều 369 của BLDS Nhật Bản [16]
thì lại quy định đối tượng của thế chấp là động sản. Tuy nhiên, nếu xét từ giác
độ kinh tế của tài sản và tính khả thi trong việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bên
thế chấp thì một số loại động sản có tính đặc thù như phương tiện giao thông vận
tải cơ giới hay các hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh
cũng có thể trở thành đối tượng của hoạt động thế chấp.
Pháp luật của các nước theo hệ thống luật án lệ như Anh, Mỹ cũng đã phát
triển theo hướng động sản cũng có thể trở thành tài sản thế chấp thông qua việc
phát triển và hoàn thiện hệ thống đăng ký thế chấp động sản qua mạng internet.
BLDS năm 2005 và nay là BLDS 2015 của Việt Nam cũng quy định cả bất động
sản và động sản là phần vốn góp trong công ty đều có thể dùng khi tham gia vào
hoạt động thế chấp.
19



×