Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP hỗ TRỢ NGÀNH cơ KHÍ ở TỈNH ĐỒNG NAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (607.05 KB, 117 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1: PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ NGÀNH
CƠ KHÍ Ở TỈNH ĐỒNG NAI - CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Một số vấn đề chung về công nghiệp cơ khí và công
nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí
1.2. Quan niệm, nội dung và những nhân tố tác động đến phát
triển công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí ở tỉnh Đồng Nai
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP
HỖ TRỢ NGÀNH CƠ KHÍ Ở TỈNH ĐỒNG NAI
2.1. Thành tựu và hạn chế trong phát triển công nghiệp hỗ
trợ ngành cơ khí ở tỉnh Đồng Nai
2.2. Nguyên nhân của thành tựu, hạn chế và những vấn đề
đặt ra cần giải quyết
Chương 3: QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ NGÀNH
CƠ KHÍ Ở TỈNH ĐỒNG NAI THỜI GIAN TỚI
3.1. Quan điểm cơ bản phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành
cơ khí ở tỉnh Đồng Nai thời gian tới
3.2. Giải pháp chủ yếu phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành
cơ khí ở tỉnh Đồng Nai thời gian tới
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ
quá độ, nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội (CNXH),


đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn. Để thực hiện nhiệm vụ
này đòi hỏi sự phát triển của nhiều phân ngành CNHT, trong đó có CNHTNCK.
Sự phát triển của CNHTNCK trực tiếp góp phần làm tăng tỷ lệ nội địa hoá, giảm
nhập khẩu, tăng đầu tư nước ngoài, do đó góp phần tăng năng suất, chất lượng,
hiệu quả, giảm giá thành, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp cơ khí
trong nước và giảm sự phụ thuộc vào nước ngoài; đáp ứng ngày càng cao nhu
cầu của sản xuất công nghiệp, đồng thời tạo việc làm, tăng thu nhập, xoá đói
giảm nghèo, ổn định chính trị - xã hội.
Nhận thức vai trò, vị trí của CNHT nói chung và CNHTNCK nói riêng, Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng cộng sản Việt Nam đề ra nhiệm vụ: “Chú trọng
phát triển các ngành có lợi thế cạnh tranh, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp phục vụ nông
nghiệp, nông thôn, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo và sản xuất vật liệu mới” [21,
tr.91]. Quyết định số 880/QĐ - TTg ngày 09 tháng 06 năm 2014 của Thủ tướng Chính
phủ xác định: “Tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ, hình thành sự phân công sản
xuất, liên kết, hợp tác tham gia chế tạo trong từng công đoạn sản phẩm” [74].
Là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ, Đồng Nai sớm nhận
thức được vai trò của CNHTNCK đối với sự nghiệp CNH, HĐH; trong những năm
qua Đảng bộ, Hội đồng nhân dân, UBND tỉnh Đồng Nai đã đề ra nhiều chủ trương,
chính sách, biện pháp khuyến khích, đẩy mạnh phát triển CNHTNCK. Kết quả là
năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất công nghiệp có bước phát triển vượt bậc và
ngày càng có nhiều thành phần kinh tế tham gia vào phát triển CNHTNCK. Tuy
nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong thời gian qua, phát triển
CNHTNCK ở tỉnh Đồng Nai vẫn chưa tương xứng với tiền năng: Tỷ lệ nội địa hóa,
năng lực của CNHTNCK còn thấp; thiếu sự liên kết giữa CNHTNCK trong Tỉnh
với CNHTNCK trong nước và nước ngoài; sức cạnh tranh của sản phẩm


CNHTNCK còn kém, thiếu vốn, thiếu trang thiết bị, cơ sở vật chất, trình độ KHCN
lạc hậu, chưa khẳng định được thương hiệu trên thị trường.
Đặc biệt hiện nay, việc triển khai các hiệp định thương mại tự do thế hệ

mới với mức độ tự do hoá (mở cửa) sâu với “tiêu chuẩn cao” hơn nhiều so với
quy định của WTO, xoá bỏ hầu hết các dòng thuế, mở cửa mạnh các lĩnh vực
hàng hoá, dịch vụ,… Cùng với đó, sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng
công nghiệp lần 4, hàng hoá, công đoạn sản xuất sử dụng lao động giản đơn
và giá trị gia tăng thấp, hiện là các lĩnh vực xuất khẩu chủ lực của nước ta sẽ
giảm dần lợi thế. Trong bối cảnh đó, muốn tồn tại và phát triển, muốn nâng
cao năng lực cạnh tranh tốt hơn thì tỉnh Đồng Nai cần chú trọng phát triển
CNHTNCK, xem đây là bệ phóng cho các ngành nghề khác. Từ lý do trên tác
giả chọn vấn đề: “Phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí ở tỉnh Đồng
Nai” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Phát triển CNHTNCK là một trong những vấn đề quan trọng của quá trình
CNH, HĐH đất nước. Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu liên
quan tới các ngành CNHT ở Việt Nam nói chung, trong đó có CNHTNCK, cụ thể là:
* Nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn, chỉ ra những vấn
đề có tính quy luật và xu hướng vận động của CNHTNCK có các công trình:
Trần Văn Thọ (2006), Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp
hóa Việt Nam, Nxb CTQG. Tác giả đã đưa ra khái niệm: “Công nghiệp phụ trợ là
khái niệm chỉ toàn bộ những sản phẩm công nghiệp có vai trò hỗ trợ cho việc sản
xuất các thành phẩm chính. Cụ thể là những linh kiện, phụ liệu, phụ tùng, sản phẩm
bao bì, nguyên liệu để sơn, nhuộm, v.v., và cũng có thể bao gồm cả những sản
phẩm trung gian, những nguyên liệu sơ chế”. Tác giả cũng nhấn mạnh đến vai trò
của công nghiệp phụ trợ trong tiến trình CNH, HĐH rút ngắn của Việt Nam, đề
xuất một số giả pháp phát triển công nghiệp phụ trợ gắn với phát triển doanh nghiệp
nhỏ và vừa (DNNVV) ở nước ta hiện nay.


Trần Đình Thiên (2007), Phát triển công nghiệp hỗ trợ - đánh giá thực trạng và hệ
quả, Nxb Khoa học xã hội. Tác giả đã chỉ ra thực trạng phát triển CNHT ở một số ngành
cụ thể đó là: ngành sản xuất xe máy, ngành chế tạo và sản xuất ôtô, ngành điện tử, ngành

dệt may. Tác giả cho rằng, các sản phẩm của doanh nghiệp nhà nước sản xuất phần lớn là
sản phẩm có chất lượng trung bình và giá thành cao (do công nghệ lạc hậu và quản lý yếu
kém,…) trong khi khu vực tư nhân và hộ gia đình cá thể lại hạn chế về vốn và công nghệ.
Theo tác giả Việt Nam cần lựa chọn ngành sản phẩm chiến lược thay vì lựa chọn chiến
lược phát triển toàn ngành. Cần có chính sách ưu đãi đối với những sản phẩm chiến lược;
phát triển cụm liên kết công nghiệp, xây dựng hệ thống các ngành cung ứng.
Hà Thị Hương Lan (2014), Công nghiệp phụ trợ trong một số ngành
công nghiệp ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Hành
chính Quốc gia. Luận án đã chỉ ra tỷ lệ nội địa hóa trong các ngành công
nghiệp của Việt Nam là rất thấp do doanh nghiệp CNHT luôn phải phụ thuộc
vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, không thể chủ động được hoạt động SXKD, giá trị gia tăng của các doanh nghiệp Việt Nam thấp so với các nước có
ngành công nghiệp phụ trợ phát triển. Tác giả đã đề xuất phương hướng, giải
pháp thúc đẩy phát triển công nghiệp phụ trợ nói chung và ở ba ngành cụ thể là
xe máy, điện tử và dệt may của Việt Nam trong thời gian tới.
Nguyễn Đình Luận (2014), “Thực trạng ngành công nghiệp hỗ trợ ở Việt
Nam”, Tạp chí Tài chính, số 11. Tác giả cho rằng Việt Nam có nhiều thuận lợi về
nguồn nhân lực như nguồn lao động trẻ, dồi dào. Tuy nhiên, đối với CNHT thì nguồn
nhân lực có trình độ và kỹ năng chuyên môn mới là điều quyết định. Nguyên nhân
của việc thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao là do chương trình đào tạo tại các
trường kỹ thuật không gắn với thực tiễn, sự mất cân đối trong phát triển kinh tế cũng
tạo ra tâm lý lao động xã hội chỉ quan tâm đến các ngành thương mại và dịch vụ. Để
phát triển ngành CNHT thì Nhà nước cần đầu tư hình thành một số doanh nghiệp
chủ chốt ở một số lĩnh vực như cơ khí chế tạo, nhựa, cao su, sản xuất linh kiện,... theo


hình thức Nhà nước đầu tư thành lập mới doanh nghiệp nhà nước ở lĩnh vực này, sau
khi đi vào hoạt động có hiệu quả thì sẽ triển khai cổ phần hóa.
Vũ Đức Vĩnh (2015), Phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí ở thành phố
Hà Nội hiện nay, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Kinh tế chính trị, Học viện chính trị.
Luận văn đã luận giải cơ sở lý luận về phát triển CNHTNCK; chỉ ra những nguyên

nhân khách quan, chủ quan của những thành tựu, hạn chế về phát triển CNHTNCK ở
thành phố Hà Nội. Luận văn đã xác định 4 quan điểm cơ bản, 5 giải pháp chủ yếu
nhằm phát triển CNHTNCK ở thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, khung lý luận còn
“mờ”; chưa chỉ ra nguyên nhân khách quan dẫn đến hạn chế trong phát triển
CNHTNCK ở thành phố Hà Nội; chưa làm rõ được vị trí, vai trò của các giải pháp.
* Dưới góc độ nghiên cứu về vai trò của công nghiệp hỗ trợ ngành cơ
khí, chỉ ra kinh nghiệm và bài học đối với Việt Nam có các công trình sau:
Nguyễn Kế Tuấn (2004), “Phát triển công nghiệp phụ trợ trong chiến lược
phát triển công nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 85. Tác giả đã
đề cập tới vai trò của các ngành CNHT đối với quốc gia đang phát triển như Việt
Nam. Tác giả cho rằng CNHT là điều kiện quan trọng đảm bảo tính chủ động và
nâng cao giá trị gia tăng của ngành sản xuất sản phẩm thuộc khu vực hạ nguồn,
giảm xuất khẩu sản phẩm thô và nhập khẩu nguyên liệu, mở rộng khả năng thu hút
FDI, góp phần tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Theo tác giả nhà
nước cần đầu tư nhiều hơn theo chiều sâu vào một số ngành như sản xuất phôi thép,
các linh kiện, phụ kiện hỗ trợ trong công nghiệp ô tô, xe máy,… Xác định loại
nguyên liệu nào nhập khẩu và loại nào cần và có thể đầu tư trong nước.
Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương - Trung tâm thông tin tư liệu
(2010), Phát triển ngành công nghiệp phụ trợ - thực trạng, định hướng và giải
pháp. Bài viết đã nêu ra 4 vai trò của CNHT đó là: Tăng sức cạnh tranh của sản
phẩm công nghiệp chính và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá theo hướng vừa
mở rộng vừa chuyên sâu; thu hút dòng vốn FDI vào lĩnh vực công nghiệp, đồng
thời, kích thích phát triển DNNVV trong nước; thúc đẩy việc chuyển giao công
nghệ, áp dụng các kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất. Góp phần tạo công ăn việc làm,


thu hút lao động dư thừa trên các địa bàn sản xuất của doanh nghiệp và khu vực
lân cận. Trên cơ sở đó, bài viết đã đánh giá thực trạng, đề xuất định hướng và giải
pháp phát triển ngành CNHT của Việt Nam trong thời gian tới.
* Nhóm công trình nghiên cứu về chính sách và giải pháp phát triển CNHTNCK

Lê Thế Giới (2008), Một số giải pháp phát triển ngành công nghiệp bổ
trợ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, đề tài khoa học cấp Thành phố. Tác giả đã
tổng hợp các bài học từ các quốc gia trên thế giới và đối chiếu với điều kiện
thực tế của Việt Nam, đề tài đã đề xuất hai nhóm giải pháp chính để thúc đẩy sự
phát triển các ngành công nghiệp bổ trợ của thành phố Đà Nẵng, gồm: Nhóm
thứ nhất hướng vào xây dựng các cơ sở công nghiệp quan trọng nhất của công
nghiệp bổ trợ - các doanh nghiệp cần bổ trợ và các doanh nghiệp bổ trợ. Nhóm
thứ hai tập trung vào thiết lập các điều kiện, các lợi thế cho các liên kết giữa các
doanh nghiệp cần bổ trợ và các doanh nghiệp bổ trợ.
Lê Xuân Sang, Nguyễn Thị Thu Huyền (2011), Chính sách tài chính hỗ trợ
phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo do Viên Chính sách Công
nghiệp (Bộ Công Thương) và Viện Chiến lược và Chính sách tài chính (Bộ Tài
chính) tổ chức. Các tác giả đã khẳng định CNHT yếu kém là một nguyên nhân chính
làm hạn chế sự tham gia vào chuỗi giá trị và mạng lưới sản xuất toàn cầu của công
nghiệp Việt Nam đó là: Do nhận thức chưa đầy đủ về vai trò của CNHT nên trong
thời gian dài khiến khung pháp lý, chính sách hỗ trợ cho CNHT chậm được ban hành
và các nỗ lực phát triển CNHT chậm được hiện thực hóa. Chính sách phát triển
CNHT đã can thiệp quá mức nhưng lại thiếu trọng tâm và chưa xác định được các ưu
tiên cụ thể. Đến nay, các biện pháp chính sách thường tập trung vào việc can thiệp
thông qua bảo hộ, hỗ trợ nhằm bảo vệ một ngành nào đó trước sức ép cạnh tranh.
Việc này đã tạo cơ hội cho các hành vi gian lận về chứng nhận nguồn gốc xuất xứ
hay nhập khẩu hầu hết các bộ phận và linh kiện từ nước ngoài và chỉ thực hiện công
đoạn lắp ráp đơn giản cuối cùng tại Việt Nam để hưởng những ưu đãi về chính sách.
Như vậy, các công trình khoa học nêu trên đã đề cập đến những khía cạnh khác
nhau của CNHT, trong đó có CNHTNCK. Đây là những tài liệu quan trọng làm cơ sở


để tác giả tham khảo, kế thừa, phát triển trong triển khai nghiên cứu luận văn này. Tuy
nhiên, do các công trình nghiên cứu được thực hiện trong những thời điểm khác nhau,
mục đích nghiên cứu cũng khác nhau nên tình trạng nghiên cứu không toàn diện, cũng

như những hạn chế và thiếu sót ở mức độ nhiều, ít là không thể tránh khỏi. Hơn nữa, ở
phạm vi địa phương, theo nhận biết của tác giả, đến nay chưa có công trình khoa học
nào nghiên cứu vấn đề CNHTNCK ở tỉnh Đồng Nai dưới dạng luận văn thạc sĩ kinh tế
chính trị một cách có hệ thống, từ cơ sở lý luận, thực trạng, giải pháp phát triển
CNHTNCK. Vì vậy, việc lựa chọn vấn đề nghiên cứu của tác giả là cần thiết ở tỉnh
Đồng Nai hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển CNHTNCK, đề
xuất quan điểm và giải pháp phát triển CNHTNCK ở tỉnh Đồng Nai thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển CNHTNCK ở tỉnh
Đồng Nai hiện nay.
- Đánh giá thực trạng phát triển CNHTNCK ở tỉnh Đồng Nai giai đoạn từ 2010 đến nay.
- Đề xuất quan điểm, giải pháp đẩy mạnh phát triển CNHTNCK ở tỉnh
Đồng Nai thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí.
* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận văn chỉ giới hạn việc nghiên cứu trong nhóm ngành
thuộc các lĩnh vực CNHTNCK sản xuất chi tiết, linh kiện, phụ tùng, nguyên
phụ liệu bằng kim loại phục vụ sản xuất các sản phẩm công nghiệp cơ khí của
máy nông nghiệp, máy động lực cỡ nhỏ, các chi tiết nội địa hoá ôtô, xe máy,...
Về không gian: Nghiên cứu ở địa bàn tỉnh Đồng Nai.
Về thời gian: Luận văn tập trung phân tích, nghiên cứu khảo sát số liệu, tư liệu từ
năm 2010 đến nay.


5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận

Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước,
các Nghị quyết, Chỉ thị về phát triển CNHT của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân,
Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai. Đồng thời kế thừa kết quả nghiên cứu của
các công trình khoa học có liên quan đến đề tài.
* Cơ sở thực tiễn
Luận văn dựa trên cơ sở thực tiễn phát triển CNHTNCK ở nước ta và dựa
trên các báo cáo của Tỉnh cùng với số liệu, tư liệu khảo sát của tác giả về
CNHTNCK ở tỉnh Đồng Nai từ năm 2010 đến 2017.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, bao gồm:
Phương pháp nghiên cứu đặc thù của Kinh tế chính trị Mác - Lênin (phương
pháp trừu tượng hóa khoa học), cùng các phương pháp lôgíc, lịch sử, phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Luận văn góp phần luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về
CNHTNCK ở tỉnh Đồng Nai nói riêng, CNHTNCK ở nước ta nói chung.
- Cung cấp thêm những luận cứ khoa học cho Đảng bộ, chính quyền
tỉnh Đồng Nai trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển KT – XH, trực tiếp là giải
quyết vấn đề phát triển CNHTNCK.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy môn Kinh tế chính trị liên quan đến vấn đề phát triển CNHTNCK.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm phần mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.


Chương 1
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ NGÀNH CƠ KHÍ
Ở TỈNH ĐỒNG NAI - CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Một số vấn đề chung về công nghiệp cơ khí và công nghiệp hỗ
trợ ngành cơ khí
1.1.1. Quan niệm về công nghiệp cơ khí và công nghiệp
hỗ trợ ngành cơ khí
* Quan niệm về công nghiệp cơ khí
C.Mác và Ph.Ăng - ghen chỉ ra rằng, đại công nghiệp cơ khí phát triển dưới chủ
nghĩa tư bản (CNTB) đã tạo ra tiền đề vật chất cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội
(CNXH). Đại công nghiệp cơ khí là cơ sở vật chất và kỹ thuật duy nhất của CNXH.
Quá trình phát triển của đại công nghiệp cơ khí dưới chế độ TBCN đã tạo ra LLSX xã
hội hùng mạnh. Sự phát triển của LLSX ấy làm cho mâu thuẫn cơ bản của CNTB mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất và hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa gay gắt. Mâu thuẫn cơ bản đó đẩy xã hội TBCN vào cảnh hỗn loạn, khủng
khoảng triền miên, đi đến sụp đổ. Đại công nghiệp cơ khí đã sinh ra, rèn luyện và đoàn
kết giai cấp vô sản, giai cấp bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất; do đó, đây là giai cấp có
sứ mệnh lịch sử làm cách mạng XHCN, thủ tiêu CNTB, xây dựng xã hội XHCN.
C.Mác và Ph.Ăng - ghen còn chỉ rõ, sau khi thoát khỏi xiềng xích của chế độ tư hữu
TBCN, đại công nghiệp cơ khí được phát triển một cách có kế hoạch, tạo ra khả năng
mở rộng vô hạn nền sản xuất xã hội, xóa bỏ lối phân công cũ, xóa bỏ sự đối lập giữa
thành thị và nông thôn tạo nên một thế hệ những con người mới phát triển toàn diện,
thỏa mãn nhu cầu vật chất và văn hóa tăng nên không ngừng của người lao động.
Dựa vào những nguyên lý của C.Mác và Ph.Ăng - ghen, V.I.Lênin đã chỉ ra:
Thực chất của sự quá độ từ CNTB lên CNXH là ở chỗ các nhiệm vụ chính trị giữ địa
vị phụ thuộc so với các nhiệm vụ kinh tế. Nhiệm vụ kinh tế ấy chỉ có thể được giải
quyết “với điều kiện là những tiền đề cơ bản về kinh tế, xã hội, văn hóa và chính trị của
sự quá độ đó đã được CNTB tạo ra đầy đủ. Không có nền sản xuất lớn cơ khí, không
có mạng lưới đường sắt, bưu điện và điện báo tương đối phát triển, không có một


mạng lưới các cơ quan giáo dục quốc dân ít nhiều phát triển, thì tuyệt đối không thể
giải quyết hai nhiệm vụ đó một cách có hệ thống với quy mô toàn dân” [40, tr.163].
V.I.Lênin đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò nền tảng của công nghiệp cơ khí. Người xác

định nó vừa như một tiền đề, vừa như một đặc trưng nổi bật của xã hội tương lai.
Người cho rằng: "Cơ sở kinh tế duy nhất có thể có được của CNXH là nền đại công
nghiệp cơ khí. Ai quên điều đó, người đó không phải là người cộng sản... " [41, tr.60].
Dựa vào kinh nghiệm công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước
Đông Âu, phân tích mối quan hệ biện chứng giữa thời kỳ quá độ với những bước quá
độ nhỏ; vào đầu nǎm 60, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra luận chứng khoa học về
tính tất yếu của công nghiệp hoá nói chung và công nghiệp cơ khí nói riêng ở Việt
Nam. Người cho rằng: "Đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta dùng
máy móc để sản xuất một cách rộng rãi: dùng máy móc cả trong công nghiệp và trong
nông nghiệp. Máy sẽ chắp thêm tay cho người, làm cho sức người tǎng thêm gấp trǎm,
nghìn lần và giúp người làm việc phi thường. Muốn có nhiều máy, thì phải mở mang
các ngành công nghiệp làm ra máy, ra gang, thép than dấu... " [26, tr.40 - 41].
Công nghiệp cơ khí là ngành sản xuất vật chất cơ bản, có vị trí đặc biệt
quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, bởi ngành cơ khí sản
xuất nhiều loại sản phẩm làm tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Công nghiệp cơ
khí sử dụng các phương pháp đúc, rèn, tạo phôi, nhiệt luyện, xử lý bề mặt để tạo
ra giá trị sử dụng của sản phẩm cơ khí thuộc các lĩnh vực: thiết kế, chế tạo, lắp ráp
các máy móc, phương tiện, dây chuyền sản xuất trong các ngành giao thông vận
tải, xây dựng, chế tạo máy, gia công cơ khí, chế biến thực phẩm,… nhằm đáp ứng
nhu cầu của doanh nghiệp trong nước và xuất khẩu.
Từ sự phân tích trên, theo tác giả: Công nghiệp cơ khí là một phân ngành
kinh tế thuộc ngành công nghiệp nặng gắn liến với sản xuất máy móc, gia công
kim loại, hợp kim.
* Công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí
Theo tác giả được biết trên thế giới và Việt Nam chưa có định nghĩa trực tiếp
về CNHTNCK mà chỉ đề cập đến CNHT nói chung, trong đó có CNHTNCK:


Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin:
Xuất phát từ tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá, C.Mác coi

hai mặt giá trị và hiện vật của tổng sản phẩm xã hội là tiền đề lý luận quan
trọng để nghiên cứu tái sản xuất tư bản xã hội. Là hiện vật, tổng sản phẩm xã
hội được C.Mác phân chia thành hai loại: Tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu
dùng, và do đó nền sản xuất xã hội được chia thành hai khu vực: Khu vực I:
sản xuất tư liệu sản xuất; khu vực II: sản xuất tư liệu tiêu dùng.
Căn cứ vào cơ sở lý luận này mỗi khu vực sản xuất lại bao gồm rất nhiều
ngành, và số lượng những ngành này ngày càng tăng lên cùng với sự phát triển
của phân công lao động xã hội. Trên thực tế, ranh giới giữa khu vực I và II
không phải lúc nào cũng rõ ràng, có thể một số ngành vừa thuộc khu vực I, vừa
thuộc khu vực II. Nhưng nếu xét về mặt sản xuất ra nguyên liệu, linh kiện phụ
tùng phục vụ cho công nghiệp cơ khí lắp ráp các sản phẩm hoàn chỉnh thì
CNHTNCK thuộc khu vực I.
V.I.Lênin đã áp dụng lý luận của C.Mác về tái sản xuất tư bản xã hội để
nghiên cứu sự hình thành thị trường tư bản chủ nghĩa do kết quả trực tiếp của
việc phát triển lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ kỹ thuật.
V.I.Lênin đã chú ý đến sự tăng lên của cấu tạo hữu cơ của tư bản. Trong cả hai
khu vực, cấu tạo hữu cơ của tư bản đều tăng lên, nhưng cấu tạo hữu cơ khu
vực I tăng nhanh hơn khu vực II. Căn cứ vào thực tế đó và phân tích sự phát
triển của tư bản xã hội trong nhiều năm và đã nêu ra một biểu so sánh về sự
tăng lên của các bộ phận khác nhau của tổng sản phẩm xã hội. Trên cơ sở đó
V.I.Lênin đã rút ra quy luật kinh tế của tái sản xuất tư bản mở rộng trong điều
kiện kỹ thuật ngày càng tiến bộ (quy luật ưu tiên phát triển sản xuất tư liệu
sản xuất): Sản xuất tư liệu sản xuất để tạo ra tư liệu sản xuất phát triển nhanh
nhất, sau đến sản xuất tư liệu sản xuất để tạo ra tư liệu tiêu dùng; và cuối cùng
chậm nhất là sự phát triển của sản xuất tư liệu tiêu dùng.


Như vậy, trên cơ sở lý luận của C.Mác - Lênin thì phát triển
CNHTNCK là vấn đề có tính quy luật, sản xuất CNHTNCK là sản xuất để tạo
ra tư liệu sản xuất, sau đến sản xuất tư liệu sản xuất để tạo ra tư liệu tiêu dùng.

Lênin cũng đưa ra dẫn chứng khi sản xuất phát triển đến một mức độ nhất định thì
cần thực hiện liên hợp hóa những ngành sản xuất khác nhau “những ngành này hoặc thể
hiện những giai đoạn kế tiếp nhau trong quá trình chế biến nguyên liệu (chẳng hạn nấu
gang, biến gang thành thép và có thể là cả việc chế tạo những thành phẩm nào đó bằng
thép nữa), hoặc có tác dụng bổ trợ lẫn nhau” [42, tr.399]. V.I.Lênin đã đưa ra dẫn chứng:
“Trong ngành đóng xe ngựa, vành bánh xe được sản xuất trong các nhà máy chuyên môn
(ở Mít - xu -ri, Ác - can - xát, Tê - nétxi); nan hoa thì sản xuất ở In - đi - a - na và Ô - hay ô; ổ trục lại sản xuất trong các nhà máy chuyên môn ở Ken - túc - ky và I - li - noa. Các
nhà máy chuyên sản xuất toàn bộ bánh xe lại phải mua tất cả các bộ phận riêng lẻ đó. Như
vậy là có đến hàng chục nhà máy tham gia chế tạo một chiếc xe ngựa rẻ tiền như thế” [39,
tr.116]. Mặc dù chưa đề cập trực tiếp tới khái niệm CNHT hay CNHTNCK nhưng qua đó
ta thấy Người đã sớm khẳng định sự cần thiết phải chuyên môn hóa và hỗ trợ lẫn nhau
trong nền sản xuất xã hội.
Quan niệm của thế giới về công nghiệp hỗ trợ:
Ở Mỹ, theo Phòng Năng lượng Hoa Kỳ: “CNHT là những ngành sử dụng
nguyên vật liệu và các quy trình cần thiết để định hình và chế tạo ra sản phẩm trước
khi chúng được lưu thông đến ngành công nghiệp sử dụng cuối cùng” [37, tr.3].
Tuy khái niệm của Phòng Năng lượng Hoa Kỳ đưa ra rất tổng quát nhưng
trong phạm vi chức năng của mình, tập trung chủ yếu vào mục tiêu tiết kiệm năng
lượng. Do đó, CNHT theo quan điểm của cơ quan này là những ngành tiêu tốn
nhiều năng lượng như than, luyện kim, thiết bị nhiệt, hàn, đúc,…
Ở Nhật Bản, định nghĩa về CNHT được Bộ Kinh tế, Thương mại và Công
nghiệp Nhật Bản đưa ra vào năm 1993 là: “Công nghiệp hỗ trợ là các ngành công
nghiệp cung cấp các yếu tố cần thiết như nguyên vật liệu thô, linh kiện và vốn… cho
các ngành công nghiệp lắp ráp (bao gồm ô tô, điện và điện tử)” [37, tr.2].


Tại Thái Lan, quan niệm về CNHT là: “Công nghiệp hỗ trợ là các ngành
công nghiệp cung cấp linh kiện, phụ kiện, máy móc, dịch vụ đóng gói và dịch vụ kiểm
tra cho các ngành công nghiệp cơ bản (nhấn mạnh các ngành cơ khí, máy móc, linh
kiện cho ô tô, điện và điện tử là những công nghiệp hỗ trợ quan trọng)” [37, tr.2].

Quan niệm CNHTNCK của Thái Lan đã đi cụ thể vào một số ngành công
nghiệp nhất định, trong khi đó quan niệm của Mỹ và Nhật Bản lại bao chùm chung
ngành công nghiệp. Nhưng nhìn chung, các khái niệm về CNHT trên đây đều nhấn
mạnh tầm quan trọng của các ngành công nghiệp sản xuất đầu vào cho thành phẩm
và CNHT nằm ở phần giữa của quá trình sản xuất. Tuy nhiên, mỗi khái niệm lại xác
định một phạm vi khác nhau. Nếu không định nghĩa một cách cụ thể thì khó có thể
xác định được đó là ngành công nghiệp nào và hỗ trợ cho cái gì và cho ai.
Quan niệm của Việt Nam về công nghiệp hỗ trợ (bao gồm cả CNHTNCK):
Năm 2007, Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công thương) ban hành Quyết định số
34, ngày 31 - 7 - 2007 về Phê duyệt Quy hoạch phát triển CNHT đến năm 2010, tầm
nhìn đến năm 2020, trong đó nêu rõ: “Công nghiệp hỗ trợ là hệ thống các cơ sở sản
xuất và công nghệ sản xuất các sản phẩm đầu vào là nguyên vật liệu, linh phụ kiện,
phụ tùng,… phục vụ cho khâu lắp ráp các sản phẩm công nghiệp cuối cùng”.
Ngày 24 - 2 - 2011, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
12/2011/QĐ - TTg về chính sách phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ,
trong đó CNHT được xác định là các ngành công nghiệp sản xuất vật liệu, phụ
tùng linh kiện, phụ kiện, bán thành phẩm để cung cấp cho ngành công nghiệp sản
xuất, lắp ráp các sản phẩm hoàn chỉnh là tư liệu sản xuất hoặc sản phẩm tiêu dùng.
Sản phẩm CNHT là sản phẩm của các ngành cơ khí chế tạo, điện tử tin học, sản
xuất lắp ráp ô tô, dệt may, da - giầy và CNHT cho phát triển công nghiệp công
nghệ cao, gồm: Vật liệu, phụ tùng, linh kiện, phụ kiện, bán thành phẩm sản xuất
tại Việt Nam để cung cấp cho khâu lắp ráp, sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh.
Ngày 03 tháng 11 năm 2015, Chính phủ ban hành Nghị định số
111/2015/NĐ - CP về phát triển CNHT, trong đó CNHT được xác định: “Công
nghiệp hỗ trợ là các ngành công nghiệp sản xuất nguyên liệu, vật liệu, linh kiện


và phụ tùng để cung cấp cho sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh”. Quan điểm này dựa
trên cơ sở các ngành công nghiệp hạ nguồn của chuỗi sản xuất và mỗi một ngành
công nghiệp hạ nguồn lại có từ một đến vài ngành sản xuất khác nhau cùng liên

kết để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh riêng biệt.
Như vậy, phạm vi hoạt động của CNHT có sự liên kết theo chiều dọc hoặc
chiều ngang. CNHT dần được khẳng định trong chủ trương, chính sách của Đảng,
văn bản của Chính phủ và của các bộ, ngành, địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp,
cũng như được bàn luận ở nhiều hội thảo và trên phương tiện truyền thông. Thực tiễn
CNHT ở nước ta đã có bước khởi đầu phát triển ở một số ngành: Sản xuất ô tô, điện
tử, công nghiệp phần mềm, dệt may.
Các quan niêm trên dù còn có sự khác nhau, song cơ bản đã có sự
thống nhất về CNHT (trong đó có CNHTNCK) đó là:
Về vị trí: CNHTNCK là một bộ phận của ngành công nghiệp cơ khí, bao
gồm nhiều phân ngành nhỏ, mỗi phân ngành thực hiện việc chế tạo, sửa chữa một
hoặc một số loại nguyên liệu đầu vào để tạo ra những sản phẩm cơ khí nhất định.
Về vai trò: Sự phát triển của CNHTNCK là tất yếu khách quan trong
quá trình CHH, HĐH. Bởi vì, chỉ có sự tham gia tích cực của CNHTNCK thì
mới nâng cao chất lượng, giá trị sử dụng cũng như giá trị của sản phẩm cơ
khí. Trên cơ sở đó nâng cao hiệu quả sản xuất công nghiệp cơ khí, tăng thu
nhập, cải thiện đời sống của công nhân cơ khí.
Về chức năng, nhiệm vụ: Các quan niệm trên đều chỉ ra rằng, CNHT nói
chung và CNHTNCK nói riêng đều thực hiện các hoạt động cung cấp tư liệu sản
xuất cho ngành công nghiệp cơ khí dưới dạng bán thành phẩm bằng phương pháp
chế tạo, sửa chữa cơ khí để phục vụ các ngành lắp ráp.
Về mục đích: CNHTNCK nhằm tạo ra những sản phẩm phong phú, đa
dạng về chủng loại, có chất lượng và giá trị gia tăng cao, đáp ứng tốt nhu cầu
sản xuất cơ khí trong nước và xuất khẩu.
Như vậy, CNHTNCK rất đa dạng về ngành nghề, sản phẩm, trình độ KHCN. Nếu
căn cứ vào quy trình sản xuất thì CNHTNCK bao gồm các ngành hẹp như: Ngành thiết kế,


chế tạo khuôn mẫu, tạo phôi, gia công, lắp ráp, thử nghiệm và sản xuất. Nếu căn cứ vào công
dụng của sản phẩm thì bao gồm: Chủng loại vật liệu, chi tiết, linh phụ kiện, phụ tùng cơ khí,…

Từ sự phân tích trên, theo tác giả: Công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí là
ngành công nghiệp sản xuất nguyên liệu, vật liệu, phụ tùng và phụ kiện để
cung cấp cho ngành công nghiệp cơ khí sản xuất, lắp ráp các sản phẩm hoàn
chỉnh.
1.1.2. Đặc điểm chủ yếu của công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí
So với các ngành CNHT khác, CNHTNCK có những đặc điểm riêng
nên việc nhận thức đúng vấn đề này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định
vai trò, quan điểm phát triển và quản lý ngành. Các đặc điểm đó là:
Thứ nhất, CNHTNCK là ngành phức tạp, đòi hỏi độ chính xác
cao và bao phủ một phạm vi rộng trong các ngành chế tạo, sửa
chữa, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh
Là các thành phần thiết bị của máy móc công nghiệp hiện đại như: Trục
chuyển động, tay quay, con lăn, trục vít, thanh truyền lực, linh kiện, cụm linh
kiện thuộc cơ cấu điều khiển, thiết bị công nghiệp chuyên dụng.
Các sản phẩm CNHTNCK cần độ bền của sản phẩm xét trên vật liệu
kim loại, độ bền trong quá trình hoạt động với tốc độ cao; nhiều chi tiết nhỏ
nhưng lại đảm bảo cho các bộ phận và cả bộ máy có thể hoạt động liên tục, ổn
định với công suất lớn. Do đó, các yêu cầu độ chính xác về kích thước của sản
phẩm chỉ cho phép khoảng sai số 1/1000 mm.
Dưới tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ, sự phân
công lao động xã hội diễn ra sâu, rộng. Để tạo ra một sản phẩm hoàn chỉnh
cần có sự tham gia của nhiều doanh nghiệp với nhiều công đoạn như đúc, rèn,
dập, hàn kỹ thuật cao; các loại khuôn kỹ thuật; các chi tiết chính xác (vi gia
công),... Có những bộ phận tinh xảo có giá trị gia tăng lớn, đòi hỏi kỹ thuật
sản xuất, công nghệ cao mà một doanh nghiệp khó có thể và thường không tự
mình sản xuất hoàn chỉnh một sản phẩm. Vì vậy, đòi hỏi các CNHTNCK phải
đa dạng về công nghệ, bao phủ bao phủ một phạm vi rộng trong các ngành
chế tạo, sửa chữa, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh.



Thứ hai, không gian tổ chức sản xuất của CNHTNCK thường chiếm
quy mô nhỏ so với các ngành công nghiệp khác
Các sản phẩm CNHTNCK có thể sản xuất ra không theo trình tự thời gian
(không có tính thời vụ) và không bị bắt buộc tập trung ở một nơi sản xuất nhất
định. Hơn nữa, do là các chi tiết để cấu thành sản phẩm cơ khí nên chúng có thể
được sản xuất cùng một thời điểm và hàng loạt trong các doanh nghiệp khác
nhau; chỉ có khâu lắp ráp để tạo nên sản phẩm cơ khí hoàn chỉnh mới đòi hỏi tập
trung; do đó, diện tích nhà xưởng phục vụ sản xuất của doanh nghiệp
CNHTNCK thường không lớn và chủ yếu là các DNNVV.
Thứ ba, CNHTNCK đòi hỏi nhiều vốn và nhân lực chất lượng cao
Với chí phí cố định cao và hiệu quả theo quy mô ngày càng tăng,
CNHTNCK cần nhiều vốn hơn cả ngành lắp ráp sản phẩm. Trong khi, quá
trình lắp ráp sản phẩm cần nhiều lao động thì việc sản xuất các linh kiện, bộ
phận, công cụ lại cần nhiều máy móc và ít lao động hơn. Hơn nữa những máy
móc phục vụ sản xuất cho CNHTNCK không thể chia nhỏ được (tức là không
thể mua được từng phần). Một khi đã đầu tư lắp đặt hệ thống máy móc thì chi
phí vốn cho nhà máy sẽ ở một mức cố định cho dù hệ thống máy này được
vận hành liên tục 24h/ngày hay chỉ vận hành trong thời gian nhất định. Còn
lao động trong ngành CNHTNCK phần lớn là các công nhân vận hành máy
móc, những kiểm soát viên về chất lượng sản phẩm, các kỹ thuật viên và các
kỹ sư. Do đặc điểm này mà CNHTNCK đòi hỏi khả năng tài chính lớn và
nhân lực chất lượng cao.
Thứ tư, CNHTNCK mang tính liên kết và tính tích hợp trong quy trình
sản xuất để tạo ra chuỗi giá trị
Sản phẩm CNHTNCK thường được sản xuất theo đơn đặt hàng của các xí
nghiệp cơ khí cho nên đòi hỏi CNHTNCK phải liên kết với nhau trong quy trình
sản xuất. Thực tiễn đã chứng minh, khi ngành công nghiệp sản xuất hay lắp ráp
phát triển, thì cần có một hệ thống các ngành CNHT để cung cấp các chi tiết sản



phẩm. Và ngược lại, CNHTNCK lại cần các ngành khác hỗ trợ cho mình như:
Điện - điện tử, cơ điện tử và tự động hóa; công nghệ thông tin; công nghệ hóa
học; công nghệ vật liệu; công nghệ môi trường;... Như vậy, để hệ thống
CNHTNCK phát triển, ngoài việc phát triển các ngành công nghiệp cơ bản, thì
cần có sự phát triển của các ngành CNHT khác.
Các đặc điểm chủ yếu của CNHTNCK có quan hệ chặt chẽ với nhau,
phản ánh mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất với các quan hệ kinh tế trong
quá trình tái sản xuất; phản ánh mối quan hệ giữa trình độ KHCN với thị
trường. Do đó, cần nhận thức đúng các đặc điểm trên và mối quan hệ giữa
chúng để tác động có hiệu quả đến sự phát triển của CNHTNCK.
2.1.3. Vai trò của phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí
Thứ nhất, công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí góp phần nâng cao năng
suất, chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh cho hàng công nghiệp cơ khí
Khả năng cạnh tranh của hàng công nghiệp cơ khí phụ thuộc vào 3 yếu tố cơ
bản: Chi phí, chất lượng và thời gian cung cấp hàng hóa. Trong đó, nâng cao năng
suất, chất lượng và giảm chi phí sản xuất có thể coi là nhân tố quan trọng hàng đầu.
Bởi vậy, phát triển CNHTNCK sẽ đem lại lợi thế kinh tế nhờ quy mô sản xuất vừa
và nhỏ sẽ làm cho: (1) chi phí cố định hay chi phí khấu hao trung bình giảm; (2)
chuyên môn hóa cao và gia tăng năng suất; (3) giúp doanh nghiệp có thể đầu tư
máy móc hiện đại, nghiên cứu phát triển và xây dựng thương hiệu, thị phần.
Trong điều kiện hội nhập quốc tế như hiện nay, phát triển CNHTNCK theo
hướng hiện đại, tập trung vào chuyên môn hóa sản xuất một hoặc một số công đoạn
của sản phẩm, đầu tư nghiên cứu phát triển công đoạn có tính nền tảng, có lợi thế so
sánh sẽ nâng cao tính tự chủ của nền kinh tế; góp phần nâng cao sức cạnh tranh của
sản phẩm cơ khí do chủ động trong nguồn cung ứng, cắt giảm chi phí vận chuyển,
lưu kho, tận dụng nhân công rẻ và nguồn nguyên liệu ngay tại chỗ, tăng hiệu quả
sản xuất và sức cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp.
Bảo đảm tính chủ động cho nền kinh tế và hạn chế nhập siêu: Việc cung ứng
nguyên vật liệu, linh kiện, các bán thành phẩm ngay trong địa bàn tỉnh làm cho nền công



nghiệp cơ khí chủ động, không bị lệ thuộc nhiều vào nước ngoài và các biến động của
nền kinh tế toàn cầu; góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu, giảm bớt sự mất cân đối
trong xuất - nhập khẩu, mang lại nguồn ngoại tệ lớn và tăng tích lũy cho nền kinh tế.
Thứ hai, phát triển CNHTNCK là cơ sở để thực hiện hội nhập công
nghiệp toàn cầu
Các tập đoàn công nghiệp đa quốc gia hàng đầu trên thế giới ngày càng
có vai trò chi phối, điều tiết và ảnh hưởng rất rộng đến hệ thống kinh tế thế
giới. Các nước đang phát triển cũng chịu sự chi phối này và không thể một
bước phát triển vượt bậc, để đạt được sức mạnh ngang tầm với các quốc gia
phát triển cần có từng bước tương thích, hợp tác và hội nhập; điều này đòi hỏi
sự phát triển của ngành CNHT nói chung, trong đó có CNHTNCK.
Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, khi các quan hệ hợp tác được thiết lập, sản phẩm
CNHTNCK sẽ là một bộ phận hiện hữu, không tách rời, cấu thành trong các sản phẩm.
CNHTNCK chính là mắt xích quan trọng trong chuỗi sản xuất toàn cầu chứ không phải
công nghiệp lắp ráp. Công nghiệp lắp ráp lại thuộc khâu hạ nguồn, nó không mang tính
sản xuất, chế tạo, thiếu yếu tố năng động, sáng tạo. Đối với việc tham gia vào chuỗi giá trị
sản xuất toàn cầu, nếu như CNHTNCK không phát triển sẽ làm cho các công ty lắp ráp và
những công ty sản xuất thành phẩm cuối cùng khác phải phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu.
Dù những sản phẩm này có thể được cung cấp với giá rẻ ở nước ngoài nhưng vì số lượng,
chủng loại quá nhiều, chi phí chuyên chở, bảo hiểm sẽ làm tăng chi phí đầu vào cho sản
xuất. Đó là chưa nói đến sự rủi ro về tiến độ, thời gian nhận hàng nhập khẩu. Công ty đa
quốc gia sẽ gặp khó khăn trong việc quản lý dây chuyền cung cấp nếu phải nhập khẩu
phần lớn sản phẩm CNHTNCK.
Thứ ba, công nghiệp hỗ trợ cơ khí phát triển có hiệu quả sẽ tạo
điều kiện thu hút được đầu tư nước ngoài, tiếp nhận chuyển giao
công nghệ và tạo tăng trưởng bền vững
CNHTNCK phát triển mạnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư FDI do
các tập đoàn đa quốc gia thường sẽ quyết định đầu tư vào những nơi mà ở đó có thể
mua được dễ dàng các linh kiện đầu vào với chi phí rẻ ngay tại trong nước.



Do khu vực đầu tư nước ngoài thường sử dụng công nghệ cao hơn hoặc bằng
công nghệ tiên tiến đã có trong nước nên khi đầu tư vào Việt Nam các doanh nghiệp
cơ khí sẽ mang theo máy móc, công nghệ hiện đại chuyển giao vào tỉnh tiếp nhận đầu
tư. Mặt khác, thông qua mối quan hệ với doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp
CNHTNCK nội địa phải tự đổi mới, ứng dụng công nghệ sản xuất tương ứng để sản
xuất sản phẩm CNHTNCK đáp yêu cầu về chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp cơ
khí đặt hàng. Như vậy, cả trực tiếp lẫn gián tiếp, CNHTNCK phát triển sẽ góp phần
quan trọng trong đổi mới sản xuất, nâng cao nghiên cứu ứng dụng công nghệ hiện đại.
Thứ tư, công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí tạo tiền đề cho công nghiệp
quốc phòng nâng cao năng lực sản xuất, lắp ráp, sửa chữa vũ khí trang bị
Cơ khí là ngành quan trọng, là ngành công nghiệp nền tảng để đảm bảo
nội lực cho các ngành công nghiệp khác, kể cả trong lĩnh vực an ninh, quốc
phòng. Về thực chất, công nghiệp quốc phòng bắt nguồn từ một số lĩnh vực
công nghiệp dân dụng (trong đó có CNHTNCK) được nâng cao và chuyên
dụng hóa để sản xuất sản phẩm quân sự. Các hoạt động nghiên cứu, thiết kế,
sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật của công nghiệp quốc phòng như
sản xuất vật tư, nguyên liệu, vật liệu phục vụ sản xuất hàng quốc phòng; các
loại vũ khí, khí tài, quân sự; đạn pháo chiến dịch; súng bộ binh; khí tài thông
tin, tác chiến điện tử; phương tiện giám sát, cảnh giới, quản lý vùng trời, vùng
biển; đóng tàu tên lửa, tàu pháo, các loại tàu tuần tiễu, cứu hộ cứu nạn, …
đều có vai trò quan trọng của CNHTNCK.
Như vậy, phát triển CNHTNCK để vừa đáp ứng nhu cầu công nghiệp
cơ khí vừa chủ động đáp ứng nhu cầu công nghiệp quốc phòng trước mắt và
hướng tới mục tiêu lâu dài; vừa tận dụng kế thừa ở mức cao nhất cơ sở vật
chất, kỹ thuật hiện có, tranh thủ đầu tư phát triển cho phù hợp với khả năng
của nền kinh tế, chuẩn bị mọi mặt cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Thứ năm, công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí góp phần quan trọng vào sự
ổn định kinh tế, xã hội, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Khi các doanh nghiệp tự sản xuất được phụ tùng, linh kiện,…làm tăng
tỷ lệ nội địa hóa, làm giảm giá thành sản xuất công nghiệp, thúc đẩy quá trình


công nghiệp hóa. Hệ thống CNHTNCK là cơ sở để cơ cấu lại nền công
nghiệp về cơ cấu ngành, cơ cấu quy mô, tái cơ cấu bản thân doanh nghiệp
theo hướng bền vững; đồng thời thúc đẩy sự phát triển ngành cơ khí, một
ngành có tính chất quyết định đến sự phát triển của các ngành kinh tế khác
như nông, lâm, ngư nghiệp và quốc phòng an ninh.
CNHTNCK còn góp phần khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của tỉnh
công nghiệp, giải quyết việc làm, tạo giá trị gia tăng cho nền kinh tế, kích thích tiêu
dùng trong nước, đóng góp tăng trưởng kinh tế và thu hẹp khoảng cách giàu nghèo,
tạo ra hiệu ứng tích cực không chỉ đối với sự phát triển kinh tế mà còn có tác dụng
mạnh mẽ đối với đời sống xã hội.
1.2. Quan niệm, nội dung và những nhân tố tác động đến phát triển
công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí ở tỉnh Đồng Nai
1.2.1. Quan niệm phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí ở tỉnh
Đồng Nai
Phát triển CNHTNCK là tổng hợp cách thức, biện pháp làm gia tăng về
số lượng, quy mô, chất lượng và cơ cấu của Ngành. Phát triển CNHTNCK
không chỉ là hoạt động của bản thân các doanh nghiệp, mà là trách nhiệm của
Đảng, Nhà nước, chính quyền các cấp, các ngành, các địa phương, các thành
phần kinh tế. Phát triển CNHTNCK nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, hiệu
quả trong các hoạt động SX-KD của các doanh nghiệp nói riêng và của nền
kinh tế đất nước nói chung. Sự phát triển của CNHTNCK sẽ góp phần giải
quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, tăng lợi nhuận cho các
doanh nghiệp, góp phần đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và tham gia có hiệu quả vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Theo hướng đó, tác giả quan niệm phát triển CNHTNCK ở tỉnh Đồng Nai
như sau: Phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí ở tỉnh Đồng Nai là hoạt

động có mục đích của chủ thể nhằm làm biến đổi về quy mô, chất lượng và cơ


cấu công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí theo hướng ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu
cầu của ngành công nghiệp cơ khí sản xuất, lắp ráp các sản phẩm hoàn chỉnh.
Nội hàm khái niệm phát triển CNHTNCK ở tỉnh Đồng Nai được hiểu
trên một số khía cạnh cơ bản sau đây:
Mục đích phát triển CNHTNCK ở tỉnh Đồng Nai: Thúc đẩy CNHTNCK là
qúa trình tăng tiến (lớn lên) về mọi mặt cả quy mô, nâng cao chất lượng và hoàn
thiện cơ cấu, là qúa trình biến đổi KT - XH và cấu trúc theo hướng tiến bộ nhằm
khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế cạnh tranh của Tỉnh, tạo ra những vật liệu,
phụ tùng, linh kiện, phụ kiện,… có chất lượng và giá trị gia tăng cao, đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng của các doanh nghiệp trong nước và xuất khẩu.
Chủ thể và lực lượng tham gia phát triển CNHTNCK ở tỉnh Đồng Nai:
Là tổ chức Đảng, chính quyền các cấp trong Tỉnh, các doanh nghiệp và người
lao động trong lĩnh vực CNHTNCK. Mỗi chủ thể có vị trí, vai trò khác nhau
trong phát triển CNHTNCK.
Đối với Đảng bộ, chính quyền, các cơ quan, ban ngành chức năng trong Tỉnh cần
sử dụng các công cụ và chính sách tác động vào quá trình SX-KD nhằm đảm bảo cho
CNHTNCK hoạt động hiệu quả, giải quyết hài hòa lợi ích của các chủ thể tham gia.
Đối với các doanh nghiệp CNHTNCK thuộc mọi thành phần kinh tế trong
Tỉnh cần nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở các cấp, có kế
hoạch tổ chức SX-KD ổn định, không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng và
tính cạnh tranh của sản phẩm CNHTNCK đáp ứng với nhu cầu của thị trường.
Phương thức phát triển: Kết hợp vận dụng các quy luật kinh tế thị
trường và các chính sách của hệ thống chính quyền các cấp để tác động đến
phát triển CNHTNCK; kết hợp tăng cường đầu tư, xây dựng mới các doanh
nghiệp CNHTNCK với mở rộng, nâng cao hiệu quả SX-KD của các doanh
nghiệp CNHTNCK đã có trên địa bàn.
Như vậy, phát triển là một qúa trình, vận động liên tục theo thời gian và

không gian. Phát triển là tiến bộ, là xu hướng mong muốn, xu hướng đi lên.


Quan hệ giữa quy mô, chất lượng và cơ cấu không phải lúc nào cũng vận
động theo một hướng mà nhiều lúc tác động ngược chiều, cản trở lẫn nhau.
Chẳng hạn chất lượng chỉ được nâng cao khi có quy mô hợp lý, khi quy mô
tăng nhanh thì rất khó nâng cao chất lượng, nhưng ở góc độ tổng thể thì số
tuyệt đối về mặt giá trị sẽ tăng lên.
1.2.2. Nội dung phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí ở tỉnh Đồng Nai
Thứ nhất, gia tăng về số lượng và mở rộng về quy mô doanh nghiệp
công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí
Gia tăng về số lượng doanh nghiệp và số lượng sản phẩm CNHTNCK:
Phát triển đa dạng các loại hình doanh nghiệp và đa dạng hóa sản phẩm
CNHTNCK bảo đảm cung cấp đủ số lượng, chất lượng, chủng loại, mẫu mã
sản phẩm CNHTNCK. Sự gia tăng về số lượng và hình thức doanh nghiệp
CNHTNCK được thể hiện ở số lượng doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nhỏ và
vừa thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau.
Mở rộng quy mô doanh nghiệp CNHTNCK: Sự phát triển của
CNHTNCK không chỉ thể hiện ở số lượng các doanh nghiệp mà còn là sự mở
rộng về quy mô của các doanh nghiệp CNHTNCK. Quy mô của doanh nghiệp
CNHTNCK bao gồm:
Số lao động trung bình của CNHTNCK: Quy mô của doanh nghiệp
CNHTNCK thể hiện trước hết ở lượng lao động được sử dụng trong doanh
nghiệp đó. Theo hướng đó, nếu lượng lao động càng lớn thì quy mô của
doanh nghiệp càng lớn. Lượng lao động được sử dụng càng ít, quy mô doanh
nghiệp càng nhỏ. Tuy nhiên, trong giai đoạn bùng nổ của cách mạng khoa học
công nghệ hiện nay, có thể quy mô sử dụng lao động của doanh nghiệp không
tăng, song quy mô của doanh nghiệp đó vẫn có sự mở rộng. Đó chính là mở
rộng sản xuất theo chiều sâu.
Số vốn trung bình của doanh nghiệp CNHTNCK: Số vốn trung bình của

doanh nghiệp CNHTNCK là nội dung thể hiện rõ nét nhất về quy mô của


doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tổng số vốn lớn, tất yếu doanh nghiệp đó
có quy mô lớn, bất kể doanh nghiệp đó sử dụng nhiều hay ít lao động.
Doanh thu trung bình của doanh nghiệp CNHTNCK: Doanh thu trung
bình của doanh nghiệp CNHTNCK cũng là nhân tố thể hiện rõ nét về quy mô
của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có doanh thu lớn, đồng nghĩa doanh
nghiệp đó có quy mô lớn và ngược lại.
Tuy nhiên, với đặc thù của ngành CNHTNCK chủ yếu là do các doanh
nghiệp vừa và nhỏ tham gia, nên quy mô doanh nghiệp CNHTNCK có thể
được thể hiện ở khả năng đáp ứng yêu cầu cung cấp nguyên liệu, linh phụ
kiện cho các doanh nghiệp lắp ráp ngành công nghiệp cơ khí.
Thứ hai, nâng cao chất lượng doanh nghiệp công nghiệp hỗ
trợ ngành cơ khí
* Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực (chủ thể lao động): Nguồn nhân lực
là nhân tố ảnh hưởng có tính quyết định đến chất lượng sản phẩm CNHTNCK.
Nguồn nhân lực gồm: Nguồn nhân lực tham gia trực tiếp và nguồn nhân lực tham
gia gián tiếp vào quá trình sản xuất CNHTNCK. Nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực đòi hỏi phải nâng cao một cách toàn diện cả trí lực, thể lực và phẩm chất tâm lý
xã hội của người lao động theo yêu cầu của Ngành như: Tình trạng sức khỏe; trình
độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp, đặc biệt là khả
năng nghiên cứu, sáng tạo, tiếp thu tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ mới phục
vụ p.triển CNHTNCK - đây được coi là những yếu tố cứng. Phẩm chất cá nhân yếu tố mềm: Đạo đức nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tính hợp tác, tính chủ động, ý
thức trách nhiệm, sự chuyên tâm, sự trung thành, tận tụy, gắn bó,… phù hợp với
công việc của CNHTNCK. Đây là tiêu chí rất quan trọng, nhất là trong điều kiện cơ
chế thị trường và hội nhập quốc tế, nhưng lại khó lượng hóa để đánh giá.
* Lựa chọn công nghệ sản xuất hợp lý, nâng cao trình độ kỹ thuật của
sản xuất (công cụ lao động): Công nghệ sẽ quyết định đến công suất, hiệu quả
sản xuất của CNHTNCK. Công nghệ phải bảo đảm tính tiên tiến trong thời điểm



triển khai sản xuất mới có tính cạnh tranh cao; đồng thời công suất của máy móc
hợp lý, hiệu quả, đáp ứng được nhu cầu hiện tại và khi cần thiết có thể đổi mới,
nâng cấp dây chuyền sản xuất để đáp ứng được các cơ hội mới khi thị trường công
nghiệp cơ khí có nhu cầu mở rộng, nhằm bảo đảm sự linh hoạt cho doanh nghiệp
CNHTNCK và mang lại hiệu quả lợi nhuận lớn nhất hoặc mức thua lỗ thấp nhất.
Từng bước phát triển năng lực nghiên cứu, ứng dụng khoa học vào sản xuất. Áp
dụng mạnh mẽ KHCN, một số công đoạn cần đi thẳng vào công nghệ hiện đại.
Nâng cao trình độ kỹ thuật của sản xuất được biểu hiện thông qua tính
năng của công cụ sản xuất, trình độ sáng chế và sử dụng các đối tượng lao
động, các quá trình công nghệ sản xuất. Còn nâng cao trình độ sáng chế và sử
dụng các đối tượng lao động lại được thể hiện ở chỗ: Nó ứng dụng rộng rãi
các nguyên vật liệu mới, có những tính năng cao hơn, giá rẻ hơn, tiết kiệm
nguyên vật liệu, tiết kiệm lao động, trong một đơn vị thời gian sản xuất ra
nhiều sản phẩm CNHTNCK hơn. Nó không chiụ tác động các giới hạn sinh lý
như con người, cho nên có khả năng tăng năng suất lao động lớn hơn.
* Nâng cao chất lượng sản phẩm: Chất lượng sản phẩm được khẳng định
thông qua việc nâng cao tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm CNHTNCK và kim ngạch xuất
khẩu. Tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm CNHTNCK thể hiện sự chủ động về nguồn cung
cấp nguyên vật liệu, linh kiện, phụ kiện và các sản phẩm trung gian của nền kinh tế.
CNHTNCK phát triển khi mà các sản phẩm hỗ trợ sản xuất trong nước đáp ứng yêu
cầu của khách hàng về tiêu chuẩn kỹ thuật. Các doanh nghiệp lắp ráp trong nước và
doanh nghiệp FDI không phải nhập khẩu sản phẩm CNHTNCK từ nước ngoài.
Tỷ lệ nội địa hóa được thể hiện ở quan hệ của doanh nghiệp CNHTNCK với
các nhà cung cấp trong nước. Nếu tỷ lệ đầu vào của sản phẩm CNHTNCK nhập
khẩu quá lớn, điều đó thể hiện sự yếu kém của lĩnh vực CNHTNCK. Mặt khác, các
sản phẩm đầu vào phải mua của các doanh nghiệp FDI lớn cũng sẽ thể hiện sự phụ
thuộc của lĩnh vực CNHTNCK vào các doanh nghiệp FDI. Vì vậy, sự phát triển của



CNHTNCK được thể hiện khi mà tỷ lệ sản phẩm thuộc các yếu tố đầu vào của các
doanh nghiệp lắp ráp mua của các doanh nghiệp sản xuất trong nước cao.
Giá trị và tỷ trọng xuất khẩu của sản phẩm CNHTNCK cũng thể hiện chất
lượng của nó trước yêu cầu cao về tiêu chuẩn kỹ thuật của các nhà sản xuất nước
ngoài. Giá trị và tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm CNHTNCK càng tăng chứng tỏ chất
lượng phát triển của CNHTNCK càng tốt.
Thứ ba, xây dựng cơ cấu CNHTNCK hợp lý
Cơ cấu CNHTNCK là cấu trúc bên trong của quá trình phân công lao động
xã hội. Đó là các quan hệ tỷ lệ cũng như xu hướng vận động, phát triển CNHTNCK
với cơ cấu vùng sản xuất, cơ cấu thành phần kinh tế.
* Cơ cấu ngành: CNHTNCK bao gồm nhiều phân ngành như CNHTNCK
chế tạo; CNHTNCK phục vụ lĩnh vực giao thông vận tải; CNHTNCK máy công cụ
phục vụ nông nghiệp; CNHTNCK tiêu dùng; CNHTNCK xây dựng;… những
phân ngành này cần được quan tâm phát triển với tỷ lệ phù hợp theo mối quan hệ
giữa các ngành với ngành. Trước hết cần có sự chuyển dịch theo hướng tăng số
lượng và tỷ trọng các sản phẩm chất lượng cao, tập trung phát triển CNHTNCK
cho các mặt hàng máy nông nghiệp, máy động lực cỡ nhỏ, các chi tiết nội địa hóa
ôtô, xe máy và các phương tiện vận tải hiện đại; hạn chế sự phát triển những sản
phẩm CNHTNCK nằm ngoài danh mục Chính phủ giao cho tỉnh Đồng Nai.
* Cơ cấu vùng sản xuất CNHTNCK: Quá trình hình thành, phát triển và
hoàn thiện cơ cấu vùng sản xuất CNHTNCK phụ thuộc rất lớn vào trình độ phát
triển của phân công lao động theo vùng (lãnh thổ). Ngược lại, trình độ phát triển
của phân công lao động theo vùng lại phụ thuộc vào trình độ của CNHTNCK
mà động lực của nó là cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ. Vì vậy,
việc xây dựng các doanh nghiệp sản xuất CNHTNCK cần có sự xắp xếp lại một
cách hợp lý để tiến hành tổ chức sản xuất. Tăng cường đầu tư, nâng cấp các
doanh nghiệp CNHTNCK sẵn có trong Tỉnh. Quy hoạch một số khu CNHT để
tận dụng tốt cơ sở hạ tầng, thu hút đầu tư, liên kết hỗ trợ trong sản xuất
CNHTNCK. Cân đối việc đặt các nhà máy sản xuất sản phẩm CNHTNCK một



×