MỤC LỤC
Chương 1: Mở đầu........................................................................................................3
Tính cấp thiết của đề tài........................................................................................3
Mục tiêu nghiên cứu.............................................................................................3
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.........................................................................4
Phương pháp nghiên cứu......................................................................................4
1.1.
1.2.
1.3.
1.4.
Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn về việc làm và đô thị hóa................................5
2.1.
Việc làm................................................................................................................ 5
2.1.1. Khái niệm về việc làm......................................................................................5
2.1.2. Các đặc trưng về việc làm................................................................................5
2.1.3. Ý nghĩa của chỉ tiêu việc làm...........................................................................5
2.1.4. Thất nghiệp, thiếu việc làm..............................................................................6
2.2.
Đô thị hóa.............................................................................................................7
2.2.1. Khái niệm về đô thị hóa...................................................................................8
2.2.2. Các đặc trưng cơ bản về đô thị hóa..................................................................8
2.2.3. Các hình thức biểu hiện của đô thị hóa.............................................................9
2.2.4. Những đặc điểm của quá trình đô thị hóa ở Việt Nam....................................10
Chương 3: Thực trạng việc làm trong quá trình đô thị hóa tại Việt Nam...............13
3.1.
Những nhân tố tác động đến việc làm trong quá trình đô thị hóa tại Việt Nam. .13
3.1.1. Chính sách vĩ mô của Nhà nước.....................................................................13
3.1.2. Lựa chọn mô hình tăng trưởng, phát triển kinh tế và lựa chọn công nghệ......13
3.1.3. Thị trường lao động........................................................................................14
3.1.4. Đặc điểm của người lao động.........................................................................15
3.1.5. Tốc độ công nghiệp hóa, đô thị hóa quy mô hội tụ kinh tế đô thị...................15
3.2.
Thực trạng việc làm trong quá trình đô thị hóa tại Việt Nam thời gian qua........16
3.3.
Tình hình việc làm qua các số liệu thống kê 2011..............................................17
3.3.1. Nguồn lao động..............................................................................................17
3.3.2. Tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo..................................................17
1
3.3.3. Cơ cấu lao động có việc làm theo nghề nghiệp..............................................18
3.3.4. Cơ cấu lao động có việc làm theo ngành kinh tế............................................18
3.3.5. Cơ cấu lao động có việc làm theo loại hình kinh tế........................................19
3.3.6. Cơ cấu lao động có việc làm theo vị thế việc làm..........................................19
3.3.7. Thu nhập bình quân/ tháng của lao động làm công ăn lương.........................20
3.3.8. Tình trạng mất việc làm và thất nghiệp..........................................................20
3.4.
Một số giải pháp giải quyết việc làm cho lao động Việt Nam trong quá trình đô thị
hóa đến năm 2020...............................................................................................21
Kết luận......................................................................................................................... 23
Tài liệu tham khảo.........................................................................................................24
2
Chương 1: Mở đầu
1.1.
Tính cấp thiết của đề tài
Đô thị hóa là quá trình tất yếu đối với các quốc gia chậm phát triển khi bước vào
công nghiệp hóa - hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập. Đô thị hóa có
tác động tích cực to lớn, sâu sắc tới mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia
như thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng trưởng, tạo việc làm và thu nhập, cải
thiện việc cung cấp và thụ hưởng các dịch vụ xã hội – đô thị, nâng cao đời sống cho
người dân. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực của đô thị hóa, vẫn còn không ít
những bất cập, tồn tại đặt ra cần phải giải quyết, đặc biệt là vấn đề việc làm cho người lao
động, hơn nữa đối với một bộ phận lớn dân cư nông thôn bị rơi vào tình trạng thất nghiệp
và thiếu việc làm khi bị thu hồi đất sản xuất nông nghiệp phục vụ cho mục tiêu đô thị
hóa. Do vậy, việc làm cho người lao động là một trong những vấn đề xã hội có tính chất
toàn cầu, nó quyết định đến mức sống và chất lượng cuộc sống của người dân, nó cũng là
nhân tố quan trọng đảm bảo cho sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc
gia.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề việc làm cho người lao động, Đảng và
Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, đường lối, chính sách về tạo việc làm cho người
lao động một cách thiết thực hiệu quả. Các chính sách đó nhằm phát huy tối đa nội lực,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển đổi cơ cấu lao động, đáp úng yêu cầu của
quá trình CNH, HĐH, ĐTH tạo nhiều việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất
nghiệp ở thành thị, tăng tỷ lệ sử dụng thời gian của lao động nông thôn, góp phần tăng
thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân.
Xuất phát từ thực tế trên, tôi chọn đề tài “Việc làm trong quá trình đô thị hóa tại
Việt Nam”
Thông qua tiểu luận này, xin chân thành cảm ơn TS Phạm Thị Xuân Thọ Trường Đại
học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh đã tận tình giảng dạy, truyền đạt những kiến thức quý
báu, giúp cho học viên hiểu rõ hơn những vấn đề quần cư và đô thị… Cảm ơn Cô đã nhiệt
tình hướng dẫn và tạo mọi điều kiện thuận lợi để học viên hoàn thành tốt tiểu luận này.
Trong quá trình nghiên cứu, do hạn chế về thời gian và kiến thức, chắc rằng tiểu luận
sẽ không tránh khỏi những sai sót nhất định. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của
các bạn học viên giúp cho tiểu luận được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn!
1.2.
Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng việc làm của người lao động tại Việt Nam trong quá
trình ĐTH, tìm ra những ưu điểm, hạn chế về tạo việc làm cho người lao động trong thời
gian qua, những nhân tố ảnh hưởng đến việc làm, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm
3
giải quyết nhu cầu việc làm để nâng cao đời sống cho người lao động, góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
1.3.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Là việc làm của người lao động trong quá trình đô thị hoá.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian: Từ năm 2006 đến 2013.
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu tại Việt Nam
- Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu tác động của đô thị hoá đến việc làm của lao động
Việt Nam
1.4.
Phương pháp nghiên cứu
1.4.1. Phương pháp tiếp cận hệ thống
Đề tài sử dụng kế thừa các tài liệu, tư liệu, kết quả của các công trình nghiên cứu trong
nước và quốc tế để khái quát và hệ thống hóa cơ sở lý luận về vấn đề việc làm của người
lao động trong quá trình đô thị hoá; cung cấp thông tin nền phục vụ triển khai nghiên cứu
thực nghiệm; ứng dụng các kết quả nghiên cứu để đề xuất các giải pháp giải quyết việc
làm cho người lao động.
1.4.2. Phương pháp thu thập và xử lý thông tin
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã tiến hành thu thập các số liệu, tư liệu từ
nhiều nguồn khác nhau: sách, báo, các báo cáo khoa học, các bài nghiên cứu về vấn đề
việc làm của người lao động trong quá trình đô thị hoá
1.4.3. Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh
Tác giả đã vận dụng phương pháp này để tổng hợp, phân tích,so sánh các tài liệu từ
nhiều nguồn khác nhau để tìm ra những yếu tốt tác động, thực trạng lao động hiện nay.
1.4.4. Phương pháp thống kê
Các dữ liệu sơ cấp và thứ cấp thu thập được xử lý qua Excel; thông tin trong các cuộc
phỏng vấn sâu cũng được xử lý riêng biệt phục vụ cho phần báo cáo kết quả, thảo luận và
đề xuất biện pháp quản lý.
4
Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn về việc làm và đô thị hóa
2.1.
Việc làm
2.1.1. Khái niệm
Có nhiều khái niệm, định nghĩa khác nhau về việc làm dưới góc độ nghiên cứu khác
nhau. Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), việc làm là phạm trù được dùng để chỉ bất
cứ hoạt động nào nằm trong đường biên sản xuất của hệ thống tài khoản quốc gia (SNA).
Theo Điều 13, Bộ Luật lao động được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua tại kỳ họp thứ 5 ngày 23/6/1994, việc làm là các hoạt động tạo thu nhập,
không bị pháp luật ngăn cấm. Theo Tổng cục Thống kê (Tổng điều tra dân số và nhà ở
2009 và các cuộc điều tra mẫu lao động - việc làm 2007 và 2009), việc làm là mọi hoạt
động lao động từ 1 giờ trở lên tạo ra nguồn thu nhập mà không bị pháp luật cấm.
2.1.2. Các đặc trưng về việc làm
Có 3 thông tin cơ bản mô tả đặc trưng của việc làm đó là:
Nghề nghiệp: Theo khuyến nghị của Liên hợp quốc, nghề nghiệp được hiểu là loại
công việc mà người lao động đã làm trong tuần quan sát được quy định cho số liệu về đặc
trưng kinh tế của người lao động có việc làm bất kể ngành kinh tế hoặc vị thế làm việc
nào.
Ngành kinh tế: Cùng với thông tin về loại công việc hay nghề nghiệp mà cá nhân
người lao động tham gia, cũng cần biết loại hoạt động mà cơ sở, nơi người lao động đang
làm việc, thực hiện. Theo Liên hợp quốc, ngành kinh tế chỉ hoạt động của đơn vị, cơ sở
nơi người lao động đã làm việc trong tuần quan sát quy định cho thông tin về đặc trưng
kinh tế, hoặc đã làm trước đây nếu là người thất nghiệp. Hoạt động của đơn vị có nghĩa là
loại hàng hoá hoặc dịch vụ được sản xuất hoặc cung cấp.
Vị thế làm việc: (như chủ cơ sở, lao động làm thuê,…) chỉ địa vị của một người hoạt
động kinh tế trong mối liên hệ với những lao động khác, nếu có, trong cùng cơ quan/đơn
vị và bao gồm các phân tổ như: người sử dụng lao động (chủ cơ sở sản xuất kinh doanh),
lao động tự làm, lao động làm thuê, lao động gia đình không nhận tiền công và xã viên
của một tổ sản xuất/hợp tác xã.
2.1.3. Ý nghĩa của chỉ tiêu việc làm
Việc làm là chỉ tiêu kinh tế - xã hội quan trọng vì các lý do chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, việc làm là cơ sở đầu tiên cho sự tồn tại và phát triển của mỗi con người, là
căn cứ cho sự bình đẳng và dân chủ xã hội.
5
Thứ hai, việc làm phản ánh mức độ tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Thông
qua đo lường chỉ tiêu người có việc làm và năng suất lao động theo từng thời kỳ, có thể
tính toán được quy mô và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Thứ ba, việc làm phản ánh mức độ sử dụng lao động và khả năng tạo việc làm của
nền kinh tế thông qua chỉ tiêu về người có việc làm theo các phân tổ thời gian làm việc.
Mặt khác, chỉ tiêu này cũng phản ánh năng suất lao động và phúc lợi xã hội của người lao
động.
Thứ tư, việc làm có quan hệ mật thiết và tác động trực tiếp đến tình trạng thất nghiệp.
Tỷ lệ lao động có việc làm đồng nghĩa với khả năng thất nghiệp thấp và do đó góp phần
làm giảm các vấn đề xã hội.
Thứ năm, việc làm cũng phản ánh phần nào mức độ bất bình đẳng giới trên thị
trường lao động khi phân tổ lao động có việc làm theo giới tính, thu nhập, thời gian làm
việc, vị thế công việc,…
Thứ sáu, việc làm là cơ sở quan trọng để định hướng các chiến lược và chính sách vĩ
mô.
2.1.4. Thất nghiệp, thiếu việc làm
* Khái niệm, định nghĩa về thất nghiệp và thiếu việc làm:
a. Thất nghiệp: Định nghĩa chuẩn quốc tế về thất nghiệp được dựa trên ba tiêu
chuẩn phải thoả mãn riêng nếu có thể. Mặt khác, người có việc làm tìm công việc
khác hoặc công việc làm thêm phải loại ra khỏi nhóm người thất nghiệp. Cụ thể:
- Không làm việc: Tiêu chuẩn “không làm việc” nhằm đưa ra ranh giới phân biệt giữa
làm việc và không làm việc để đảm bảo rằng làm việc và thất nghiệp loại trừ lẫn nhau,
với ưu tiên cho làm việc. Do đó, một người được xem là không làm việc nếu trong thời
kỳ quan sát người đó không làm bất kỳ công việc gì, cũng không tạm nghỉ việc. Hai tiêu
chuẩn còn lại của định nghĩa chuẩn về thất nghiệp, tức, “sẵn sàng làm việc” và “tìm việc
làm”, nhằm phân biệt trong dân số không làm việc những người thất nghiệp với những
người không hoạt động kinh tế.
- Tìm việc làm: Phù hợp với nguyên tắc hoạt động của phương pháp lực lượng lao
động, tiêu chuẩn “tìm việc làm” được xây dựng theo định nghĩa tìm việc làm thực sự. Để
được xem là tìm việc làm, thì người đó phải có những biện pháp cụ thể trong khoảng thời
gian cụ thể gần đây để nhận được việc làm.
- Sẵn sàng làm việc ngay: Theo tiêu chuẩn quốc tế, để được xếp là thất nghiệp thì
trong thời kỳ quan sát người đó phải sẵn sàng làm việc ngay. Sẵn sàng làm việc có nghĩa
là, có một cơ hội việc làm thì người đó có thể và bắt tay làm việc ngay.
6
b. Thiếu việc làm: ILO đã đưa ra định nghĩa chung về thiếu việc làm như sau:
Thiếu việc làm là sự chênh lệch giữa khối lượng công việc được thực hiện bởi một
lao động có việc làm và khối lượng công việc bình thường có thể làm được và
muốn làm. Để có thể đo lường được, ILO đã làm cho định nghĩa này cụ thể hơn
bằng cách chia “thiếu việc làm” thành hai nhóm chính: thiếu việc làm hữu hình,
khi người đó không tự nguyện làm ít thời gian hơn bình thường và thiếu việc làm
vô hình, khi người đó làm đủ thời gian nhưng công việc không phù hợp vì thu
nhập quá thấp hoặc công việc không đòi hỏi hết khả năng chuyên môn của người
lao động.
Theo ILO, thiếu việc làm phản ánh mức độ sử dụng thấp năng lực sản xuất của dân số
có việc làm, kể cả mức độ sử dụng thấp nẩy sinh từ một hệ thống kinh tế yếu kém. Sử
dụng thấp có liên quan tới tình trạng việc làm trong đó người lao động muốn và sẵn sàng
tham gia.
* Ý nghĩa của chỉ tiêu thất nghiệp và thiếu việc làm: Thất nghiệp và thiếu việc làm là
vấn đề kinh tế và xã hội của hầu hết các nước trên thế giới. Đến nay, vấn đề thất nghiệp
và thiếu việc làm đang được nhiều đối tượng quan tâm, nhất là việc thất nghiệp ở khu vực
thành thị và thiếu việc làm ở khu vực nông thôn. Các chỉ tiêu thất nghiệp và thiếu việc
làm được quan tâm vì một số lý do chính sau đây:
- Thứ nhất, các chỉ tiêu về thất nghiệp và thiếu việc làm phản ánh mức độ phát triển
của nền kinh tế. Thông qua việc đo lường chỉ tiêu thất nghiệp và thiếu việc làm theo từng
thời kỳ, có thể tính được quy mô và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
- Thứ hai, các chỉ tiêu này phản ánh mức độ thoả dụng lao động của nền kinh tế
thông qua chỉ tiêu thất nghiệp và thiếu việc làm được phân tổ theo thời gian thất nghiệp,
loại thất nghiệp và mức độ thiếu việc làm. Đồng thời các chỉ tiêu này cũng phản ánh năng
suất lao động và phúc lợi xã hội của người lao động.
- Thứ ba, các chỉ tiêu này phản ánh mức độ bất bình đẳng giới. Chỉ tiêu thất nghiệp
và thiếu việc làm phân tổ theo giới tính, thời gian thất nghiệp, loại thất nghiệp, trình độ
học vấn và chuyên môn kỹ thuật, nhóm tuổi,… sẽ cho thấy bức tranh toàn cảnh về chênh
lệch giữa nam và nữ trong chủ đề thất nghiệp.
- Thứ tư, các chỉ tiêu này là cơ sở quan trọng để xây dựng các chiến lược và chính
sách vĩ mô. Thông tin về thất nghiệp, thiếu việc làm đóng vai trò quan trọng trong việc
hình thành và đánh giá các chính sách về đào tạo (đặc biệt là đào tạo nghề) và phát triển
nguồn nhân lực, chiến lược phát triển kinh tế và chiến lược việc làm; chính sách liên
quan đến phát triển thị trường lao động; chính sách tiền lương và tiền công; chính sách xã
hội, …
2.2. Đô thị hóa
7
2.2.1. Khái niệm
- Có nhiều cách hiểu khác nhau về đô thị hóa:
Theo cách tiếp cận của nhân khẩu học và địa lý kinh tế thì ĐTH chính là sự di cư từ
nông thôn vào thành thị, sự tập trung ngày càng nhiều dân cư sống trong lãnh thổ địa lý
hạn chế được gọi là các đô thị. Đó là quá trình gia tăng tỷ lệ dân cư đô thị trong tổng số
dân của một quốc gia. Theo cách tiếp cận này, chỉ tiêu tỷ lệ phần trăm dân số đô thị trên
tổng dân số dường như là chỉ tiêu duy nhất đo lường mức độ ĐTH. Vì thế nó không giải
thích được tầm quan trọng và vai trò của ĐTH đối với sự phát triển kinh tế - xã hội hiện
đại.
Theo cách tiếp cận xã hội học, đô thị hóa được hiểu rộng hơn, đó là quá trình tổ chức
lại môi trường cư trú của nhân loại, là sự thay đổi những phương thức hay hình thức cư
trú của nhân loại. Theo cách hiểu này, ĐTH không chỉ thay đổi phương thức sản xuất,
tiến hành các hoạt động kinh tế, mà còn là sự thay đổi lớn trong tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội và cá nhân, trong đó các quan hệ xã hội, các mô hình hành vi và ứng xử
tương ứng với điều kiện CNH, HĐH và ĐTH.
Theo quan điểm một vùng, ĐTH là quá trình hình thành, phát triển các hình thức và
điều kiện sống theo kiểu đô thị.
Theo quan điểm nền kinh tế quốc dân, ĐTH là quá trình biến đổi về sự phân bố các
yếu tố lực lượng sản xuất, bố trí dân cư những vùng không phải thành thị thành đô thị.
Ngày nay, khi mà đô thị hóa luôn gắn liền với CNH đang diễn ra mạnh mẽ và phổ biến
trên thế giới thì cách hiểu về ĐTH cũng có những thay đổi, cách hiểu được nhiều người
chấp nhận, ĐTH là quá trình mang tính quy luật gắn liền với sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và cơ cấu xã hội từ nông nghiệp - nông dân - nông thôn sang công nghiệp - thị dân - đô
thị.
Tóm lại, theo quan điểm của tác giả thì ĐTH là quá trình biến đổi và phân bố các lực
lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân cư, hình thành phát triển các hình
thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị đồng thời phát triển đô thị hiện có theo chiều sâu
trên cơ sở hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật và tăng quy mô dân số.
2.2.2. Các đặc trưng cơ bản của đô thị hóa
Một là, ĐTH không phải là kết quả, mà là một quá trình lâu dài diễn ra trên một
không gian lãnh thổ rộng lớn;
Hai là, tiền đề cơ bản của ĐTH là sự phát triển công nghiệp, hay CNH, HĐH. Trong
quá trình ĐTH có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ dựa vào nông nghiệp là chủ yếu sang
sản xuất công nghiệp, thương mại và dịch vụ;
8
Ba là, ĐTH là quá trình hình thành, nâng cấp và mở rộng quy mô đô thị với cơ sở hạ
tầng hiện đại;
Bốn là, các làn sóng di cư từ nông thôn đến đô thị làm tăng nhanh quy mô dân số đô
thị, tạo sự chuyển dịch từ lối sống phân tán, mật đọ dân số thưa thớt sang lối sống tập
trung, mật độ dân số cao. Điều đó dẫn đến sự bố trí lại dân cư, thay đổi cơ cấu giai cấp,
phân tầng xã hội;
Năm là, không gian đô thị ngày càng mở rộng, cùng với nó là sự thu hẹp đất nông
nghiệp để phát triển các khu đô thị mới, khu công nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch;
Sáu là, tốc độ và quy mô hội tụ kinh tế đô thị ngày càng gia tăng, thể hiện ở sự gia
tăng của quy mô và tốc độ thu hút vốn, gia tăng số lượng và quy mô các đơn vị kinh tế;
Bảy là, chuyển từ lối sống nông thôn sang lối sống đô thị, từ văn hóa làng xã sang văn
hóa đô thị, từ văn minh nông nghiệp sang văn minh công nghiệp;
Tám là, cùng với quá trình đô thị hóa là sự thay đổi về cơ chế, chính sách phát triển
và quản lý đô thị.
Ngoài những đặc trưng chung nêu trên, ĐTH của Việt Nam còn có đặc trưng riêng
gắn liền với đặc điểm của nước nông nghiệp truyền thống, đó là ĐTH có tính chất điển
hình. Tính chất này có nguồn gốc từ sự tồn tại đan xen, hòa trộn giữa nông thôn và thành
thị ở mọi phương diện, từ không gian địa lý, cơ sở hạ tầng, dân cư, tôn giáo, văn hóa cho
đến các hoạt động kinh tế. Làng trong phố, phường, cư dân nông thôn hoạt động nông
nghiệp với nếp sống làng, xã truyền thống vẫn còn đang hiện hữu ngay trong lòng hầu hết
các đô thị ở Việt Nam.
2.2.3. Các hình thức biểu hiện của đô thị hóa
Đô thị hoá có hai hình thức biểu hiện, đó là:
- ĐTH theo chiều rộng, trong đó quá trình ĐTH diễn ra tại các khu vực trước đây
không phải là đô thị. Đó là quá trình mở rộng quy mô diện tích các đô thị hiện có trên cơ
sở hình thành các đô thị mới, các thành phố, thị xã, các phường, thị trấn mới. Với hình
thức này, dân số và diện tích đô thị không ngừng gia tăng. Sự hình thành các đô thị mới
được tạo ra trên cơ sở phát triển các khu công nghiệp, thương mại và dịch vụ ở vùng
nông thôn và ngoại ô. ĐTH theo chiều rộng là hình thức phổ biến hiện nay ở các nước
đang phát triển trong thời kỳ đầu CNH.
- ĐTH theo chiều sâu, đó là quá trình hiện đại hoá và nâng cao trình độ các đô thị hiện
có. Mật độ dân số có thể tiếp tục tăng cao, phương thức và các hoạt động kinh tế ngày
càng đa dạng, thực lực khoa học kỹ thuật, công nghệ ngày càng tăng cường, hiệu quả
kinh tế - xã hội cũng ngày càng được cải thiện và nâng cao.
2.2.4. Những đặc điểm của quá trình đô thị hóa ở Việt Nam
9
Quá trình ĐTH ở Việt Nam có những đặc điểm riêng, khác với các quốc gia khác đó là:
Việt Nam đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, chiến tranh kéo dài, cùng với đó quá
trình ĐTH diễn ra chậm chạp. Quá trình ĐTH ở Việt Nam có thể chia thành 4 giai đoạn:
- Giai đoạn trước 1954, thời kỳ này đất nước ta chịu sự đô hộ của thực dân Pháp.
Sau khi giành được quyền kiểm soát, thực dân Pháp một mặt tích cực củng cố bộ máy
chính quyền tay sai, mặt khác tích cực công cuộc khai thác thuộc địa. Hai đô thị lớn là Hà
Nội và Sài Gòn là nơi tập trung bộ máy chính quyền thực dân được thực dân Pháp mở
rộng quy mô với những quy hoạch cụ thể nhưng mức độ vẫn còn hạn chế, dân cư chỉ mới
hơn 40 ngàn người và diện tích thì nhỏ hẹp. Nhằm thuận tiện cho việc vận chuyển các
loại tài nguyên khai thác được từ Việt Nam về nước, thực dân Pháp đã thực hiện xây
dựng các bến cảng mới ở Hòn Gai, Hải Phòng. Quy mô của các đô thị này còn nhỏ, hẹp
và được xây dựng từ những làng chài ven biển. Bên cạnh đó các trung tâm chính trị tại
các tỉnh lỵ nơi thực dân Pháp đặt bộ máy cai trị của vùng thì mức độ ĐTH hầu như không
diễn ra. Kết quả trong thời kỳ Pháp thuộc, quá trình ĐTH ở Việt Nam diễn ra rất chậm và
hầu như không đem lại nhiều sự thay đổi về mặt kinh tế - xã hội.
- Giai đoạn 1954-1975, tại miền Bắc, một số trung tâm kinh tế được thành lập như
khu công nghiệp hoá chất Việt Trì, khu công nghiệp gang thép Thái Nguyên, tại những
nơi này quá trình ĐTH đã diễn ra. Tuy nhiên, thời kỳ này tốc độ ĐTH ở miền Bắc còn
chậm do sự đánh phá của giặc Mỹ. Với miền Nam, nơi đang trực tiếp diễn ra cuộc chiến
tranh, hầu hết các đô thị được tổ chức theo mô hình khép kín thời chiến, mức độ mở rộng
đô thị, hình thành mới đô thị đã phát triển kinh tế hầu như không có. Tóm lại, thời kỳ này
tốc độ ĐTH ở Việt Nam còn rất chậm.
- Giai đoạn 1975-1989, thời kỳ này đất nước vừa ra khỏi chiến tranh, những thay đổi
trong chính sách chưa thật sự phù hợp cho một thời kỳ mới để phát triển của đất nước.
Nền kinh tế phát triển chậm, giao thương hàng hoá hạn chế, cách thức quản lý hành chính
về dân cư còn cứng nhắc không tạo điều kiện cho quá trình di dân vùng nông thôn ra
thành thị, giai đoạn này tốc độ ĐTH ở Việt Nam chỉ mức 15%.
- Giai đoạn 1990 đến nay, bước vào thời kỳ đổi mới, với những chính sách cởi mở,
tạo điều kiện cho người dân đầu tư làm kinh tế, hàng loạt các khu công nghiệp ra đời kéo
theo sự hình thành các khu đô thị mới. Các trung tâm đô thị trở thành nơi thu hút lao
động ở các vùng lân cận và quá trình mở rộng đô thị ra các vùng ngoại thành diễn ra
nhanh chóng. Trong vòng hơn 20 năm đổi mới, số lượng đô thị tăng lên khá nhanh, năm
2006 cả nước có 675 đô thị, trong đó có 5 thành phố trực thuộc Trung ương, 30 thành phố
và 57 thị xã thuộc tỉnh. Tính đến 31/12/2013 cả nước có 770 đô thị, trong đó có 5 thành
phố trực thuộc Trung ương, 59 thành phố và 92 quận và thị xã trực thuộc tỉnh. Dân số đô
thị năm 2006 chiếm 27,66%, năm 2010 là 30,50%, năm 2013 là 33,0%, dự báo năm 2020
sẽ là 45%. Có thể nói quá trình ĐTH ở Việt Nam chỉ thực sự diễn ra từ năm 1990 và theo
đó đã tạo ra được những thay đổi căn bản cho mọi mặt đời sống KT-XH của đất nước.
10
Đô thị ở Việt Nam hình thành diễn ra trong quá trình CNH, HĐH đất nước theo các xu
hướng sau đây:
- Hình thành các trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ trong các đô thị lớn: đây
là một xu thế nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của đô thị là biểu hiện tính chất chuyên
môn hoá cao trong sản xuất. Tất cả các hoạt động sản xuất có cùng đặc điểm, tính chất
được tập trung vào một khu vực tạo điều kiện đáp ứng các nhu cầu tốt hơn, sản xuất với
năng suất hiệu quả hơn và tăng sức cạnh tranh của các sản phẩm của đô thị, thị trường lao
động phong phú hơn.
- Hình thành các trung tâm công nghiệp, thương mại ở các ngoại ô: sự hình thành các
trung tâm của mỗi vùng có tính khách quan nhằm đáp ứng các nhu cầu của sản xuất và
đời sống ngày càng tăng lên của chính vùng đó. Đó là biểu hiện tính tập trung hoá trong
sản xuất. Tuy nhiên, quy mô sản xuất và hoạt động thương mại, dịch vụ sẽ phụ thuộc vào
trình độ phát triển kinh tế - xã hội và quy mô dân số của vùng để đảm bảo tính hoạt động
có hiệu quả. Đồng thời các trung tâm này là điểm nối hay sự chuyển tiếp giữa các đô thị
lớn làm cho tính hiệu quả của hệ thống đô thị được nâng cao. Trong quá trình đô thị hoá,
các trung tâm này sẽ trở thành những đô thị vệ tinh của các đô thị lớn.
- Mở rộng các đô thị hiện có: việc mở rộng các đô thị hiện có theo mô hình làn sóng
là xu thế tất yếu khi nhu cầu về đất xây dựng đô thị tăng và khả năng mở có thể thực hiện
tương đối dễ. Xu hướng này sẽ tạo sự ổn định tương đối và giải quyết các vấn đề quá tải
cho các đô thị hiện có.
- Chuyển một số vùng nông thôn thành đô thị: đây là một xu hướng hiện tại được thực
hiện trong điều kiện có sự đầu tư lớn của Nhà nước. Vấn đề cơ bản là tạo nguồn tài chính
để cải tạo đất, xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại.
- Thành lập các đô thị mới: khu đô thị mới là khu đô thị đang được phát triển tập trung
theo dự án đầu tư xây dựng hoàn chỉnh đồng bộ các công trình kết cấu hạ tầng, các công
trình sản xuất và công trình phúc lợi và nhà ở. Các đô thị mới thường được gắn với một
đô thị hiện có hoặc với một đô thị mới đang hình thành.
Xây dựng các khu đô thị mới thực chất là quá trình ĐTH và là “từng bước xây dựng
hoàn chỉnh hệ thống đô thị cả nước, cơ sở hạ tầng KT-XH, kỹ thuật hiện đại, môi trường
đô thị trong sạch, được phân bố và phát triển hợp lý trên địa bàn cả nước, đảm bảo mỗi
đô thị, theo vị trí, chức năng của mình phát huy được đầy đủ các thế mạnh góp phần thực
hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc” (Quyết
định số 10/1998/QĐTTg ngày 23 tháng 10 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
định hướng quy hoạch tổng thể phát triển đô thị Việt Nam đến năm 2020).
Xây dựng khu đô thị mới là kết quả của việc thực hiện quá trình CNH, HĐH và ĐTH
đất nước với yêu cầu thực tế cải tạo, chỉnh trang những thành phố quá chật chội, sự quá
tải về dân số, được xây dựng thiếu quy hoạch từ những năm trước. Việc xây dựng các đô
11
thị kiểu mới, đô thị hiện đại chỉ có thể thực hiện trong điều kiện kinh tế cho phép và đặc
biệt dưới sự đầu tư hợp tác với nước ngoài.
Như vậy, với sự hình thành đô thị theo xu hướng trên thì ĐTH ở Việt Nam diễn ra
theo chiều rộng. Quá trình ĐTH theo chiều rộng sẽ làm giảm diện tích đất nông, lâm
nghiệp để tăng diện tích đất cho xây dựng các khu đô thị mới, các khu công nghiệp và cơ
sở hạ tầng đô thị. Điều này sẽ ảnh hưởng đến việc làm cho lao động nông thôn nói riêng
và khu vực nông thôn nói chung.
12
Chương 3: Thực trạng việc làm trong quá trình đô thị hóa tại Việt Nam
3.1.
Những nhân tố tác động đến việc làm trong quá trình đô thị hóa tại Việt Nam
3.1.1. Chính sách vĩ mô của Nhà nước
Các chính sách vĩ mô của Nhà nước có liên quan đến việc giải quyết việc làm nói chung
và việc làm cho lao động nông thôn trong quá trình ĐTH nói riêng không chỉ tác động
trực tiếp đến quy mô số lượng, chất lượng lao động khu vực đô thị mà còn tác động đến
số lượng, chất lượng những chỗ việc làm mới sẽ được tạo ra. Cụ thể:
- Chính sách tiền lương: tiền lương, tiền công là sự biểu hiện của giá cả sức lao động
trên thị trường sức lao động. Trên thực tế, ở một mức độ nào đó Nhà nước có thể can
thiệp một cách gián tiếp đến việc hình thành tiền công, tiền lương. Ví dụ, để bảo vệ lợi
ích của người lao động cần đặt chủ doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động dưới áp lực
của các tổ chức đoàn thể, hội nghề nghiệp của người lao động. Nhà nước có thể quy định
mức lương tối thiểu ở một mức cao. Với việc quy định mức lương tối thiểu cao ở khu vực
đô thị có thể tạo động lực khuyến khích nâng cao năng suất lao động, chất lượng công
việc. Từ đó, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo mở nhiều việc làm mới ở cả khu vực chính
thức và khu vực kinh tế không chính thức, góp phần giải quyết áp lực về việc làm. Tuy
nhiên, với chính tiền công, tiền lương cao sẽ là một lực hút mạnh mẽ cho sự di dân từ
vùng nông thôn ra thành thị và lúc này lại trở thành áp lực cho vấn đề giải quyết việc làm.
- Chính sách giáo dục, đào tạo: Một chính sách giáo dục đào tạo tốt ít nhất hội tụ đủ
hai tiêu chuẩn cơ bản: một là, cung cấp đủ số lượng lao động cho số lượng việc làm tạo
ra; hai là, cơ cấu về giáo dục đào tạo, bao gồm cơ cấu về giới tính, độ tuổi, trình độ
chuyên môn kỹ thuật, cơ cấu ngành nghề đào tạo theo vùng, khu vực phải phù hợp với sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng ĐTH. Chính sách giáo dục, đào tạo tốt sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho việc giải quyết việc làm ở tất cả các khu vực đặc biệt là khu vực nông
thôn đang trong quá trình ĐTH.
- Chính sách đất đai, nhà ở: Nhà ở, đất đai không chỉ là tài sản có chức năng làm
nơi cư trú mà còn có chức năng kinh tế. Vì vậy, chính sách đất đai, nhà ở, phát triển cơ sở
hạ tầng ở các khu đô thị tác động mạnh mẽ đến việc hình thành và thay đổi chức năng
kinh tế của nhà ở, đất đai, vị trí nơi cư trú,… do đó chính sách này cũng đã tác động đến
số lượng, cơ cấu việc làm có khả năng được tạo ra.
3.1.2. Lựa chọn mô hình tăng trưởng, phát triển kinh tế và lựa chọn công nghệ
Trên phương diện lý thuyết, lựa chọn mô hình tăng trưởng và phát triển kinh tế tức là
nghiên cứu lựa chọn cách thức khai thác và sử dụng các nguồn lực: vốn, lao động, tài
nguyên thiên nhiên, khoa học - công nghệ. Việc khai thác và sử dụng ít hay nhiều lao
động là do sự lựa chọn mô hình tăng trưởng quyết định.
13
- Tăng trưởng dựa trên việc sử dụng công nghệ cao: việc lựa chọn công nghệ càng
hiện đại, mức tự động hoá càng cao, cần nhiều vốn sẽ làm giảm chỗ việc làm năng suất
thấp với lao động thủ công và tăng chỗ việc làm có chất lượng, năng suất cao với lao
động có trình độ chuyên môn cao.
- Tăng trưởng dựa trên công nghệ nhiều tầng: là sự lựa chọn nhiều loại công nghệ, cả
công nghệ thấp và công nghệ cao. Công nghệ cao áp dụng cho các ngành mũi nhọn làm
động lực thúc đẩy tăng trưởng, còn công nghệ thấp vào một số ngành không trọng tâm
hoặc vì lý do thiếu vốn, thừa lao động.
- Tăng trưởng dựa trên công nghệ thấp, sử dụng nhiều lao động: đây là công nghệ giải
quyết được nhiều việc làm nhất là ở những nơi đông dân, lao động trình độ thấp thì việc
lựa chọn công nghệ này sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm.
Đối với khu vực nông thôn, nơi có nguồn lao động dồi dào và chủ yếu là lao động trình
độ chuyên môn thấp, chưa qua đào tạo. Do đó nếu lựa chọn tăng trưởng dựa vào công
nghệ thấp thì sẽ giải quyết được việc làm cho lao động nông thôn, ngược lại dựa vào
công nghệ cao thì sẽ làm cho một số lượng lao động nông thôn thất nghiệp ngày càng
nhiều.
3.1.3. Thị trường lao động
Chuyển đổi việc làm cho lao động mất việc làm do mất đất chịu sự tác động lớn của xu
hướng phát triển thị trường lao động địa phương, vùng và liên vùng. Tại các vùng thị
trường lao động phát triển mang tính thống nhất cao, ít bị phân mảng, có sự hoạt động
mạnh của quan hệ cung - cầu lao động, môi trường thị trường lao động được thiết lập
thuận lợi (hệ thống tư vấn, giới thiệu việc làm,… ) thì cơ hội việc làm của lao động mất
việc làm do chuyển đổi mục đích sử dụng đất lớn hơn. Các mối liên hệ giữa thị trường
lao động với khả năng chuyển đổi việc làm của lao động mất việc làm do mất đất thể hiện
ở:
- Hoạt động của quy luật cung - cầu sức lao động là điều kiện cơ bản để lao động mất
việc làm do chuyển đổi mục đích sử dụng đất, lựa chọn, tìm kiếm việc làm phù hợp với
khả năng chuyên môn - kỹ thuật của mỗi người.
- Sự liên kết thị trường lao động các địa phương trong vùng thúc đẩy sự di chuyển sức
lao động của các địa phương chuyển đổi mục đích sử dụng đất dưới tác động của giá cả
sức lao động.
- Thị trường lao động phát triển sẽ mở rộng được quy mô lao động làm công ăn
lương, tạo sức thu hút lao động nông nghiệp của các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng
đất vào làm việc trong các lĩnh vực phi nông nghiệp (công nghiệp, xây dựng, thương mại,
dịch vụ).
14
- Cạnh tranh trên thị trường lao động có tác động kích thích lao động mất việc làm do
chuyển đổi mục đích sử dụng đất tích cực tham gia đào tạo, nâng cao kỹ năng, chuyển
đổi nghề để đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động và nâng cao thu nhập.
Như vậy, vai trò của thị trường lao động có tác động lớn đối với việc chuyển đổi nghề
cho lao động mất việc làm tại các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Do đó, thực
hiện các giải pháp thúc đẩy sự phát triển hoạt động lành mạnh của thị trường lao động các
địa phương, thị trường lao động vùng là nhân tố quan trọng để hỗ trợ cho việc chuyển đổi
việc làm cho lao động bị mất việc làm trong quá trình ĐTH.
3.1.4. Đặc điểm của người lao động
Đặc điểm của người lao động bao gồm đặc điểm về nhân khẩu, đặc điểm về giáo dục
(học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay nghề), đặc điểm về kinh tế (mức sống, thu
nhập, thói quen chi tiêu, nhà ở, tài sản,…), đặc điểm về văn hoá, lối sống, phong tục tập
quán, tác phong lao động, khả năng thích ứng với những thay đổi,… sẽ quyết định đến
khả năng giam gia vào thị trường lao động, tác động đến sự lựa chọn cơ cấu và nhu cầu
sử dụng các yếu tố đầu vào của các cơ sở kinh tế khi người lao động được tuyển dụng.
Trong môi trường KT-XH sôi động thì cơ hội tìm kiếm việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp
hoặc tự tạo việc làm cho bản thân người lao động trong nhiều trường hợp lại được quyết
định bởi khả năng của người lao động trong việc thiết lập các mối quan hệ để nhận được
sự trợ giúp của gia đình, cộng đồng và nhà nước về công ăn việc làm. Thái độ tích cực,
sự năng động và niềm tin của bản thân người lao động về khả năng tìm kiếm việc làm
cũng là một trong những nhân tố quan trọng để có cơ hội tìm được việc làm phù hợp.
Hầu hết ở các khu vực ĐTH ở nước ta hiện nay thường có số lượng lao động cao
nhưng chất lượng lao động không đáp ứng các yêu cầu. Tình trạng dư thừa lao động,
thiếu việc làm, thất nghiệp với tỷ lệ cao là một trong những nguyên nhân cản trở quá
trình ĐTH, CNH. Chất lượng lao động thấp, thu nhập không ổn định, hầu như chỉ đủ
trang trải cho bản thân, do vậy nhu cầu tìm được việc làm có thu nhập ổn định đủ khả
năng cho chi dùng của gia đình gây nên một áp lực cho KT-XH tại khu vực ĐTH. Bên
cạnh đó, thu nhập thấp cũng là lý do cản trở việc tham gia của người lao động vào các
chương trình giáo dục nghề nghiệp, nâng cao chất lượng lao động. Vì vậy việc nâng cao
chất lượng nguồn lao động tại đô thị nói chung và vùng đang trong quá trình ĐTH nói
riêng là một yêu cầu vô cùng bức thiết.
3.1.5. Tốc độ công nghiệp hoá, đô thị hoá, quy mô hội tụ kinh tế đô thị
Quá trình ĐTH cũng là kết quả của quá trình CNH. Tốc độ CNH nhanh sẽ tạo nhiều
việc làm, giảm tình trạng thất nghiệp. Tuy nhiên trong quá trình đó cũng tiềm ẩn những
nguy cơ người lao động bị thất nghiệp khi chất lượng lao động của người lao động tại
khu vực ĐTH, CNH không đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi về công nghệ sản xuất. Tốc độ
và quy mô hội tụ kinh tế đô thị là nhân tố tổng hợp tác động trực tiếp đến tăng trưởng,
15
phát triển kinh tế vùng đô thị. Nó thể hiện mức độ tập trung ngày càng cao các nguồn lực
cho phát triển kinh tế đô thị và mức độ sôi động của các hoạt động kinh tế ở đô thị, nhất
là các hoạt động phi nông nghiệp như công nghiệp, xây dựng, thương mại, dịch vụ. Tốc
độ ĐTH càng nhanh thì tốc độ và quy mô hội tụ kinh tế đô thị càng cao, nó quyết định
đến số lượng, chất lượng việc làm được tạo ra, đồng thời cũng tạo ra được một môi
trường KT-XH thuận lợi để người lao động có thể tiếp cận thông tin, các dịch vụ việc làm
và thực hiện các dịch vụ trên thị trường lao động.
3.2.
Thực trạng việc làm trong quá trình đô thị hóa tại Việt Nam thời gian qua
Sau 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, vấn đề việc làm ở nước ta đã từng
bước được giải quyết theo hướng tuân theo quy luật khách quan của kinh tế hàng hóa và
thị trường lao động, góp phần đưa nền kinh tế nước ta phát triển đạt đưọc những thành
tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử.
Tuy nhiên, thực trạng vấn đề việc làm ở nước ta hiện nay vẫn còn có nhiều bất cập,
chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Điều đó thể hiện ở các khía cạnh:
Ở khía cạnh cung - cầu lao động, việc làm mất cân đối lớn, cung lớn hơn cầu. Tỷ lệ
thất nghiệp ở thành thị giảm chậm, tỷ lệ sử dụng lao động ở nông thôn thấp, chỉ đạt trên,
dưới 70%. Số doanh nghiệp trên đầu dân số còn thấp nên khả năng tạo việc làm và thu
hút lao động còn hạn chế, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn. Tình trạng
thiếu việc làm cao, chính sách tiền lương, thu nhập chưa động viên được người lao động
gắn bó tận tâm với công việc.
Ở khía cạnh quản lý nhà nước đối với thị trường lao động, việc làm và vai trò điều tiết
của Nhà nước đối với quan hệ cung cầu lao động còn hạn chế. Sự kiểm soát, giám sát thị
trường lao động, việc làm chưa chặt chẽ. Chưa phát huy được vai trò của “tòa án lao
động” trong giải quyết tranh chấp lao động. Cải cách hành chính hiệu quả thấp đối với
bản thân người lao động và cả xã hội.
Cơ cấu lao động chưa phù hợp với sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Tỷ lệ lao động qua đào tạo và đào tạo nghề
thấp. Kỹ năng tay nghề, thể lực còn yếu, kỷ luật lao động, tác phong làm việc công
nghiệp chưa cao. Các văn bản của Nhà nước hướng dẫn thực hiện các luật về lao động,
việc làm và thị trường lao động chưa được thực hiện đầy đủ và nghiêm minh, gây áp lực
cho vấn đề giải quyết việc làm. Khả năng cạnh tranh yếu, nhất là ở những lĩnh vực yêu
cầu lao động có trình độ cao. Cơ cấu ngành nghề đào tạo chuyên môn kỹ thuật chưa đáp
ứng yêu cầu của nền kinh tế đòi hỏi.
Hệ thống giao dịch trên thị trường lao động yếu kém. Hệ thống thông tin thị trường
lao động, việc làm chính thức chưa phát triển mạnh, chưa có các trung tâm giao dịch lớn
đạt hiệu quả khu vực. Cả nước chỉ có khoảng 200 trung tâm và trên 3.000 doanh nghiệp
giới thiệu việc làm, lại tập trung chủ yếu ở TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội, song hoạt động
16
chưa hiệu quả, chưa thường xuyên nên mới chỉ đáp ứng khoảng 20% nhu cầu thông tin
của người lao động tìm việc làm.
Hiện nay, chúng ta đang phải đối mặt với những thách thức to lớn. Cạnh tranh diễn ra
ngày càng gay gắt từ cấp độ sản phẩm, doanh nghiệp đến toàn nền kinh tế, từ bình diện
trong nước đến ngoài nước. Một bộ phận doanh nghiệp không thích nghi kịp có nguy cơ
phá sản, người lao động có nguy cơ thất nghiệp cao, thiếu việc làm, nhất là trong lĩnh vực
nông nghiệp. Chất lượng nguồn lực lao động nước ta chưa đáp ứng yêu cầu, gây trở ngại
trong quá trình hội nhập. Di chuyển lao động tự phát từ nông thôn ra thành thị, vào các
khu công nghiệp tập trung và di chuyển ra nước ngoài kéo theo nhiều vấn đề xã hội nhạy
cảm như "chảy máu chất xám, tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em qua biên giới”.
3.3.
Tình hình việc làm qua các số liệu thống kê 2011
3.3.1. Nguồn lao động
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2011 dân số Việt Nam gần đạt ngưỡng 88
triệu người (ước tính khoảng 87,84 triệu người). Với dân số này, hiện nay Việt Nam đang
đứng thứ 13 trên thế giới về dân số và thứ 2 trong khu vực Đông Nam Á. Về lực lượng
lao động, tính đến 1/7/2011, cả nước có 51,4 triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực
lượng lao động, chiếm 58,5% tổng dân số. Trong đó, lực lượng lao động của khu vực
nông thôn chiếm 70,3%.
Tuy nhiên, số người trong độ tuổi lao động đông không có nghĩa là thị trường lao
động Việt Nam đáp ứng đủ nhu cầu lao động cho các doanh nghiệp. Bởi số lao động có
tay nghề, có chất lượng của nước ta đang còn rất hạn chế (xem phần 2.2). Sự chênh lệch
về chất lượng nguồn lao động ở khu vực nông thôn và thành thị là quá lớn, ảnh hưởng
không nhỏ tới sự phát triển kinh tế chung của cả nước. Trong khi đó, lượng lao động từ
nông thôn đến thành thị tìm việc làm là rất lớn. Nhưng mục đích chính của những lao
động này lên thành phố không phải để học nghề, học việc mà tham gia vào các công việc
mang tính chất thời vụ, buôn bán hoặc làm những công việc không đòi hỏi kinh nghiệm,
tay nghề.
Nguồn lao động dồi dào, tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta trong những năm gần đây liên tục
tăng, nhưng các doanh nghiệp vẫn trong tình trạng thiếu lao động. Nguyên nhân là do lao
động Việt Nam chỉ mới đáp ứng được nhu cầu về số lượng, chưa đáp ứng được nhu cầu
về chất lượng. Điều này không chỉ gây khó khăn cho các doanh nghiệp và còn khiến cho
người lao động tự làm mất cơ hội việc làm cho bản thân.
3.3.2. Tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo
Trong tổng số hơn 50,35 triệu người từ 15 tuổi trở lên đang làm việc của cả nước, chỉ
có gần 7,8 triệu người đã được đào tạo, chiếm 15,4%. Hiện cả nước có 84,6% số người
đang làm việc chưa được đào tạo. Có sự chênh lệch đáng kể về tỷ lệ lao động đang làm
17
việc đã qua đào tạo giữa thành thị và nông thôn (30,9% và 9%). Tỷ lệ lao động đang làm
việc đã qua đào tạo thấp nhất ở hai vùng Đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên
(tương ứng là 8,6% và 10,8%) và cao nhất tại Hà Nội và TP. HCM. Tỷ trọng lao động
đang làm việc có trình độ đại học trở lên khác nhau đáng kể giữa các vùng, Hà Nội và TP.
HCM là những nơi tập trung nhiều nhất lao động đang làm việc có trình độ đại học trở
lên (tương ứng là 17,1% và 17,4%).
Số liệu tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo cho thấy chất lượng việc làm của
Việt Nam còn thấp, đây là một thách thức lớn của đất nước trong việc đáp ứng mục tiêu
phát triển bền vững. Lao động với chất lượng thấp đồng nghĩa với việc làm không bền
vững, việc trả lương thấp và không đáp ứng được xu thế mới, sử dụng công nghệ hiện đại
trong sản xuất và quản lý.
3.3.3. Cơ cấu lao động có việc làm theo nghề nghiệp
Cho đến năm 2011, phần lớn lao động đang làm việc trong nền kinh tế vẫn làm những
nghề không cần có trình độ chuyên môn kỹ thuật cũng như yêu cầu cao về kỹ năng nghề
nghiệp. Trong đó, có 20,4 triệu lao động làm “nghề giản đơn” (chiếm 40,4%), 7,6 triệu
lao động làm “dịch vụ cá nhân, bảo vệ và bán hàng” (15,0%), 7,1 triệu lao động làm
“nghề trong nông, lâm, ngư nghiệp” (14,1%) và 6,1 triệu lao động làm “thợ thủ công và
các thợ khác có liên quan” (12,1%). Lao động làm các nghề về quản lý, đòi hỏi phải có
trình độ chuyên môn kỹ thuật và tay nghề cao chiếm tỷ trọng khá khiêm tốn trong tổng số
lao động đang làm việc. Chỉ có 2,7 triệu lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật bậc
cao (5,3%) và 1,8 triệu lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật bậc trung (3,5%).
Trong tổng số 50,35 triệu người có việc làm thuộc 9 nhóm nghề: Nhà lãnh đạo,
chuyên môn kỹ thuật bậc cao, chuyên môn kỹ thuật bậc trung, nhân viên, dịch vụ cá
nhân, bảo vệ và bán hàng, nghề trong nông, lâm và ngư nghiệp, thợ thủ công và các thợ
khác có liên quan, thợ lắp ráp và vận hành máy móc thiết bị, nghề giản đơn. Có bốn
nhóm nghề sử dụng nhiều lao động nữ hơn là “dịch vụ cá nhân, bảo vệ và bán hàng”
(63,1%), “chuyên môn kỹ thuật bậc trung” (55,3%), “lao động giản đơn” (52,4%) và
“chuyên môn kỹ thuật bậc cao” (50,2%).
Trong từng nhóm nghề, phân bổ lao động theo các nhóm tuổi không giống nhau và có
sự lựa chọn tuổi đối với từng nhóm nghề. Đối với nhóm nghề “nhà lãnh đạo”, phần lớn
các nhà lãnh đạo từ 40 tuổi trở lên (69,1%). Một số nhóm nghề yêu cầu có trình độ
chuyên môn kỹ thuật và tay nghề cao thì lao động trẻ dưới 40 tuổi lại chiếm tỷ trọng lớn,
như nhóm nghề “chuyên môn kỹ thuật bậc cao”, “thợ lắp ráp và vận hành máy móc thiết
bị”. Trong khi đó, những nghề không yêu cầu trình độ chuyên môn kỹ thuật và kỹ năng
nghề nghiệp thì tỷ trọng lao động ở các nhóm tuổi không có sự khác biệt lớn.
3.3.4. Cơ cấu lao động có việc làm theo ngành kinh tế
18
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước. Quá trình này tất yếu làm tăng tỷ trọng lao động trong
các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, và làm giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp.
Bảng 1 cho thấy chuyển dịch cơ cấu lao động trong những năm qua theo ba khu vực kinh
tế “nông, lâm, thủy sản”, “công nghiệp và xây dựng” và “dịch vụ”.
Bảng 1. Cơ cấu lao động của các khu vực kinh tế, 2007-2011
Năm
2007
2008
2009
2010
2011
Nông, lâm, thủy sản
52,9
52,3
51,5
49,5
48,4
Công nghiệp và xây dựng
18,9
19,3
20,0
21,0
21,3
Dịch vụ
28,1
28,4
28,4
29,5
30,3
3.3.5. Cơ cấu lao động có việc làm theo loại hình kinh tế
Cơ cấu các loại hình kinh tế trong những năm gần đây gần như không đổi. Khu vực cá
nhân/hộ sản xuất kinh doanh cá thể chiếm tới 77,8% (39,2 triệu lao động). Kinh tế tập thể
hiện nay chỉ còn một tỷ trọng rất nhỏ (0,3%). Tư nhân và vốn đầu tư nước ngoài là hai
loại hình kinh tế năng động, nhưng tỷ trọng lao động đang làm việc trong hai loại hình
này khá khiêm tốn (8,1% và 3,4%).
Số liệu qua các cuộc điều tra từ năm 2009 đến nay cho thấy tỷ trọng lao động đang
làm việc của khu vực tư nhân và vốn đầu tư nước ngoài đang có xu hướng tăng lên. Điều
này cho thấy thị trường lao động ở nước ta đã phát triển trong thời gian qua, nhưng vẫn ở
mức thấp.
3.3.6. Cơ cấu lao động có việc làm theo vị thế việc làm
Cơ cấu lao động có việc làm chia theo vị thế việc làm qua các cuộc Điều tra lao động
và việc làm từ năm 2009 đến nay cho thấy: Tỷ trọng của nhóm “làm công ăn lương”
chiếm khoảng một phần ba tổng số lao động đang làm việc. Tỷ trọng của nhóm này tăng
chậm từ 34,6% năm 2009 lên 40,0% năm 2011. Xu hướng này chứng tỏ thị trường lao
động nước ta đã và đang phát triển theo hướng kinh tế thị trường. Mặc dù vậy, khi so
sánh với các nước trên thế giới và khu vực, đặc biệt với các nước có nền kinh tế phát
triển (thường có tỷ trọng người làm công ăn lương chiếm trên 80%), Việt Nam vẫn còn ở
mức rất thấp.
19
Bảng 2. Cơ cấu (%) lao động theo vị thế việc làm, 2009-2011
Loại hình kinh tế
1/9/2009
1/7/2010
1/7/2011
Tổng số % Nữ
Tổng số % Nữ
Tổng số % Nữ
Tổng số
100,0
48,7
100,0
48,4
100,0
48,2
Chủ cơ sở
4,8
32,6
3,4
31,4
2,9
30,7
Tự làm
44,6
51,1
43,3
48,6
43,9
48,8
Lao động gia đình
16,9
64,1
19,4
65,4
18,6
64,7
Làm công ăn lương
33,4
40,1
33,8
40,2
34,6
40,0
Xã viên hợp tác xã
0,1
29,5
0,0
18,5
0,0
39,6
Thợ học việc
0,2
31,2
0,1
31,2
Trong nhóm “lao động gia đình”, lao động nữ vẫn chiếm vai trò chủ đạo (65%). Đây
là nhóm lao động dễ thay đổi việc làm và hầu như không được hưởng một loại hình bảo
hiểm xã hội nào.
3.3.7. Thu nhập bình quân/tháng của lao động làm công ăn lương
Theo số liệu thống kê 2011, nhìn chung thu nhập bình quân/tháng của lao động làm
công ăn lương là 3,1 triệu đồng/tháng, với mức thu nhập của nam là 3,3 triệu đồng/tháng
và của nữ là 2,9 đồng/tháng. Lao động có trình độ đại học có mức thu nhập gần gấp đôi
lao động chưa qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật (4,9 triệu đồng/tháng và 2,6 triệu
đồng/tháng).
Xét theo ngành kinh tế, thu nhập bình quân thay đổi từ mức thấp nhất là của ngành
“nông, lâm, thủy sản: (khoảng 2,3 triệu đồng/tháng) đến mức cao nhất là của ngành “hoạt
động của các tổ chức và cơ quan quốc tế”, khoảng 9,8 triệu đồng/tháng. Một số ngành có
thu nhập khá (khoảng 5 triệu đồng/tháng) gồm: “hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo
hiểm: (5,6 triệu đồng/tháng); “thông tin và truyền thông” và “hoạt động chuyên môn,
khoa học và công nghệ” khoảng 4,7 triệu đồng/tháng.
3.3.8. Tình trạng mất việc làm và thất nghiệp
Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi của nước ta trong 6 tháng đầu năm 2011
là 2,58%, trong đó khu vực thành thị 3,96%; khu vực nông thôn 2,02%. Tỷ lệ thiếu việc
làm của lao động trong độ tuổi là 3,9%, trong đó khu vực thành thị 2,15% và khu vực
nông thôn 4,6%. Các tỷ lệ này hầu như đều thấp hơn các tỷ lệ tương ứng năm 2010. Năm
2010 tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động là 2,88%, trong đó khu vực thành thị là
4,43%, nông thôn 2,27%.
Tuy vậy, do trình độ phát triển kinh tế còn thấp, trình độ nhân lực không cao, nền kinh
tế chủ yếu phát triển các ngành nghề dựa trên công nghệ sử dụng nhiều lao động nên
năng suất lao động thấp và do vậy tình trạng giãn việc làm đã ảnh hưởng thu nhập của
người lao động nói riêng và mức sống của gia đình họ nói chung.
20
3.4.
Một số giải pháp giải quyết việc làm cho lao động Việt Nam trong quá trình
đô thị hóa đến năm 2020
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đề ra mục tiêu: "Giải quyết việc làm
cho 8 triệu lao động... Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2%/ năm, tỷ lệ lao động qua đào
tạo đạt 55%... Phát triển đa dạng các ngành, nghề để tạo nhiều việc làm và thu nhập;
khuyến khích tạo thuận lợi để người lao động học tập nâng cao trình độ lao động, tay
nghề; đồng thời có cơ chế chính sách phát triển, trọng dụng nhân tài”.
Kinh nghiệm 25 năm đổi mới cho thấy, muốn tạo nhiều việc làm và khả năng thu hút
lao động lớn cần phải tăng cường đầu tư và mở rộng sản xuất cả chiều rộng và chiều sâu
các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ chế biến và dịch vụ phục vụ đời sống dân
sinh.
Giải quyết vấn đề lao động – việc làm phải đi đôi với cơ cấu lại nguồn lực lao động cả
nước, phục vụ tốt yêu cầu từng bước tái cấu trúc lại nền kinh tế theo mô hình năng suất
cao, tăng trưởng nhanh và bền vững. Đồng thời, phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp
cơ bản và hữu hiệu.
-
-
-
-
Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế thị trường lao động, tạo khung pháp lý phù
hợp, bảo đảm đối xử bình đẳng giữa người sử dụng lao động và người lao động.
Cụ thể là: thực hiện đúng các luật về lao động, tiền lương tối thiểu, bảo hiểm lao
động, xuất khẩu lao động, pháp lệnh đình công; khắc phục tình trạng bất hợp lý
với người lao động làm thuê trong các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài và
kể cả một số doanh nghiệp trong nước như hiện nay, người lao động phải được
quyền hưởng lương đúng với số lượng và chất lượng lao động họ đã bỏ ra, phải
được bảo đảm về chỗ ở và những điều kiện môi trường lao động, an sinh khác theo
đúng luật pháp.
Hai là, phê chuẩn và thực hiện các công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO)
liên quan đến thị trường lao động nước ta, đặc biệt là nước ta hiện nay đã là thành
viên chính thức của Tổ chức Thương mại quốc tế.
Ba là, phát triển mạnh khu vực dân doanh, trước hết là phát triển các doanh nghiệp
vừa và nhỏ để nhanh chóng tạo ra việc làm và khả năng thu hút lao động vào sản
suất. Phấn đấu đạt tỷ lệ trên 200 người dân có một doanh nghiệp. Phát triển kinh tế
trang trại, hợp tác xã trong nông nghiệp. Đặc biệt coi trọng phát triển kinh tế dịch
vụ, công nghiệp chế biến nông sản, khôi phục và phát triển các làng nghề thủ công
mỹ nghệ sản xuất sản phẩm cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu để tận dụng lao
động dư thừa và lao động có ngành nghề truyền thống của nước ta. Trên cơ sở đó
tạo điều kiện thúc đẩy thị trường lao động trong nông nghiệp và thị trường xuất
khẩu lao động ngày càng phát triển cao hơn nữa.
Bốn là, Nhà nước cùng các doanh nghiệp quan tâm đào tạo công nhân có trình độ
cao, trình độ lành nghề, trình độ văn hóa đối với lao động trẻ, nhất là ở khu vực
21
-
-
-
nông thôn để cung ứng cho các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, khu
du lịch, dịch vụ và xuất khẩu lao động đang có nhu cầu thu hút mạnh. Tập trung
xử lý lao động dôi dư trong các doanh nghiệp nhà nước theo hướng chuyển đổi
ngành nghề cho họ. Khắc phục tình trạng "đóng băng” trong đổi mới cơ cấu lao
động làm ảnh hưởng tới sự phát triển đa dạng và chiều sâu của nền kinh tế trong
quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế
quốc tế. Chuyển mạnh các đơn vị sự nghiệp cung cấp các dịch vụ công sang đơn
vị tự chủ, tự chịu trách nhiệm và thực hiện chế độ hợp đồng lao động để lao động
khu vực này có điều kiện tham gia vào thị trường lao động trong nước và ngoài
nước, nâng cao hiệu quả của lao động.
Năm là, mở rộng và phát triển thị trường lao động ngoài nước. Đây là một trong
những thế mạnh của lao động nước ta về số lượng đông và trẻ. Vì vậy phải tập
trung đào tạo ngoại ngữ, pháp luật cho lao động xuất khẩu, nhất là thanh niên nông
thôn để tạo điều kiện cho họ tiếp cận được với thị trường lao động của nhiều nước
trên thế giới, đặc biệt là với những nước có trình độ phát triển cao và đang có nhu
cầu thu hút lao động cho các ngành nghề sản xuất.
Sáu là, mở rộng và nâng cấp hệ thống dạy nghề cho người lao động ở 3 cấp trình
độ (sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề). Cần mở rộng đào tạo và đào
tạo lại số lao động nước ta để có cơ cấu hợp lý ở 3 trình độ như trên. Có như vậy
mới đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của thị trường lao động trong những năm tới.
Trong đào tạo và đào tạo lại cần chuyển sang đào tạo theo định hướng nhu cầu lao
động của thị trường (đào tạo gắn với sử dụng, gắn với nhu cầu của sản xuất) tạo
khả năng cung cấp lao động có chất lượng cao về tay nghề và sức khỏe tốt, có kỹ
thuật, tác phong công nghiệp, có văn hóa ... cho thị trường trong nước và thị
trường ngoài nước.
Bảy là, đa dạng hóa các loại hình thị trường, các lớp dạy nghề của Nhà nước, của
tư nhân và quốc tế. Áp dụng cơ chế thị trường trong dạy nghề, dần dần hình thành
thị trường phù hợp với pháp luật. Thực hiện quy hoạch đầu tư tập trung hệ thống
dạy nghề kỹ thuật thực hành qua lao động trực tiếp; đặc biệt là xây dựng các
trường dạy nghề trọng điểm quốc gia. Đối với tỉnh, thành phố cũng phải có trường
dạy nghề; các quận và huyện cũng cần có các trung tâm dạy nghề; cổ phần hóa các
cơ sở dạy nghề công lập, phát triển cơ sở dạy nghề ngoài công lập để giảm chi phí
ngân sách cho Nhà nước. Đa dạng hóa các kênh giao dịch trên thị trường lao động
bằng thông qua các hệ thống thông tin, quảng cáo, trang tin việc làm trên các báo,
đài và tổ chức các hội chợ việc làm để tạo điều kiện cho các quan hệ giao dịch trực
tiếp giữa người lao động và người sử dụng lao động ký kết các hợp đồng lao động
theo đúng quy định của pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin thị
trường lao động quốc gia và nối mạng trước hết ở các vùng kinh tế trọng điểm, các
thành phố lớn, các khu vực công nghiệp tập trung và cho cả xuất khẩu lao động để
giúp người lao động tìm kiếm việc làm thuận lợi nhất.
22
KẾT LUẬN
Sau 25 năm thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa đất nước. Việt Nam
đã bước đầu có những thành tựu đáng khích lệ về sự tăng trưởng kinh tế, phát triển bộ
mặt đất nước, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có
những khó khăn bất cập về việc làm cần giải quyết, đó chính là tình trạng thất nghiệp,
thiếu việc làm; tình trạng thừa thầy thiếu thợ; thiếu lao động có trình độ chuyên môn kĩ
thuật cao. Vì vậy Nhà nước ta cần có những chính sách đưa ra kịp thời nhằm giải quyết
việc làm cho người lao động để người dân sống trong sự ấm no, hạnh phúc.
23
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.
Đình Quang (chủ biên), “Về quá trình đô thị hóa trên thế giới và ở nước ta hiện
nay”, Đời sống văn hóa đô thị và khu công nghiệp Việt Nam, Nhà xuất bản Văn
hóa Thông tin, Hà Nội, 2005, tr.17, 252 tr.
Trịnh Duy Luân, “Quá trình đô thị hóa”, Xã hội học đô thị, NXB Khoa học Xã hội,
Hà Nội, 2004.
/> /> /> />
24