Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

môn lịch sử công tác tư tưởng TƯ TƯỞNG hồ CHÍ MINH về sự THỐNG NHẤT GIỮA lý LUẬN và THỰC TIỄN với CÔNG tác lý LUẬN ở nước ta hiện nay tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.61 KB, 37 trang )

MỤC LỤC

MỤC LỤC.........................................................................................................1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản trong tư
tưởng Hồ Chí Minh và là một trong những yếu tố góp phần làm cho tư tưởng của
Người có sức sống trường tồn và sức mạnh cải tạo vĩ đại.
Những tư tưởng của Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
có ý nghĩa hết sức to lớn đối với đất nước ta hiện nay, nhất là trong công tác tư
tưởng, lý luận. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới với nhiều thách thức, nâng cao
hiệu quả công tác tư tưởng, mà trọng tâm là công tác lý luận đã trở thành vấn đề cấp
thiết hơn bao giờ hết. Điều này bắt nguồn từ sự phát triển mạnh của xu hướng toàn
cầu hóa kinh tế, tác động sâu rộng đến giao lưu hợp tác văn hóa, sự bùng nổ của
cuộc cách mạng khoa học công nghệ. Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc,
xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo nhất là sự cạnh tranh gay gắt thị trường kinh tế,
cũng như cuộc đấu tranh giải quyết những vấn đề toàn cầu: chạy đua vũ trang, cuộc
chiến chống đói nghèo, bệnh tật và vấn đề nóng lên của trái đất…
Thực tiễn đặt ra yêu cầu và đòi hỏi lý luận phải đổi mới và phát triển để tìm
được câu trả lời cho những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn, cung cấp cơ sở lý luận cho
Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với sự phát triển của
đất nước và cuộc sống của nhân dân. Trước những vai trò to lớn của công tác lý
luận cũng như yêu cầu bức thiết được đặt ra từ công cuộc đổi mới, em chọn đề tài
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với công tác
lý luận ở nước ta hiện nay” làm đề tài tiểu luận của mình.
2. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn, tiểu luận chỉ ra sự vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn theo quan điểm của Hồ Chí Minh vào công tác lý luận, đáp ứng những yêu cầu
đang đặt ra trong quá trình đổi mới ở nước ta.



1


- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Tiểu luận nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn, sự vận dụng nguyên tắc này trong công tác lý luận ở nước ta
hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài vận dụng một số
phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: được sử dụng để tập hợp và thu lượm
những vấn đề lý luận có liên quan đến nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thực tiễn của cách mạng Việt Nam và trong
công tác lý luận hiện nay.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: được sử dụng vào quá trình tìm hiểu
các tư liệu có liên quan đến vấn đề thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, trong thực tiễn của cách mạng Việt Nam và trong công tác lý
luận hiện nay.
4. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung
gồm 2 chương:
Chương 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận với thực
tiễn.
Chương 2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn trong công tác lý luận ở nước ta hiện nay

2



Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VỚI
THỰC TIỄN
1.1. Phạm trù lý luận và thực tiễn theo quan điểm Hồ Chí Minh
1.1.1. Phạm trù lý luận
Phạm trù lý luận được nói đến rất nhiều trong các bài viết, bài nói chuyện
của Hồ Chí Minh. Khái niệm “lý luận” trong tư tưởng Hồ Chí Minh được hiểu là:
“Đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc đấu tranh, xem xét,
so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với
thực tế. Đó là lý luận chân chính”; “lý luận do kinh nghiệm cách mạng các nước và
trong nước ta, do kinh nghiệm từ trước và kinh nghiệm hiện nay gom góp phân tích
và kết luận những kinh nghiệm đó thành lý luận”; “lý luận là sự tổng kết những
kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ
lại trong quá trình lịch sử”.
Chúng ta thấy rằng, trong quan niệm của Hồ Chí Minh về “lý luận” có chứa
yếu tố thống nhất giữa lý luận với thực tiễn và thể hiện được mối quan hệ biện chứng
giữa thực tiễn và lý luận cũng như yếu tố kế thừa của lý luận. Cách quan niệm về lý
luận như thế cho phép người ta nhìn lý luận trong trạng thái mở, trạng thái vận động
của nó. Lý luận chân chính tự nó không chấp nhận sự xa rời thực tiễn, xa rời hiện
thực. Hồ Chí Minh đặt “lý luận” trong mối quan hệ chặt chẽ với “kinh nghiệm” cũng
là một cách chỉ ra tính quy định của thực tế đối với nội dung của lý luận.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Hồ Chí Minh đã nêu cụ thể hơn: “Lý
luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem
xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành lý luận. Rồi lại đem nó chứng minh
với thực tế”. Và theo Hồ Chí Minh: “đó là lý luận chân chính”. Như vậy, lý luận là
sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn mà thành, nhưng lý luận chân chính là lý luận
phải được chứng minh với thực tế, tức là phải phù hợp với thực tế, phải được vận
dụng vào thực tế.
1.1.2. Phạm trù thực tiễn
Trong lý luận nhận thức của triết học duy vật biện chứng, “thực tiễn” được

coi là những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con
3


người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Nó gồm các dạng cơ bản là hoạt động sản
xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã hội, hoạt động thực nghiệm khoa học. Thực
tiễn được coi là mục đích, là cơ sở, là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức,
thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý.
Vận dụng nguyên lý này vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, Hồ
Chí Minh thường dùng các khái niệm “thực tế” hay “thực hành”… cùng với khái
niệm “thực tiễn”.
Theo Hồ Chí Minh: “Thực tế là các vấn đề mình phải giải quyết, là mâu
thuẫn của sự vật. Chúng ta là những người cán bộ cách mạng, thực tế của chúng ta
là những vấn đề mà cách mạng đề ra cho chúng ta giải quyết. Thực tế bao gồm rất
rộng. Nó bao gồm kinh nghiệm công tác và tư tưởng của cá nhân, chính sách và
đường lối của Đảng, kinh nghiệm lịch sử của Đảng cho đến các vấn đề trong nước
và trên thế giới”.
Chúng ta biết rằng phần lớn cán bộ, đảng viên của ta đều xuất thân từ nông
dân, trình độ học vấn còn nhiều hạn chế, lại không quen với những lý thuyết sách
vở cao xa cùng những khái niệm chuyên môn phức tạp khó hiểu. Việc dùng khái
niệm thực tế chắc chắn sẽ dễ giải thích, dễ tuyên truyền, dễ hiểu hơn khái niệm thực
tiễn - với tư cách là một phạm trù triết học. Hồ Chí Minh cho rằng, thực tế bao gồm
rất rộng như thực tế cách mạng của nước ta, kinh nghiệm công tác tư tưởng của cá
nhân, chính sách đường lối của Đảng, kinh nghiệm của Đảng, những vấn đề trong
nước và trên thế giới hiện nay…
Vì vậy, thực tế không đối lập với thực tiễn, nó chỉ rộng hơn thực tiễn mà
thôi. Xét về bản chất, hai khái niệm thực tế và thực tiễn tuy có nội dung khác nhau
nhưng được Hồ Chí Minh sử dụng với nội hàm như nhau. Tuy vậy, hai khái niệm
này không hoàn toàn đồng nhất với nhau và không thể thay thế cho nhau trong một
số trường hợp. Vì vậy, Hồ Chí Minh không bao giờ viết “thống nhất giữa lý luận và

thực tế” mà viết “thống nhất giữa lý luận và thực tiễn”.
1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn
1.2.1. Chủ nghĩa Mác - Lênin là ánh sáng soi đường, kim chỉ nam cho
cách mạng nước ta

4


Từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin và
chủ nghĩa xã hội, tìm thấy con đường cứu nước cho dân tộc. Người tiếp thu chủ
nghĩa Mác-Lênin và lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng cho cách mạng
Việt Nam. Người tin vào chủ nghĩa Mác-Lênin và Người tìm thấy ở chủ nghĩa MácLênin câu trả lời bức thiết nhất cho dân tộc Việt Nam là con đường giành độc lập
cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho mỗi người. Trong bài Con đường
dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin, Người đã nói: “Từng bước một, trong cuộc đấu tranh,
vừa nghiên cứu lý luận Mác-Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được
rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc
bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiếp xúc với nhiều tư
tưởng, nhiều học thuyết, nhưng tất cả đều không đem lại lời giải đáp cho cách mạng
Việt Nam. Chỉ có chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết cách mạng nhất, khoa học
nhất, vạch đường cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp công nhân
và nhân dân lao động ở nước ta. Người đã khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều,
chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất
là chủ nghĩa Mác-Lênin”. Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin trên cơ sở
thống nhất giữa lý luận cách mạng và thực tiễn cách mạng. Hơn nữa, lý luận cách
mạng ấy lại được Người vận dụng sáng tạo trong hoạt động thực tiễn cách mạng của
mình. Điều này thể hiện rất rõ ở chỗ, Người tích cực tham gia hoạt động trong các
tổ chức cách mạng, tổ chức chính trị - xã hội nhằm đưa chủ nghĩa Mác-Lênin vào
phong trào cách mạng. Từ tham gia Đảng xã hội Pháp, Hồ Chí Minh đã bỏ phiếu

tán thành Quốc tế III và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, Hội liên hiệp thuộc
địa, ra báo Người cùng khổ. Người đã viết nhiều bài nói về phong trào công nhân ở
các nước thuộc địa và phụ thuộc cũng như tố cáo tội ác của bọn đế quốc thực dân
đăng trên các báo: Nhân đạo, Đời sống công nhân, Người cùng khổ… xuất bản ở
Pari. Người đã trực tiếp chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam… Đây là cả một quá trình phát triển từ nhận thức lý luận
đến việc kết hợp sáng tạo lý luận Mác-Lênin vào thực tiễn phong trào cách mạng
thế giới và thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Rõ ràng là Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin không chỉ từ nhận
thức lý luận mà còn từ hoạt động thực tiễn cách mạng và không chỉ dừng lại đó,
5


Người còn đưa lý luận đó vào thực tiễn cách mạng. Nhờ vậy mà Người sớm đến
được với chủ nghĩa Mác-Lênin. Mùa thu năm 1920, không phải chỉ có một mình
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là người Việt Nam duy nhất được đọc Sơ thảo
những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, nhưng chỉ có Người là
duy nhất tìm thấy con đường cách mạng đúng đắn để giải phóng cho dân tộc ta và
các dân tộc bị áp bức khác.
Như vậy, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đến và nhận thức được chủ
nghĩa Mác-Lênin không phải trên cơ sở kinh nghiệm chủ nghĩa hay giáo điều sách
vở mà trên cơ sở của sự thống nhất nhuần nhuyễn giữa lý luận cách mạng và hoạt
động thực tiễn cách mạng của Người. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin,
Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đứng vững trên lập trường của giai cấp công
nhân, biết vận dụng lý luận Mác-Lênin vào tình hình thực tế đất nước để từ đó đề ra
đường lối, chính sách đúng đắn. Vì vậy, cách mạng Việt Nam đã giành được những
thắng lợi to lớn trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Khẳng định vai trò to lớn của chủ nghĩa Mác-Lênin đối với phong trào cách
mạng nước ta, Hồ Chí Minh viết: “Chủ nghĩa Mác-Lênin đối với chúng ta, những
người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ,

không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi
tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”.
1.2.2. Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa lý
luận cách mạng và thực tiễn cách mạng.
Hồ Chí Minh tiếp thu những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác -Lênin
để chỉ đạo phong trào cách mạng Việt Nam, Người nắm vững những nguyên lý triết
học mácxít để làm cơ sở lý luận cho những phương pháp cách mạng đúng đắn.
Người hiểu rất sâu sắc vai trò của lý luận đối với thực tiễn. Trong quá trình lãnh đạo
cách mạng nước ta, Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải nắm vững lý luận
chủ nghĩa Mác-Lênin để chỉ đạo thực tiễn phong trào cách mạng. Người nhắc nhở
lại lời dạy của Lênin là: “Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách
mạng” và “chỉ có một Đảng có lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có thể làm
tròn được vai trò chiến sĩ tiên phong”.
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Người viết: “Lý luận là đem thực tế
trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ
6


lưỡng rõ ràng, làm thành lý luận”. Lý luận phản ánh đúng đắn bản chất của các sự
vật, hiện tượng, các quá trình trong tự nhiên và xã hội sẽ giúp chúng ta nắm được
quy luật vận động của các sự vật và hiện tượng. Như vậy, Hồ Chí Minh không
những làm rõ khái niệm triết học về lý luận, mà còn làm rõ nguồn gốc, con đường
hình thành và vai trò của lý luận. Người cũng nói rõ, chính lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin là sự tổng kết kinh nghiệm của phong trào công nhân từ trước đến nay
của tất cả các nước. Nó là: “Khoa học về các quy luật phát triển của tự nhiên và xã
hội, khoa học về cách mạng của quần chúng bị áp bức và bị bóc lột, khoa học về sự
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở tất cả các nước...”.
Vì vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin là ngọn đuốc soi đường, là nền tảng tư tưởng
cho phong trào cách mạng của giai cấp vô sản các nước. Những nguyên lý phổ biến
của lý luận Mác-Lênin xác định phương hướng và định ra phương pháp hành động

đúng đắn cho Đảng Cộng sản và phong trào công nhân ở nước ta thực hiện thành
công cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng, lý luận Mác-Lênin là “kim chỉ
nam”, nó “chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế”. Vì vậy, Người
luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên muốn làm tốt thì phải nắm vững lý luận, vì “không
có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”. Về mối quan hệ giữa kinh nghiệm và
lý luận, Người cho rằng, kinh nghiệm là vốn quý. Trong hoạt động thực tiễn, con
người cần phải rút kinh nghiệm, nắm được kinh nghiệm và cần có nhiều kinh
nghiệm để chỉ đạo hành động. Con người không có kinh nghiệm, sẽ không có cơ sở,
điều kiện để tổng kết, đúc rút lý luận. Nhưng, nếu chỉ dừng lại ở trình độ kinh
nghiệm thì chưa đủ. Bởi vì, kinh nghiệm mới chỉ phản ánh từng mặt, từng bộ phận,
chưa đi sâu vào bản chất và tìm ra quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng.
Kinh nghiệm chỉ có vai trò trong một phạm vi hẹp. Trong “Sửa đổi lối làm việc”,
Hồ Chí Minh đã nói với cán bộ, đảng viên rằng: “... kinh nghiệm của họ tuy tốt,
nhưng cũng chẳng qua là từng bộ phận mà thôi, chỉ thiên về một mặt mà thôi”. Vì
vậy, đòi hỏi cán bộ, đảng viên không được dừng lại ở trình độ kinh nghiệm, tuyệt
đối hoá kinh nghiệm dẫn đến coi thường lý luận, không học lý luận, lý luận kém.
Muốn làm việc tốt, cán bộ cần phải nâng cao tri thức lý luận, nắm vững lý luận.
Người nói: “Có những cán bộ, những đảng viên cũ, làm được việc, có kinh nghiệm.
Cố nhiên, những anh em đó rất quý báu cho Đảng. Nhưng họ lại mắc phải cái bệnh
7


khinh lý luận. Họ quên rằng: nếu họ đã có kinh nghiệm mà lại biết thêm lý luận thì
công việc tốt hơn nhiều”.
Như vậy, cần phải kết hợp hài hoà giữa việc tích lũy kinh nghiệm và lý luận.
Vai trò của kinh nghiệm và lý luận được Người dùng hình tượng so sánh như hai
con mắt: “Có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng, một mắt
mờ”. Hồ Chí Minh không những khẳng định vai trò của lý luận mà còn khẳng định
vai trò của hoạt động thực tiễn. Người chỉ rõ lý luận ra đời trên cơ sở hoạt động

thực tiễn xã hội. Chính hoạt động thực tiễn của con người là cơ sở, nguồn gốc để
con người đúc rút thành kinh nghiệm và tổng kết, khái quát thành lý luận. Thực tiễn
luôn vận động, biến đổi. Vì vậy, lý luận cũng phải được bổ sung, phát triển phù hợp
với điều kiện mới, hoàn cảnh mới. Người chỉ rõ: “Lý luận luôn luôn cần được bổ
sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động”.
Lý luận ra đời hướng dẫn con người cải tạo lại hoàn cảnh, cải tạo tự nhiên, cải
tạo xã hội khi lý luận đó được vận dụng vào thực tiễn hoạt động của quần chúng.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức, của lý luận. Người nói: “Lý luận cốt để áp dụng
vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận suông”. Chỉ
có trên cơ sở vận dụng lý luận vào thực tiễn mới khẳng định được lý luận đúng hay
sai, phù hợp hay không phù hợp với thực tiễn. Để làm rõ vấn đề này, Hồ Chí Minh
nhấn mạnh vai trò của thực tiễn. Người khẳng định: lý luận sau khi ra đời “rồi lại đem
nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính” . Như vậy, tính đúng đắn của lý
luận không phải được chứng minh bằng lý luận, mà phải dựa trên cơ sở hoạt động
thực tiễn xã hội. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Hồ Chí Minh luôn yêu
cầu cán bộ, đảng viên vừa phải học tập và nắm vững lý luận để chỉ đạo hoạt động
cách mạng đi đúng hướng, vừa phải đi sâu, đi sát hoàn cảnh, điều kiện thực tế khách
quan. Điều kiện thực tế khách quan của mỗi quốc gia, dân tộc, mỗi vùng, mỗi địa
phương, có những đặc điểm khác nhau. Vì vậy, nắm vững lý luận phải dựa trên cơ sở
vận dụng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của nước mình, địa phương mình. Cán bộ,
đảng viên phải chống tư tưởng quan liêu, xa quần chúng, xa thực tế.
Về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, Hồ Chí Minh luôn
đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Người luôn coi sự thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, là
phương châm hành động của những người mácxít. Muốn cách mạng thành công,
8


đòi hỏi những người mácxít phải nắm vững nguyên tắc về sự thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn. Cán bộ, đảng viên cần phải chống tư tưởng tuyệt đối hoá vai trò lý

luận, hạ thấp, coi thường vai trò của thực tiễn dẫn đến xa rời thực tiễn cách mạng, ra
rời quần chúng, giáo điều trong suy nghĩ và hành động. Mặt khác, phải chống tư
tưởng coi thường lý luận, tuyệt đối hoá vai trò kinh nghiệm, dẫn đến lười học lý
luận, yếu kém về lý luận, hành động mò mẫm, tự do, tuỳ tiện.
Để thấy rõ tầm quan trọng về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Người
khẳng định: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin”. Mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng cần phải thấy rõ nguyên tắc
này và xem nó là phương châm hành động của mình. Hồ Chí Minh không những
thấy rõ lý luận phải gắn liền với thực tiễn, phù hợp với thực tiễn, chống lý luận
suông, giáo điều chủ nghĩa, mà còn thấy rõ thực tiễn đòi hỏi phải có nhu cầu hướng
dẫn của lý luận. Người khẳng định: “Thực tế không có lý luận hướng dẫn thì thành
thực tiễn mù quáng”. Thực tiễn không có lý luận soi đường là thực tiễn thiếu định
hướng. Hành động không có lý luận soi đường là hành động mò mẫm, tự do, tuỳ
tiện, xa rời quy luật khách quan. Chính hoạt động thực tiễn xã hội là cơ sở, là mục
đích của nhận thức, của lý luận. Lý luận hình thành lại là kim chỉ nam soi đường
cho hoạt động thực tiễn. Đó là mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn.
Trong hoạt động thực tiễn xã hội, chống tư tưởng coi thường lý luận, “coi khinh lý
luận”, tuyệt đối hoá kinh nghiệm thực tiễn dẫn đến bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa.
Tuyệt đối hoá vai trò lý luận hoặc tuyệt đối hoá vai trò thực tiễn đều là những
khuynh hướng tư tưởng cực đoan sai lầm. Người đòi hỏi cán bộ cách mạng muốn
làm việc tốt phải nắm vững sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, coi đó là nguyên
tắc, là phương châm trong suy nghĩ và hành động của mình.
1.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tiếp thu và vận dụng sáng tạo lý luận
Mác - Lênin, chống chủ nghĩa giáo điều
Để giải quyết tốt mọi nhiệm vụ của cách mạng đặt ra Đảng ta phải nắm vững
nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Hồ
Chí Minh thấy rõ cán bộ, đảng viên của Đảng cần được học tập lý luận, hiểu lý luận
và biết vận dụng lý luận để giải quyết các công việc của cách mạng. Người đã đặt ra
câu hỏi với cán bộ, đảng viên là vì sao phải học tập lý luận. Người cho rằng, một
9



Đảng mạnh là một Đảng phải có lý luận tiền phong hướng dẫn. Đảng ta lấy chủ
nghĩa Mác-Lênin làm kim chỉ nam cho hành động của mình, nên đã lãnh đạo cách
mạng thu được những thắng lợi to lớn và căn bản. Nhưng mặt khác, vì trình độ lý
luận thấp kém, cho nên, đứng trước nhiệm vụ cách mạng ngày càng mới và phức
tạp, trong việc lãnh đạo Đảng ta không khỏi lúng túng, không tránh khỏi sai lầm
khuyết điểm; “Đảng ta còn có nhiều nhược điểm mà một trong những nhược điểm
lớn là trình độ lý luận còn thấp kém”. Vì vậy công tác tổ chức học tập lý luận, nâng
cao trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên là công việc cần thiết và thường xuyên
của Đảng. Đảng ta tổ chức học tập lý luận cho cán bộ, đảng viên là để “nâng cao
trình độ lý luận của Đảng đặng giải quyết sự đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng và
tình hình thực tế của Đảng ta, để Đảng ta có thể làm tốt hơn công tác của mình,
hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ cách mạng vĩ đại của mình”. Muốn thế phải nâng cao
trình độ lý luận chung của Đảng, phải tổ chức học tập lý luận trong Đảng, trước hết
là trong những cán bộ cốt cán của Đảng. Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh: “Lý luận
phải liên hệ với thực tế”. Lý luận rất cần thiết, nhưng học tập, tiếp thu lý luận mà
không liên hệ và vận dụng vào thực tiễn thì không có kết quả. Cán bộ, đảng viên
học tập nâng cao trình độ lý luận là cốt để áp dụng vào thực tế. Khi học tập lý luận
thì nhằm mục đích: “Học để vận dụng chứ không phải học lý luận vì lý luận”.
Người làm cách mạng phải nắm vững lý luận cách mạng để hiểu rõ mọi hoàn cảnh
khó khăn phức tạp, xác định rõ mâu thuẫn nảy sinh và phát triển để giải quyết đúng
đắn các vấn đề cách mạng đặt ra.
Cán bộ, đảng viên tiếp thu và nắm vững lý luận là nắm cái gì? Hồ Chí Minh
chỉ rõ: Học tập chủ nghĩa Mác-Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc,... là
học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin để áp dụng một cách sáng
tạo vào hoàn cảnh thực tế ở nước ta. Tiếp thu lý luận Mác-Lênin là tiếp thu những
nguyên lý, quy luật chung nhất. Từ đó, chúng ta vận dụng, soi sáng vào điều kiện cụ
thể của nước mình. Vì vậy, học tập và vận dụng lý luận Mác-Lênin vào thực tiễn
cách mạng nước ta là tiếp thu và vận dụng một cách sáng tạo trong hoàn cảnh, điều

kiện cụ thể của Việt Nam, phù hợp với đặc điểm riêng của Việt Nam. Hồ Chí Minh
nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “chúng ta phải học tập chủ nghĩa Mác-Lênin để phân
tích và giải quyết các vấn đề cụ thể của cách mạng nước ta, cho hợp với điều kiện
10


đặc biệt của nước ta”. Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết khoa học và cách mạng,
là nền tảng tư tưởng cho Đảng ta làm cách mạng. Nhưng, chủ nghĩa Mác-Lênin
không phải là hệ thống lý luận khép kín, hoàn chỉnh tuyệt đối, mà nó là hệ thống lý
luận mở, luôn được bổ sung và phát triển qua thực tiễn cách mạng sinh động. Người
còn căn dặn cán bộ, đảng viên học tập và tiếp thu lý luận Mác-Lênin là tiếp thu cái
tinh thần chung, nguyên lý chung, phương pháp luận chung để định hướng trong
suy nghĩ và vận dụng vào thực tiễn cho phù hợp với hoàn cảnh đặc biệt của nước ta.
Chống tư tưởng học thuộc lòng câu chữ, sách vở mà không hiểu ý nghĩa, nội dung
các nguyên lý chung, các quy luật chung đó. Người nhắc nhở: “Không phải học để
thuộc lòng từng câu từng chữ, đem kinh nghiệm của các nước anh em áp dụng một
cách máy móc”. Học tập lý luận Mác-Lênin mà chỉ nắm câu chữ, thuộc câu chữ mà
không hiểu sâu sắc nội dung, nguyên lý, quy luật để vận dụng vào thực tế cho phù
hợp đó là bệnh giáo điều sách vở, xa thực tế. Học kinh nghiệm của nước khác, địa
phương khác, ngành khác mà không phân tích, tiếp thu tinh thần chung, đem áp
dụng một cách dập khuôn máy móc, đó cũng là giáo điều. Người kiên quyết phê
phán những cán bộ, đảng viên có tư tưởng lệch lạc trong việc học tập và tiếp thu lý
luận Mác-Lênin. Người phê phán những cán bộ, đảng viên học tập lý luận theo kiểu
học thuộc lòng sách vở, thuộc được nhiều câu, đọc được nhiều sách lý luận rồi cho
mình là giỏi lý luận, kiêu căng, tự mãn. Những người như vậy là giáo điều chủ
nghĩa, xa rời thực tế khách quan. Họ không phải giỏi lý luận mà thực chất là yếu
kém về lý luận, lý luận suông. Do đó, họ thường có biểu hiện lời nói không đi đôi
với việc làm.
Trong bài Đạo đức cách mạng, Người đã chỉ rõ: Có đồng chí thuộc lòng một
số sách vở về chủ nghĩa Mác-Lênin. Họ tự cho mình là hiểu biết chủ nghĩa MácLênin hơn ai hết. Song khi gặp việc thực tế, thì họ hoặc là máy móc, hoặc là lúng

túng. Lời nói và việc làm của họ không nhất trí. Họ học sách vở Mác-Lênin, nhưng
không học tinh thần Mác-Lênin. Học để trang sức, chứ không phải để vận dụng vào
công việc cách mạng. Người đã chỉ rõ những khuyết điểm của cán bộ ta. Người nói:
Từ trước tới nay, Đảng ta đã cố gắng liên hệ chặt chẽ chủ nghĩa Mác-Lênin với thực
tế cách mạng Việt Nam. Cán bộ và đảng viên ta nói chung đều có phẩm chất cách
mạng tốt đẹp. Nhưng chúng ta còn nhiều khuyết điểm như: bệnh chủ quan, chủ
11


nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm... Người mong muốn đào tạo đội ngũ cán
bộ, đảng viên của Đảng từ thế hệ này sang thế hệ khác luôn nắm vững những
nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin về sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn, để vận dụng vào thực tế cách mạng Việt Nam một cách sáng tạo.
Hồ Chí Minh không những là lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta, là nhà văn hóa lớn
mà còn là người có tư tưởng triết học duy vật biện chứng sâu sắc. Người đã vận
dụng sáng tạo và phát triển lý luận Mác-Lênin trong thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa lý luận cách mạng và thực tiễn
vào phong trào cách mạng một cách đúng đắn. Người đã lãnh đạo cách mạng Việt
Nam giành được những thắng lợi to lớn, đưa đất nước ta đi lên con đường chủ nghĩa
xã hội phù hợp với xu thế của thời đại.

12


Chương 2
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ THỐNG NHẤT GIỮA LÝ
LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG CÔNG TÁC LÝ LUẬN
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Tính tất yếu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn trong công tác lý luận

2.1.1. Vận dụng tư tưởng thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm khắc
phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều
Tư tưởng về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn mà Hồ Chí Minh để lại
cho chúng ta như một biện pháp cơ bản nhằm ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh
nghiệm và bệnh giáo điều. Trên trang bìa của tác phẩm “Đường cách mệnh” - cuốn
sách lý luận đầu tiên dùng để huấn luyện cho thanh niên cách mạng nước ta, năm
1927 lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trích ghi luận điểm của V.I.Lênin: “Không có lý luận
cách mệnh thì không có cách mệnh vận động… Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền
phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong” .
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn được Hồ Chí Minh hiểu trên tinh thần
biện chứng: thực tiễn cần tới lý luận soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, hướng dẫn, định
hướng để không mắc phải bệnh kinh nghiệm, còn lý luận phải dựa trên cơ sở thực
tiễn, phản ánh thực tiễn và phải luôn liên hệ với thực tiễn, nếu không sẽ mắc phải
bệnh giáo điều. Nghĩa là thực tiễn, lý luận cần đến nhau, nương tựa vào nhau, hậu
thuẫn, bổ sung cho nhau. Hồ Chí Minh cho rằng, để quán triệt tốt nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm khắc phục bệnh kinh nghiệm thì trước hết cần
khắc phục bệnh kém lý luận, bệnh khinh lý luận. Bởi lẽ, kém lý luận, khinh lý luận
nhất định sẽ dẫn tới bệnh kinh nghiệm. Hơn nữa, không có lý luận thì trong hoạt
động thực tiễn người ta dễ chỉ dựa vào kinh nghiệm, dễ dẫn tới tuyệt đối hóa kinh
nghiệm, cho kinh nghiệm là yếu tố quyết định thành công trong hoạt động thực tiễn.
Nếu không có lý luận hay trình độ lý luận thấp sẽ làm cho bệnh kinh nghiệm thêm
trầm trọng, thêm kéo dài.
Thực tế cho thấy, ở nước ta có không ít cán bộ, đảng viên "chỉ bo bo giữ lấy
kinh nghiệm lẻ tẻ. Họ không hiểu rằng lý luận rất quan trọng cho sự thực hành cách
13


mạng. Vì vậy, họ cứ cắm đầu nhắm mắt mà làm, không hiểu rõ toàn cuộc của cách
mạng". Những cán bộ ấy quên rằng, “kinh nghiệm của họ tuy tốt, nhưng cũng chẳng
qua là từng bộ phận mà thôi, chỉ thiên về một mặt mà thôi. Có kinh nghiệm mà

không có lý luận cũng như một mắt sáng một mắt mờ” . Thực chất là họ không hiểu
vai trò của lý luận đối với thực tiễn. Theo Hồ Chí Minh, lý luận có vai trò hết sức to
lớn đối với thực tiễn, lý luận “như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho
chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà
đi”. Làm mò mẫm chính là biểu hiện của bệnh kinh nghiệm. Kém lý luận, khinh lý
luận không chỉ dẫn tới bệnh kinh nghiệm mà còn dẫn tới bệnh giáo điều. Bởi lẽ, do
kém lý luận, khinh lý luận nên không hiểu thực chất lý luận, chỉ thuộc câu chữ lý
luận và do đó cũng không thể hiểu được bản chất những vấn đề thực tiễn mới nảy
sinh. Do đó, không vận dụng được lý luận vào giải quyết những vấn đề thực tiễn
mới nảy sinh. Nếu có vận dụng thì cũng không sát thực tế không phù hợp với thực
tiễn. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng luôn nhắc nhở rằng, có lý luận rồi thì phải kết
hợp chặt chẽ với kinh nghiệm thực tế, liên hệ với thực tiễn nếu không lại mắc phải
bệnh lý luận suông, tức bệnh giáo điều. Người khẳng định: “Lý luận cũng như cái
tên (hoặc viên đạn).Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn,
hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên”. Như vậy cũng có nghĩa là lý luận
suông, lý luận sách vở thuần túy. “Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý
luận mà không áp dụng vào công việc thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng
ngàn, hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào một
cái hòm đựng sách”. Do đó, khi vận dụng lý luận vào thực tiễn phải xuất phát từ
thực tiễn, nếu không cũng mắc phải bệnh giáo điều. Như vậy, lý luận chỉ có ý nghĩa
đính thực khi được vận dụng vào thực tiễn phục vụ thực tiễn, đóng vai trò soi
đường, dẫn đắt, chỉ đạo thực tiễn. Đồng thời, khi vận dụng lý luận vào thực tiễn thì
phải phù hợp điều kiện thực tiễn. Rõ ràng, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn ở Hồ
Chí Minh phải được hiểu là, thực tiễn - lý luận, lý luận - thực tiễn luôn hòa quyện,
thống nhất với nhau, đòi hỏi nhau, cần đến nhau, tạo tiền đề cho nhau phát triển.
Hồ Chí Minh không để lại những tác phẩm chuyên khảo về sự thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn, nhưng ở nhiều bài viết, bài nói Người luôn luôn đề cập tới
nguyên tắc cơ bản này bằng nhiều cách nói, cách viết, cách diễn đạt khác nhau nhằm
14



giúp cán bộ, đảng và quần chúng nhân dân dễ nhớ, dễ hiểu,dễ vận dụng. Cả cuộc đời
của Người là tấm gương sáng về việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn. Một trong những biểu hiện sinh động ấy là, trong hoạt động cách mạng
Người luôn luôn sâu sát thực tế, gắn bó với cơ sở, gần gũi với nhân dân.
Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, Đảng viên rằng, quán triệt tốt nguyên
tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là góp phần trực tiếp ngăn ngừa, khắc phục
bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Để làm tốt điều này thì một mặt, phải ra sức
học tập, nâng cao trình độ lý luận cũng như chuyên môn nghiệp vụ. Mặt khác, phải
có phương pháp học tập đúng đắn, học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với
thực tế. Nếu không, chưa khắc phục được bệnh kinh nghiệm thì đã mắc phải bệnh
giáo điều, bệnh sách vở. Người chỉ rõ, “Lý luận rất cần thiết, nhưng nếu cách học
tập không đúng thì sẽ không có hiệu quả. Do đó, trong lúc học tập lý luận, chúng ta
cần nhấn mạnh: Lý luận phải liên hệ với thực tế”. Điều quan trọng nữa theo Người
là phải chống giáo điều ngay trong học tập chủ nghĩa Lênin.
Theo Hồ Chí Minh, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là “phải học tinh thần của
chủ nghĩa Mác - Lênin, học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa
Mác-Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho
tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta”. “Học tập chủ nghĩa
Mác- Lênin là học tập cái tinh thần xử lý mọi việc, đối với mọi người và đối với bản
thân mình, là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin để áp dụng
một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm”.
Hồ Chí Minh cũng căn dặn cán bộ, đảng viên “học tập lý luận thì nhằm mục
đích để vận dụng chứ không phải học lý luận vì lý luận, hoặc để tạo cho mình một
cái vốn lý luận để sau này đưa ra mặc cả với Đảng”. Như vậy, học tập chủ nghĩa
Mác-Lênin không phải vì chủ nghĩa Mác-Lênin, cũng không phải vì học tập thuần
túy, càng không phải học tập vì mục đích cá nhân nhằm có cái để mặc cả với tổ
chức. Học tập trước hết là để làm người, rồi mới làm cán bộ và phụng sự Tổ quốc,
nhân dân, giai cấp. Cho nên người cán bộ, đảng viên phải có thái độ học tập đúng
đắn mới có thể khắc phục được bệnh giáo điều trong nghiên cứu, học tập chủ nghĩa

Mác-Lênin. Tư tưởng này của Hồ Chí Minh cho tới nay vẫn giữ nguyên ý nghĩa lý
luận và thực tiễn đối với chúng ta. Người cũng lưu ý rằng, “không nên coi chủ

15


nghĩa Mác-Lênin là kinh thánh, là những công thức có sẵn, cứng nhắc”. Có như vậy
thì việc nghiên cứu, học tập vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin mới có hiệu quả.
Cùng với việc chống giáo điều trong học tập chủ nghĩa Mác-Lênin thì còn
phải chống giáo điều trong vận dụng lý luận cũng như kinh nghiệm của nước khác,
ngành khác. Người căn dặn cán bộ, đảng viên: "Không chú trọng đến đặc điểm của
dân tộc mình trong khi học tập kinh nghiệm của các nước anh em, là sai lầm nghiêm
trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều. Để chống cả hai loại giáo điều này, theo Hồ Chí
Minh thì biện pháp cơ bản là phải gắn lý luận với thực tiễn cách mạng nước nhà.
Học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tiễn cách mạng, khi vận dụng
kinh nghiệm và lý luận phải xuất phát từ thực tiễn nước nhà. Người cũng nhấn
mạnh rằng, cùng với việc chống bệnh giáo điều thì phải đề phòng, ngăn ngừa chủ
nghĩa xét lại. Bởi lẽ, nếu không có quan điểm đúng đắn trong việc quán triệt nguyên
tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn thì người ta dễ nhấn mạnh thái quá những
đặc điểm dân tộc để phủ nhận những giá trị phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin.
"Nhưng nếu quá nhấn mạnh đặc điểm dân tộc để phủ nhận giá trị phổ biến của
những kinh nghiệm lớn, cơ bản của các nước anh em, thì sẽ mắc sai lầm nghiêm
trọng của chủ nghĩa xét lại”. Đồng thời, Người còn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải
biết dùng lý luận đã học được để tổng kết kinh nghiệm thực tiễn nhằm nâng cao
hiệu quả công tác. “… công việc gì bất kỳ thành công hoặc thất bại, chúng ta cần
nghiên cứu cội rễ, phân tách thật rõ ràng rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái chìa khóa
phát triển công việc và để giúp cho cán bộ tiến tới". Người còn nhấn mạnh: “...cần
phải nghiên cứu kinh nghiệm cũ để giúp cho thực hành mới, lại đem thực hành mới
để phát triển kinh nghiệm cũ, làm cho nó đầy đủ dồi dào thêm". Đó chính là quá
trình tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm để bổ sung, hoàn thiện,

phát triển lý luận. Làm được như vậy cũng có nghĩa là làm cho lý luận cần được “bổ
sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động”. Đồng thời, thực
tiễn mới sẽ được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý luận mới. Cứ như vậy, lý luận
luôn được bổ sung, hoàn thiện, phát triển bởi những kết luận mới được rút ra từ
tổng kết thực tiễn. Còn thực tiễn luôn được chỉ đạo, soi đường dẫn dắt bởi lý luận
đã được bổ sung bằng những kinh nghiệm thực tiễn mới. Đây là biểu hiện sinh động
của việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn ở Hồ Chí Minh.
16


“Làm như thế theo Người là tổng kết để làm cho nhận thức của chúng ta đối với các
vấn đề đó được nâng cao hơn và công tác có kết quả hơn".
Qua những nhận định ở trên, chúng ta thấy rằng, để quán triệt tốt nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm
và bệnh giáo điều có hiệu quả thì phải không ngừng học tập lý luận, nâng cao trình
độ lý luận. Khi có lý luận thì phải vận dụng vào thực tiễn, phải biết tổng kết thực
tiễn để làm giàu lý luận bằng những kinh nghiệm thực tiễn mới. Chỉ thông qua quy
trình như vậy thì lý luận mới gắn với thực tiễn, mới không trở thành giáo điều.
Đồng thời thực tiễn mới sẽ được chỉ đạo bồi lý luận sẽ không bị mò mẫm, vấp váp,
hay chệch hướng. Như vậy thì bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều cũng không còn
chỗ đứng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thống nhất giữa lý luận và thực tiễn như một
biện pháp cơ bản để ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều có ý
nghĩa hết sức to lớn hiện nay, khi mà chúng ta đang tìm lời giải đáp cho nhiều vấn
đề thực tiễn đổi mới đặt ra. Bởi lẽ, để tìm lời giải cho những vấn đề đó chúng ta
phải tìm ở cả trong chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như ở chính
thực tiễn đổi mới hiện nay ở nước ta. Nghĩa là phải bằng phương pháp, quan điểm
của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh tổng kết những vấn đề thực tiễn
hôm nay một cách có lý luận.
2.1.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất lý luận và thực
tiễn nhằm giải quyết những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam

Nhằm giải quyết những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam đòi hỏi phải
nhận thức sâu sắc và vận dụng linh hoạt tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn qua những nội dung sau:
Thứ nhất, về vấn đề học tập và vận dụng kinh nghiệm của các nước xã hội
chủ nghĩa khác.
Về vấn đề này Hồ Chí Minh viết: “muốn giải quyết tốt những vấn đề đó,
muốn đỡ bớt mò mẫm, muốn đỡ phạm sai lầm, thì chúng ta phải học tập kinh
nghiệm của các nước anh em và áp dụng những kinh nghiệm đó một cách sáng tạo”.
Người nhấn mạnh tính sáng tạo trong học tập và vận dụng những kinh nghiệm nước
ngoài, bởi “nước ta có những đặc điểm riêng của nước ta”. Nguyên tắc lý luận liên
hệ với thực tế đòi hỏi phải có sự kết hợp biện chứng giữa việc chú trọng đặc điểm
17


riêng của dân tộc với giá trị phổ biến trong kinh nghiệm các nước. Theo Người:
“không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình trong khi học tập kinh nghiệm của
các nước anh em, là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều. Nhưng nếu
quá nhấn mạnh đặc điểm dân tộc để phủ nhận giá trị phổ biến của những kinh
nghiệm lớn, cơ bản của các nước anh em, thì sẽ mắc sai lầm nghiêm trọng của chủ
nghĩa xét lại…Chúng ta phải khắc phục bệnh giáo điều đồng thời phải đề phòng chủ
nghĩa xét lại”. Vì vậy, học tập và vận dụng lý luận Mác-Lênin vào thực tiễn cách
mạng nước ta là tiếp thu và vận dụng một cách sáng tạo trong hoàn cảnh, điều kiện
cụ thể của Việt Nam, phù hợp với đặc điểm riêng của Việt Nam. Hồ Chí Minh nhắc
nhở cán bộ, đảng viên: “chúng ta phải học tập chủ nghĩa Mác-Lênin để phân tích và
giải quyết các vấn đề cụ thể của cách mạng nước ta, cho hợp với điều kiện đặc biệt
của nước ta”.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết khoa học và cách mạng, là nền tảng tư
tưởng cho Đảng ta làm cách mạng. Nhưng, chủ nghĩa Mác-Lênin không phải là hệ
thống lý luận khép kín, hoàn chỉnh tuyệt đối, mà nó là hệ thống lý luận mở, luôn
được bổ sung và phát triển qua thực tiễn cách mạng sinh động. Lý luận Mác-Lênin

cũng không phải là những khuôn mẫu cứng nhắc ở các lĩnh vực cụ thể cho tất cả các
nước và các dân tộc ở các thời đại khác nhau. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh đã nhắc
lại lời dạy của Lênin rằng: Lý luận cách mạng không phải là giáo điều, nó là kim
chỉ nam cho hành động cách mạng; và lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc,
nó đầy tính chất sáng tạo; lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận
mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động.
Người còn căn dặn cán bộ, đảng viên học tập và tiếp thu lý luận Mác-Lênin là
tiếp thu cái tinh thần chung, nguyên lý chung, phương pháp luận chung để định
hướng trong suy nghĩ và vận dụng vào thực tiễn cho phù hợp với hoàn cảnh đặc biệt
của nước ta. Người nhắc nhở: “Không phải học để thuộc lòng từng câu từng chữ, đem
kinh nghiệm của các nước anh em áp dụng một cách máy móc”. Học lý luận MácLênin mà chỉ nắm câu chữ, thuộc câu chữ mà không hiểu sâu sắc nội dung, nguyên
lý, quy luật để vận dụng vào thực tế cho phù hợp, đó là bệnh giáo điều sách vở, xa
thực tế. Học kinh nghiệm của nước khác, địa phương khác, ngành khác mà không
phân tích, tiếp thu tinh thần chung, đem áp dụng một cách dập khuôn máy móc, đó
cũng là giáo điều. Người kiên quyết phê phán những cán bộ, đảng viên có tư tưởng
18


lệch lạc trong việc học tập và tiếp thu lý luận Mác-Lênin. Người phê phán những cán
bộ, đảng viên học tập lý luận theo kiểu học thuộc lòng sách vở, thuộc được nhiều câu,
đọc được nhiều sách lý luận rồi tự cho mình là giỏi lý luận, kiêu căng, tự mãn. Người
mong muốn đào tạo đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng từ thế hệ này sang thế hệ
khác luôn nắm vững những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm
vững nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn,
để vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam một cách sáng tạo.
Thứ hai, về học tập và vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Học tập, vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng
là điều kiện tiên quyết trong việc định hướng xã hội chủ nghĩa cho con đường cách
mạng Việt Nam, đồng thời là phương pháp luận để giải quyết những vấn đề mà
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đặt ra. “Đảng ta nhờ kết hợp được chủ nghĩa

Mác-Lênin với tình hình thực tế của nước ta, cho nên thu được nhiều thắng lợi trong
công tác. Tuy vậy, việc kết hợp chân lý của chủ nghĩa Mác-Lênin và thực tiễn của
cách mạng Việt Nam chưa được hoàn toàn. Có nhiều sai lầm là do sự thiếu kết hợp
đó”. Nhưng có một số vấn đề là học tập, vận dụng lý luận Mác-Lênin như thế nào
cho đúng? Hồ Chí Minh xác định: “lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin là sự tổng kết
kinh nghiệm của phong trào công nhân từ trước đến nay của tất cả các nước”. Như
vậy, trong lý luận đó chứa đựng những giá trị phổ biến đúc rút qua kinh nghiệm xây
dựng chủ nghĩa ở rất nhiều nước. Vì thế, khi vận dụng vào hoàn cảnh một dân tộc
cụ thể, với những đặc điểm riêng của dân tộc đó, và nhất là khi thực tiễn phong trào
cách mạng có những bước phát triển mới thì yêu cầu đặt ra là, “chúng ta phải học
chủ nghĩa Mác-Lênin để phân tích và giải quyết các vấn đề cụ thể của cách mạng
nước ta, cho phù hợp với điều kiện đặc biệt của nước ta. Khi vận dụng thì bổ sung,
làm phong phú thêm lý luận bằng những kết luận mới rút ra trong thực tiễn cách
mạng của ta”. Như thế, tính sáng tạo của lý luận Mác-Lênin và việc học tập lý luận
đó phải xuất phát và nhằm mục đích giải quyết những vấn đề cụ thể của thực tiễn
cách mạng được Người đặc biệt đề cao. Những người học thuộc làu làu những sách
vở của chủ nghĩa mác-Lênin, nhưng trước những công việc cụ thể mà Đảng và nhân
dân giao phó lại lúng túng, máy móc đều là thứ học để trang sức, đều là biểu hiện
của chủ nghĩa cá nhân, không phải là thực sự hiểu biết chủ nghĩa Mác-Lênin. Hồ
Chí Minh thường nhấn mạnh học lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin là học tinh thần
19


Mác-Lênin; tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình,
là học những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin,… Người từng nói một
cách hình ảnh song rất sâu sắc rằng, “hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin tức là cách mạng
phân công cho việc gì, làm chủ tịch nước hay nấu ăn, đều phải làm tròn nhiệm vụ.
Không nên đào tạo ra những con người thuộc sách làu làu, cụ Mác nói thế này, cụ
Lênin nói thế kia, nhưng nhiệm vụ của mình được giao quét nhà lại để nhà đầy rác”;
và “hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc

bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là gọi là hiểu chủ nghĩa
Mác-Lênin được”. Cho nên toàn Đảng, toàn dân phải phát huy hơn nữa tinh thần
cầu học, cầu tiến bộ, đẩy mạnh phong trào học tập lý luận nhằm nâng cao trình độ
lý luận. Hồ Chí Minh cũng luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên quán triệt lời căn dặn
của V.I.Lênin: “Học, học nữa, học mãi” và “Chỉ có thể trở thành người cộng sản khi
biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà
nhân loại đã tạo ra”.
Người cũng luôn căn dặn rằng, để khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa thì
phải học tập lý luận, nâng cao trình độ về mọi mặt, nhưng phải có phương pháp học
tập đúng đắn, hơn nữa học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tiễn,
nếu không, chưa khắc phục được bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa thì lại mắc phải bệnh
giáo điều sách vở: “Lý luận rất cần thiết, nhưng nếu cách học tập không đúng thì sẽ
không có hiệu quả. Do đó, trong lúc học tập lý luận, chúng ta cần nhấn mạnh: Lý
luận phải liên hệ với thực tế”. Điều quan trọng hơn nữa là phải chống giáo điều
ngay trong việc học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, nghĩa là không nên học thuộc lòng
từng câu, từng chữ chủ nghĩa Mác-Lênin. Theo Hồ Chí Minh, học tập lý luận MácLênin tức là “phải học tập tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng phải sáng tạo,
khoa học và biện chứng. Nói theo cách nói của Hồ Chí Minh là phải học “cái tinh
thần xử trí mọi việc đối với mọi người và đối với bản thân mình”. Như vậy là, để
chống giáo điều trong việc học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, chúng ta cần phải nắm
linh hồn của chủ nghĩa Mác-Lênin - tức là học tập phương pháp tư duy biện chứng
duy vật, chứ không đơn thuần là học thuộc lòng những nguyên lý, những khái niệm,
những phạm trù của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Hồ Chí Minh cũng căn dặn chúng ta “học lý luận cốt là để áp dụng vào thực
tế”, “học tập lý luận nhằm mục đích học để vận dụng chứ không phải học lý luận vì
20


lý luận để sau này đưa ra mặc cả với Đảng”. Điều căn dặn này của Người có ý nghĩa
giáo dục hết sức to lớn đối với tất cả chúng ta. Cho nên, chúng ta phải kiên quyết
tẩy trừ cho sạch mọi động cơ và mục đích học tập không đúng đắn. Điều quan trọng

nữa theo Hồ Chí Minh là: “khi vận dụng thì bổ sung, làm phong phú thêm lý luận
bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn cách mạng của ta”.
Chúng ta thấy, để đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm khắc
phục và ngăn ngừa có hiệu quả bệnh giáo điều, sách vở cũng như bệnh kinh nghiệm
chủ nghĩa thì phải tăng cường học tập lý luận, nâng cao trình độ lý luận. Khi có lý
luận thì phải vận dụng vào thực tiễn, phải biết làm phong phú thêm lý luận bằng
những kinh nghiệm thực tiễn mới. Như vậy, bệnh giáo điều, sách vở, cũng như bệnh
kinh nghiệm chủ nghĩa sẽ không còn chỗ đứng.
Thứ ba, về việc giảng dạy, học tập lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin trong
nhà trường.
Mặc dù việc học tập lý luận, theo Hồ Chí Minh, có thể rất phong phú về mặt
cách thức thực hiện như học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau,…nhưng việc
học tập trong nhà trường là một cách thức phổ biến, rất quan trọng và cần được chú
ý, nhất là khi chúng ta đã nắm được chính quyền. Khi nói về việc dạy và học lý luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin trong nhà trường, Người nhấn mạnh đến phương pháp
giảng dạy lý luận và phải quán triệt nguyên tắc lý luận liên hệ với thực tế. Người
phê phán cách giảng dạy thụ động, một chiều, thuần tuý sách vở. Người viết: “chỉ
đem lý luận khô khan nhét cho đầy óc họ. Rồi bày cho họ viết những chương trình,
những hiệu triệu rất kêu. Nhưng đối với việc thực tế, tuyên truyền, vân động, tổ
chức, kinh nghiệm chỉ nói qua loa mà thôi. Thế là lý luận suông, vô ích”. Người đã
nêu một cách tích cực: “Trong lúc học lý luận, phải nghiên cứu công việc thực tế,
kinh nghiệm thực tế. Lúc học rồi họ có thể tự mình tìm ra phương hướng chính trị
có thể làm những công việc thực tế, có thể trở nên người tổ chức và lãnh đạo. Thế là
lý luận thiết thực, có ích”. Rõ ràng, đây là cách dạy mà người học được tiếp xúc với
thực tế, thông qua giải quyết những vấn đề thực tế mà hình thành nên lý luận. Họ
không chỉ tiếp thu được lý luận với tính cách là những sản phẩm của tư duy lý luận,
mà quan trọng hơn, tiếp thu được lý luận với tính cách là một hoạt động tư duy, và
do vậy mà họ tự mình đạt đến những tri thức lý luận. Cách dạy này vừa rèn luyện
cho họ tác phong liên hệ lý luận với thực tế, vừa cung cấp cho họ công cụ - phương
21



pháp để họ có thể thể hiện phong cách đó trong quá trình hoạt động thực tiễn sau
khi ra trường. Chính vì thế tài liệu học tập, ngoài những sách vở của chủ nghĩa
Mác-Lênin, còn cần nghiên cứu những kinh nghiệm thực tế, nghiên cứu những Chỉ
thị, Nghị quyết, luật pháp lệnh của Đảng và Nhà nước. Hồ Chí Minh còn nêu ra một
số nguyên tắc trong giảng dạy lý luận. Đó là: Cốt thiết thực, chu đáo hơn tham
nhiều; từ dưới lên trên; gắn liền lý luận với công tác thực tế; nhắm đúng nhu cầu;
chú trọng việc cải tạo tư tưởng.
Nói đến việc vận dụng nguyên tắc lý luận liên hệ với thực tế trong nhà
trường, cả về phía người dạy và người học, Hồ Chí Minh đã có những chỉ dẫn cụ
thể. Trước hết, “phải liên hệ lý luận với thực tế công tác và tư tưởng của mình, để tự
cải tạo mình, nâng cao sự tu dưỡng của mình về lập trường, quan điểm và phương
pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin”. Tiếp đó “cần liên hệ với những vấn đề thực tế ở
trong nước và trên thế giới, những vấn đề và nhiệm vụ cách mạng hiện nay đề ra
cho đảng ta, đem lý luận học được tìm xem đường lối và phương pháp giải quyết
các vấn đề đó như thế nào cho đúng; hoặc phân tích các kinh nghiệm công tác đã
qua của Đảng và tìm nguyên nhân của những thành công và thất bại của Đảng. Như
thế sẽ giúp cho việc củng cố lập trường, nâng cao quan điểm và phương pháp của
mình”. Tuy nhiên, Người cũng lưu ý rằng cần tránh việc đòi hỏi một cách lệch lạc
rằng trong lúc học tập phải giải quyết tất cả mọi vấn đề thực tế. Thực tế của cách
mạng, giải quyết các vấn đề thực tế ấy là một quá trình lâu dài của toàn Đảng “ở
nhà trường chỉ có thể đặt cơ sở cho việc liên hệ với thực tế mà thôi”.
Hồ Chí Minh đã đưa ra một nguyên tắc rất quan trọng trong nghiên cứu học
tập lý luận nói chung và lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin nói riêng là lý luận gắn với
thực tiễn và đó cũng chính là nguyên tắc mà bản thân Người luôn áp dụng. Hiện nay,
chúng ta đang đẩy mạnh phương pháp giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ
Chí Minh trong xã hội nói chung, trong nhà trường nói riêng, và để đảm bảo hiệu quả
của công tác lý luận, việc quán triệt nguyên tắc lý luận gắn với thực tế theo tư tưởng
Hồ Chí Minh vẫn là một nguyên tắc cơ bản, một yêu cầu hết sức quan trọng.

2.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn vào công tác lý luận ở nước ta thời gian qua
2.2.1. Những kết quả đạt được

22


Từ cuối những năm 70 đầu những năm 80 của thế kỷ XX, đặc biệt từ Đại hội
VI (năm 1986) của Đảng đến nay, đã có những tiến bộ rất đáng kể trong công tác lý
luận. Đó là những bước tiến theo hướng đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội
và về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, khắc phục chủ nghĩa giáo
điều, bệnh chủ quan duy ý chí, gắn lý luận với thực tiễn đất nước, đặc điểm dân tộc
và với những đặc điểm của thế giới trong giai đoạn hiện nay.
Chuyển động đầu tiên trong đổi mới tư duy lý luận được đánh dấu bằng Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (1979), một nghị quyết được mọi người nhớ
rõ và thường nhắc đến với cái tên nôm na mà đúng thực chất: “nghị quyết làm cho
sản xuất bung ra”. Đây được coi là bước đột phá đầu tiên của quá trình đổi mới ở
nước ta. Nghị quyết Đại hội V của Đảng (1982) ghi thêm một bước tiến mới về tư
duy lý luận, nhất là trên vấn đề cơ cấu kinh tế, coi nông nghiệp là mặt trận hàng
đầu. Hội nghị Trung ương 8 khóa V (1985) đã đánh dấu bước đột phá thứ hai của
quá trình đổi mới đất nước với quan điểm quan trọng là đã thừa nhận sản xuất hàng
hóa và những quy luật của sản xuất hàng hóa.
Với Đại hội VI của Đảng (1986) thì bước ngoặt căn bản đã được thực hiện.
Đại hội VI đi vào lịch sử là “Đại hội đổi mới” - đổi mới toàn diện đời sống và hoạt
động xã hội với bước đi thích hợp. Đại hội đặc biệt nhấn mạnh phải lấy đổi mới tư
duy lý luận làm tiền đề, trước hết là đổi mới tư duy về kinh tế; phải nắm vững quy
luật khách quan, lấy dân làm gốc. Đi nhanh vào cuộc sống, tư duy mới của Đại hội
VI chẳng những được thực tiễn chứng minh hoàn toàn đúng, mà còn được cụ thể
hóa, phát triển, làm sâu sắc và nâng cao thêm bằng những kinh nghiệm mới, trên cơ
sở đó hình thành những đường nét lớn xác định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã

hội ở nước ta và điều này được phản ánh tập trung trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội đến năm 2000 được thông qua tại Đại hội VII của Đảng. Những
nhận thức đã đạt tới cho đến Đại hội VII đánh dấu một nấc thang quan trọng trên
chặng đường dài tìm tòi, thể nghiệm và sáng tạo lý luận của Đảng ta. Trong nỗ lực
trí tuệ chung của toàn Đảng, có phần đóng góp xứng đáng của đội ngũ cán bộ lý
luận và khoa học xã hội.

23


Được cổ vũ và chỉ đạo bởi tư duy mới của Đại hội VI, nhiều cán bộ lý luận
và khoa học xã hội hăng hái thâm nhập cuộc sống, đi vào những vấn đề lý luận và
thực tiễn gai góc, tham gia tích cực quá trình đổi mới tư duy, luận chứng khoa học
cho đường lối đổi mới, kết hợp ngày càng chặt chẽ với các cơ quan chỉ đạo thực tiễn
trong việc chuẩn bị và đề ra các chính sách. Đời sống tư tưởng - lý luận ở nước ta từ
đó rõ ràng có bước khởi sắc.
Đại hội XI (2011) đã kiểm điểm 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội X, nhìn
lại 10 năm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, 20 năm thực
hiện cương lĩnh năm 1991. Đại hội XI nhận xét trong công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng đã được tăng cường và đạt một số kết quả tích cực, trong đó phải kể đến
những thành tựu của công tác lý luận: “Công tác lý luận đã chủ động nghiên cứu
nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của công cuộc đổi mới, diễn biến mới của tình
hình thế giới; giá trị khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; tập trung vào tổng kết và bổ sung, phát triển Cương lĩnh, xây dựng Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2011–2020 và các văn kiện khác trình Đại hội XI của
Đảng”. Như vậy, Đại hội XI của Đảng đã nhấn mạnh vấn đề quan trọng trước hết là
phải tiếp tục đổi mới tư duy, nâng cao trí tuệ của Đảng lên một bước phát triển mới.
Hơn lúc nào hết, muốn lãnh đạo công cuộc đổi mới đi đến thắng lợi, Đảng ta phải
nâng cao trình độ hiểu biết và năng lực tổ chức thực tiễn, từ việc phát hiện và nắm

vững quy luật vận động của đời sống xã hội ta, của bản thân Đảng, cho đến hiểu
biết về thế giới, về thời đại. Đảng làm giàu trí tệ của mình bằng cách không ngừng
nâng cao trình độ lý luận, nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời không ngừng tổng kết kinh nghiệm
thực tiễn sinh động. Phát triển công tác lý luận của Đảng bằng cách tổng kết thực
tiễn, tổng kết những cái mới đang nảy sinh trong đời sống đất nước và cả thế giới,
tiếp thu những thành quả trí tuệ của loài người, đó là phương hướng cơ bản để làm
giàu trí tuệ của Đảng, để hoàn chỉnh và phát triển đường lối của Đảng.
2.2.2. Những vấn đề đặt ra trong công tác lý luận ở nước ta hiện nay
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác lý luận ở nước ta còn có
những hạn chế bất cập nhất định. Sự phát triển của lý luận chưa đáp ứng kịp so với
những đòi hỏi của thực tiễn sinh động. Điều dễ thấy là số lượng tạp chí lý luận, số
công trình nghiên cứu của cá nhân và các tập thể khoa học không ít, song rất ít công
24


trình có “trọng lượng” khoa học lớn, gây được tiếng vang. Rất ít công trình “dài
hơi”, nghiên cứu một vấn đề thật chi tiết, đến nơi đến chốn. Điều đó nói lên trình độ
khoa học của chúng ta còn hạn chế, các nhà khoa học có tầm cỡ rất ít, tiềm lực lý
luận của chúng ta nói chung còn mỏng. Mỏng đến nỗi có vấn đề khi người này nói
thì người khác hầu như không thể nói gì hơn; có trường hợp cần đấu tranh, phê phán
thì chỉ được mấy bài là “hết vốn”. Trên nhiều vấn đề, sự phê phán cái cũ đã quá đủ
song những đề xuất và kiến giải mới lại quá ít. Trước đây, có ý kiến cho rằng Đảng
không sử dụng đội ngũ cán bộ lý luận vào quá trình chuẩn bị các chính sách, nhưng
mấy năm nay rất nhiều đơn đặt hàng xã hội được Đảng và các cơ quan thực tiễn gửi
đến các cơ quan khoa học và các nhà khoa học, song rất tiếc, sự đáp ứng của chúng
ta xem ra khá chật vật. Đó là một bằng chứng về sự bất cập của đội ngũ lý luận,
không thể nói khác.
Về tổng kết thực tiễn, chúng ta mới làm được quá ít. Chưa có sự quan tâm
đúng mức từ phía các cấp ủy đảng và lãnh đạo các ngành thực tiễn cũng như từ phía

các cơ quan lý luận. Những việc có làm thì trình độ phân tích, tổng hợp và khái quát
chưa cao, chưa đạt mức có thể từ tổng kết đưa ra được những dự báo cần thiết về
các quá trình phát triển và các đề xuất các giải pháp xác đáng. Cụ thể như trong lĩnh
vực kinh tế, chưa hình thành được một khung lý luận vững chắc về thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên nhiều khi chưa tôn trọng đầy đủ và
nhất quán những nguyên tắc của kinh tế thị trường trong xây dựng, vận hành và xử
lý các vấn đề của nền kinh tế. Chưa xác định rõ và tạo được sự nhất trí cao về
những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là
về tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ nhận thức về mặt lý luận còn hạn chế nên
dẫn tới thực tiễn còn nhiều bất cập. Đó là, “Tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều
rộng dựa vào tăng đầu tư, khai thác tài nguyên; các cân đối vĩ mô chưa vững chắc.
Công nghiệp chế tạo, chế biến phát triển chậm, gia công, lắp ráp còn chiếm tỉ trọng
lớn. Cơ cấu kinh tế giữa các ngành, lĩnh vực chuyển dịch theo hướng tích cực
nhưng còn chậm. Cơ cấu trong nội bộ từng ngành cũng chưa thật hợp lý. Năng suất
lao động xã hội thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Năng lực cạnh tranh
quốc gia chậm được cải thiện”. Đây là một minh chứng điển hình trong nhiều vấn
đề còn đang gặp phải những hạn chế về nhận thức.

25


×