Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước ngạch chuyên viên kết hợp giữa xử lý nghiêm minh hành vi tiếp tay cho lâm tặc phá rừng với tạo điều kiện cho người dân hưởng lợi từ rừng và tham gia bảo vệ rừng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.81 KB, 22 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Theo thống kê của các địa phương trong cả nước, toàn quốc có trên 12,9 triệu
hécta rừng, bao gồm: 10,35 triệu hécta rừng tự nhiên và trên 2,55 triệu hécta rừng
trồng; độ che phủ đạt 38,27%. Từ năm 1991 đến nay (sau khi Luật bảo vệ và phát
triển rừng được ban hành), hoạt động bảo vệ rừng và thực thi pháp luật lâm nghiệp có
nhiều chuyển biến tích cực, nhưng do nhiều nguyên nhân mà diện tích rừng bị mất
hiện nay vẫn còn ở mức cao (bình quân 57.019ha/năm). Trong đó, diện tích mất chủ
yếu do được phép chuyển đổi mục đích sử dụng và khai thác theo kế hoạch chiếm
76%; diện tích rừng bị thiệt hại do các hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về
quản lý bảo vệ rừng tuy có giảm, nhưng vẫn ở mức cao làm mất 94.055ha rừng,
chiếm 23,5% trong tổng diện tích rừng mất trong 7 năm qua, bình quân thiệt hại
13.436ha/năm. Đấu tranh với các vi phạm này, từ năm 1999 đến tháng 10 năm 2009,
cả nước đã phát hiện, xử lý 494.875 vụ vi phạm các quy định của Nhà nước về quản
lý, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản. Mặc dù tình trạng vi phạm giảm qua các năm,
nhưng số vụ vi phạm còn lớn, diễn ra phổ biến ở nhiều nơi, với tính chất, mức độ
ngày càng nghiêm trọng đang tạo gánh nặng cho các lực lượng chức năng, nhất là lực
lượng kiểm lâm trong ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật. Nguyên nhân của vấn đề
này có thể được đề cập ở nhiều phương diện, trong đó phải kể đến công tác giao đất,
giao rừng, khoán bảo vệ rừng, tổ chức thực hiện cơ chế hưởng lợi của người làm rừng
còn chưa hợp lý nên người dân sống xung quanh rừng, nhất là đồng bào dân tộc thiểu
số còn chưa hiểu, chưa thực hiện các quy định pháp luật về quản lý, bảo vệ rừng;
thậm chí còn xâm hại tài nguyên rừng, tiếp tay cho lâm tặc phá rừng. Trong khi đó,
để quản lý và bảo vệ rừng có hiệu quả, một trong những giải pháp cần được các cấp
chính quyền thực hiện là vừa phải kết hợp giữa xử lý nghiêm minh các hành vi phá
rừng, tiếp tay cho lâm tặc phá rừng với việc tạo các điều kiện cần thiết để cho những
người dân sống xung quanh rừng được hưởng lợi từ rừng và tham gia bảo vệ rừng lại
chưa thực sự được quan tâm. Vì vậy, để góp phần tạo chuyển biến cơ bản và bền
vững trong công tác quản lý, bảo vệ rừng, tôi lựa chọn vấn đề “Kết hợp giữa xử lý
nghiêm minh hành vi tiếp tay cho lâm tặc phá rừng với tạo điều kiện cho người
1



dân hưởng lợi từ rừng và tham gia bảo vệ rừng”làm nội dung cơ bản để viết bài
tiểu luận tình huống quản lý nhà nước.
1. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG
1.1. Hoàn cảnh xuất hiện tình huống
Xã ĐK, huyện LD, tỉnh LĐ là xã miền núi có diện tích chủ yếu là rừng. Ở đây
chỉ có rừng và rừng. Tứ bề là cây đại thụ, là vực thẳm. Rừng ở đây rất đa dạng và
phong phú, nhưng đời sống nhân dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số và những
người từ các tỉnh phía Bắc vào đời sống kinh tế rất khó khăn. Một số hộ dân từ phía
Bắc vào đã xúi giục các hộ dân là đồng bào dân tộc địa phương tổ chức phá rừng một
cách “bài bản” để lấy đất sản xuất. Họ thường xuyên theo dõi, nắm chắc quy luật đi
tuần tra, kiểm tra của lực lượng bảo vệ rừng. Họ dùng các phương tiện thông tin liên
lạc như bộ đàm, điện thoại di động để thông báo cho nhau khi phát hiện lực lượng
bảo vệ rừng. Thường tổ chức số đông trong việc phá rừng để tạo thế áp đảo với lực
lượng chức năng khi bị phát hiện. Việc phá rừng thường được tổ chức vào ban đêm.
Khi gặp lực lượng chức năng những đối tượng này sẵn sàng chống trả, thậm chí khi
đã bị tịch thu gỗ về trụ sở của Hạt Kiểm lâm huyện LD nhiều người còn manh động
tấn công để cướp lại gỗ.
1.2. Mô tả tình huống
Vào hồi 19 giờ ngày 3 tháng 7 năm 2010, nhận được tin báo của cộng tác viên
kiểm lâm địa bàn, kiểm lâm viên K, P thuộc Hạt kiểm lâm huyện LD cùng một số cán
bộ tiến hành kiểm tra từ vùng đệm vào đến vùng rừng đặc dụng thuộc phạm vi quản lý
của mình và phát hiện hộ gia đình người đồng bào dân tộc Chil là ông Ha Kien cùng
vợ và hai con là Ha Tông (8 tuổi) và Ha Klai (15 tuổi) đang tiến hành chặt phá cây
rừng để trồng sắn. Khi lực lượng kiểm lâm đến và yêu cầu không được phép phá rừng
thì Ha Kien cùng Ha Klai đã có hành vi chống đối, không cho lực lượng kiểm lâm thu
giữ các công cụ, phương tiện được sử dụng để phá rừng như xe ngựa, cuốc, dao, đèn,
sắn giống đang chuẩn bị trồng. Họ cố tình không chấp hành và vẫn ngang nhiên dùng
cuốc, dao tiếp tục chặt cây rừng, gây gổ với cán bộ kiểm lâm nếu không để cho họ làm
thì sẽ “chém”. Nhận thấy nếu cứ giành giật như vậy thì có thể các hộ dân khác đang

phá rừng ở gần đó có thể thấy động và đến chi viện thì với lực lượng mỏng, không đủ
2


để giải quyết vụ việc, nên kiểm lâm viên K chỉ đạo tổ công tác tiến hành lập biên bản,
sau đó rút về Hạt để tìm biện pháp giải quyết.
Ngày 4 tháng 7 năm 2010, các kiểm lâm viên đến hiện trường thì thấy diện tích
rừng đặc dụng bị chặt phá khá rộng. Sau khi đo đạc xác định là 987,6 m 2. Trên diện
tích bị chặt phá không có các loại thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý hiếm
nhóm IA, IB thuộc danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm quy
định tại Nghị định số 32/2006/NĐ-CP ngày 30 tháng 3 năm 2006 của Chính phủ về
quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm. Các kiểm lâm viên đã tiến
hành lập biên bản hiện trường để báo cáo cụ thể cho Hạt trưởng.
Nhận thấy tình hình ngày càng có khả năng phát triển phức tạp mà lực lượng
kiểm lâm lại mỏng, tính chất vụ việc có sự tham gia của đồng bào dân tộc thiểu số có
thể gây nên nhiều bất ổn nếu không được xử lý một cách khôn khéo. Ngày 6 tháng 7
năm 2010, nhận sự chỉ đạo của Hạt trưởng, kiểm lâm viên K đến buôn LT, nơi gia
đình ông Ha Kien đang sinh sống để gặp trưởng buôn là ông Rơông Tham để yêu cầu
giúp lực lượng kiểm lâm tuyên truyền, giải thích, vận động gia đình ông Ha Kien và
nhiều hộ dân khác không phá rừng để làm rẫy, trồng sắn, trồng điều nữa mà chờ đợi
chính quyền có các chương trình phù hợp cho bà con tham gia vào các dự án trồng
rừng, bảo vệ rừng nhưng trưởng buôn đã từ chối vì “họ đang cần đất để làm rẫy, lấy
củ sắn, bắp ngô để có cái ăn, không sẽ bị đói nên có nói gì thì họ cũng không nghe
đâu” và “Cái nếp sống du canh, du cư vẫn còn nặng lắm các cán bộ kiểm lâm à!”.
Cũng theo trưởng buôn Rơông Tham, gia đình ông Ha Kien từ trước đến nay luôn
chấp hành tốt các quy định của địa phương, nay nghe theo lời của một số “người xấu”
xúi bẩy tham gia phá rừng làm rẫy.
2. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
2.1. Mục tiêu phân tích tình huống
Mục tiêu phân tích tình huống là nhằm làm sáng tỏ hành vi vi phạm của hộ gia

đình ông Ha Kien gồm vợ và hai con trai theo quy định của pháp luật hiện hành; thẩm
quyền xử lý đối với các hành vi vi phạm của các thành viên trong hộ gia đình ông Ha
Kien. Thông qua đó tìm hiểu các nguyên nhân, hậu quả, nhất là những nguyên nhân
3


gắn với điều kiện sinh hoạt, phong tục tập quán, luật tục của địa phương để góp phần
giải quyết một cách thấu tình, đạt lý tình huống nêu trên.
2.2. Cơ sở lý luận
2.2.1. Nhận thức chung về quản lý, bảo vệ rừng và xử lý vi phạm pháp luật
trong quản lý, bảo vệ rừng
Rừng là tài nguyên của quốc gia, là bộ phận quan trọng của môi trường sinh
thái. Vì vậy, để khai thác rừng phục vụ cho phát triển kinh tế-xã hội và phát triển
rừng vì tương lai, lợi ích của quốc gia một cách có hiệu quả, Nhà nước phải thống
nhất quản lý, bảo vệ rừng. Trong đó, quản lý rừng là sự tác động có tổ chức và điều
chỉnh bằng pháp luật Nhà nước và các biện pháp mang tính kinh tế, hành chính, dân
sự và cả cưỡng chế trong những trường hợp cần thiết đến hành vi của các cá nhân, tổ
chức trực tiếp tham gia hoặc có liên quan đến các quá trình phát triển, khai thác rừng
và các sản vật từ rừng nhằm bảo vệ và phát triển rừng vì lợi ích của Nhà nước và của
toàn xã hội.
Thuật ngữ quản lý có thể được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau như là sự giữ
gìn, trông coi, bảo vệ, điều khiển, chỉ đạo, tác động, tổ chức…Vì vậy, có thể thấy,
quản lý nhà nước đối với rừng là một nội dung có tính chất bao trùm, trong đó bao
gồm cả phát triển rừng, bảo vệ rừng và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ
và phát triển rừng.
Để quản lý nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng, Nhà nước phải thực hiện
đồng bộ các nội dung để ban hành pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, kiểm tra,
thanh tra, giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm pháp luật về quản lý, bảo vệ và phát
triển rừng. Xử lý vi phạm pháp luật là một nội dung quan trọng của quản lý nhà nước
về bảo vệ và phát triển rừng. Tuỳ thuộc vào hành vi vi phạm được pháp luật xác định

chế tài (hình sự, dân sự, hành chính, kỷ luật) và tính chất, mức độ của hành vi đó mà
các chủ thể có thẩm quyền sẽ tiến hành các biện pháp và các thủ tục cần thiết để truy
cứu trách nhiệm pháp lý tương ứng nhằm trừng phạt vi phạm, khôi phục trật tự pháp
lý bị xâm hại và khắc phục các hậu quả do vi phạm đó gây ra.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, nhu cầu gỗ, lâm sản rất lớn, trong khi
dân số ngày càng tăng, công tác quản lý, bảo vệ rừng của các lực lượng chức năng,
4


đặc biệt là lực lượng kiểm lâm còn hạn chế khiến cho các vi phạm pháp luật trong
lĩnh vực này gia tăng một cách đáng kể cả về số lượng, tính chất, mức độ. Vì vậy,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý rừng cần gắn bó chặt chẽ với việc bảo đảm trật tự
pháp luật (pháp chế xã hội chủ nghĩa). Nghị quyết số 17-TW ngày 1/8/2007 Hội nghị
lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X về: “Đẩy mạnh cải cách hành
chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước” xác định cơ sở lý
luận cần thiết cho hoạt động của các cơ quan chức năng, nhất là ở mỗi cấp chính
quyền địa phương và cơ quan kiểm lâm trong việc chủ động phân cấp, kiện toàn tổ
chức, bố trí cán bộ, công chức hợp lý, tham mưu cho hiệu quả cho cơ quan có thẩm
quyền thực hiện các biện pháp, chương trình, dự án để quản lý, bảo vệ rừng ngày
càng tốt hơn, đặc biệt là phải gắn việc xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này
với việc thực hiện các chương trình, dự án để ổn định đời sống cho nhân dân, giải
quyết nguyên nhân cơ bản dẫn đến phá rừng, huỷ hoại rừng trên phạm vi nhiều địa
phương hiện nay.
2.2.2. Cơ sở pháp lý về quản lý, bảo vệ rừng và xử lý vi phạm pháp luật về
quản lý, bảo vệ rừng
Năm 1991, lần đầu tiên Nhà nước ta ban hành một văn bản luật điều chỉnh
thống nhất các quan hệ xã hội trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng. Sau 13 năm
thực hiện, văn bản này đã không còn đáp ứng được các yêu cầu quản lý và phát triển
rừng thời kỳ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập sâu, rộng vào các quan hệ quốc tế trong khu vực và thế giới. Vì vậy, ngày 03

tháng 12 năm 2004, Quốc hội ban hành Luật số 29/2004/QH11 về bảo vệ và phát
triển rừng (gọi tắt là Luật bảo vệ và phát triển rừng); trong đó quy định hai nhóm vấn
đề là quản lý, bảo vệ, phát triển, sử dụng rừng và quyền, nghĩa vụ của chủ rừng.
Đồng thời, Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 cũng quy định những hành vi bị
nghiêm cấm để làm cơ sở cho việc xác định chế tài cụ thể đối với các hành vi vi
phạm.
Hiện nay, với các vi phạm hành chính trong quản lý, bảo vệ rừng được xử lý
theo Nghị định số 99/2009/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2009 về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản. Nghị định
5


này còn xác lập cơ sở pháp lý cho việc xác định ranh giới giữa vi phạm hành chính và
tội phạm (tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng (Điều 175) và tội vi
phạm các quy định về quản lý rừng (Điều 176)). Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện
vi phạm, các đối tượng thường không chỉ dừng lại ở các hành vi vi phạm trên mà có
thể kéo theo các vi phạm khác (hình sự, hành chính, dân sự, kỷ luật). Vì vậy, quá
trình xử lý thường hết sức phức tạp, bởi không chỉ xác định đúng vi phạm, áp dụng
đúng chế tài, đảm bảo thực thi quyết định vì sự nghiêm minh của pháp luật và pháp
chế xã hội chủ nghĩa mà còn phải đảm bảo cả các yêu cầu về chính trị-xã hội, ổn định
an ninh, trật tự địa phương trước mắt cũng như lâu dài.
Bảo vệ và phát triển rừng là nhiệm vụ của Nhà nước và là nghĩa vụ của toàn
dân, trong đó lực lượng Kiểm lâm thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn là
nòng cốt. Tổ chức và hoạt động của lực lượng Kiểm lâm được quy định tại Nghị định
của Chính phủ số 119/2006/NĐ-CP ngày 16/102006 về tổ chức và hoạt động của
Kiểm lâm, Điều 79, 80, 81 Luật bảo vệ và phát triển rừng. Theo đó, lực lượng kiểm
lâm có nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát việc bảo vệ rừng, khai thác rừng, sử dụng rừng,
lưu thông, vận chuyển, kinh doanh lâm sản; đấu tranh phòng, chống các hành vi vi
phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng; đồng thời có quyền xử phạt vi phạm
hành chính và áp dụng các biện pháp ngăn chặn hành vi vi phạm hành chính, khởi tố,

điều tra hình sự đối với những hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng
theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, pháp luật về hình sự và
pháp luật về tố tụng hình sự. Trong xử phạt vi phạm hành chính, lực lượng kiểm lâm
thực hiện thẩm quyền theo quy định tại Điều 23 Nghị định của Chính phủ số
99/2009/NĐ-CP. Ngoài ra, lực lượng kiểm lâm còn có nhiệm vụ tuyên truyền, vận
động nhân dân bảo vệ và phát triển rừng; phối hợp với Uỷ ban nhân dân xã, phường,
thị trấn xây dựng và bồi dưỡng nghiệp vụ cho lực lượng quần chúng bảo vệ rừng.
Bên cạnh đó, theo quy định tại Nghị định số 23/2006/NĐ-CP ngày 3/3/2006 về
thi hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách
nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về việc quản lý toàn bộ tài nguyên rừng
và tài nguyên đất lâm nghiệp của quốc gia thuộc phạm vi địa bàn của tỉnh, thành
phố; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện chịu trách nhiệm trước Chủ tịch Ủy
6


ban nhân dân cấp tỉnh về việc để xảy ra phá rừng trái phép, cháy rừng, mất rừng, sử
dụng đất lâm nghiệp sai mục đích ở địa phương; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã chịu
trách nhiệm trước Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện về việc để xảy ra phá rừng trái
phép, cháy rừng, mất rừng, sử dụng đất lâm nghiệp sai mục đích ở địa phương.
2.2.3. Đường lối, quan điểm xử lý
Đường lối, quan điểm xử lý vi phạm pháp luật trong quản lý rừng, bảo vệ rừng
liên quan đến đối tượng là người dân tộc thiểu số là:
- Phải kết hợp chặt chẽ giữa việc phát hiện kịp thời, ngăn chặn vi phạm, tiến
hành xử lý theo quy định của pháp luật với tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân
dân và tạo các điều kiện thuận lợi cho nhân dân ổn định về đời sống vật chất, tinh thần
để ổn định về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn và giúp đỡ lực lượng
kiểm lâm trong quản lý, bảo vệ rừng.
- Áp dụng đúng các quy định pháp luật để xử lý nhưng có tính đến các tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân người vi phạm, điều kiện, hoàn cảnh kinh tế, trình độ
dân trí.

- Xử lý nghiêm các đối tượng tổ chức, cầm đầu, chủ mưu, kích động, lôi kéo, rủ
rê đồng bào dân tộc thiểu số phá rừng làm rẫy. Nhanh chóng thực hiện các biện pháp
ngăn chặn vi phạm tiếp diễn, huy động lực lượng và các nguồn lực một cách hiệu quả
để khắc phục các hậu quả do vi phạm pháp luật.
2.2.4. Kinh nghiệm xử lý, giải quyết các vi phạm pháp luật do người dân tộc
thiểu số thực hiện
Trên cương vị Hạt trưởng Hạt kiểm lâm rừng đặc dụng huyện LD, để xử lý các
vi phạm pháp luật do người dân tộc thiểu số thực hiện trên địa bàn một cách có hiệu
quả cần phải:
- Phát huy vai trò của chính quyền cơ sở, đặc biệt là của kiểm lâm viên chuyên
trách tại Uỷ ban nhân dân xã ĐK, các cộng tác viên kiểm lâm và kiểm lâm địa bàn xã
thuyết phục người dân tham gia bảo vệ và phát triển rừng, khai thác và hưởng lợi một
cách hợp pháp tài nguyên rừng.
- Tích cực vận động trưởng buôn, những người có uy tín trong buôn giúp đỡ
lực lượng kiểm lâm vận động, thuyết phục để người vi phạm không tiếp tục vi phạm
7


nữa; đồng thời, nhận thức rõ trách nhiệm pháp lý trước Nhà nước vì đã có hành vi vi
phạm. Tập trung tham mưu cho chính quyền xã đề nghị cấp có thẩm quyền giải quyết
các vấn đề liên quan đến đời sống vật chất, nhu cầu sản xuất, canh tác của người dân.
- Áp dụng chế tài xử lý trên cơ sở tạo cơ hội và các điều kiện để đối tượng có
thể thực hiện được.
2.3. Phân tích diễn biến tình huống
Tình huống vi phạm pháp luật của hộ gia đình ông Ha Kien là một điển hình về
hoạt động phá rừng làm rẫy, trồng sắn, trồng ngô, trồng cây lâu năm như điều, hồ
tiêu, cà phê…ở một số địa phương, trong đó có địa bàn tỉnh LĐ. Trên cơ sở các quy
định pháp luật hiện hành, có thể xác định các vi phạm của hộ gia đình ông Ha Kien
như sau:
- Với diện tích rừng đặc dụng bị chặt phá để lấy đất canh tác là 987,6 m2, hộ

gia đình gồm 4 người của ông Ha Kien đã thực hiện hành vi phá rừng trái pháp luật.
Theo quy định tại Điều 17 Nghị định của Chính phủ số 99/2009/NDD-CP thì “Người
nào có hành vi chặt phá cây rừng; đào bới, san ủi, nổ mìn, đào đắp ngăn nước, xả
chất độc hoặc các hành vi khác gây thiệt hại đến rừng với bất kỳ mục đích gì (trừ
hành vi quy định tại Điều 18 của Nghị định này) mà không được phép của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền hoặc được phép chuyển đổi mục đích sử dụng rừng nhưng
không thực hiện đúng quy định cho phép” thì bị xử phạt bằng các hình thức và theo
các khung tiền phạt được xác định từ khoản 1 đến khoản 6 Nghị định 99/2009/NĐCP.
Loại rừng mà hộ gia đình ông Ha Kien chặt phá là rừng đặc dụng, có diện tích
từ trên 700m2 đến 1000m2 thì bị áp dụng hình thức xử phạt là phạt tiền (hình thức xử
phạt chính); tịch thu lâm sản, công cụ, phương tiện sử dụng để vi phạm hành chính
(hình thức phạt bổ sung); bị buộc trồng lại rừng hoặc thanh toán chi phí trồng lại rừng
(biện pháp khắc phục hậu quả). Căn cứ quy định tại khoản 7 Điều 3 Nghị định số
99/2009/NDD-CP, vi phạm của các thành viên trong gia đình không cấu thành tội
phạm theo quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự năm 1999.
Căn cứ quy định tại Điều 6, Điều 7 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm
2002 thì trong gia đình ông Ha Kien, chỉ có ông, vợ ông và con trai Ha Klai là đủ
8


năng lực gánh chịu trách nhiệm hành chính. Ha Klai mới 15 tuổi nên chỉ bị áp dụng
hình thức phạt cảnh cáo.
- Căn cứ quy định tại điểm d khoản 4 Điều 17 Nghị định số 99/2009/NĐ-CP,
ông Ha Klai và vợ đều bị áp dụng hình thức xử phạt chính là phạt tiền. Theo quy định
thì khung tiền phạt là từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Theo quy định tại
khoản 2 Điều 57, Điều 8 và Điều 9 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002, vi
phạm của ông Ha Kien và vợ có cả tình tiết tăng nặng (vi phạm nhiều lần, tiếp tục
thực hiện hành vi vi phạm mặc dù người có thẩm quyền đã yêu cầu chấm dứt hành vi
đó) và giảm nhẹ (vi phạm vì hoàn cảnh khó khăn mà không do mình gây ra, vi phạm
do trình độ lạc hậu). Vì vậy, trong quyết định có thể áp dụng tình tiết tăng nặng, cũng

có thể áp dụng tình tiết giảm nhẹ hoặc không áp dụng để xác định mức trung bình của
khung tiền phạt.
- Các kiểm lâm viên thực thi công vụ đã lựa chọn phương án hành động hợp lý,
vừa đảm bảo yêu cầu của pháp luật trong việc lưu giữ căn cứ cho việc đấu tranh, xử
lý vi phạm (lập biên bản về vi phạm hành chính), vừa bảo toàn được lực lượng trong
trường hợp lực lượng mỏng, không đủ điều kiện để xử lý triệt để vi phạm. Đồng thời,
tiến hành tham mưu, sử dụng các biện pháp quản lý mềm dẻo để tác động đến nhận
thức, thái độ của đồng bào nhằm từng bước tạo sự chuyển biến về hành vi chấp hành
pháp luật.
.2.4. Nguyên nhân xảy ra tình huống
2.4.1. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, thể chế pháp lý trong quản lý, bảo vệ rừng và xử phạt các hành vi
phá rừng làm rẫy còn nhiều hạn chế
Hiện nay, một số chủ trương, chính sách của Nhà nước chưa phù hợp với tình
hình thực tế ở các địa phương như: Việc chi trả kinh phí cho các hộ dân nhận khoán
rừng rất thấp, từ 100 đến 200 ngàn đồng/ha/năm. Các hộ nhận khoán bảo vệ rừng
chưa có chính sách hưởng lợi hợp lý theo lượng tăng bình quân hàng năm của rừng,
nên cuộc sống của người dân không đảm bảo, không làm tròn trách nhiệm trong công
tác bảo vệ rừng. Các cấp chính quyền địa phương còn thiếu kiên quyết trong việc di
dời các điểm dân cư tự phát nằm giữa ngay rừng, mà còn tiến hành hợp thức hóa
9


thành các điểm dân cư hành chính cho họ, mặc dù các hộ dân cư đó đang lấn chiếm
đất rừng do Nhà nước quản lý và cả do các công ty lâm nghiệp quản lý và sử dụng.
Mặc dù theo quy định của pháp luật hành vi phá rừng làm rẫy có khung tiền
phạt khá cao (so với mức sống và thu nhập của đồng bào dân tộc thiểu số) nhưng khó
có thể đảm bảo thực hiện được khi lực lượng kiểm lâm mỏng, thường không phát
hiện kịp thời vi phạm, khi người dân đã trồng cây, canh tác, sản xuất (thường tiến
hành vào ban đêm hoặc theo dõi quy luật hoạt động của lực lượng kiểm lâm để trốn

tránh) thì gần như “sự đã rồi”. Với tập quán du canh, du cư của đồng bào, việc xử lý
lại càng khó khăn hơn. Dần dần, dẫn đến hiện tượng “nhờn” luật. Đây cũng là nguyên
nhân chính làm gia tăng tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất rừng một cách ồ ạt của
nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số.
Thứ hai, điều kiện sinh sống của đồng bào dân tộc thiểu số.
Đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống chủ yếu tại các vùng núi cao, vùng sâu,
vùng xa, gắn bó mật thiết với rừng, đất rừng và thường có tập quán sinh sống là du
canh, du cư, đốt rừng làm rẫy, săn bắn thú rừng. Phần lớn người dân không biết chữ,
không biết tiếng phổ thông, tâm lý tự ti dân tộc nên thường sống khép kín. Khi Nhà
nước quản lý rừng một cách chặt chẽ để phục vụ cho việc khai thác và phát triển rừng
lâu dài vì lợi ích chung của toàn xã hội thì trực tiếp tác động đến đời sống của người
đồng bào dân tộc thiểu số. Họ không thể sống theo tập quán canh tác cũ, nếp sinh
hoạt cũ mà phải chấp hành pháp luật về quản lý, bảo vệ rừng. Điều này rất khó khăn
khi bản thân họ trình độ văn hoá thấp, các kỹ thuật canh tác, sản xuất, trồng trọt, chăn
nuôi còn rất lạc hậu, nên kết quả sản xuất thường là năng suất không cao, chất lượng
thấp. Các điều kiện tiếp cận thông tin hạn chế khiến đồng bào càng ít nắm được các
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quản lý, bảo vệ rừng,
nhất là không nắm được cơ hội để tham gia vào các chương trình, dự án của Nhà
nước, của địa phương về phát triển rừng, giao đất, giao rừng…Vì vậy, để mưu sinh,
một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số vẫn sống theo tập quán cũ, thậm chí phá rừng,
đốt rừng làm rẫy, tiếp tay cho lâm tặc vận chuyển lâm sản…
Trong khi đó, áp lực về dân số ở các vùng có rừng tăng nhanh do tăng cơ học,
di cư tự do từ nơi khác, đòi hỏi cao về đất ở và đất canh tác, những đối tượng này chủ
10


yếu là những hộ nghèo, đời sống gặp nhiều khó khăn, sinh kế chủ yếu dựa vào khai
thác tài nguyên rừng. Nhận thức về bảo vệ rừng còn hạn chế, do đó vẫn tiếp tục phá
rừng kiếm kế sinh nhai, lấy đất canh tác hoặc làm thuê cho bọn đầu nậu, kẻ có tiền để
phá rừng hoặc khai thác gỗ, lâm sản trái phép.

Mặt khác, do cơ chế thị trường, giá cả một số mặt hàng nông, lâm sản tăng cao,
nhu cầu về đất canh tác các mặt hàng này cũng tăng theo, nên đã kích thích người dân
phá rừng để lấy đất trồng các loại cây có giá trị cao hoặc buôn bán đất, sang nhượng
trái phép. Đồng thời, để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội trong tình hình
mới, nhiều công trình xây dựng, đường xá và cơ sở hạ tầng khác được xây dựng gây
áp lực lớn đối với rừng và đất lâm nghiệp, tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động
phá rừng, khai thác và vận chuyển lâm sản trái phép.
Thứ ba, năng lực quản lý và bảo vệ rừng của nhiều chủ rừng và cơ quan chức
năng còn chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn của việc ngăn chặn các hành vi phá rừng
làm rẫy của đồng bào dân tộc thiểu số.
Do quyền hạn của các công ty lâm nghiệp là chủ rừng trong công tác quản lý,
bảo vệ rừng hầu như không có, chỉ được phép ngăn chặn và báo cáo xin ý kiến, do đó
hạn chế về nhiều mặt đối với công tác quản lý, bảo vệ rừng. Lực lượng quản lý và bảo
vệ rừng của các công ty lâm nghiệp còn chưa được coi trọng, chưa có chế độ ưu đãi
phù hợp dù trên thực tế họ là lực lượng chính để giữ rừng. Vì vậy, gánh nặng công tác
quản lý, bảo vệ rừng dồn lên vai lực lượng kiểm lâm. Trong khi đó, lực lượng kiểm
lâm mỏng, địa vị pháp lý chưa rõ ràng, trang thiết bị, phương tiện thiếu thốn, lạc hậu.
Chế độ chính sách cho lực lượng kiểm lâm chưa tương xứng với nhiệm vụ được
giao. Tại một số địa phương, tiền ưu đãi nghề nghiệp đối với kiểm lâm còn chậm được
thanh toán. Về tổ chức, biên chế lực lượng quản lý bảo vệ rừng chưa được sắp xếp ổn
định, cho nên nguồn kinh phí chi trả tiền lương cho lực lượng chuyên trách bảo vệ
rừng chưa có. Thực tế cho thấy, ở những vùng trọng điểm phá rừng nếu chỉ có lực
lượng kiểm lâm không thể giải quyết dứt điểm. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn
hạn chế (nhất là nghiệp vụ vận động quần chúng), một số công chức kiểm lâm dao
động trước khó khăn, thậm chí có biểu hiện tiêu cực.
11


Công tác đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ, giáo dục đạo đức phẩm chất cho đội
ngũ bảo vệ rừng nhất là kiểm lâm chưa được coi trọng đúng mức, nên chưa có cơ sở

vật chất cho việc đào tạo, huấn luyện. Mặt khác, cơ sở vật chất cho công tác bảo vệ
rừng hết sức khó khăn. Những năm qua nguồn đầu tư cho bảo vệ rừng chủ yếu từ
chương trình 661, nhưng chỉ được 5% cho xây dựng cơ sở hạ tầng, vì vậy các công
trình phòng cháy, chữa cháy rừng, công trình nghiệp vụ khác được xây dựng không
đáp ứng được yêu cầu bảo vệ rừng bền vững. Tỷ trọng vốn đầu tư của xã hội cho công
tác bảo vệ rừng không đáng kể.
2.4.2. Nguyên nhân chủ quan
Một là, công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật và cơ chế chính
sách về lâm nghiệp chưa được thực hiện có hiệu quả. Người dân, nhất là ở vùng sâu,
vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số chưa nhận thức đầy đủ tính cấp thiết của việc bảo
vệ và phát triển rừng, nên vẫn tiếp tục phá rừng, có nơi còn tiếp tay, làm thuê cho bọn
đầu nậu, kẻ có tiền.
Hai là, các ngành, các cấp chính quyền, đặc biệt là cấp xã nhận thức chưa đầy
đủ, tổ chức thực hiện thiếu nghiêm túc trách nhiệm quản lý nhà nước về rừng và đất
lâm nghiệp. Ở những điểm nóng phá rừng, do lợi ích cục bộ, đã làm ngơ, thậm chí có
biểu hiện tiếp tay cho các hành vi phá rừng, khai thác, tiêu thụ lâm sản, sang nhượng
đất đai trái phép, nhưng không bị xử lý nghiêm túc. Có địa phương sau một thời gian
thực hiện các biện pháp kiên quyết ngăn chặn tình trạng phá rừng còn có biểu hiện
thỏa mãn với thành tích, không duy trì hoạt động thường xuyên, do vậy tình trạng phá
rừng và các hành vi vi phạm pháp luật tiếp tục tái xuất hiện.
Ba là, chủ rừng là các lâm trường quốc doanh, Ban quản lý rừng phòng hộ và
rừng đặc dụng không đủ năng lực để quản lý, bảo vệ diện tích rừng được giao. Một
số đơn vị có biểu hiện thiếu trách nhiệm, thông đồng, tiếp tay cho hành vi phá rừng.
Các chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức khác có diện tích quy mô nhỏ
nên không thể tự tổ chức lực lượng bảo vệ rừng được giao. Các diện tích rừng chưa
có chủ, thuộc trách nhiệm quản lý của Uỷ ban nhân dân xã, nhưng chưa có cơ chế để
chính quyền cấp xã thực hiện công tác quản lý, bảo vệ rừng có hiệu quả.
12



Bốn là, cơ chế chính sách chậm đổi mới chưa tạo động lực thu hút các nguồn
lực cho bảo vệ rừng. Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng thiếu rõ ràng, khi rừng bị mất,
chủ rừng (nhất là các chủ rừng thuộc Nhà nước) không phải chịu trách nhiệm trực
tiếp. Chính sách quyền hưởng lợi từ rừng chưa phù hợp với thực tiễn, lại chưa được
các địa phương thực hiện nghiêm túc. Công tác quy hoạch, kế hoạch thiếu tính khoa
học, chưa đồng bộ với các quy hoạch khác như quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, sử
dụng đất đai,... nên quy hoạch không được thực hiện nghiêm túc, thường xuyên bị
phá vỡ. Công tác giao, cho thuê rừng, đất rừng, khoán bảo vệ rừng chưa quan tâm
đến đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
rừng còn rất chậm, theo dõi việc sử dụng đất rừng sau khi giao, cho thuê chưa thường
xuyên. Thiếu sự đồng bộ, gắn kết trong tổ chức thực hiện các chương trình, dự án
(chương trình quốc gia về xóa đói giảm nghèo; các chương trình 135; 132 và 134;
120; 661).
Năm là, chưa huy động được các lực lượng của xã hội cho bảo vệ rừng. Phối
hợp giữa các lực lượng Công an, Quân đội, Kiểm lâm ở nhiều địa phương chưa thật
sự có hiệu quả, còn mang tính hình thức, nhiều tụ điểm phá rừng trái phép chưa có
phương án giải quyết của liên ngành. Việc xử lý các vi phạm chưa kịp thời, thiếu kiên
quyết, còn có những quan điểm khác nhau của các cơ quan chức năng ở một số địa
phương.
2.5. Hậu quả của tình huống
2.5.1. Về phía xã hội
Hành vi phá rừng của đồng bào dân tộc thiểu số nếu không được ngăn chặn kịp
thời và xử lý nghiêm minh sẽ làm cho tài nguyên rừng bị cạn kiệt một cách nhanh
chóng, tạo cơ hội cho lâm tặc phá rừng, khai thác rừng trái phép. Khi tài nguyên rừng
bị mất đi sẽ khó hoặc không thể khôi phục lại được. Các nguồn gen quý hiếm, cần
được bảo tồn sẽ bị thiệt hại, bị mất đi. Rừng đặc dụng là loại rừng được sử dụng chủ
yếu để bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ sinh thái rừng của quốc gia, nguồn gen sinh
vật rừng; nghiên cứu khoa học; bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh;
phục vụ nghỉ ngơi, du lịch, kết hợp phòng hộ, góp phần bảo vệ môi trường. Vì vậy,
khi xâm hại đến các nhóm đối tượng của rừng đặc dụng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nơi

13


sinh sống của nhiều loài động thực vật rừng, các di tích lịch sử văn hoá, danh lam
thắng cảnh, các lợi ích trong du lịch, nghiên cứu khoa học, phát triển kinh tế-xã hội…
Khi diện tích rừng bị thu hẹp sẽ kéo theo các vấn đề về biến đổi khí hậu, ảnh hưởng
đến đất đai và sức khỏe của con người.
2.5.2. Về phía Nhà nước
Quản lý, bảo vệ và phát triển rừng là trách nhiệm của Nhà nước. Vì vậy, khi
rừng bị xâm hại thì ảnh hưởng lớn đến các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) mà
Nhà nước đã, đang và sẽ đầu tư cho sự nghiệp này. Mặt khác, khi các ảnh hưởng về
môi trường, khí hậu, đất đai do mất rừng ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất của người
dân thì Nhà nước phải tổ chức khắc phục hậu quả. Với các vi phạm pháp luật phát
sinh trong quản lý, bảo vệ rừng cũng khiến Nhà nước phải đầu tư về nhân lực, về
phương tiện, công cụ, tài chính, về cơ chế, chính sách, đào tạo, bồi dưỡng nhân lực
cho các lực lượng quản lý, bảo vệ rừng và xử lý vi phạm.
Các vi phạm pháp luật về quản lý, bảo vệ rừng còn khiến cho Nhà nước mất đi các
nguồn thu từ thuế, từ du lịch, dịch vụ, xuất khẩu các sản phẩm lâm nghiệp, đồng thời
phải tăng nhập khẩu các sản phẩm lâm nghiệp để đáp ứng nhu cầu trong nước. Đồng
thời, quá trình giải quyết các vi phạm có thể không đảm bảo được sự kết hợp hài hoà
giữa chính trị và pháp lý nên sẽ tiềm ẩn những nguy cơ không nhỏ đến an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội tại các địa phương, có thể dẫn đến việc các thế lực thù địch lợi
dụng gây chia rẽ dân tộc.
3. XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
3.1. Mục tiêu xử lý tình huống
Mục tiêu của việc xử lý tình huống trên là nhằm đảm bảo tính nghiêm minh
của pháp luật trong xử lý vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ rừng, đồng thời làm
cho người dân nhận thức đúng trách nhiệm, loại bỏ phong tục, tập quán lạc hậu, du
canh du cư, ổn định đời sống và tham gia vào sự nghiệp quản lý, bảo vệ, phát triển
rừng.

3.2. Đề xuất phương án xử lý tình huống
Để xử lý tình huống trên, tiểu luận đề xuất một số phương án cụ thể như sau:
14


3.2.1. Phương án 1. Xử phạt vi phạm hành chính đối với vợ chồng ông Ha
Kien bằng hình thức xử phạt cảnh cáo
Điểm mạnh của phương án này là phát huy tác dụng của giáo dục, thuyết phục
đối với người dân tộc thiểu số vốn thật thà, chất phác, ngay thẳng, điều kiện kinh tế
còn khó khăn. Nếu xử phạt tiền thì không thể đảm bảo thực hiện được quyết định xử
phạt mà còn có thể gây bất đồng lớn tại địa bàn. Việc áp dụng hình thức phạt cảnh
cáo có tác dụng: vừa thể hiện thái độ không đồng tình với các hành vi vi phạm, vừa
thể hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước với đồng bào dân tộc thiểu
số. Vì vậy, yêu cầu về chính trị sẽ đạt được. Tuy nhiên, yêu cầu về mặt pháp lý lại rất
hạn chế. Theo Điều 13 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính thì cảnh cáo được áp
dụng đối với vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ. Mặc dù vợ
chồng ông Ha Kien vi phạm có tình tiết giảm nhẹ nhưng hành vi diễn ra nhiều lần
trước khi bị phát hiện (dù chưa bị xử lý lần nào), vi phạm không thuộc loại nhỏ, lại có
cả tình tiết tăng nặng nên nếu áp dụng cảnh cáo thì không phù hợp về mặt pháp lý.
Đây cũng chính là nhược điểm của phương án này.
3.2.2. Phương án 2. Xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp
luật gắn với tuyên truyền, giáo dục và tạo điều kiện cho vợ chồng ông Ha
Kien chấp hành quyết định xử phạt
Vi phạm hành chính của vợ chồng ông Ha Kien có cả tình tiết tăng nặng và
giảm nhẹ. Vậy phải áp dụng các tình tiết đó như thế nào để quyết định xử phạt là vấn
đề có ý nghĩa quan trọng trong đảm bảo sự kết hợp hài hoà yếu tố chính trị, pháp lý
trong xử lý vụ việc. Sự vi phạm của gia đình ông nói chung và vợ chông ông Ha Kien
nói riêng bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết pháp luật (do điều kiện cư trú, sinh sống,
kinh tế) và trình độ nhận thức còn lạc hậu. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến
hành vi phá rừng, không chấp hành yêu cầu của người thi hành công vụ, lôi kéo

người chưa thành niên (các con) vào việc vi phạm. Vì vậy, cần xem tình tiết vi phạm
do trình độ lạc hậu là cơ bản. Theo đó, chỉ áp dụng mức phạt là 30.000.000 đồng
(mức tối thiểu của khung tiền phạt) đối với ông Ha Kien là chủ hộ, đứng ra tổ chức
cho các thành viên gia đình phá rừng. Đồng thời áp dụng biện pháp khắc phục hậu
quả là buộc trồng lại rừng. Còn vợ ông và con trai Ha Klai chỉ áp dụng phạt cảnh cáo.
15


Do đó, ưu điểm của phương án này là đảm bảo kết hợp hài hoà nhất yếu tố chính
trị với yếu tố pháp lý. Vừa thể hiện được sự nghiêm minh của pháp luật, có giá trị
phòng ngừa và đấu tranh chung với các vi phạm pháp luật trên địa bàn, vừa thể hiện
được chính sách nhân đạo của Nhà nước với vi phạm của đồng bào dân tộc thiểu số.
Đồng thời, kết hợp với tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho vợ chông Ha Kien để thấy
được sự linh hoạt trong áp dụng pháp luật của lực lượng kiểm lâm vì lợi ích của gia
đình ông nhưng cũng để răn đe các đối tượng khác cố ý xâm hại đến rừng. Tuy nhiên,
phương án này có nhược điểm rất lớn là số tiền phạt quá cao, biện pháp khắc phục hậu
quả khó có thể được đảm bảo nếu không có các biện pháp cần thiết từ phía các cơ quan
chức năng, trong đó có chính quyền xã và lực lượng kiểm lâm địa bàn.
3.3. Lựa chọn và tổ chức thực hiện phương án xử lý tình huống
3.3.1. Lựa chọn phương án giải quyết
Trong hai phương án trên, mỗi phương án đều có những ưu, nhược điểm nhất
định. Việc thực hiện phương án 1 dễ dàng trong triển khai thực hiện nhưng không thể
hiện được sự nghiêm minh của pháp luật, không có tác dụng ngăn chặn tình trạng phá
rừng trái phép, có thể dẫn đến hệ quả “nhờn” pháp luật. Trong khi đó, phương án 2
cho phép áp dụng đúng pháp luật nhưng để đảm bảo tính khả thi thì cần mềm dẻo
trong quá trình triển khai thực hiện. Có như vậy mới giúp đồng bào dân tộc thiểu số
hiểu được mục tiêu của các chính sách, pháp luật của Nhà nước là phục vụ nhân dân
chứ không nặng về trừng trị.
Với những lập luận này, tiểu luận lựa chọn phương án 2 là phương án tối ưu để
giải quyết tình huống.

3.3.2.Tổ chức thực hiện phương án tối ưu
Để thực hiện được phương án tối ưu (phương án 2), cần tiến hành theo các
trình tự cụ thể như sau:
* Vận động, thuyết phục trưởng buôn cùng đến nhà Ha Kien để yêu cầu đến cơ
quan kiểm lâm giải quyết vi phạm.
Thông thường ở các cộng đồng dân tộc thiểu số, vai trò của trưởng buôn,
trưởng bản, già làng…rất lớn. Vì vậy, trước hết cần thuyết phục trưởng buôn ủng hộ
lực lượng kiểm lâm trong xử lý hành vi vi phạm của vợ chồng Ha Kien. Sau đó, cùng
16


trưởng buôn đến nhà Ha Kien giải thích cho họ rõ các quy định của pháp luật về quản
lý, bảo vệ rừng; các hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực này; chế tài xử phạt đối
với hành vi vi phạm của vợ chồng Ha Kien và con trai Ha Klai.
Quá trình vận động, thuyết phục phải trên tinh thần vì lợi ích của họ, không bài
xích, không áp lực để họ hiểu ra hành vi của mình là sai trái. Từ đó, thuyết phục họ
ký vào các biên bản vi phạm để làm cơ sở cho việc xử lý. Sau đó, hẹn họ đến trụ sở
của cơ quan kiểm lâm để giải quyết. Nhắc nhở họ trong thời gian chờ xử lý không
được tiếp tục thực hiện vi phạm nếu không sẽ không được hưởng chính sách khoan
hồng của Nhà nước.
* Hạt trưởng Hạt kiểm lâm rừng đặc dụng huyện LD ra quyết định xử phạt vi
phạm hành chính đối vợ chồng ông Ha Kien
Hạt trưởng ra quyết định xử phạt cảnh cáo đối với vợ và con ông Ha Kien. Sau
đó, trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính, ra quyết định
xử phạt ông Ha Kien bằng hình thức phạt tiền, mức tối thiểu là 30.000.000 đồng và
buộc gia đình ông phải trồng lại rừng. Quyết định xử phạt sau khi được ban hành phải
giao cho ông Ha Kien trong thời gian 3 ngày, kèm theo công tác thuyết phục, động
viên để ông yên tâm chấp hành quyết định xử phạt.
* Áp dụng các quy định pháp luật để kéo dài việc thực hiện quyết định xử phạt
cho ông Ha Kien

Do điều kiện hoàn cảnh khó khăn về kinh tế. Hạt trường có thể quy định ngày
có hiệu lực khác so với ngày ký quyết định xử phạt để kéo dài thời gian cho gia đình
ông Ha Kien có thể đảm bảo thực hiện quyết định nhưng tối đa không quá 1 năm kể
từ ngày quyết định được ban hành (bởi nếu quá thì sẽ hết thời hạn thi hành quyết định
xử phạt).
Sau đó, căn cứ vào tình hình thực tế, khi đến thời hạn thực hiện, nếu ông Ha
Kien chưa thể đảm bảo thực hiện quyết định xử phạt thì cần hướng dẫn ông thực hiện
thủ tục xin nộp tiền phạt nhiều lần. Theo quy định tại Điều 27 Nghị định của Chính
phủ số 128/2008/NĐ-CP ngày 16 tháng 12 năm 2008 quy định chi tiết thi hành một
số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ
sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2008 thì thời hạn nộp
17


tiền phạt nhiều lần không quá mười hai tháng, kể từ ngày quyết định xử phạt có hiệu
lực; số lần nộp tiền phạt tối đa không quá 03 lần và mỗi lần nộp tiền phạt tối thiểu
không dưới một phần ba (1/3) tổng số tiền phải nộp phạt. Số tiền chưa nộp phạt phải
chịu lãi suất không kỳ hạn được tính từ thời điểm quyết định xử phạt có hiệu lực.
Như vậy, việc thực hiện quyết định xử phạt của ông Ha Kien có thể được kéo
dài trong 2 năm. Ở lần nộp tiền phạt cuối có thể áp dụng quy định về hoãn chấp hành
quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Hạt kiểm lâm cần phối hợp (bằng con đường
công văn) với Uỷ ban nhân dân xã ĐK để giúp ông Ha Kien soạn đơn đề nghị Hạt
trưởng hoãn chấp hành quyết định xử phạt, có xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã ĐK
về điều kiện gặp hoàn cảnh đặc biệt khó khăn về kinh tế.
* Tham mưu cho chính quyền địa phương giúp đỡ gia đình ông Ha Kien trong
thời gian thực hiện quyết định xử phạt
Hạt trưởng Hạt kiểm lâm rừng đặc dụng huyện LD cần tham mưu cho UBND
xã ĐK tổ chức thực hiện tuyên truyền, phổ biến các quy định pháp luật về bảo vệ và
phát triển rừng thông qua hệ thống truyền thanh cơ sở cho toàn thể nhân dân trên địa
bàn. Xây dựng phương án giao rừng cho gia đình ông Ha Kien để tạo điều kiện cho

gia đình ông có thể ổn định đời sống. Đồng thời, ký hợp đồng cho hộ gia đình ông Ha
Kien thuê rừng, nhận khoán rừng theo khả năng. Cử cán bộ hướng dẫn gia đình ông
hoặc khi có lớp tập huấn kiến thức về sản xuất lâm nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp
kết hợp; làm nương rẫy, định canh, thâm canh, luân canh, chăn thả gia súc theo quy
hoạch, kế hoạch thì mời hộ gia đình ông cùng tham gia học tập để nâng cao hiểu biết.
Bên cạnh đó, UBND xã cần chỉ đạo các thôn, bản xây dựng và thực hiện quy
ước quản lý, bảo vệ, phát triển rừng; tổ chức và huy động lực lượng quần chúng trên
địa bàn phối hợp với kiểm lâm, lực lượng công an, quân đội trên địa bàn phát hiện và
ngăn chặn kịp thời những hành vi xâm hại rừng.
Hạt trưởng Hạt kiểm lâm cũng cần phối hợp với cơ quan nông nghiệp địa bàn
để giúp đỡ ông Ha Kien về giống cây trồng nhằm tạo điều kiện cho ông khắc phục
hậu quả (trồng lại rừng). Phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng tạo cơ hội cho
ông Ha Kien tham gia vào các chương trình nhân đạo, hưởng các chính sách đãi ngộ
dành cho hộ nghèo, hộ đói. Đồng thời, chỉ đạo kiểm lâm viên địa bàn bồi dưỡng năng
18


lực để ông Ha Kien tham gia vào lực lượng kiểm lâm với vai trò là cộng tác viên
kiểm lâm. Trong thời gian chấp hành quyết định xử phạt, tạo điều kiện cho ông được
phép khai thác một số sản vật từ rừng phù hợp với quy định của pháp luật.
* Kết thúc việc xử phạt
Sau khi ông Ha Kien chấp hành xong quyết định xử phạt, Hạt trưởng Hạt kiểm
lâm cần chỉ đạo cán bộ kiểm lâm lưu giữ toàn bộ hồ sơ vụ vi phạm hành chính để
quản lý, theo dõi. Đồng thời, tiến hành rút kinh nghiệm cho các lần xử lý tiếp theo.
4. KIẾN NGHỊ
Để hạn chế và giải quyết có hiệu quả các vi phạm hành chính trong lĩnh vực
quản lý, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản của đồng bào dân tộc thiểu số đang nổi lên
hiện nay, tiểu luận kiến nghị một số vấn đề sau:
4.1. Kiến nghị với Đảng, Nhà nước
Đối với Đảng cần có nghị quyết chuyên đề về lâm nghiệp bên cạnh việc triển

khai mạnh mẽ Nghị quyết số 26-NQ/TƯ ngày 28/8/2008 về nông nghiệp, nông dân
và nông thôn, các nghị quyết liên quan đến xoá đói, giảm nghèo, giảm khoảng cách
giữa miền núi và miền xuôi, đặc biệt là vấn đề quản lý, bảo vệ rừng tại những nơi có
liên quan mật thiết đến cuộc sống đồng bào dân tộc thiểu số để lãnh đạo thực hiện có
hiệu quả công tác quản lý, bảo vệ rừng của Nhà nước trong mối quan hệ hài hoà với
các chính sách dân tộc.
Đối với Chính phủ cần ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp
luật, quy chế, quy trình, quy phạm, các tiêu chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật về bảo
vệ và phát triển rừng và tổ chức chỉ đạo việc thực hiện. Hướng dẫn và chỉ đạo thực
hiện việc giao rừng, cho thuê rừng, thu hồi rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng; lập
và quản lý hồ sơ giao, cho thuê rừng và đất để trồng rừng. Tổ chức và chỉ đạo thực
hiện việc nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực,
hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng. Ban hành một số chính sách
về kinh phí cho hoạt động nghiệp vụ, tiền lương, chế độ thương binh, liệt sỹ, cơ chế
sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ để trấn áp lâm tặc. Xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư
trang thiết bị bảo vệ rừng, đầu tư xây dựng các Trung tâm huấn luyện, đào tạo chuyên
ngành cho lực lượng bảo vệ rừng; trang bị phương tiện đáp ứng yêu cầu công tác hiện
19


trường cho các Hạt Kiểm lâm trên toàn quốc, trước mắt tập trung đầu tư cho các Hạt
Kiểm lâm ở những vùng trọng điểm; ứng dụng khoa học công nghệ, tin học, GIS,
viễn thám vào công tác quản lý bảo vệ rừng, theo dõi diễn biến rừng và đất lâm
nghiệp; thiết lập và sử dụng có hiệu quả mạng máy tính chuyên ngành; xây dựng
phần mềm quản lý, theo dõi diễn biến tài nguyên rừng và các vụ vi phạm Luật bảo vệ
và phát triển rừng. Xây dựng cơ chế về đóng góp tài chính cho hoạt động bảo vệ rừng
từ các tổ chức, cá nhân được hưởng lợi từ dịch vụ môi trường rừng. Hợp tác quốc tế
để thu hút các nguồn vốn ODA và các hỗ trợ kỹ thuật của cộng đồng quốc tế cho
công tác bảo vệ rừng.
4.2. Kiến nghị với cơ quan chức năng

Đối với Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn cần thực hiện các giải pháp để
đổi mới tổ chức lực lượng kiểm lâm theo Luật bảo vệ và phát triển rừng để kiểm lâm
gắn với chính quyền, với dân, với rừng, thực hiện chức năng tham mưu cho chính
quyền địa phương, tổ chức bảo vệ rừng đặc dụng và rừng phòng hộ, bảo đảm chấp
hành pháp luật trong việc bảo vệ và phát triển rừng. Bố trí kiểm lâm địa bàn ở 100%
các xã có rừng để tham mưu cho chính quyền cơ sở trong công tác quản lý nhà nước
về lâm nghiệp, theo dõi chặt chẽ diễn biến rừng; kịp thời phát hiện, ngăn chặn ngay
từ đầu những vụ vi phạm. Từng bước tăng biên chế cho lực lượng kiểm lâm để bảo
đảm định mức bình quân 1.000ha rừng có 1 kiểm lâm. Đồng thời, tăng cường trang
thiết bị cho kiểm lâm gồm các phương tiện hoạt động phù hợp với địa bàn rừng núi,
hệ thống thông tin liên lạc, thiết bị phòng cháy, chữa cháy rừng. Đánh giá nhu cầu
đào tạo về quản lý bảo vệ rừng, lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn
nghiệp vụ và chính trị cho các đối tượng. Xây dựng chiến lược đào tạo về bảo vệ
rừng đến năm 2015. Tổ chức các chương trình trao đổi kinh nghiệm về công tác quản
lý, bảo vệ rừng.
Đối với chính quyền tỉnh LĐ cần có các chính sách thiết thực để hỗ trợ nâng
cao đời sống người dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số như đẩy mạnh việc giao
rừng và đất lâm nghiệp, khoán bảo vệ rừng cho các hộ gia đình, cộng đồng dân cư
sống chủ yếu bằng nghề lâm nghiệp; đồng thời hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho các chủ rừng. Sớm hoàn thành chủ trương giải quyết đất ở, đất
20


sản xuất, hỗ trợ nhà ở cho đồng bào dân tộc đang gặp nhiều khó khăn, gắn với các
chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo, chương trình định canh định
cư, quy hoạch và tổ chức thực hiện các dự án ổn định vùng kinh tế mới để người dân
có thu nhập từ sản xuất, sớm ổn định cuộc sống, giảm bớt sự lệ thuộc vào thu nhập từ
các hoạt động khai thác rừng trái pháp luật...Rà soát ổn định diện tích canh tác
nương rẫy theo phong tục tập quán của đồng bào ở một số khu vực, từng bước chuyển
sang phương thức canh tác thâm canh, cung cấp giống cây trồng phù hợp với lập địa,

có hiệu quả kinh tế cao và hướng dẫn kỹ thuật cho đồng bào. Nghiên cứu chính sách
hỗ trợ của Nhà nước cho đồng bào tương đương với thu nhập từ canh tác quảng canh
nương rẫy hiện nay (tương đương khoảng 1 đến 1,5 tấn thóc/hécta/năm) trong thời gian
3 đến 5 năm, cung cấp giống cây rừng và một số vật tư cần thiết khác cho đồng bào
dân tộc tại chỗ để chuyển căn bản họ sang trồng rừng, đồng thời cho họ được hưởng
100% sản phẩm rừng.
5. KẾT LUẬN
Những năm qua công tác bảo vệ rừng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng,
nhận thức về rừng được nâng cao, quan điểm đổi mới xã hội hóa về lâm nghiệp đã
được triển khai thực hiện có hiệu quả; hệ thống pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng
ngày càng hoàn thiện; chế độ chính sách lâm nghiệp, nhất là chính sách về đa dạng
hóa các thành phần kinh tế trong lâm nghiệp, giao đất, giao rừng, khoán bảo vệ rừng
và quyền hưởng lợi từ rừng được ban hành và bước đầu đi vào cuộc sống. Nhà nước
đã tăng cường đầu tư thông qua nhiều chương trình, dự án đã tác động tích cực vào
bảo vệ rừng. Vai trò trách nhiệm quản lý Nhà nước về rừng của các ngành và chính
quyền các cấp được nâng cao hơn, các tổ chức xã hội đã có những nỗ lực tham gia
vào công tác bảo vệ và phát triển rừng... Tuy nhiên, rừng vẫn bị tàn phá do nhiều
nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ sự thiếu hiểu biết và do phong tục, tập quán
lạc hậu của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số. Bên cạnh nhiều biện pháp cương
quyết như tổ chức các đợt truy quét lâm tặc, giải tỏa các tụ điểm phá rừng trái phép,
ngăn chặn chuyển đổi mục đích sử dụng đất lâm nghiệp ngoài quy hoạch, xử lý vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng còn có những biện pháp
mang tính tổ chức, kinh tế để việc thực hiện pháp luật về quản lý, bảo vệ rừng mang
21


tính bền vững, gắn việc thực hiện tốt chính sách dân tộc nhằm giữ gìn an ninh chính
trị, trật tự xã hội trên phạm vi cả nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 26-NQ/TƯ về
nông nghiệp, nông dân, nông thôn;

2.

Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 17-NQ/TƯ
ngày 1/8/2007 về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
của bộ máy nhà nước;

3.

Chính phủ, Nghị định số 99/2009/NĐ-CP ngày 02 tháng 11 năm 2009 về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản;

4.

Chính phủ, Nghị định số 119/2006/NĐ-CP ngày 16/10/2006 ban hành quy định về
tổ chức và hoạt động của Kiểm lâm.

5.

Chính phủ, Nghị định số 23/2006/NĐ-CP ngày 03/3/2006 về thi hành Luật Bảo vệ
và Phát triển rừng;

6.

Chính phủ, Nghị định số 128/2008/NĐ-CP ngày 16 tháng 12 năm 2008 quy định chi
tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Pháp

lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm
2008;

7.

Quốc hội, Luật số 29/2004/QH11 ngày 03 tháng 12 năm 2004 về Bảo vệ và Phát
triển rừng ;

8.

Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 18/2007/QĐ-TTg ngày 05/02/2007 phê duyệt
Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020;

9.

Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Pháp lệnh số 44/2002/PL-UBTVQH10 ngày 02 tháng
7 năm 2002 về xử lý vi phạm hành chính;

10.

Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Pháp lệnh số 04/2008/PL-UBTVQH12
ngày 02 tháng 4 năm 2008 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm
hành chính;
22



×