Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Biện pháp rèn kỹ năng sống cơ bản cho học sinh lớp 4 trường TH thành minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.48 KB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GD&ĐT HUYỆN THẠCH THÀNH

SÁNG KIẾN KINH NGHIÊM

BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG SỐNG CƠ BẢN CHO
HỌC SINH LỚP 4 TRƯỜNG TIỂU HỌC THÀNH MINH

Người thực hiện : Vũ Thị Nguyệt
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường tiểu học Thành Minh
SKKN: Thuộc lĩnh vực giáo viên chủ nhiệm

THANH HÓA NĂM 2017

1


MỤC LỤC:
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9


Nội dung
Mục lục
1. Mở đầu
1.1.Lí do chọn đề tài
1.2.Mục đích nghiên cứu
1.3.Đối tượng
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2.Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh

Trang
1
2
2
2
2
2
2
2
4

10
11
12

nghiệm
2.3.Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
2.3.1.Nhận thức ban đầu về KNS của các đối tượng tham gia
2.3.2.Cụ thể hóa nội dung từng kĩ năng sống vào trong mỗi bài


7
7
8

13

học.
2.3.3.Rèn KNS qua việc trải nghiệm qua các hoạt động ngoài

14

14

giờ lên lớp.
2.3.4.Tạo môi trường thuận lợi để học sinh có nhiều cơ hội rèn

15

15

luyện kĩ năng sống đã học
2.3.5.Tạo hứng khởi cho học sinh với những hình thức khen

16

16

thưởng phù hợp,kịp thời động viên khích lệ các em
2.3.6. Tổ chức một số buổi nói chuyện về chuyên đề “ Giáo dục


17

17

KNS cho học sinh lớp 4”
2.3.7. Phối hợp với phụ huynh để cùng rèn luyện KNS cho cá

17

18
19

em
2.4. Hiệu quả khi thực hiện
3. Kết luận kiến nghị:

17
19

1. Mở đầu:
1.1. Lí do chọn đề tài:
Trong xã hội hiện nay kĩ năng sống là một trong những kĩ năng tối cần
thiết của mỗi con người nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội. thực tế hiện nay trẻ
em thiếu những kĩ năng cơ bản còn nhiều, đặc biệt là trẻ em ở lứa tuổi tiểu học.
Trong trường học việc rèn kĩ năng sống cho học sinh hiện nay cũng đã và đang
được chú trọng nhưng chưa có nhiều chuyển biến. Nguyên nhân chính ở đây là
trong tư tưởng của mỗi giáo viên, mỗi phụ huynh còn nặng nề về trang bị tri
thức cho các em. Việc rèn kĩ năng sống cho trẻ còn qua loa, chiếu lệ. Giáo viên
và phụ huynh chỉ chú trọng đến việc làm sao để các em học tốt, tính toán thành


2


thạo, chữ viết sạch đẹp, viết văn hay mà quên đi rằng những kiến thức, kĩ năng
về thực tế cuộc sống hằng ngày cũng không kém phần quan trọng để hình thành
nên một nhân cách hoàn chỉnh.
Như chúng ta đã biết, giáo dục kĩ năng sống hiện nay là yêu cầu cấp thiết
đối với thế hệ trẻ bởi vì: Các em chính là những chủ nhân tương lai của đất
nước, là những người sẽ quyết định sự phát triển của đất nước. Nếu không có kĩ
năng sống các em sẽ không thể thực hiện tốt trách nhiệm đối với bản thân, gia
đình cộng đồng và đất nước. Lứa tuổi học sinh là những lứa tuổi đang hình
thành những giá trị nhân cách giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám
phá những cái mới. Song, các em còn thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn thiếu
kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động, .... Đặc biệt là trong bối cảnh hiện
nay, đất nước ta đang đi vào hội nhập quốc tế, cơ chế thị trường mở rộng. Vì vậy
thế hệ trẻ thường xuyên chịu những tác động đan xen của những yếu tố tích cực
và tiêu cực, luôn được đặt vào những hoàn cảnh phải lựa chọn, phải đương đầu
với những khó khăn, thách thức. Nếu không được giáo dục kĩ năng sống một
cách kĩ càng cẩn thận các em dễ bị lôi kéo vào những hành vi tiêu cực, bạo lực,
vào lối sống ích kỉ, lai căng, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách.
Một trong các nguyên nhân dẫn đến hiện tượng tiêu cực của một bộ phận học
sinh trong thời gian qua như: Nghiện hút, bạo lực học đường, ăn chơi xa
đọa,...Chính bởi lẽ các em thiếu kĩ năng sống cần thiết như: kĩ năng xác định giá
trị bản thân, kĩ năng từ chối, kĩ năng kiên định, kĩ năng giải quyết mâu thuẫn, kĩ
năng thương lượng, kĩ năng giao tiếp,....
Đối với học sinh trường Tiểu học Thành Minh thì kĩ năng sống của các
em còn quá ít ỏi. Đa số các em còn rụt rè, chưa tự tin khi giao tiếp. Các em ít có
điều kiện để tiếp xúc với môi trườn bên ngoài vì vậy kĩ năng của các em không
được hình thành nếu không được giáo dục kịp thời thì khi ra xã hội hiện nay các

em sẽ ngợp và lúng túng trước các tình huống mang tính nhạy cảm.
Năm học 2016-2017, tôi được giao chủ nhiệm lớp 4B. Sau khi tiếp cận
lớp một thời gian tôi nhận thấy học sinh lớp 4B kỹ năng sống còn rất nhiều hạn
chế so với học sinh cùng trang lứa ở các trường thành phố hay ở vùng trung tâm
huyện. Một số học sinh chưa biết kỹ năng đơn giản tối thiểu nhất trong cuộc
sống như thiếu kỹ năng giao tiếp, không có thói quen chào hỏi hoặc nói câu chào
hỏi chưa phù hợp trong các tình huống cụ thể; không tự tin trong giao tiếp nói
năng cộc lốc, thậm chí có em còn e dè không dám nói hoặc không biết nói lời
xin lỗi khi các em làm sai. Còn có học sinh nói tục, chửi bậy, cử chỉ, hành vi
thiếu văn hóa…
Vì vậy, việc giáo dục kĩ năng sống cho các em sẽ giúp các em rèn luyện
hành vi có trách nhiệm với bản thân, gia đình, cộng đồng và tổ quốc, giúp các
em có khả năng ứng phó tích cực trước tình huống của cuộc sống, xây dựng mối
quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người, sống tích cực, chủ động, tự
tin, hài hòa và lành mạnh hơn. Bản thân tôi thấy rõ sự cần thiết của việc rèn
luyện kĩ năng sống cho các em học sinh, đặc biệt là học sinh tiểu học, vì đây là
bước khởi đầu, là nền móng của các bậc học tiếp theo. Vì lẽ đó, tôi đã dày công
nghiên cứu và tìm ra cho mình “Một số biện pháp rèn kĩ năng sống cơ bản

3


cho học sinh lớp 4 trường Tiểu học Thành Minh ” nhăm nâng cao kĩ năng
sống cho các em học sinh toàn trường nói chung và học sinh lớp 4B nói riêng.
1.2.Mục đích nghiên cứu:
- Sáng kiến kinh nghiệm đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao trình
độ ,năng lực cho bản thân và làm quen với công tác nghiên cứu khoa học.
- Bản thân tôi nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm này mong muốn thực hiện
tốt việc dạy và giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua các môn học và
các hoạt động ngoại khóa trong trường tiểu học. Tìm hiểu cơ sở lí luận và pháp

lý của đề tài: phân tích, đối chiếu với thực trạng của nhà trường trong thời điểm
hiện tại để qua đó tìm ra các biện pháp,giải pháp mới hiệu quả hơn cho các hoạt
động .Góp phần năng cao chất lượng đào tạo nói chung và làm tốt công tác giáo
dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 4 nói riêng. Đạt hiệu quả cao trong phong
trào “ Xây dựng trường học thân thiện,học sinh tích cực”
- Đạt được các mục tiêu của giáo dục, đã được định hướng:
Học để biết; Học để làm; Học để chung sống cùng nhau và học để làm người.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Nghiên cứu và tổ chức việc nâng cao kĩ năng sống cho bản thân mỗi giáo viên
từ việc nắm rõ, nắm chắc các phương pháp, cách thức tổ chức để từ đó giúp học
sinh rèn kĩ năng sống.
- Nâng cao hiểu biết cũng như các kĩ năng sống cơ bản cho 30 học sinh lớp 4B
trường tiểu học Thành Minh.
1.4.Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp thống kê và xử lí số liệu.
- Phương pháp thực nghiệm.
2.Nội dung sáng kiến kinh nghiệm:
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Chất lượng giáo dục là cái tạo nên phẩm chất giá trị của một con người.
Chương trình GDKNS phù hợp và KNS được coi như một nội dung của chất
lượng giáo dục. Hoạt động GDKNS thông qua HĐ GDNGLL trong trường Tiểu
học là hoạt động mang tính chất pháp chế được quy định:
- Tổ chức một số hoạt động ngoài giờ lên lớp.[7]
- Quản lí hoạt động giáo dục kỹ năng sống và hoạt động giáo dục ngoài giờ
chính khóa.[8]
- Kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho học sinh năm học 2016-2017[11]
Đây là căn cứ để xây dựng kế hoạch GDKNS thông qua HĐ GDNGLL
theo tháng và theo chủ điểm.
Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ, đáp ứng được

nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp
ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ
thông đã và đang đổi mới mạnh mẽ để giáo dục theo cách tiếp cận kĩ năng sống
đó là: Học để biết, học để chung sống, học để tự khẳng định mình. Mục tiêu giáo
dục phổ thông đã và đang chuyển sang trang bị những năng lực cần thiết cho
các em học sinh. Phương pháp cũng đã và đang được đổi mới theo hướng phát
huy tính tích cực, chủ động, tự giác, sáng tạo của người học, phù hợp với đặc

4


điểm của từng lớp học, tăng cường khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm đem lại niềm vui,
hứng thú trong học tập...Đặc biệt, rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh được xác
định là một trong những nội dung cơ bản của phong trào thi đua “Trường học
thân thiện, học sinh tích cực.”
Kĩ năng sống là một trong những kĩ năng tối cần thiết của mỗi con người
nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội. Thực tế hiện nay trẻ em thiếu những kĩ năng
cơ bản còn nhiều, đặc biệt là trẻ em ở lứa tuổi tiểu học.
Kĩ năng sống rất đa dạng và mang đặc trưng của vùng miền. Việc sử dụng
phương pháp và kĩ thuật dạy học cũng rất đa dạng, tùy thuộc vào hoàn cảnh,
điều kiện dạy học cụ thể. Vì vậy, mỗi người giáo viên cần vận dụng linh hoạt,
sáng tạo cho phù hợp với nhu cầu, trình độ học sinh và đặc điểm của địa phương
mình đang giảng dạy. Xuất phát từ những cơ sở trên, để đáp ứng được với điều
kiện và hoàn cảnh của xã hội hiện đại của thời kì hội nhập hiện nay thì việc rèn
kĩ năng sống cho học sinh là việc làm tất yếu. Muốn làm được điều đó chúng ta
phải biết nguyên nhân, thực trạng của vấn đề để từ đó tìm ra cách thức và một số
biện pháp tốt nhất cho cả một quá trình rèn kĩ năng sống cho học sinh.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến:
a.Thực trạng xã Thành Minh:

*Ưu điểm:
Ban lãnh đạo xã và các thôn rất quan tâm đến giáo dục của xã nhà. Luôn tạo
mọi điều kiện để đưa lĩnh vực giáo dục lên một tầm cao mới.Trong năm 2017 đã
khởi công để xây dượng cơ sở vật chất chuẩn bị điền kiện cho công tác xây dựng
trường chuẩn quốc gia cấp độ 1, tạo điều kiện cho nâng cao chất lượng giáo dục
cho xã Thành Minh.
*Nhược điểm:
Thành Minh vốn là một xã 135: Điều kiện kinh tế còn gặp nhiều khó khăn,
dân số đông nhất huyện. Trong đó người dân tộc thiểu số chiếm 2/3 số dân trong
xã. Địa bàn rộng, địa hình hiểm trở đi lại khó khăn, một số thôn các em đi học
phải đi qua khe suối. Số dân làm nông nghiệp chiếm 97%
Trình độ dân trí chưa cao, nạn rượu chè, cờ bạc, số đề vẫn còn tồn tại. Kinh
tế gặp nhiều khó khăn nên ảnh hưởng rất lớn đến việc học tập của các em.
Người dân còn có nhiều gia đình có tư tưởng “trọng nam khinh nữ ” vì vậy số
con trong mỗi gia đình đông ( 3-4 hoặc 5-6 con) đặc biệt là những thôn người
dân tộc thiểu số. Đông con nên không có điều kiện quan tâm đến việc học hành
của con, mọi vấn đề đều phó mặc cho thầy cô. Nhiều gia đình còn phải tha
hương kiếm ăn bỏ mặc con ở nhà chăm lấy nhau, dân trí thấp ảnh hưởng rất
nhiều đến chất lượng giáo dục.
Từ những thực trạng đó dẫn đến việc tiếp cận kĩ năng sống của học sinh rất
hạn chế. Các mối quan hệ chỉ bó hẹp trong thôn xóm, làng xã, ít khi có dịp tiếp
xúc với môi trường rộng và phức tạp hơn vì vậy việc hình thành kĩ năng sống là
hết sức khó khăn.
b.Thực trạng trường lớp:
Năm học 2016-2017, nhà trường có 14 lớp với 374 học sinh

5


• Thuận lợi:

- Được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo địa phương tạo mọi điều kiện
thuận lợi để nâng cao chất lượng giáo dục.
- Ban giám hiệu nhà trường đã có kế hoạch cụ thể vạch ra nhiệm vụ cho tất
cả giáo viên trong toàn trường về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh nhằm nâng
cao kĩ năng sống cho các em thông qua cac tiết học và các hoạt động tập thể.
-Về học sinh: Nhiều em ngoan ngoãn ít có những biểu hiện tiêu cực.
-Về Giáo viên: Giáo viên còn trẻ, tâm huyết với nghề. Là giáo viên địa
phương nên có thuân lợi khi tiếp cân với phụ huynh và học sinh. Có hiểu biết cơ
bản về cuộc sống và phong tục ở địa phương. Có hiểu biết rộng về kĩ năng sống,
có nhiều cách thức và hình thức tổ chức các hoạt động hình thành kĩ năng sống
cho trẻ.
• Khó khăn:
- Đa số các em là con em dân tộc Mường ( Chỉ có 3/16 thôn người Kinh) nên
kĩ năng sống còn rất hạn chế.
- Do ảnh hưởng từ các phong tục, tập quán của địa phương nên lối sống, nếp
suy nghĩ của người dân còn lạc hậu cũng ảnh hưởng đến kỹ năng sống của các
em.
- Nhận thức về các kĩ năng sống đối với trẻ còn mơ hồ.
c. Thực trạng kỹ năng sống của học sinh lớp 4B trường Tiểu học thành
Minh:
Năm học 2016-2017, tôi được phân công chủ nhiệm và dạy học sinh lớp 4B
Tổng số học sinh : 30 em .
Trong đó:
+ Học sinh nam: 11
+ học sinh nữ : 19
+ Học sinh người dân tộc: 21
+ Học sinh có khó khăn: - Hộ Nghèo: 11 - Cận Nghèo: 5
Đầu năm học, sau khi nhận lớp, làm công tác chủ nhiệm tiếp xúc nhiều với
các em trong học tập, trong sinh hoạt, quan tâm để ý quan sát mọi hoạt động của
các em, tôi thấy rằng kỹ năng sống của các em còn rất nhiều hạn chế so với học

sinh cùng trang lứa ở các trường thành phố hay ở vùng trung tâm huyện. Một số
học sinh chưa biết kỹ năng đơn giản tối thiểu nhất trong cuộc sống như thiếu kỹ
năng giao tiếp, không có thói quen chào hỏi hoặc nói câu chào hỏi chưa phù hợp
trong các tình huống cụ thể; không tự tin trong giao tiếp nói năng cộc lốc, thậm
chí có em còn e dè không dám nói hoặc không biết nói lời xin lỗi khi các em làm
sai. Còn có học sinh nói tục, chửi bậy, cử chỉ, hành vi thiếu văn hóa. Khá nhiều
học sinh chưa biết tự vệ sinh cá nhân, chưa biết cách tự bảo vệ mình; chưa biết
tự phục vụ bản thân, cũng như việc phòng tránh tai nạn thương tích…
- Nhiều em chưa biết làm những công việc phù hợp với lứa tuổi như quét lớp,
dọn vệ sinh...thiếu ý thức tập thể, chấp hành kỷ luật kém, chưa thực hiện nghiêm
túc nội quy, quy định của nhà trường, các quy định nơi công cộng, nói chưa đi
đôi với việc làm.

6


Tôi làm khảo sát với một số kỹ năng cơ bản cần thiết các em thể hiện
hằng ngày như sau:
Tổng số

Biếtchào tự
tin Biết phòng
Biết
Phòng
trước
tránh bị
học sinh hỏi
tránh tai nạn phòng
đám
lễ phép

tránh tai xâm hại
30 em
giao
thông
đông
nạn đuối
nước

Biết yêu
lao động
và làm
công
việc vừa
sức

số lượng

15

10

10

6

15

10

Tỉ lệ


50

33,3

33,3

19,98

50%

33,3

Qua khảo sát thì tôi thấy học sinh chưa có các kĩ năng thiết yếu để giải quyết
vấn đề trong cuộc sống của các em dẫn đến các thực trạng trên:
Nguyên nhân khách quan: Do điều kiện sống ở nông thôn miền núi không
gian rộng, các em tiếp xúc nhiều với thiên nhiên, nên nhận thức cảm tính của các
em phát triển khá tốt. Tuy nhiên môi trường giao tiếp lại không rộng; đối tượng
giao tiếp của các em bó hẹp trong phạm vi gia đình, làng bản ít va chạm bên
ngoài.
Nguyên nhân chủ quan:
-Vì điều kiện thời gian học sinh ở trường ít, học sinh lớp 4 học 6 buổi/ tuần, chủ
yếu dạy kiến thức các bộ môn còn dạy kỹ năng sống chỉ lồng ghép trong các tiết
học đặc biệt là tiết học đạo đức, ngoài ra cũng đã đã bố trí tiết học riêng 2tiết/
tháng và tổ chức hoạt động ngoài giờ để dạy và rèn dạy kỹ năng sống cho trẻ.
Tuy vậy cũng chưa có điều kiện giám sát các hành vi của các em trong các hoạt
động ngoài nhà trường, chính vì thế kỹ năng sống của các em còn nhiều hạn chế.
- Về phía gia đình: Các gia đình hiện nay phần lớn chỉ mải mê với làm ăn kinh
tế, mới chỉ quan tâm tới việc ăn ngủ của trẻ, ít quan tâm dạy cho trẻ các kỹ năng
trong cuộc sống. Mặt khác, lại có những gia đình quá chiều con để phát triển tự

nhiên theo ý thích, sống tự do, không dạy cho con cách giao tiếp nói năng,
không dạy làm những công việc đơn giản vừa sức.
Biết được thực trạng kỹ năng sống của học sinh lớp là như vậy nên trong
quá trình dạy học, tôi đã tìm biện pháp giáo dục cần rèn luyện kỹ năng sống cho
học sinh và thấy có kết quả tốt sau đây tôi xin chia sẻ cách làm. Thấy được thực
trạng trên với những nguyên nhân như vậy, muốn cho trường, lớp thực hiện tốt
phong trào “Trường học thân thiện học sinh tích cực”. Để học sinh của lớp mình
có những kĩ năng sống tốt hơn trong cuộc sống, tôi mạnh dạn đưa ra một số giải
pháp cụ thể và sát với dối tượng học sinh lớp 4B trường Tiểu học Thành Minh
như sau:
2.3.Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
2.3.1. Nhận thức ban đầu về kĩ năng sống của các đối tượng tham gia quá
trình giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho trẻ tiểu học.

7


2.3.1.1. Đối với giáo viên: Bản thân tôi nhận thấy kĩ năng sống rất cần thiết
trong cuộc sống hằng ngày cần phải rèn luyện cho học sinh có được những kĩ
năng cơ bản và cần thiết. Điều này là hết sức quan trọng và cấp bách hiện nay
đòi hởi mỗi người giáo viên cần quan tâm. Để dạy được những kĩ năng sống cơ
bản, cần thiết cho học sinh, ngay từ đầu năm học tôi đã tự học hỏi, nghiên cứu
về các chuyên đề giáo dục kĩ năng sống cho học sinh từ lớp 1 đến lớp 5. Nắm
bát những lí luận và phương pháp then chốt của chuyên đề để vận dụng cho sát
với thực tế. Sau khi nắm bắt được thực trạng và giải pháp của trường mình
trong việc rèn kĩ năng sống tôi càng hiểu thấu đáo hơn chương trình học chính
khóa thường cho tre tiếp xúc từ từ với các kiến thức văn hóa suốt cả năm học.
Còn trong thực tế trẻ sẽ học tốt hơn khi được tiếp cận một các cân bằng khi các
em có những kĩ năng cần thiết lúc ấy trẻ sẽ dễ dàng hơn cho quá trình lĩnh hội
tri thức .

2.3.1.2. Đối với học sinh: Học sinh còn bé, nhận thức về mọi vấn đề đang còn
đơn giản. Các em chưa hiểu biết sâu sắc được làm tầm quan trọng của kĩ năng
sống trong cuộc sống hiện nay. Vì vậy, qua các tiết học, giờ sinh hoạt tôi dần
giúp các em hiểu rõ hơn về kĩ năng sống, về mục đích của việc rèn luyện Kĩ
năng sống cho các em. Từ đó các em hiểu biết và yêu thích về môn học.
2.3.1.3. Đối với phụ huynh: Phần lớn phụ huynh còn trẻ, đang phải đi làm để
ổn định kinh tế vì vậy họ đều giao phó con cái cho ông bà chăm sóc. Đa số họ
đều nhận thức về giáo dục kĩ năng sống cho con cái còn hết sức mơ hồ.
Xuất phát từ thực trạng trên, ngay sau khi nhận lớp, tôi đã tiến hành họp
phụ huynh để trao đổi về vấn đề ngoài việc nâng cao tri thức cho học sinh mà
còn phải chú trọng đến giáo dục kĩ năng sống cho các em, để các em hòa nhập
với cộng đồng. Trong cuộc họp tôi đã đưa ra các thực trạng về đạo đức cũng
như tình hình phức tạp hiện nay; nghiện ngập tràn lan, nạn xâm hại trẻ em, đánh
nhau, chơi game…Từ đó nâng cao nhận thức và ý thức cảnh giác cho các bậc
phụ huynh về tầm quan trọng và sự cấp thiết trong cuộc sống cần có kĩ năng
sống để các em phải biết đối mặt chứ không phải tránh né. Mong muốn phối
hợp chặt chẽ giữa gia đình - giáo viên - nhà trường và các đoàn thể trong và
ngoài nhà trường để góp phần hoàn thiện nhân cách của trê, để trẻ có đầy đủ các
kĩ năng sống sơ giản và cần thiết ngay từ khi là học sinh tiểu học.
2.3.2.Cụ thể hóa nội dung từng kĩ năng sống vào trong mỗi bài học,
mỗi hoạt động học:
Trong chương trình tiểu học các kĩ năng sống được lồng ghép trong các
môn học như: Tiếng Việt, Đạo đức, TNXH ( lớp 1,2,3), Khoa học ( lớp 4,5)Mĩ
thuật, thể dục, Âm nhạc. Bản thân tôi là giáo viên văn hóa đang trực tiếp dạy lớp
4 nên tôi chỉ tìm hiểu sâu vào các môn văn hóa đó là các môn Tiếng Việt, Đạo
đức, Khoa học. Tuy rằng việc lồng ghép đã được xác định nhưng khi vận dụng
thì bản thân mỗi người lại có những biện pháp dạy và các hình thức vận dụng
khác nhau để phù hợp với đối tượng giáo dục của mình từ đó rèn cho học sinh
các nhóm kĩ năng sống như:
1. Nhóm các kỹ năng nhận biết và sống với chính mình.

2. Nhóm các kỹ năng nhận biết và sống với người khác.
3. Nhóm kỹ năng nhận biết và chấp hành các quy định chung.

8


4. Nhóm các kỹ năng ra quyết định một cách có hiệu quả.
Qua quá trình tìm tòi, suy nghĩ tôi đã ứng dụng vào từng môn học của
mình trong các hoạt động học cụ thể thông qua một số ví dụ minh họa sau đây:
2.3.2.1. Môn Tiếng Việt:
Việc giáo dục kĩ năng sống trong môn Tiếng Việt ở tiểu học giúp các em
nhận biết được những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống. Biết tự tin nhìn nhận, đánh
giá đúng về bản thân để tự tin, tự trọng và không ngừng vươn lên trong cuộc
sống. Biết ứng xử phù hợp trong các mối quan hệ với người thân,cộng đồng, với
môi trường tự nhiên. Biết sống tích cực trong mọi điều kiện, hoàn cảnh…
Tiếng Việt lớp 4: Việc thực hiện kĩ năng sống được thực hiện ở tất cả các
phân môn. Được khai thác trong nội dung các hoạt động dạy học.
Ví dụ : Khi dạy bài “Thư thăm bạn” ( TV4 tuần 3)[12]
Sau khi học bài này học sinh có những kĩ năng sau:
- Có kĩ năng thể hiện sự cảm thông sâu sắc với nỗi đau của bạn từ đó có được
những hành động thiết thực giúp bạn, động viên bạn vượt qua sự mất mát đau
thương.(§o¹n 2)
- Học sinh tự liên hệ với bản thân, bạn bè và người thân.
- Kĩ năng giao tiếp bằng văn bản.
- Kĩ năng thuyết trình tự tin.
Sau khi tìm hiểu nội dung thông qua các câu hỏi trong sách giáo khoa. Tôi
đã đặt thêm các câu hỏi phụ để cho học sinh tự do bày tỏ ý kiến.
-Những lời nói của bạn Lương sẽ giúp bạn Hồng cảm thấy thế nào? Em hãy
nói một câu để thể hiện sự sẻ chia và cảm thông của em với bạn Hồng ?
-Hiện nay, hằng năm đất nước ta đang phải gánh chịu biết bao nhiêu cơn bão

gây thiệt hại về người và tài sản cho con người. Nơi chúng ta đang ở rất ít phải
hứng chịu điều đó, vậy em đã từng làm gì để giảm bớt đi phần nào sự mất mát
đau thương qua mỗi mùa bão? Sau bài học tôi đều gợi ý để các em có thể tự nhìn
thấy những phẩm chất, lối sống và các hành vi của tích cực của mình để từ đó
dần hình thành kĩ năng sống cho các em thông qua mỗi bài học.
Như vậy qua mỗi tiết học chúng ta đều có thể giáo dục cho các em một kĩ
năng sống cơ bản nào đó một cách rất tự nhiên, dần hình thành cho các em một
chuỗi kĩ năng được vận dụng hằng ngày trong cuộc sống gần gũi và thân thuộc
với các em.
2.3.2.2. Môn Đạo đức:
Đây là một môn học được dạy từ lớp 1 đến lớp 5. Môn học này nhằm giáo
dục học sinh bước đầu biết cách sống và ứng xử phù hợp với các chuẩn mực xã
hội. Dạy đạo đức kết hợp hài hòa giữa việc trang bị kiến thức với bồi dưỡng tình
cảm, niềm tin và hình thành kĩ năng, hành vi cho học sinh.
Chương trình môn đạo đức bao gồm một hệ thống các chuẩn mực hành vi
đạo đức và pháp luật cơ bản, phù hợp với lứa tuổi học sinh tiểu học trong các
mối quan hệ của các em với bản thân, với người khác, với công việc, với cộng
đồng, đất nước, nhân loại và với môi trường tự nhiên. Bản thân nội dung môn
đạo đức đã chứa đựng nhiều nội dung liên quan đến kĩ năng sống như: kĩ năng
giao tiếp, ứng xử với ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè, thầy cô giáo và mọi
người xung quanh. Kĩ năng bày tỏ ý kiến của bản thân, kĩ năng ra quyết định và

9


giải quyết vấn đề phù hợp với lứa tuổi (Trong các tình huống cụ thể), kĩ năng
giữ gìn vệ sinh cá nhân, kĩ năng tự phục vụ và tự quản lí thời gian, kĩ năng thu
thập và xử lí thông tin từ các vấn đề trong thực tiễn dời sống ở nhà trường, ở
cộng đồng có liên quan đến chuẩn mực hành vi đạo đức. Trong quá trình dạy
môn đạo đức thì phương pháp đặc trưng để biến các hành vi, chuẩn mực đó trở

thành tình cảm, niềm tin, hành vi, thói quen của các em chúng ta phải là người tổ
chức cho học sinh thực hiện các hoạt động phong phú, đa dạng như: kể chuyện
theo tranh, quan sát tranh ảnh, tiểu phẩm, trò chơi đóng tiểu phẩm, múa hát, đọc
thơ, vẽ tranh, tô màu tranh,....Qua các hoạt động đó sự tương tác giữa giáo viên học sinh, học sinh- học sinh được tăng cường. Học sinh từ đó mà chiếm lĩnh các
tri thức mới một các tự nhiên.
Do đặc trưng môn học nên môn đạo đức là môn học có tiềm năng to lớn
trong việc giáo dục kĩ năng sống. Việc giáo dục kĩ năng sống trong môn đạo
đức nhằm bước đầu trang bị cho học sinh kĩ năng sống cần thiết, phù hợp với
lứa tuổi tiểu học, giúp các em biết sống và ứng xử phù hợp trong các mối quan
hệ với những người thân trong gia đình, với thầy cô giáo, bạn bè và những người
xung quanh,...Giúp các em biết sống tích cực, chủ động, có mục đích , có kế
hoạch, tự trọng, tự tin, có kỉ luật, biết hợp tác, giản dị, tiết kiệm, gọn gàng, ngăn
nắp, giữ vệ sinh,...để trở thành con ngoan của gia đình, học sinh tích cực của nhà
trường và là một công dân tốt của xã hội.
Ví dụ 1 : Bài “Vượt khó trong học tập ” ( Đạo đức 4 )[12]
Sau khi học bài này, các em hiểu được những biểu hiện của sự vượt khó
trong học tập thông qua các tấm gương có thật trong sách báo cũng như trong
thực tế trong lớp, trong trường. Giáo dục kĩ năng tự vượt khó vươn lên trong học
tập.
Đọc chuyện : Một học sinh nghèo vượt khó.
- Thảo đã gặp những khó khăn gì? Thảo khắc phục như thế nào ? Cuối cùng kết
quả học tập ra sao?
- Trước những khó khăn trong học tập, Thảo có chịu bó tay không?
- Nếu bạn Thảo không khắc phục được khó khăn chuyện gì sẽ xảy ra?
- Trong cuộc sống chúng ta đều có những khó khăn riêng, khi gặp khó khăn
trong học tập, ta nên làm gì?
- Khắc phục khó khăn trong học tập có tác dụng gì ?
- Khi gặp khó khăn trong học tập, cách giải quyết nào là tốt, cách giải quyết nào
chưa tốt ? Giải thích vì sao lại chưa tốt ?
Liên hệ với bản thân:

Học sinh thảo luận nhóm đôi: Một bạn nêu khó khăn rồi cả hai cùng tìm biện
pháp khắc phục.
Thông qua bài học các em sẽ có kĩ năng tháo gỡ những khó khăn trong học
tập. Biết giúp đỡ lẫn nhau khi gặp khó khăn. Biết phải giúp bạn ở mức độ nào
,không giải hộ bài cho bạn.
Ví dụ 2 : Bài “ Tiết kiệm tiền của ” ( Đạo đức lớp 4 )[12]
Ở tiết 1 sau khi học song, HS nắm được:
- Nêu được ví dụ về tiết kiệm tiền của.Biết được ích lợi của tiết kiệm tiền
của. Biết được vì sao phải tiết kiệm tiền của. Rèn kĩ năng biết chi tiêu phù hợp.

10


Khi dạy sang tiết 2 thì học sinh phải biết sử dụng quần áo, sách vở, điện ,
nước,... một cách tiết kiệm. Biết nhắc nhở bạn bè và những người thân biết cách
tiết kiệm tiền của.
- Trong học tập em làm gì để không lãng phí tiền của ?
- Khi đi mua đồ sinh hoạt hằng ngày, các em nên mua như thế nào ?
- Đối với các đồ dùng của mình và gia đình thì các em sử dụng như thế nào
để tiết kiệm tiền của?
- Ăn quà vặt có phải là tiết kiệm không ? vì sao ?
Tổ chức cho học sinh chơi trò chơi: Đi chợ, hội chợ để các em được trải
nghiệm qua thực tế từ đó có những cách thích ứng tốt nhất trong mọi hoàn cảnh.
Giúp các emcó kĩ biết sống giản dị, tiết kiệm một cách đúng mực.
2.3.2.3 Dạy kỹ năng tích hợp trong Môn khoa học:
Như ta đã biết ở môn Tự nhiên xã hội ở các lớp 1,2,3 là một môn học giúp
học sinh có một số kiến thức cơ bản ban đầu về con người và sức khỏe, về một
số sự vật hiện tượng đơn giản trong Tự nhiên xã hội…Môn khoa học lớp 4,5 là ở
mức độ hiểu biết các kiến thức khoa học ở mức cao hơn về con người và sức
khỏe, về tự nhiên, con người với thế giới tự nhiên. Chú trọng nhiều đến việc

hình thành và phát triển các kĩ năng như: quan sát, dự đoán, tìm kiếm thông tin,
phân tích, so sánh để giải đáp thức mắc,... Đặc biệt chú trọng đến kĩ năng vận
dụng kiến thức để ứng xử trong cuộc sống giúp các em nắm vững các kiến thức
khoa học. Vận dụng các kĩ năng trên để ứng phó phù hợp trong thực tiễn cuộc
sống. Tự giác thực hiện các quy tắc vệ sinh chăm sóc sức khỏe bản thân, gia
đình và cộng đồng. Vì vậy cần dạy kỹ năng cho các em thông qua các bài học
khoa học.
Ví dụ 1: Khi dạy bài phòng tránh tai nạn đuối nước.[12]
- HĐ1: Những việc nên làm và không nên làm để tránh tai nạn sông nước
Tổ chức cho học sinh thảo luận cặp đôi theo các câu hỏi sau:
Câu 1: Hãy mô tả những gì em nhìn thấy ở hình 1,2,3 Theo em việc nào nên
làm và không nên làm ? Vì sao?
Câu 2: Theo em, chúng ta phải làm gì để phòng tránh tai nạn sông nước ?
- 3 nhóm trình bày ý kiến .
- Nhóm khác nhận xét, bổ sung.
- GV kết luận nội dung từng tranh.
- HĐ2: Những điều cần biết khi đi bơi hoặc tập bơi:
- Tổ chức cho các em thảo luận nhóm 4 trong thời gian 3 phút để trả lời các
câu hỏi sau:
Câu 1: Hình minh họa cho em biết điều gì ? ( Các bạn đang bơi ở biển)
Câu 2: Theo em nên tập bơi và đi bơi ở đâu ? ( Tập bơi hặc đi bơi ở bể bơi
nơi có người và các phương tiện cứu hộ )
Câu 3: Nếu ở vùng nông thôn không có bể bơi thì ta nên tập bơi và đi bơi ở
đâu? Em nên đi một mình hay đi với ai cho đảm bảo an toàn ?( Bơi ở những
vùng nước sạch, không quá sâu. Phải đi với những người biết bơi và là người
lớn.)
Câu 4: Trước khi xuống bơi ta cần làm gì ?( Trước khi đi bơi cần vận động
các bài tập để cơ thể được hoạt động tránh bị chuột rút )

11



Câu 5: Sau khi tập bơi hặc bơi xong, em cần phải làm gì ? ( Tắm lại bằng
nước sạch và xà phòng tắm, dốc và lau hết nước rmang tai, mũi.)
- Các nhóm trình bày- nhận xét- bổ sung.
- GV kết luận như mục bạn cần biết.
- GV kết luận: Các em nên bơi ở những nơi có đầy đủ phương tiện cứu hộ.
nếu không có bể bơi thì phải đi với những người lớn biết bơi. Không bơi khi quá
no, hay mới hoạt động mệt mỏi, ra nhiều mồ hôi dễ bị cảm. Khi đi qua những
nơi có nước chảy thì cần phải có nhiều người đi cùng, hoặc phải có người lớn
dẫn qua.
GV tổ chức cho học sinh thảo luận xử lí tình huống theo cách riêng của mỗi
nhóm, sau đó các nhóm nhận xét, bổ sung. Từ các cách xử lí tình huống để giáo
dục các em kĩ năng phòng tránh tai nạn đuối nước để tự bảo vệ mình và mọi
người.
Ví dụ 2 : Phòng tránh bị xâm hại[12]
Hoạt động 1 : Học sinh quan sát tranh để nắm được các nguy cơ bị xâm hại
như: Đi một mình nơi tối tăm, vắng vẻ, ở trong phòng kín một mình với người
lạ, bị người khác có hành vi gây khó chịu với bản thân, đi xe với người lạ, nhận
quà có giá trị từ người lạ...Từ đó các em biết cách ứng phó với các nguy cơ bị
xâm hại qua việc tự mình trải nghiệm qua vai diễn của mình và các bạn trong
lớp thông qua các tình huống.
Tôi thực hiện chia lớp thành 6 nhóm và yêu cầu học sinh tự lựa chọn cho
mình một tình huống có nguy cơ bị xâm hại đã liệt kê và tìm cách thoát khỏi
nguy cơ bị xâm hại của nhóm mình
Từng nhóm lên thể hiện tình huống.
Thảo luận cả lớp để tìm ra nhiều cách ứng xử phù hợp, khéo léo, sau đó giáo
viên ghi nhanh lên bảng những cách ứng xử hay.
- Tìm cách tránh xa kẻ đó.
- Đứng dậy, lùi xa để kẻ đó không chạm được vào người. Nói với kẻ đó

dừng ngay lại nếu không tôi sẽ báo với người lớn ( với nét mặt nghiêm
nghị )
- Bỏ đi ra khỏi chỗ đó.
- Kể với những người tin cậy để được giúp đỡ kịp thời.
- Khéo léo tìm lí do để ra ngoài .
Qua việc thảo luận và đóng vai đó các em sẽ rèn được cho mình kĩ năng ứng
phó linh hoạt những nguy cơ bị xâm hại.
Ngoài những môn học trên chúng ta còn có thể lồng ghép trong những môn
khác như: Âm nhạc, Mĩ thuật, kĩ thuật, thủ công.Tuy vậy, để tổ chức dạy lồng
ghép giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh đòi hỏi người giáo viên phải biết
vận dụng tri thức, kĩ năng nghiệp vụ một cách hợp lí, đồng thời đưa ra áp dụng
là hoàn toàn có cơ sở khoa học và phù hợp với thực tế giảng dạy hiện nay
2.3.2.4. Dạy kĩ năng sống trong tiết kĩ năng sống :
Ngoài nhưngx kĩ năng sống được dạy lồng ghép trong các môn học khác thì
nay đã có hẳn tiết kĩ năng sống riêng biệt để dạy các em một cách rõ ràng, cụ
thể.Trong một tháng tôi có 2 tiết kĩ năng sống, được dạy theo các chủ đề. Trong
chương trình lớp 4 có 7 chủ đề sau:

12


Mỗi một chủ đề tôi chia ra thành 2-3 tiết tùy theo số lượng bài tập tình
huống.
Ví dụ khi dạy chủ đề 2: Kĩ năng giao tiếp với bạn bè và mọi người.
Thông qua các bài tập tình huống để giúp học sinh biết ứng xử phù hợp với
những tình huống trong giao tiếp trong cuộc sống. Biết giao tiếp phù hợp với
từng đối tượng, biết cách giao tiếp lịch sự bàng lời nói, hiểu những tín hiệu giao
tiêp bằng ngôn ngữ hình thể, biết chia sẻ với người khác.
Hoạt động 1: Đóng vai
Tổ chức cho hoc sinh đọc tình huống, thảo luận trong nhóm 3 về nội dung

tình huống và cách tự phân vai để xử lí tình huông trong thời gian 5 phút.
- 2 nhóm học sinh lên trình bày.
- Nhận xét nhóm bạn
- Tổ chức cho học sinh dự doán kết quả của cuộc nói chuyện của 3 bạn
trong tình huống vừa rồi.
- Giáo viên kết luận: Trong khi chúng ta trò chuyện với nhau thì người nói
phải có người nghe, nếu đều nói thì không ai nghe cả và không trò chuyện được.
Bởi vậy không được tranh lời cướp lời, cướp lời. Chêm vào khi người khác nói.
Đó cũng chính là giữ lịch sự khi giao tiếp .
Hoạt động 2: Truyền tin bí mật.
- GV cho học sinh đọc phần hướng dẫn chơi
- GV hướng dẫn lại cách chơi một lần nữa.
- Tổ chức cho học sinh chơi theo 3 tổ. cho học sinh nhận xét làm thế nào để
truyền tin được chính xá? Người truyền tin phải làm gì? Người nhận tin phải làm
gì?
- Giáo viên kết luận: Trong khi trao đổi thông tin thì ta phải truyền tin chính
xác và chú ý lắng nghe khi người khác nói.
Hoạt động 3: Bày tỏ ý kiến.
- Tổ chức cho học sinh bày tỏ ý kiến về những việc nên làm và những việc
không nên làm. Giải thích vì sao?
- Giáo viên khẳng định: Những việc nên làm là : Ý 1, 2, 3, 5, 6, 12
Hoạt động 4: Giao tiếp không lời
- GV tổ chức cho học sinh quan sát tranh và thảo luận để dự đoán tâm trạng
của người trong tranh.
- HS trình bày ý kiến của bản thân.
- GV kết luận: tranh 1: giận dữ, tranh 2: buồn, tranh3: đau khổ, tranh 4: vui
mừng.
- ?Theo em việc hiểu được tâm trạng của người khác qua ngôn ngữ hình thể
có quan trọng không? Vì sao?
- ? Điều gì sẽ xảy ra nếu các em không cảm nhận được tâm trạng hoặc cảm

nhận saitaam trangjcuar người khác?
- Giáo viên kết luận: Trong cuộc sống các em khi trò chuyện với người khác
phải biết quan sát và cảm nhận đúng tâm trạng cuả người khác như thế nào để có
cách ứng xử phù hợp và lịch sự nhất.

13


Từ bài học tôi đã hướng dẫn để các em hình thành kĩ năng giao tiếp phù
hợp với thực tế. Biết quan sát và cảm nhận tâm trạng của đối tượng khi giao tiếp
từ đó có cách ứng xử thể hiện được sự chia sẻ của mình.
Ví dụ khi dạy chủ đề 5: Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ khi gặp khó khăn.
- Ở tiết học này học sinh hiểu tìm kiếm địa chỉ tin cậy để nhờ giúp đỡ là rất
cần thiết. Học sinh có kĩ năng ứng xử phù hợp khi để nhờ giúp khi gặp khó
khăn. Rèn kĩ năng tìm kiếm địa chỉ tin cậy phù hợp với từng tình huống.
Hoạt động 1: Khởi động
- Gv đặt ra vấn đề? Khi có nguy cơ bị xâm hại các em sẽ ứng xử như thế nào?
- Giáo viên nêu mục tiêu tiết học.
Hoạt động 2: Tìm địa chỉ tin cậy
Trên mỗi ngón tay hãy ghi tên người mà các em tin cậy, sẵn sàng giúp đỡ
các em trong những lúc khó khăn.
Em hãy chia sẻ “bàn tay tin cậy” của mình với bạn bên cạnh.
Giáo viên tổ chức cho các em chia sẻ với cả lớp bàn tay tin cậy.
? Người đó sẽ giúp em như thế nào? Những ai là người đáng tin cậy? Vì sao?
? Tìm kiếm sự hỗ trợ có lợi gì ?
Hoạt động 3: Lựa chọn địa chỉ tin cậy
Giáo viên tổ chức cho các em đọc bài tập 2 thảo luận trong nhóm 4 để lựa
chọn đúng địa chỉ tin cậy phù hợp nhất với tình huống?
Đại diện nhóm báo cáo kết quả ?
(Tình huống 1: Thầy cô, bố mẹ; Tình huống 2: Thầy cô, bố mẹ; Tình huống 3:

Thầy cô, bố mẹ, chú , bác, công an.)
Giáo viên khẳng định: Việc tìm kiếm hỗ trợ, giúp đỡ là hết sức cần thiết.
những địa chỉ đáng tin cậy nhất là: bố mẹ, thầy cô giáo, các chú công an. Khi
gặp khó khăn các em phải biết tìm cách để tìm kiếm sự hỗ trợ kịp thời và nhanh
nhất có thể để tránh sự nguy hiểm cho bản thân.
Hoạt động 4: Ứng xử phù hợp
Giáo viên tổ chức cho học sinh thể hiện lựa chọn mặt đỏ và không lựa chọ mặt
xanh lần lượt các ý trong bài tập 4 và giải thích vì sao?
Giáo viên khẳng định: Ý 1, 2, 4, 6 là đúng.
?Khi nhờ người khác giúp đỡ mình, các em cần phải cư xử như thế nào cho
đúng ?
? Khi các em có nguy cơ bị xâm hại tình dục các em phải làm gì ?
Giáo viên kết luận: Khi trẻ em bị ngược đãi, hành hạ, bóc lột sức lao động hoặc
có nguy cơ bị quấy rối, xâm hại tình dục thì các em phải chủ động tìm kiếm sự
giúp đỡ nếu không vấn đề sẽ có thể nghiêm trọng hơn. Khi nhờ người khác giúp
đỡ phải cư xử lễ phép, tự tin, trình bày khó khăn một cách rõ ràng, ngắn gọn và
không nên nản chí nếu bị từ chối mà tiếp tục tìm kiếm các địa chỉ khác
Thông qua cá tiết học kĩ năng sống, tôi đã trực tiếp giúp cac em nhìn thấy
những kĩ năng cần thiết cho bản thân mình cần có. Từ đó các em nhận thức được
tầm quan trọng của kĩ năng sống trong sinh hoạt hằng ngày và từ đó các em tự
rèn luyện, các kĩ năng sống đó.
2.3.3. Rèn kĩ năng sống qua việc trải nghiệm qua các hoạt động ngoài giờ
lên lớp với phương châm “Học mà chơi- Chơi mà học”.

14


Việc rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh trong và ngoài nhà trường, ngoài
dạy lồng ghép trong các môn học hằng ngày. Hoạt động ngoài giờ lên lớp là con
đường rèn luyện hiệu quả và sát thực nhất bởi lẽ hoạt động ngoài giờ lên lớp

giúp học sinh bổ sung kiến thức, củng cố và hoàn thiện tri thức đã được học trên
lớp, giúp các em có những hiểu biết mới, những tri thức học sinh thu được trong
giờ học là tri thức cơ bản nhất, hiện đại nhất . Nếu không được củng cố thì nó
khó có thể duy trì lâu bền. Vì vậy Hoạt động ngoài giờ lên lớp sẽ giúp học sinh
củng cố và tăng cường hiểu biết về tự nhiên xã hội, về con người.Từ các hoạt
động tập thể này các em thực sự có môi trường trải nghiệm và được trải
nghiệm một cách tự nhiên các kĩ năng cần thiết đó. Chính vì thế ngoài việc xây
dựng các quy tắc ứng xử hóa trong nhà trường bằng nhiều hình thức khác nhau,
nhà trường đã tổ chức những buổi hoạt động ngoại khóa như: Giáo dục môi
trường thông qua vẽ tranh cổ động. Giao lưu Tiếng Việt với chúng em, thắp sáng
ước mơ, nét đẹp tuổi hoa, trò chơi dân gian, thi kể chuyện Bác Hồ.Thi làm đèn
lồng và bày cỗ trung thu, thi rung chuông vàng, tìm hiểu an toàn giao thông, tìm
hiểu về Đội…(Được minh họa trong phần phụ lục)
Đối vói người giáo viên chủ nhiệm phải thực sự là người mẹ hiền thứ hai
để lắng nghe, thấu hiểu, cởi mở và chia sẻ cùng các em. Dạy bảo các em những
phẩm chất tốt đẹp. Thầy cô luôn là tấm gương sáng cho các em noi theo như khi
đi vào trường tôi luôn nở nụ cười trên môi và chào hỏi phụ huynh cũng như học
sinh để các em bắt chước và làm theo dần dần thành kĩ năng.Thường xuyên thay
đổi các hình thức sinh hoạt lớp, luân phiên cho các em làm lớp trưởng, lớp phó,
tổ trưởng, tổ phó trong một năm học để nâng cao tính mạnh dạn, khả năng tự
quản của các em.Trong các hoạt động của nhà trường tổ chức tôi động viên
khích lệ các em tích cực tham gia, mạnh giạn trả lời các câu hỏi trước đông
người để rèn kĩ năng trình bày trước đám đông, tự tin hơn. Ngoài ra trong các
tiết sinh hoạt tôi thường tổ chức cho các em thi hùng biện về những vấn đề gần
gũi với các em như: làm thế nào để học giỏi, làm thế nào để tự tin khi giao
tiếp… từ đó nhẹ nhàng đưa các kĩ năng cơ bản vào cuộc sống cho các em. Ngoài
ra tôi còn dựng hoạt cảnh vui trong 15 phút đầu giờ cho các diễn viên nhí sắm
vai để tất cả các em bộc lộ năng khiếu của bản thân…
Giáo dục về thái độ của học sinh đây là một nhiệm vụ hết sức khó khăn
nhưng vô cùng quan trọng đối với học sinh tiểu học. Mọi thái độ đúng đắn với

ông bà, cha mẹ, người thân, quê hương đất nước… đều phải được giáo dục ngay
từ lứa tuổi tiểu học. Chính vì vậy mà hoạt động ngoài giờ lên lớp phải tạo mọi
điều kiện để bồi dưỡng thái độ tích cực của các em đối với bản thân, đối với
cộng đồng. Phối hợp và phát huy vai trò của chi Đội tổ chức tốt việc kiểm tra
đánh giá xếp loại nề nếp, học tập và hoạt động trong tuần qua, nên thay đổi một
cách sáng tạo như để các em trực tiếp đánh giá thay vì giáo viên trực đánh giá
nhằm nâng cao tính chủ động và tinh thần trách nhiệm của các em cán sự, đội cờ
đỏ giúp các em rèn kĩ năng giao tiếp, diễn đạt và thu thập thông tin....chi Đội
thường xuyên phát động các phong trào thi đua rèn kỹ năng sống cho các bạn
trong lớp, tuỳ theo chủ điểm hàng tháng để phát động phong trào. Trong phát
động phải theo dõi, nhắc nhở, chấn chỉnh, có nêu gương tốt, tuyên dương kịp
thời. Đội viên thực hiện tốt hàng tuần, hàng tháng và có đánh giá chung vào cuối

15


kỳ I và cuối năm học và được biểu dương khen thưởng. Tổ chức cho học sinh
chơi các trò chơi dân gian, hát dân ca và các loại hình sinh hoạt văn hóa dân
gian, qua đó mà rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh.Tôi đã mạnh dạn đưa ra
một số hoạt động cụ thể như sau:
-Tổ chức cho giáo viên và học sinh làm vệ sinh khu nghĩ trang liệt sĩ của xã
vào ngày 27 hàng tháng
-Thăm hỏi động viên các gia đình thương binh liệt sĩ, gia đình có công với
cách mạng vào các ngày lễ lớn : 2/9; 22/12; 30/4; 27/7 để từ đó giáo dục truyền
thống uống nước nhớ nguồn, nhằm định hướng cho suy nghĩ và lối sống lành
mạnh cho trẻ.
- Quên góp quỹ vì bạn nghèo , áo ấm tặng bạn vào dịp tết nguyên đán.
-Mua tăm, tặng sách cho thư viện, ủng hộ đồng bào bị thiên tai, ủng hộ
người khuyết tật … nhằm giúp các em có kĩ năng cảm thông ,chia sẻ.
- Tổ chức tuyên truyền giáo dục chấp hành luật giao thông đường bộ, phòng

tránh tai nạn giao thông, tai nạn đuối nước… từ đó giáo dục kĩ năng chấp hành
pháp luật, sống có quy tắc, có trách nhiệm với bản thân, với gia đình và xã hội.
( Có hình ảnh minh họa ở phần phụ lục)
Ngoài ra tôi còn tổ chức cho các em cùng tham gia xây dựng trường lớp
xanh – sạch- đẹp – an toàn. Trong đó chú trọng đến việc tạo môi trường tự nhiên
, gần gũi với cuộc sống của các em . Cho các em tham gia vào các công việc như
: Trồng hoa, chăm sóc bồn hoa, cây cảnh, chăm sóc vườn cây thuốc nam, don
vệ sinh trường lớp bảo vệ môi trường... Để học sinh vừa được học, vừa được
chơi, tạo cho trẻ một tâm thế thoải mái, phấn khới. Để các em coi “ Mỗi ngày
đến trường là một ngày vui”.
Bên cạnh đó tôi còn phối hợp chặt chẽ với gia đình, các tổ chức xã hội
trong và ngoài nhà trường để cùng góp phần rèn luyện kĩ năng sống cho các
em.Từ những hoạt động thiết thực đó giáo dục cho các em có kĩ năng phối hợp
khi tham gia chơi các trò chơi tập thể, có lòng nhân ái, chia sẻ khi tham gia
quyên góp để thắp lên cho các bạn học sinh nghèo ước mơ được học hành và trở
thành người công dân có ích cho xã hội. Các em có kĩ năng tự tin trước đông
người và kĩ năng lao động vừa sức.
2.3. 4.Tạo môi trường thuận lợi để học sinh có nhiều cơ hội rèn luyện kĩ
năng sống đã học được.
Để học sinh thực sự thành thạo những kĩ năng đã học trên lớp thì cần phải
có một môi trường hoạt động tốt. Môi trường đó phải đảm bảo ở đó học sinh
được thoải mái, tự tin thực hiện các hoạt động của mình, được tôn trọng , được
bày tỏ ý kiến, nguyện vọng của mình, được nghe, được làm và xem người khác
cùng làm với đầy đủ các điều kiện hỗ trợ. Môi trường đó gồm cả hai môi trường
là môi trường vật chất và môi trường tinh thần ở Trong nhà trường , gia đình và
xã hội. Là một người giáo viên chủ nhiêm, tôi luôn tạo ra cho các em một môi
trường tốt nhất giúp các em thể hiện hết mình, có nhiều cơ hội rèn luyện hơn
thông qua các tình huống, hoạt cảnh ...để các em được trải nghiệm . Ở đó các em
được khích lệ, được giúp đỡ để bộc lộ hết khả năng của mỗi cá nhân.


16


2.3.4.1.Môi trường trong lớp học:
Trong lớp học tôi tạo ra các góc trưng bày để học sinh có thể thể hiện
những điểm mạnh, hay suy nghĩ của bản thân:
+ Góc sáng tạo: Để học sinh trưng bày sản phẩm mới, sản phẩm yêu thích
của mình hay nhóm mình. (Có hình ảnh minh họa ở phụ lục)
+ Điều em muốn nói: Để học sinh thoải mái bày tỏ tình cảm, suy nghĩ của mình
về tất cả các hoạt động trong lớp dưới sự khích lệ và giải quyết thấu đáo của cô
giáo.
+ Cây sinh nhật: Để học sinh có thể chia sẻ niềm vui với các bạn.
+ Cây hoa điển hình: Tên các bạn có nhiều điều tốt cả về mọi mặt trong
từng tháng được gắn tên lên bông hoa để biểu dương.
2.3.4.2.Môi trường ngoài lớp học:
Trong năm học 2016-2017, lớp tôi được nhận ba bồn hoa để chăm sóc .Vì
vậy tôi đã tổ chức cho học sinh lớp tôi được thực hành những kĩ năng tối cần
thiết trong lao động vừa sức:
-Tôi chia thành 3 tổ và cho các em lao động vào chiều thứ 4 hàng tuần vào
tiết 5 của buổi học tăng.
-Tôi hướng dẫn các em từng chi tiết nhỏ: cách cầm cuốc sao cho đúng, cách
xới đất, vun hoa. Cách nhổ cỏ, bón phân, bắt sâu sao cho hoa không bị
dập….giờ giải lao tôi còn tổ chức cho các em sinh hoạt văn nghệ hay chơi trò
chơi tạo không khí vui vẻ. Qua các buổi lao động để giáo dục các em biết yêu
lao động và đoàn kết với nhau hơn.
2.3.4.3.Môi trường vui chơi:
- Thỉnh thoảng tôi thường giành thời gian ra chơi để tổ chức cho các em một số
trò chơi mới trong sách kĩ năng sống, hay sách trò chơi dân gian tạo hứng thú và
sự gắn kết với các em.
2.3.4.4.Môi trường trong gia đình: Trong gia đình, tôi tuyên truyền cho các

bậc làm cha mẹ phải cố gắng tìm tiếng nói chung với con mình để hiểu các em
hơn.Tôi đưa ra một số biện pháp để bậc phụ huynh làm theo: Giáo dục con tại
nhà giúp các em biết chào hỏi, biết tiếp khách khi khách đến nhà. Trong gia đình
không nói tục, chửi bậy, biết kính trọng người trên, nhường nhịn em nhỏ, tự biết
hoàn thành nhiệm vụ được giao… Ngoài ra các em còn cần dến các môi trường
rộng hơn để giao lưu với nhau bộc lộ những kĩ năng vốn có cũng như học hỏi từ
bạn bè của mình qua các hội thi cấp huyện , cấp tỉnh.
2.3.5. Tạo hứng khởi cho học sinh với những hình thức khen thưởng phù
hợp, kịp thời động viên khích lệ các em.
Tất cả chúng ta, ai cũng thích khen đặc biệt là trẻ nhỏ thì việc khen thưởng
càng có tác dụng tích cực. Để động viên , khích lệ học sinh thực hiện tốt các kĩ
năng sống trong từng tháng. Ngay từ đầu năm học ở cuộc họp phụ huynh đầu
tiên tôi đã đưa vấn đề khen thưởng vào cuộc họp để có sự đồng thuận với phụ
huynh trích ra một khoản tiền nhỏ để mua quà thưởng cho học sinh có thành tích
tốt trong các phong trào của lớp một cách đúng lúc, đúng chỗ.
Trong quá trình học trên lớp, các bạn tổ trưởng đã theo dõi và gắn những
chấm tròn đỏ cho các bạn thực hiện tốt. Cuối tháng các em chỉ cần bình bầu
những bạn có nhiều chấm đỏ nhất để trao phần thưởng. Tuy những món quà đó

17


nhỏ thôi nhưng đã khích lệ được các em hăng say phấn đấu. Các em cảm thấy
hãnh diện với bạn bè, thầy cô, cha mẹ. Đây cũng là một hình thức động viên
tinh thần mang lại hiệu quả rất thiết thực . (Có hình ảnh minh họa ở phụ lục)
2.3.6. Tổ chức một số buổi nói chuyện về chuyên đề “Giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh lớp 4”
Trong năm học tôi chủ động tổ chức thêm một số buổi nói chuyện về
chuyên đề “Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 4” với các bậc phụ huynh và
các em. Tôi còn sưu tầm trên mạng những thông tin và hình ảnh sống động về

các kĩ năng phòng chống tai nạn giao thông, tai nạn đuối nước, cách dạy bơi cho
trẻ em, cách phòng tránh bi xâm hại đặc biệt là xâm hại tình dục…để trình chiếu
trên máy giúp phụ huynh có những kiến thức cơ bản thiết thực để định hướng
cho con. Trong các buổi nói chuyện, tôi còn cho học sinh đóng vai một số tình
huống để phụ huynh cùng đưa ra hướng giải quyết tốt nhất, từ đó giúp họ có kĩ
năng để rèn kĩ năng sống cho con em mình một cách hiệu quả nhất. (Có hình
ảnh minh họa ở phụ lục)
2.3.7. Phối hợp với phụ huynh để cùng rèn luyện kĩ năng sống cho các em.
Mỗi chúng ta đều biết, gia đình là tế bào của xã hội. Thực tế cho chúng ta
thấy kĩ năng sống của trẻ chịu sự ảnh hưởng rất lớn từ phía gia đình. Chính vì
hiểu được bản chất của vấn đề giáo dục kĩ năng sống cho các em phải dựa trên
cơ sở là nền văn hoa gia đình. Ta coi gia đình là các gốc để chăm sóc cho cây
vững vàng trước những thử thách của cuộc sống muôn vàn cám giỗ. Ngay ở
cuộc họp đầu năm, tôi đã đưa vấn đề giáo dục kĩ năng sống cho các em ngay tại
gia đình ,ngoài các hoạt động ở trường thì bản thân gia đình là một môi trường
tốt nhất để trẻ được trải nghiệm thực tế. Các bậc cha mẹ phải vận dụng để dạy
các em trong các tình huống cư xử hằng ngày, giám sát việc thực hiện của các
em. Từ đó rèn luyện cho các em những kĩ năng sống cần thiết như: Kĩ năng biết
sắp xếp góc học tập, biết soạn sách vở trước khi đi học, biết chào hỏi người lớn
tuổi hơn mình khi họ đến nhà, biết giao tiếp với bà con hàng xóm, biết chào bố
mẹ và những người thân trong bữa cơm, biết đi thưa về chào, biết tự phục vụ
bản thân một cách thành thạo, biết có trách nhiệm với gia đình người thân...
Ngoài ra các bậc phụ huynh phải rèn thêm cho con mình biết lao động vừa sức
để các em biết kính trọng những người lao động. Tôi cũng yêu cầu cha mẹ phải
là tấm gương để con cái mình noi theo. Tôi thường xuyên trao đổi với phụ
huynh về những biểu hiện bất thường của học sinh nếu có để phối hợp cùng xử
lí vấn đề một cách kịp thời, hiệu quả. Một năm tôi yêu cầu phụ huynh phải gặp
mặt với nhau 4 lần để trao đổi về những kĩ năng con mình đạt được trong thời
gian qua để chia sẻ những kinh nghiệm của họ đồng thời tìm ra những kĩ năng
con mình còn thiếu hụt để tiếp tục rèn luyện trong thời gian tiếp theo.

2.4.Hiệu quả khi thực hiện:
Qua việc thực hiện các biện pháp trên, kết quả thu được rất khả quan. Các
em tiến bộ rất rõ rệt, đa số các em đều có ý thức tót. Biết nói những lời thân
thiện, lời cảm ơn, xin lỗi trở thành một thói quen được các em vận dụng hằng
ngày. Biết tự giác học bài, có kĩ năng lắng nghe, hợp tác với bạn trong lớp, trong
nhóm. Biết cư xử hài hòa, rất ít hiện tượng đánh nhau. Không còn tình trạng nói
tục chửi bậy.

18


- Các em biết giới thiệu về bản thân, về gia đình, về trường lớp học và bạn
bè thầy cô giáo.Biết chào hỏi lễ phép trong nhà trường, ở nhà và ở nơi công
cộng. Biết nói lời cảm ơn, xin lỗi. Biết phân biệt hành vi đúng sai, phòng tránh
tai nạn Các kĩ năng nghe, đọc, nói, viết, kĩ năng quan sát, kĩ năng đưa ra ý kiến
chia sẻ trong nhóm. kĩ năng giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh chung. kĩ năng
kiểm soát tình cảm – kĩ năng kìm chế thói hư tật xấu sở thích cá nhân có hại cho
bản thân và người khác. kĩ năng hoạt động nhóm trong học tập vui chơi và lao
động.kĩ năng từ chối, kĩ năng phòng chống bị xâm hại, phòng chống đuối nước,
phòng chống tai nạn giao thông, kĩ năng lao động vừa sức.
- Trong năm học vừa qua lớp 4B do tôi chủ nhiệm luôn dẫn đầu trong mọi
phong trào của trường như: Giải nhất trong phong trào trang trí lớp học, giải Nhì
báo tường, giải nhất bồn hoa, Giải nhất văn nghệ và các giải khác trong các cuộc
thi tìm hiểu kiến thức, rung chuông vàng …Đó là thành công bước đầu của công
tác giáo dục kĩ năng sống cho các em.
- Năm học 2016-2017, qua việc khảo sát về kĩ năng sống của các em học
sinh lớp 4B kết quả thu được như sau:
Tổng số

Biếtchào tự tin trước Biết phòng Biết phòng

Phòng
hỏi
lễ đám đông
tránh
tai tránh tai nạn tránh bị
phép
xâm
nạn
đuối nước
hại
giao thông

Biết yêu
lao động
và làm
công
việc vừa
sức

số lượng

30

20

30

30

30


30

Tỉ lệ %

100

66,6

100

100

100

100

học sinh :
30: em

Qua số liệu cho thấy kĩ năng sống của các em được nâng cao rõ rệt so với
đầu năm:
-Kĩ năng biết chào hỏi lễ phép: Từ 50% lên 100%, tăng 50%
-Kĩ năng tự tin trước đám đông: Từ 33,3% lên 66,6% tăng 33,3%.
-Kĩ năng biết phòng tránh tai nạn giao thông : Từ 33,3% lên 100% tăng 66,7%..
-Kĩ năng biết phòng tránh tai nạn đuối nước : Từ 19,98% lên 100% tăng
80,02%..
-Kĩ năng Phòng tránh bị xâm hại: 50% lên 100% tăng 50 %.
-Kĩ năng biết yêu lao động và làm công việc vừa sức: 33,3% lên 100% tăng
66,6%.

Sau khi kiểm tra tôi thấy các kĩ năng sống của các em đang từng bước được
hình thành một các bền vững. Tôi sẽ tiếp tục nghên cứu để thiết kế thêm nhiều
biện pháp thiết thực và phong phú hơn nữa đê đưa kĩ năng sống đi vào cuộc
sống của mỗi học sinh một cách tự nhiên, gần gũi hơn.
3. Kết luận – kiến nghị
3.1. Kết luận:

19


Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học là một vấn đề vô cùng quan
trọng nhằm giúp các em thích ứng với cuộc sống không ngừng biến đổi hiện
nay. Nó là cây cầu nối giữa thế hệ với cuộc sống đang diễn ra và sắp diễn ra.
Giáo dục kĩ năng sống trong trường học và thông qua các hoạt động góp
phần rèn luyện và hình thành cho học sinh sống có trách nhiệm hơn. Biết lựa
chọn ứng xử phù hợp, ứng phó với sức ép, thách thức trong cuộc sống.Giáo dục
kĩ năng sống còn tạo mối quan hệ thân thiết, cởi mở giữa thầy trò, tạo ra sự hứng
thú, tự tin, chủ động sáng tạo trong học tập,nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo
dục.
Kĩ năng sống cần cho suốt cả cuộc đời và luôn luôn được bổ sung, nâng
cấp để thực sự phù hợp với sự thay đổi của cuộc sống hiện tại. Công việc này
không phải chỉ thực hiện trong một thời gian ngắn mà là cả một quá trình lâu
dài, bền bỉ. Phải biết kiên nhẫn, tâm huyết và vận dụng linh hoạt mọi lúc, mọi
nơi.Thực hiện càng sớm đối với trẻ càng tốt. Kĩ năng sống này rất đa dạng mỗi
cá nhân phải biết vận dụng sao cho phù hợp, khéo léo. Công cuộc giáo dục kĩ
năng sống không phải là trách nhiệm của riêng thầy cô giáo, nhà trường mà còn
là trách nhiệm của toàn xã hội. Tất cả mọi người phải cùng chung tay góp phần
trách nhiệm để đào tạo thế hệ trẻ có thể phát triển nhân cách một cách toàn diện,
thích ứng được với cuộc sống hội nhập kinh tế, văn hóa trong thời đại hiện nay.
Bài học kinh nghiệm:

Trong qua trình thực hiện và áp dụng sáng kiến kinh nghiệm, tôi đã rút ra
những bài học quý giá để bổ sung kinh nghiệm nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ
năm học như sau:
-Thực hiện đúng theo các văn bản chỉ đạo của ngành, bám sát chủ đề, kế
hoạch của nhà trường, của tổ khối đề ra. Thực hiện tổ chức các hoạt động dạy và
học phù hợp với hoàn cảnh cụ thể với học sinh trường mình, lớp mình phụ trách
- Chủ động nắm bắt kết quả và đưa ra các bước thực hiện nhanh nhất để
đưa vào điều chỉnh kế hoạch đúng lúc, đúng thời điểm.
-Luôn tạo ra sự mới lạ, sáng tạo trong các hoạt động dạy học để thu hút học
sinh.
-Phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với các đoàn thể trong và ngoài nhà trường
để có sự hỗ trợ kịp thời.
- Luôn lắng nghe ý kiến phản hồi từ các em học sinh, phụ huynh học sinh,
các đồng nghiệp để có những thay đổi và bổ sung cần thiết.
3.2 Kiến nghị:
3.2.1. Đối với giáo viên :
Bản thân mỗi giáo viên phải luôn trau dồi, học hỏi các đồng nghiệp và tự
đúc rút kinh nghiệm từ trong quá trình giảng dạy của bản thân, nâng cao chuyên
môn, tu dưỡng đạo đức luôn là tấm gương sáng để học sinh noi theo. Biết tôn
trọng và kiên nhẫn để tạo cơ hội cho các em được bày tỏ một cách thoải mái.Tạo
chỗ dựa về tinh thần cho các em.
3.2.2.Đối với nhà trường :
Nhà trường phải từng bước đưa phong trào rèn kĩ năng sống vào các hoạt
động chính thống dưới nhiều hình thức phong phú hơn. Tạo điều kiện cho các

20


em phát huy hết khả năng của mỗi cá nhân. Bên cạnh đó nhà trường cũng nên có
những động thái sâu rộng hơn đế quá trình nhận thức về rèn luyện kĩ năng sống

của phụ huynh đối với con em mình ngay tại gia đình vì gia đình là một tế bào
của xã hội.
3.2.3.Đối với phụ huynh:
Đối với bản thân mỗi phụ huynh phải có nhận thức sâu sắc và đúng đắn về
tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng sống cho con em mình. Luôn tạo điều kiện
và cơ hội tốt nhất cho con em mình bày tỏ, sẻ chia cảm xúc. Là chỗ dựa vững
chắc về tinh thần để các em luôn đượcthấy mình quan trọng như thế nào đối với
những người trong gia đình và từ đó các em sống có trách nhiệm hơn. Gia đình
luôn là nơi để các em được sẻ chia, khích lệ khi các em có những hành vi đúng
đắn. Hay là người tha thứ, giúp đỡ khi các em lầm đường lạc lối. Phụ huynh
thấy được tầm quan trọng của họ trong quá trình rèn luyện kĩ năng sống cho các
em.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ đã được tôi đúc rút trong nhiều năm
giảng dạy tại trường tiểu học Thành Minh. Tôi đã áp dụng trong năm học 20162017 đã mang lại một số hiệu quả ban đầu rất khả quan. Đã có những chuyển
biến lớn trong nhận thức của học sinh cũng như gia đình. Vì vậy tôi muốn chia
sẻ với các đồng chí đồng nghiệp cùng tham khảo. Tuy nhiên do năng lực của cá
nhân còn nhiều hạn chế không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự
góp ý chân thành từ các đồng chí, đồng nghiệp.
Tôi Xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thạch Thành, ngày 22 tháng 05 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của bản
thân, không sao chép nội dung của người
khác.
NGƯỜI VIẾT

Lê Thị Hồng Lý


Vũ Thị Nguyệt

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
[1]. Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở tiểu học lớp 1- Nhà xuất
bản giáo dục.
[2]. Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở tiểu học lớp 2- Nhà xuất
bản giáo dục.
[3]. Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở tiểu học lớp 3- Nhà xuất
bản giáo dục.

21


[4]. Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở tiểu học lớp 4- Nhà xuất
bản giáo dục.
[5]. Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở tiểu học lớp 5- Nhà xuất
bản giáo dục.
[6]. Giáo dục kĩ năng sốngcho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn- Lưu Thu
Thủy ( chủ biên) - 2005
[7]. Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05/05/2006 về việc ban hành
trương trình giáo dục phổ thông trong đó có quy định số tiết dành cho hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp.
[8]. Chỉ trị số 40-CT-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về
việc phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực”.
[9]. Thông tư số 04/2014/TT-BGDĐT ngày 28 tháng 02 năm 2014 Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về Quản lý hoạt động GDKNS và hoạt
động giáo dục ngoài giờ chính khóa.
[10]. Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Ban hành về Đánh giá học sinh tiểu học.

[11].Công văn số 273/SGDĐT-GDTX ngày 14 tháng 02 năm 2015 của Sở
Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa
[12]. Sách giáo viên lớp 4

22



×