Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước ngạch chuyên viên tình trạng nhân dân khiếu kiện nhiều về đất đai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.23 KB, 17 trang )

MỞ ĐẦU
Nhà nước với tư cách là chủ thể mang quyền lực xã hội, thực hiện chức năng
quản lý (cai trị) và đáp ứng dịch vụ cho xã hội công dân. Trong điều kiện của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng, đòi hỏi
Nhà nước ta phải không ngừng cải cách và hoàn thiện toàn diện về thể chế pháp luật,
tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nước. Với chức
năng và vai trò của mình, Nhà nước tiến hành các hoạt động quản lý về mọi mặt
nhằm giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; thúc đẩy sự nghiệp phát
triển kinh tế-xã hội; văn hóa; khoa học-công nghệ; giáo dục;…
Để thực hiện các mục tiêu, chiến lược đó, Nhà nước tiến hành nhiều hình thức,
biện pháp nhằm duy trì sự ổn định và phát triển mọi mặt của đất nước theo từng giai
đoạn nhất định. Xu hướng tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi các quốc gia
phải không ngừng cải thiện mọi mặt, trong đó đặc biệt chú trọng đến môi trường đầu
tư; thủ tục hành chính; chính sách ưu đãi;… làm cơ sở để thu hút đầu tư nước ngoài.
Trong những năm qua, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về nhiệm vụ
phát triển kinh tế-xã hội gắn với an ninh quốc phòng được quan tâm xây dựng và khuyến
khích phát triển trong phạm vi cả nước, đặc biệt chú ý đến các trung tâm lớn; các vùng
kinh tế trọng yếu và các vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, đã đạt được nhiều
thành quả đáng khích lệ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong
đó, các cấp, ngành và địa phương trên cơ sở pháp luật và các chức năng được phân cấp,
chủ động, sáng tạo phát huy khả năng, thế mạnh của địa phương phát triển kinh tế-xã
hội, giữ vững an ninh và trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn.
Thực tiễn thực hiện chính sách thu hồi đất của Nhà nước phục vụ cho sự nghiệp
quốc phòng, phát triển kinh tế-xã hội, trong thời gian qua là một chủ trương đúng đắn
và phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế của đất nước.
Song, tỷ lệ các dự án hoàn thành có chất lượng còn ở một chừng mực nhất định. Tình
hình thu hồi đất của Nhà nước ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương còn chậm
so với kế hoạch đặt ra. Điều này xuất phát từ những hạn chế căn bản như: Thể chế
pháp luật hiện hành về thực hiện thủ tục bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
1



nước thu hồi đất còn nhiều mâu thuẫn, chồng chéo cả về hình thức và nội dung quy
phạm. Dẫn đến tình trạng các tỉnh, thành phố thụ động, ỷ nại và khó tổ chức thực
hiện trên địa bàn. Mặt khác, các chính sách của Nhà nước về bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư luôn thay đổi, không nhất quán trong những khoảng thời gian nhất định.
Bên cạnh đó, tình trạng cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền và đội ngũ cán bộ,
công chức làm công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư còn hạn chế về năng lực,
thiếu tinh thần trách nhiệm và xuống cấp về phẩm chất đạo đức, đã ra những hiện
tượng tiêu cực, tham nhũng, độc đoán và quan liêu trong cách xử lý và giải quyết các
quyền, lợi ích liên quan đến tổ chức, cá nhân bị thu hồi đất.
Tình trạng nhân dân khiếu kiện nhiều về đất đai gây mất ổn định về trật tự xã
hội, cho thấy thực trạng công tác thanh tra, kiểm tra và giải quyết khiếu nại tố cáo của
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ còn
chưa “xứng tầm” với vị trí, vai trò được giao.
Theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng khóa X, các Bộ, ngành, địa
phương và các cơ quan chức năng cần giải quyết dứt điểm tình trạng khiếu kiện của
dân, trong đó có khiếu kiện về đất đai; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính nâng
cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nước trong thời gian tới, đã đòi hỏi:
Bất kỳ một quyết định hành chính nào cũng đều phải thoả mãn các yêu cầu hợp
pháp và hợp lý.
- Khi ra các quyết định hành chính chủ thể ban hành quyết định phải dựa vào các
căn cứ pháp luật, và phải có tính khả thi, hiện thực.
- Bất cứ một tình huống nào cũng đều chứa đựng những yếu tố pháp lý, mà việc
giải quyết nó cũng đều dẫn đế một hệ quả pháp lý nhất định và đều tác dộng đến đời
sống xã hội.
- Các quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai - lĩnh vực rất nhạy
cảm, là lĩnh vực thường gây nhiều khiếu nại ở nước ta hiện nay. Vì vậy, khi ra quyết
định các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải đặc biệt chú ý tới căn cứ pháp lý, phải
điều tra tỉ mỉ cặn kẽ mọi tình tiết có liên quan tới vụ việc tình huống.
2



I) Tình huống
1. Hoàn cảnh ra đời
Chuyện xảy ra với tám hộ gia đình ở khu đường 6 thôn CK xã MT thành phố H.
Tám hộ gia đình đã sống trên mảnh đất từ lâu đời sau quá trình cải tạo, khai hoang và
phục hồi. Họ đang sinh sống ổn định thì UBND thành phố H ra quyết định thu hồi.
Hơn nữa, theo quyết định thu hồi họ không được đền bù và không được xét duyệt vào
trường hợp tái định cư. Tám hộ gia đình không biết phải biết làm như thế nào? Lệnh
trên đã ký, họ sẽ bị đuổi ra khỏi mảnh đất mà gia đình họ đã gắn bó. Họ không biết
rồi đây cuộc sống sẽ ra sao, con cái họ sẽ sống như thế nào khi không có một “tấc đất
cắm dùi”. Họ băn khoăn phải chăng quyết định của UBND thành phố H là đúng còn
bản thân họ thiếu hiểu biết về pháp luật nên mới lâm vào hoàn cảnh này? Trăm điều
lo lắng họ chẳng biết hỏi ai?
2. Diễn biến tình huống
Tám hộ dân thuộc cụm dân cư khu đường 6, thôn CK xã MT Thành phố H. Đất
ở của họ có nguồn gốc từ rất lâu đời; trước đây từng là ao hồ, thùng vũng; người dân
đã san lấp, cải tạo và khai hoang phục hồi, làm nhà ở, xây dựng cơ sở sản xuất kinh
doanh, nó thuộc diện quy hoạch đất ở của khu dân cư nông thôn. Về sau này, từ năm
1992 đến hết năm 2003, khu vực đất ở đây được xã đấu thầu cho các hộ dân thuê theo
từng năm.
Đến cuối năm 2005, UBND thành phố H ra quyết định thu hồi một phần đất của
tám hộ dân này để làm đường gom ven Quốc lộ 6 và họ đã chấp hành nghiêm chỉnh,
bàn giao mặt bằng cho nhà nước. Đến ngày 21/12/2006, tám hộ ở điểm dân cư nông
thôn này lại nhận được thông báo về việc thu hồi nốt phần đất còn lại để tỉnh xây
dựng khu tái định cư. Đồng thời UBND xã MT thông báo với những hộ dân này rằng:
Họ không thuộc diện được tái định cư ở đây. Vì không có chỗ ở nên tám hộ dân này
không bàn giao phần đất còn lại cho chính quyền.
Ngày 20/3/2007, Văn phòng UBND thành phố H ra văn bản thông báo ý kiến
của chủ tịch UBND thành phố H cho biết chính quyền sẽ áp dụng biện pháp cưỡng

3


chế buộc tháo dỡ nhà ở của tám hộ dân trong khi chưa có phương án giải quyết chỗ ở
tái định cư cho họ. UBND thành phố H lập luận rằng: Đất các hộ dân ở hiện (nay
thuộc diện giải phóng mặt bằng để xây dựng khu tái định cư đường gom Quốc lộ 6)
được UBND xã MT cho thuê hàng năm để kinh doanh là đất công điền của xã và đất
nông nghiệp giao lâu dài, không phải là đất ở. Việc xây dựng nhà ở của các hộ dân
trên đất thuê hàng năm là trái phép. UBND thành phố H giao cho UBND xã MT ra
thông báo hợp đồng đã hết hạn. Đồng thời UBND xã có trách nhiệm tổng hợp tất cả
các biên bản vi phạm hành chính về san lấp xây dựng của từng hộ.
Đã hàng mấy chục năm nay rồi, khu vực đất tám hộ dân thôn CK làm ăn, sinh
sống không còn là đất công điền của xã và đất nông nghiệp giao lâu dài nữa. Thực tế
nó đã trở thành điểm dân cư nông thôn theo quy định của Luật Xây dựng. Tại điểm
dân cư nông thôn này, người dân đã xây dựng nhà ở và sinh sống ổn định.
Trước hoàn cảnh mất nhà, mất đất, các hộ gia đình đành khiếu nại lên UBND
thành phố, đề nghị được giải quyết quyền lợi của mình. Ngày 28/3/2007 Uỷ ban nhân
dân huyện H triệu tập 8 hộ gia đình có khiếu nại tới giải quyết và thông báo diện tích
đất họ đang sử dụng là không hợp pháp. UBND thành phố sẽ thu hồi và không đền bù
đất đai. Trước sự bất bình của các hộ, UBND thành phố đã thông báo sẽ xem xét để
hỗ trợ cho các hộ về hoa màu, cây cối trên đất của họ. Tám hộ gia đình vẫn không
đồng tình với kết luận của UBND, họ cho rằng UBND thành phố đã quyết định sai
pháp luật.
Ngày 29/3/2007 Uỷ ban nhân dân huyện H có công văn trả lời đơn khiếu nại của
các hộ gia đình nói trên với nội dung bồi thường về hoa màu, cây cối trên đất cho tám
hộ gia đình thuộc diện bị thu hồi. Các hộ gia đình đã quyết định khiếu nại lên UBND
tỉnh để giải quyết.
Và chỉ sau mấy hôm sau khi nhận được công văn trả lời đơn khiếu nại và trong
khi chờ đợi quyết định giải quyết của Chủ tịch UBND cấp tỉnh, các hộ đã thấy những
xe ủi tiến vào khu đất của họ. Hỏi ra mới biết UBND thành phố đã hợp đồng san ủi

mặt bằng chuẩn bị xây dựng cơ sở hạ tầng. UBND thành phố dự kién sẽ phân chia lô
đất và thông báo rộng rãi cho các hộ gia đình có nhu cầu xin cấp đất làm nhà ở. Các
4


hộ gia đình đã kiên quyết không cho máy ủi làm việc và họ thề sống chết với mảnh
đất của mình. Phó Chủ tịch UBND thành phố đã đến và cho rằng các hộ gia đình đã
vi phạm pháp luật và ra “tối hậu thư” nếu các hộ gia đình không sớm rời khỏi khu
đất, chính quyền sẽ cưỡng chế. Ông cho rằng phương án quy hoạch tái định cư đã
được UBND tỉnh phê duyệt, không có lý gì không thực hiện được. Thực tế là UBND
thành phố đã thu tiền của một số hộ có nhu cầu sử dụng đất đối với diện tích đất mà
UBND thành phố quyết định thu hồi từ tám hộ gia đình nói trên.
II) Phân tích, xử lý tình huống
1. Mục tiêu giải quyết tình huống
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt. Việc thu hồi đất của người dân là thu hồi tư
liệu sản xuất của họ, ảnh hưởng không chỉ đến đời sống của gia đình họ mà còn tác
động đến cả tương lai, nghề nghiệp của bản thân các thành viên trong gia đình và
hiện tại. Việc thu hồi đất dù là đất thổ cư hay đất thổ canh đều phải tính toán việc đền
bù hợp lý để người dân có điều kiện đảm bảo cuộc sống cho hiện tại và sau này. Nhận
thức sâu sắc về vấn đề, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến các vấn đề về thu
hồi đất, giải phóng mặt bằng. Các chính sách về giải phóng mặt bằng của Nhà nước
đều hướng tới bảo đảm những quyền lợi của người dân, giúp người dân sớm ổn định
được đời sống.
Tình huống về thu hồi đất của UBND thành phố H một lần nữa cho thấy hiện
nay còn có những biểu hiện sai phạm trong việc thực hiện các chính sách. Đúng như
nhận định của Đảng ta trong Văn kiện Đại hội Đảng IX: “Nhiều chính sách tốt đã bị
bóp méo về nền hành chính quan liêu”. Những sai phạm của chính quyền xã và huyện
trong tình huống trên cũng cho thấy còn tồn tại sự thiếu hiểu biết về chính sách, pháp
luật của một số cán bộ chính quyền cũng như tinh thần trách nhiệm của họ trong việc
bảo đảm các quyền lợi của người dân. Chính vì vậy, trong quá trình giải quyết tình

huống, chúng ta phải làm rõ được những hành vi vi phạm pháp luật, chỉ ra những
nguyên nhân và những hậu quả từ những sai phạm của chính quyền thành phố từ đó
lựa chọn các phương án giải quyết hợp lý, hợp tình.
5


2. Cơ sở lý luận
Đàng và Nhà nước ta đang nỗ lực xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa nơi mà Pháp chế là yêu cầu, đòi hỏi các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội,
tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp
hành Hiến pháp và Pháp luật một cách thường xuyên, liên tục, không ngừng đấu
tranh chống tội phạm, các vi phạm Pháp luật khác, các hiện tượng tiêu cực, tham
nhũng… Pháp chế là một trong các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, hoạt động của
các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân
dân, đồng thời là nguyên tắc trong hành vi, xử sự của công dân.
Nhà nước pháp quyền đòi hỏi sự bảo đảm sự thống nhất của pháp chế. Nội dung
của yêu cầu này thể hiện ở chỗ là Pháp luật phải được nhận thức và thực hiện thống
nhất trong cả nước và ở tất cả các ngành, các cấp, ở trung ương, địa phương. Văn bản
của cơ quan Nhà nước ở địa phương phải phù hợp, không mâu thuẫn với văn bản do
cơ quan Nhà nước cấp trên ban hành.
Tính thống nhất của pháp chế không loại trừ việc cân nhắc những điều kiện của
ngành, của địa phương khi thực hiện pháp luật. Các cơ quan nhà nước ở các ngành,
các cấp một mặt phải thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật đã được quy định thống nhất
cho cả nước, mặt khác, trong thực hiện pháp luật cần phải tính đến những hoàn cảnh,
điều kiện, đặc thù của ngành, cấp, của địa phương để tìm kiếm những hình thức thực
hiện pháp luật một cách sáng tạo, năng động trong giới hạn pháp luật cho phép.
Sự thống nhất của pháp chế được bảo đảm bằng hiệu lực tối cao của luật so với
các văn bản dưới luật khác. Các văn bản dưới luật khác phải phù hợp với luật. Sự
thống nhất của pháp chế phù hợp với việc sáng tạo, áp dụng pháp luật của từng địa
phương, từng cơ sở, trên cơ sở thực hiện các văn bản pháp luật do cơ quan quyền lực

nhà nước ở địa phương ban hành, không trái với những quy phạm pháp luật có tính
đến điều kiện cụ thể những đặc thù của địa phương. Tuy nhiên, các văn bản do các cơ
quan quyền lực nhà nước ở địa phương ban hành không được trái với những điều luật
đã quy định.
6


Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Bảo đảm và bảo vệ các quyền tự do, lợi
ích hợp pháp của công dân. Quyền, tự do, lợi ích hợp pháp của công dân được hiến
pháp quy định và được cụ thể hoá trong các văn bản luật và văn bản dưới luật, được
các cơ quan nhà nước đề ra các biện pháp cụ thể để bảo đảm thực hiện và bảo vệ.
Trong việc cụ thể hoá quyền lợi của công dân phải bảo đảm việc hạn chế quyền công
dân ghi trong hiến pháp bằng các đạo luật, tránh sự hạn chế một cách tuỳ tiện.
Bất kỳ vi phạm pháp luật nào cũng đều xâm phạm trực tiếp hay gián tiếp tới lợi
ích của nhà nước, xã hội và công dân. Vì vậy, các cơ quan nhà nước, người có thẩm
quyền phải xử lý nhanh chóng, công minh và có hiệu quả đối với những vi phạm đó.
Thực hiện điều đó cần phải kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động, thi
hành các biện pháp có hiệu quả nhằm ngăn chặn và loại trừ tệ tham nhũng, hối lộ, cửa
quyền. Trong các cơ quan công quyền nghiêm trị những phần tử thoái hoá, biến chất,
làm sa sút lòng tin của nhân dân. Các cơ quan Toà án, kiểm sát, thanh tra, công an...
phải dựa vào nhân dân, các tổ chức quần chúng, phát động phong trào đấu tranh,
phòng chống tội phạm để phát hiện và xử lý kịp thời những vụ vi phạm pháp luật.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hỏi mọi hoạt động của Nhà nước, xã hội
đều phải tuân theo pháp luật. Quản lý hành chính nhà nước với ý nghĩa là hoạt động
thực thi quyền hành pháp nhằm tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà
nước đối với các quá trình xã hội và hành vi của công dân do các cơ quan trong hệ
thống hành chính từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện được chức năng,
duy trì trật tự, an ninh, thỏa mãn nhu cầu hàng ngày của nhân dân cũng không nằm
ngoài nguyên tắc pháp chế.
Hiệu quả của mỗi hoạt động quản lý nhà nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó

năng lực, kỹ năng góp phần quan trọng để khẳng định cái ”tôi” của mỗi cá nhân trong xã
hội. Cùng được đào tạo chuyên môn, cùng một môi trường công tác như nhau nhưng họ
khác nhau về phương pháp làm việc, về cách thức đạt được kết quả dẫn tới hiệu quả
công việc của họ rất khác nhau. Mỗi nghề cần có những yêu cầu về năng lực, kỹ năng
đặc thù để thích ứng. Việc xác định những năng lực, kỹ năng cần thiết cho một nghề để
từ đó đặt ra mục tiêu rèn luyện, phấn đấu; mặt khác để các nhà quản lý có kế hoạch đào
7


tạo, bồi dưỡng những kiến thức, những kỹ năng còn chưa đáp ứng yêu cầu công việc cho
họ là một việc làm có ý nghĩa xã hội to lớn.
Kỹ năng là sự thành thạo trong thực hiện có kết quả một tác nghiệp; nó được
hình thành qua quá trình học hỏi, đào tạo và tích luỹ kinh nghiệm. Các kỹ năng cơ
bản của công chức (cả nhân viên và cán bộ quản lý) ở công sở đòi hỏi cần có kỹ năng
nhận thức, chuyên môn, thu thập và xử lý thông tin, giao tiếp (nghe, nói, đọc, viết),
quan hệ (với cấp trên, cấp dưới, đồng nghiệp, với dân và tổ chức), ra quyết định, thực
thi - quản lý và kiểm tra... Kỹ năng đối với công chức nói chung được hiểu là, khả
năng vận dụng một cách thuần thục những kiến thức, kinh nghiệm thu nhận được
trong một lĩnh vực (công vụ) nào đó vào thực tiễn nhằm tăng hiệu lực, hiệu qủa công
việc.
3. Phân tích tình huống
Có thể nói, tình huống trên có rất nhiều điều cần phải xem xét. Tám hộ gia đình
tại thôn CK đã sinh sống ổn định trên mảnh đất của họ từ một thời gian dài. Mảnh đất
của họ đang sinh sống theo quy định của pháp luật đã đủ điều kiện để được cấp giấy
nhận quyền sử dụng đất chưa? Nếu những mảnh đất này có đủ điều kiện để được xét
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì quyền lợi của các hộ gia đình sẽ được
đảm bảo như thế nào?
Cùng với vấn đề trên là một thời gian dài UBND xã MT đã cho tám hộ gia đình
thuê đất từ năm 1992 đến năm 2003. Việc UBND xã MT cho thuê đất có đúng thẩm
quyền của chính quyền cấp xã trong quản lý nhà nước về đất đai cũng là một điều cần

được làm rõ.
Việc UBND xã MT thông báo tám hộ gia đình không thuộc diện tái định cư có phải
là một việc tùy tiện, thiếu cơ sở pháp luật hay không cũng cần được giải đáp.
Vấn đề cuối cùng là việc Văn phòng UBND thành phố H ra văn bản thông báo ý
kiến của chủ tịch UBND thành phố H cho biết chính quyền sẽ áp dụng biện pháp
cưỡng chế buộc tháo dỡ nhà ở của tám hộ dân trong khi chưa có phương án giải quyết

8


chỗ ở tái định cư cho họ. Điều này phải chăng là một sự bất hợp lý và cũng chẳng
hợp tình.
Có thể nói tình huống trên đặt ra hàng loạt những câu hỏi cần có lời giải đáp:
a. Dịên tích đất tám hộ dân đang sinh sống tại thôn CK, xã MT, thành phố H có
thuộc diện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay không?
b. Ý kiến về việc uỷ ban nhân dân xã MT cho tám hộ dân thuộc thôn CK, xã MT
thuê đất trong suốt quá trình từ năm 1992 đến hết năm 2003?
c. UBND xã MT thông báo cho tám hộ dân trên rằng họ không thuộc diện được
tái định cư ở đây là đúng hay sai?
d. Có nhận xét gì về việc: Ngày 21/12/2006, Văn phòng UBND thành phố H ra
văn bản thông báo ý kiến của chủ tịch UBND thành phố H cho biết chính quyền sẽ áp
dụng biện pháp cưỡng chế buộc tháo dỡ nhà ở của tám hộ dân trong khi chưa có
phương án giải quyết chỗ ở tái định cư cho họ.
đ. Việc UBNF thành phố cho san ủi mặt bằng khi Công văn trả lời khiếu nại
“chưa ráo mực”, người dân chưa kê khai hoa màu, cây cối có đúng quy định của pháp
luật?
e. Việc UBND thành phố thu tiền sử dụng đất của các hộ có nhu cầu sử dụng đất
đối với mảnh đất sắp được thu hồi có đúng quy định của pháp luật?
Từ những câu hỏi trên chúng ta cần tìm là biện pháp để giải quyết tình huống
trên theo đúng quy định của pháp luật.

4. Giải quyết tình huống
a. Diện tích đất tám hộ dân đang sinh sống tại thôn CK, xã MT, thành phố H thuộc
diện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì, theo quy định tại khoản 6, điều
50 Luật Đất đai được Quốc hội thông qua ngày 26/11/2003 thì: "Hộ gia đình, cá nhân
đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã
được sử dụng từ ngày 15/10/1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành (tức
trước ngày 01/7/2004), nay được UBND xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có
9


tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy
hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và phải nộp tiền sử
dụng đất theo quy định của Chính phủ". Như vậy, diện tích đất tám hộ dân trên đang sử
dụng thuộc diện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và phải nộp tiền sử dụng
đất. Trên thực tế, họ đã sinh sống ổn định tại điểm dân cư nông thôn này từ trước năm
2004, không có tranh chấp và hiện nay lại phù hợp với quy hoạch xây dựng khu tái định
cư. Điều này cũng có nghĩa quyền lợi của người dân về đất đai ở đây phải được bảo
đảm, tôn trọng.
b. Ý kiến về việc UBND xã MT cho tám hộ dân thuộc thôn CK, xã MT thuê đất
trong suốt quá trình từ năm 1992 đến hết năm 2003.
Thứ nhất, theo quy định của luật đất đai năm 2003, tại khoản 3 Điều 37: "UBND
xã, phường, thị trấn cho thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích
công ích của xã". Tuy nhiên trong tình huống trên, đất mà tám hộ dân đang ở thuộc
đất khu dân cư nông thôn chứ không phải là quỹ đất nông nghiệp vì vậy UBND xã
MT không có thẩm quyền cho thuê loại đất này. Thẩm quyền cho thuê loại đất này
(nếu được) thuộc về UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (khoản 2, Điều
37, Luật Đất đai năm 2003).
Thứ hai, trong hơn mười năm (từ năm 1992 đến hết năm 2003), chính quyền xã
MT đã thu từ hợp đồng cho thuê đất bao nhiêu tiền, hạch toán ra sao là điều phải làm
rõ để xử lý những người vi phạm. Tại khoản 1, Điều 71 Luật Ngân sách Nhà nước

được Quốc hội thông qua ngày 16/12/2002 quy định: "Những khoản thu không đúng
quy định của pháp luật phải được hoàn trả tổ chức, cá nhân đã nộp".
c. UBND xã MT thông báo cho tám hộ dân trên rằng họ không thuộc diện được
tái định cư ở đây là trái với quy định tại khoản 2, Điều34, Nghị định 197/2004/NĐCP của Chính phủ ngày 03/12/2004 về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước
thu hồi đất: "Ưu tiên tái định cư tại chỗ cho người bị thu hồi đất tại nơi có dự án tái
định cư, ưu tiên vị trí thuận lợi cho các hộ sớm thực hiện giải phóng mặt bằng, hộ có
vị trí thuận lợi tại nơi ở cũ, gia đình chính sách". Đối chiếu với tình huống đặt ra, tám
hộ dân thôn CK xã MT thuộc diện người bị thu hồi đất tại nơi có dự án tái định cư.
10


Mặt khác, họ lại là những người nghiêm chỉnh chấp hành quyết định thu hồi một
phần đất của họ của UBND thành phố H khi có kế hoạch làm đường gom ven Quốc
lộ 6. Do vậy, về nguyên tắc họ phải là những người được ưu tiên bố trí tái định cư.
Việc UBND xã MT lại thông báo tám hộ dân này không thuộc diện tái định cư là
hoàn toàn vô căn cứ.
d. Ngày 21/12/2006, Văn phòng UBND thành phố H ra văn bản thông báo ý
kiến của Chủ tịch UBND thành phố H cho biết chính quyền sẽ áp dụng biện pháp
cưỡng chế buộc tháo dỡ nhà ở của tám hộ dân trong khi chưa có phương án giải quyết
chỗ ở tái định cư cho họ.
Văn bản thông báo ý kiến của chủ tịch UBND thành phố H như trên là trái quy
định của pháp luật.
Việc cưỡng chế thi hành quyết định thu hồi đất được quy đinh tại điều 47, Nghị
định 197/2004/NĐ-CP (đã dẫn ở trên) chỉ được thực hiện khi chính quyền đã thực hiện
đúng các quy định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư mà "người bị thu hồi đất cố tình
không thực hiện quyết định thu hồi đất thì cơ quan quyết định thu hồi đất ra quyết định
cưỡng chế và tổ chức thực hiện cưỡng chế theo quy định của pháp luật". Theo tình
huống đặt ra, UBND tỉnh H chưa thực hiện đúng các quy định về bồi thường, hỗ trợ tái
định cư mà đã có văn bản yêu cầu thực hiện biện pháp cưỡng chế buộc tháo dỡ nhà của
tám hộ dân xã MT. Đây là việc làm không hợp pháp và bất chấp chỉ thị của Thủ tướng

Chính phủ: "Từ nay, các địa phương không được cưỡng chế buộc tháo dỡ nhà ở khi
người bị thu hồi đất chưa được giải quyết chỗ tái định cư’’ (Chỉ thị số 05/2006/CT-TTg
của Thủ tướng Chính phủ ngày 22/02/2006 về việc khắc phục yếu kém, sai phạm, tiếp
tục đẩy mạnh tổ chức thi hành Luật Đất đai).
đ. Khi công dân đang khiếu nại hành vi Uỷ ban nhân dân huyện đã cho san ủi để
xây dựng cơ sở hạ tầng và phân lô để cấp cho các gia đình có nhu cầu làm nhà ở đây
là hành vi hành chính vừa không hợp pháp, hợp lý. Vì số đất tuy Uỷ ban nhân dân
thành phố H đã có quyết định thu hồi nhưng còn đang tranh chấp giữa Uỷ ban nhân
dân với các công dân. Quyết định giải quyết khiếu nại của Uỷ ban nhân dân thành
phố H chưa phải là quyết định giải quyết cuối cùng theo quy định điều 23 Luật Khiếu
11


nại, tố cáo ngày 2/12/1998 . Vì vậy, Uỷ ban nhân dân chưa có quyền định đoạt về mặt
pháp lý số phận đất đai nói trên.
Việc làm của UBND thành phố H là trái với quy đinh tại Nghị định số
84/2007/NĐ-CP ngày 25-5-2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ
tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về
đất đai. Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện (Điều 63). Khoản 1 quy định “Trong
thời hạn không quá chín mươi ngày, kể từ ngày Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện
có quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản lý đất đai quy định tại Điều
162 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP mà người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
không đồng ý với quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính đó thì có quyền
nộp đơn khiếu nại đến ủy ban nhân dân cấp huyện”.
Theo quy định này thời hiệu khiếu nại là 90 ngày (Điều 163 Nghị định
181/2004/NĐ-CP quy định là 30 ngày), quy định này mở rộng quyền của người khiếu
nại và phù hợp với quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo. Trường hợp người khiếu nại
không đồng ý với quyết định giải quyết của Chủ tịch UBND cấp huyện thì có quyền
khởi kiện ra Toà án nhân dân hoặc khiếu nại đến ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Nếu khiếu

nại đến ủy ban nhân dân cấp tỉnh thì Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách
nhiệm giải quyết khiếu nại theo thời hạn quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo. Quyết
định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh là quyết định giải
quyết lần hai, phải được công bố công khai và gửi cho người khiếu nại, người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
Việc giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính
trong lĩnh vực đất đai không thuộc trường hợp quy định tại Điều 63 và Điều 64 Nghị
định 84/2007/NĐ-CP. Trước đây nếu Nghị định 181/2004/NĐ-CP quy định chỉ có
Chủ tịch UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp tỉnh giải quyết khiếu nại đối với cán
bộ, công chức thuộc quyền quản lý của mình thì Điều 65, Nghị định quy định “Việc
giải quyết khiếu nại đối với hành vi hành chính của cán bộ, công chức thuộc Ủy ban
nhân dân xã, phường, thị trấn; hành vi hành chính của cán bộ, công chức thuộc Phòng
12


Tài nguyên và Môi trường; hành vi hành chính của cán bộ, công chức thuộc Văn
phòng ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; hành vi hành chính
của cán bộ, công chức thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường, hành vi hành chính của
cán bộ, công chức thuộc Văn phòng ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương; quyết định hành chính của Sở Tài nguyên và Môi trường và quyết định
hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
huyện, Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh không thuộc trường hợp quy định tại Điều
63 và Điều 64 Nghị định 84/2007/NĐ-CP được thực hiện theo quy định của pháp luật
về khiếu nại, tố cáo”.
Từ những phân tích, luận giải ở trên, chúng ta có thể đưa ra các phương án giải
quyết cho tình huống trên:
1) Đối với các hộ gia đình có đất bị thu hồi
Thứ nhất, Đối với khoản tiền thu được từ việc cho thuê của UBND xã MT, Chủ
tịch UBND thành phố chỉ đạo việc kiểm tra, xem xét và kết luận về thu và sử dụng
các khoản thu này. Theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước "Những khoản thu

không đúng quy định của pháp luật phải được hoàn trả tổ chức, cá nhân đã nộp". Vì
vậy, Chủ tịch UBND thành phố cần chỉ đạo UBND xã MT có phương án hoàn trả tiền
thuê đất cho các hộ gia đình.
Thứ hai, UBND thành phố phải ban hành Quyết định hủy bỏ Thông báo của Văn
phòng UBND thành phố về việc cưỡng chế buộc tháo dỡ các công trình xây dựng của
tám hộ gia đình.
Sau khi thực hiện các công tác trên, UBND thành phố có thể lựa chọn một trong
các phương án sau đây:
- Phương án 1: Căn cứ vào hiện trạng đất của 8 hộ gia đình trên, Chủ tịch UBND
thành H xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho họ và thu tiền sử dụng đất
theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào quy hoạch khu vực tái định cư của tỉnh để xác
định diện tích của các hộ gia đình trong khu vực được nhận. Diện tích đất của các hộ nếu
còn thừa ra thì thực hiện thu hồi song phải có đền bù theo quy định của pháp luật.
13


Phương án này có ưu điểm là cuộc sống của tám hộ gia đình ít biến động. Tuy nhiên,
việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có thu tiền cũng tùy thuộc vào khả năng
kinh tế của các hộ. Hơn nữa, nếu thực hiện theo phương án này có thể ít nhiều ảnh
hưởng đến quy hoạch tổng thể khu vực tái định cư.
- Phương án 2: Xây dựng phương án tái định cư cho tám hộ gia đình trong khu
vực. Sau đó, thu hồi toàn bộ diện tích đất của các hộ gia đình có đền bù theo quy định
của Chính phủ và Quyết định của UBND tỉnh. Phương án này giúp UBND thành phố
chủ động thực hiện quy hoạch tái định cư. Người dân vẫn đảm bảo quyền lợi của
mình đồng thời chính quyền có thể thực hiện được phương án quy hoạch đã được phê
duyệt. Xét một cách tổng thể, phương án này nên được triển khai.
Từ phía người dân trong trường hợp UBND thành phố H không giải quyết
quyền lợi của họ thì các hộ dân có thể có hai hướng để bảo vệ quyền lợi của mình.
Thứ nhất, các hộ gia đình khởi kiện quyết định của UBND thành phố H đến Tòa
hành chính thành phố H.

Thứ hai, các hộ gia đình khiếu nại lên Chủ tịch UBND cấp tỉnh để Chủ tịch
UBND tỉnh giải quyết.
2) Đối với các hộ gia đình đã nộp tiền để nhận được quyền sử dụng đất
Uỷ ban nhân dân thành phố H, tuy chưa có quyết định bằng văn bản cấp giấy
chứng nhân quyền sử dụng đất cho các hộ đăng ký xin được cấp đất. Nhưng việc
thông báo của Uỷ ban nhân dân thành phố H và việc đăng ký, nộp tiền đầy đủ của các
hộ dân cư thực chất là đã ký kết "hợp đồng hành chính". Trong đó, những người xin
cấp đất đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình đối với nhà nước. Vì vậy, Uỷ ban
nhân dân thành phố H cũng phải thực hiện nghĩa vụ đối với dân cư. Nhưng trong hợp
đồng này, cơ quan hành chính nhà nước có đặc quyền hành chính là thay đổi điều
kiện "hợp đồng hành chính" ở những nội dung không căn bản. Từ vấn đề lý luận có
tính nguyên tắc như vậy, phương án đặt ra để giải quyết sự kiện này là:
- Uỷ ban nhân dân thành phố H cần phải họp mặt các hộ gia đình đã nộp tiền sử
dụng đất để thống nhất lại với họ về địa điểm, mặt bằng, ra quyết định cấp giấy
14


chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ đã đăng ký và nộp tiền đầy đủ và rút bớt
diện tích của từng lô đất xuống một cách hợp lý sao cho phù hợp quy hoạch;
- Hoàn trả lại cho các hộ đăng ký và đã nộp đủ tiền đất số tiền chênh lệch (nếu
có) sau khi đã điều chỉnh lại diện tích sử dụng của họ.
Việc thực hiện phương án này chừng mực nhất định sẽ gây phản ứng của những
người sẽ đăng ký và đã nộp tiền sử dụng đất. Để thực hiện phương án này Uỷ ban
nhân dân thành phố H chỉ còn mỗi biện pháp dựa vào công tác vận động, thuyết phục,
không thể dùng mệnh lệnh hành chính. Điều quan trọng hơn cả là nhận khuyết điểm
trước nhân dân về những quyết định sai trái của mình, kiểm điểm và thông báo cho
đân biết kết quả xử lý những người trực tiếp có khuyết điểm dẫn đến quyết định sai
trái của Uỷ ban nhân dân thành phố H. Với cách làm như vậy sẽ giải quyết được tình
huống một cách hợp lý, hợp pháp, có tính khả thi.
III) Kiến nghị

Trong số những yếu tố chủ quan làm suy giảm pháp chế phải kể đến sự kém hiểu
biết về pháp luật của cán bộ, công chức nhà nước trong các cơ quan nhà nước, tính
quan liêu còn tồn tại trong các bộ máy nhà nước, sự lạm dụng quyền lực nhà nước
của những người có chức, có quyền, lạm quyền dẫn đến sự phá hoại pháp chế. Những
sự vi phạm như trên dẫn đến sự rệu rã bộ máy nhà nước, làm giảm sự tôn trọng pháp
luật, làm suy yếu tính quyền lực của nhà nước, làm giảm tính đấu tranh của cán bộ,
nhân viên trong việc xây dựng bộ máy nhà nước. Có thể nói đó là một trong những
khâu quan trọng nhất trong việc phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và mở rộng quyền
dân chủ trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Tình huống trên một lần nữa cho thấy những sai phạm trong quản lý nhà nước
về đất đai ở địa phương. Sai phạm trong quản lý nhà nước về đất đai không chỉ ở cấp
chính quyền cơ sở mà ở cấp chính quyền cao hơn cũng có những sai phạm. Những sai
phạm này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân song một nguyên nhân căn bản là cán bộ
chính quyền không nắm vững các quy định của pháp luật, chính sách quản lý của nhà

15


nước. Từ đó dẫn đến tình trạng ban hành các quyết định hành chính trái pháp luật,
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Những sai phạm của chính quyền xã MT và thành phố H thực sự là một bài học
đối với những người làm công tác quản lý nhà nước về đất đai. Thiết nghĩ để đảm bảo
tính nghiêm minh của pháp luật, UBND tỉnh cần phải xem xét và những quyết định
xử lý đúng người, đúng pháp luật trong các sai phạm nói trên. Việc xử lý nghiêm
minh sẽ giúp cho các cán bộ, công chức ngày càng ý thức đầy đủ hơn về trách nhiệm
của mình trong quản lý, nâng cao trách nhiệm của cá nhân, tổ chức đối với các quyết
định hành chính, hành vi hành chính.
Cùng với việc áp dụng các biện pháp xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức có sai
phạm, một điều cũng cần được chú ý ở đây là cần phải nâng cao năng lực quản lý của
chính quyền các cấp bằng việc tạo điều kiện cho cán bộ, công chức học tập, nâng cao

trình độ, cập nhật các quy định của pháp luật, chính sách của Nhà nước tránh những sai
phạm do thiếu hiểu biết về chính sách pháp luật. Những sai phạm tiếp nối sai phạm sẽ
ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân đối với chính quyền.
KẾT LUẬN
Với tất cả những nguyên nhân nói trên từ quyết định, hành vi không hợp pháp và
hợp lý của Uỷ ban nhân dân thành phố H đã dẫn tới tình trạng khiếu kiện của dân, và
đặt Uỷ ban nhân dân thành phố H phải giải quyết tình huống do chính mình gây
nên. Đây là bài học cần rút kinh nghiệm cho các cấp quản lý.
Để sửa chữa những sai phạm của mình, Chủ tịch UBND thành phố H cần sớm
triển khai phương án giải quyết về quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Biết nhận
ra sai lầm và sửa chữa với sự công tâm, tinh thần trách nhiệm, tinh thần cầu thị sẽ
giúp chính quyền thành phố H nhận được sự tin cậy của nhân dân. Chính quyền quản
lý tốt tất yếu sẽ có được uy tín, lòng tin của nhân dân.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

16


1- Luật Đất đai được Quốc hội thông qua ngày 26/11/2003
2- Luật Ngân sách Nhà nước được Quốc hội thông qua ngày 16/12/2002
3- Luật Khiếu nại, tố cáo ngày 2/12/1998
3- Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25-5-2007 của Chính phủ quy định bổ
sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử
dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và
giải quyết khiếu nại về đất đai
4- Nghị định 197/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 03/12/2004 về bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
5-Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 của Chính phủ về sửa đổi bổ
sung một số điều của Nghị định 197,...

6- Chỉ thị số 05/2006/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 22/02/2006 về việc
khắc phục yếu kém, sai phạm, tiếp tục đẩy mạnh tổ chức thi hành Luật Đất đai.
7-Báo điện tử Việt Nam nét.

17



×