Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Giáo trình các chuyên đề đổi mới trong giáo dục mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.16 MB, 69 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA SƯ PHẠM TIỂU HỌC - MẦM NON
========= o0o ========

GIÁO TRÌNH
(Lưu hành nội bộ)

CÁC CHUYÊN ĐỀ ĐỔI MỚI TRONG GIÁO DỤC MẦM NON
(Dành cho Cao đẳng Giáo dục mầm non hệ chính quy)

Tác giả: Lê Thị Vân

Năm 2017

1


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU..........................................................................................................4
Chương 1...................................................................................................................5
GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO TRẺ MẦM NON ...................................5
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG ........ 5
1.1.1. Khái niệm........................................................................................... 5
1.1.2. Phân loại kỹ năng sống....................................................................... 9
1.1.3. Sự cần thiết phải giáo dục kỹ năng sống cho trẻ dưới 6 tuổi ............. 10
1.1.4. Một số nguyên tắc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ dưới 6 tuổi .......... 14
1.1.5. Giáo dục kỹ năng sống và tiếp cận kỹ năng sống.............................. 15
1.1.6. Định hướng GDKNS trong nhà trường phổ thông ở Việt Nam ......... 17
1.2. GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO TRẺ MẦM NON..................... 18
1.2.1. Mục tiêu và nhiệm vụ của giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ................. 18
1.2.2. Các nguyên tắc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non.................. 18


1.2.3. Nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non ........................... 19
1.2.4. Phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non ..................... 19
1.2.5. Các hình thức giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non .................... 28
1.3. THỰC HÀNH ....................................................................................... 29
Chương 2.................................................................................................................30
TỔ CHỨC MÔI TRƯỜNG LỚP HỌC CHO TRẺ MẦM NON...................30
2.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỔ CHỨC MÔI TRƯỜNG LỚP
HỌC CHO TRẺ MẦM NON ..................................................................... 30
2.1.1. Khái niệm......................................................................................... 30
2.1.2. Ý nghĩa của việc xây dựng môi trường lớp học trong trường mầm non
................................................................................................................... 30
2.1.3. Nguyên tắc chung của việc thiết kế môi trường lớp học trong trường
mầm non .................................................................................................... 30
2.1.4. Cơ sở định hướng quá trình tổ chức môi trường lớp học cho trẻ ....... 31
2.1.5. Các yếu tố cần lưu ý khi tổ chức môi trường lớp học cho trẻ ............ 32

2


2.1.6. Vai trò của giáo viên trong quá trình tổ chức môi trường lớp học cho
trẻ mầm non ............................................................................................... 33
2.2. TỔ CHỨC MÔI TRƯỜNG LỚP HỌC CHO TRẺ MẦM NON ....... 35
2.2.1. Tổ chức môi trường hoạt động trong lớp cho trẻ mầm non ............... 35
2.2.2. Lập kế hoạch tổ chức môi trường hoạt động ở các góc cho trẻ mầm
non ............................................................................................................. 47
2.3. Thực hành:............................................................................................ 53
Chương 3.................................................................................................................54
GIÁO DỤC PHÒNG TRÁNH XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM TRONG
TRƯỜNG MẦM NON ............................................................................................54


3.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIÁO DỤC PHÒNG TRÁNH XÂM
HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM .......................................................................... 54
3.1.1. Xâm hại trẻ em ................................................................................. 54
3.1.2. Xâm hại tình dục trẻ em ................................................................... 55
3.1.3. Nạn nhân dễ bị xâm hại tình dục ..................................................... 55
3.1.4. Thủ phạm xâm hại tình dục trẻ em ................................................... 56
3.1.5. Hậu quả khôn lường ......................................................................... 56
3.1.6. Thời điểm có nguy cơ xảy ra xâm hại tình dục ................................. 57
3.1.7. Các dấu hiệu cảnh báo trẻ có nguy cơ bị xâm hại tình dục................ 57
3.1.8. Cách xử trí khi trẻ bị xâm hại tình dục.............................................. 57
3.1.9. Bắt đầu trò chuyện về giới tính khi trẻ 2 tuổi ................................... 58
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ
EM................................................................................................................ 61
3.3. DẠY TRẺ MẦM NON KỸ NĂNG PHÒNG TRÁNH XÂM HẠI
TÌNH DỤC................................................................................................... 65
3.4. THỰC HÀNH ....................................................................................... 68

3


LỜI NÓI ĐẦU
Các chuyên đề đổi mới trong giáo dục mầm non là học phần nằm trong
nhóm kiến thức chuyên ngành của chương trình đào tạo ngành giáo dục mầm
non trình độ cao đẳng.
Tài liệu được cấu trúc thành 3 chương:
Chương 1. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non: Bao gồm hệ thống kiến
thức cơ bản về kỹ năng sống và giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở trường mầm
non: Khái niệm, ý nghĩa, cách phân loại kỹ năng sống nói chung và giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ mầm non nói riêng; nội dung, phương pháp, hình thức giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non.

Chương 2. Tổ chức môi trường hoạt động cho trẻ mầm non: Đề cập đến vấn đề
môi trường giáo dục và tổ chức môi trường hoạt động cho trẻ mầm non: Khái
niệm, ý nghĩa, yêu cầu, nguyên tắc xây dựng môi trường giáo dục; Nội dung,
hình thức và cách xây dựng, tổ chức môi trường hoạt động ở các góc.
Chương 3. Giáo dục phòng tránh xâm hại tình dục trẻ em trong trường mầm
non: Bao gồm một số kiến thức cơ bản về phòng tránh xâm hại tình dục trẻ em
và biết tổ chức các hoạt động để giáo dục trẻ mầm non cách phòng tránh xâm
hại tình dục trẻ em.
Tài liệu được biên soạn lần đầu, chắc chắn không tránh khỏi những thiếu
sót. Tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp và xây dựng của bạn đọc.

Tác giả

4


Chương 1
GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO TRẺ MẦM NON
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm kỹ năng
Kỹ năng là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu tâm lý học và giáo dục
học quan tâm. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về kỹ năng. Tuy nhiên,
qua quá trình nghiên cứu nhiều tài liệu khác nhau chúng ta quy về hai quan
điểm chính sau:
* Quan điểm thứ nhất
Quan điểm thứ nhất xem xét kỹ năng từ góc độ kỹ thuật của hành động,
của thao tác mà ít quan tâm đến kết quả của hành động.
- V.A. Kruchetxki cho rằng: “Kỹ năng là thực hiện một hành động hay một
hoạt động nào đó nhờ sử dụng những kỹ thuật, những phương thức đúng đắn”.

- A.G.Covaliop: Kỹ năng là phương thức thực hiện hành động thích hợp
với mục đích và điều kiện hành động. Ở đây ông không đề cập đến kết quả của
hành động. Theo ông kết quả hành động phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó
quan trọng hơn cả là năng lực của con người chứ không đơn giản là cứ nắm
vững cách thức hành động thì đem lại kết quả tương ứng.
- PGS Trần Trọng Thủy cho rằng: Kỹ năng là mặt kỹ thuật của hành động,
con người nắm được hành động tức là kỹ thuật hành động có kỹ năng.
- PGS.TS Hà Nhật Thăng cho rằng: “Kỹ năng là kỹ thuật của hành động
thể hiện các thao tác của hành động.
Như vậy, theo quan điểm này kỹ năng là phương tiện thực hiện hành động
phù hợp với mục đích và điều kiện hành động mà con người đã nắm vững. Theo
các tác giả trên, người có kỹ năng hoạt động nào đó là người nắm được các tri
thức về hoạt động đó và thực hiện hành động theo đúng yêu cầu của nó mà
không cần tính đến kết quả của hành động.
* Quan điểm thứ 2
Quan điểm xem xét kỹ năng từ góc độ không đơn thuần chỉ là mặt kỹ
thuật của hành động mà còn là biểu hiện của năng lực của chủ thể hành động và
nhấn mạnh đến kết quả của hành động.
- Các tác giả K.K. Platonop và G.G.Golubev cho rằng: kỹ năng là năng
lực của con người thực hiện công việc có kết quả là một chất lượng cần thiết
trong những điều kiện mới và trong những khoảng thời gian tương ứng.
5


- X.I. Kiêgop cho rằng: “Kỹ năng là khả năng thực hiện có hiệu quả hệ
thống các hành động phù hợp với các mục đích và điều kiện của hệ thống này”.
- Theo P.A. Ruđich: “Kỹ năng là tác động mà cơ sở của nó là sự vận dụng
thực tế của kiến thức đã tiếp thu được để đạt được kết quả trong một hình thức
hoạt động cụ thể” .
- H.D.Levitov thì cho rằng, kỹ năng là sự thực hiện có kết quả một tác

động nào đó hay một hành động phức tạp hơn bằng cách lựa chọn và áp dụng
đúng đắn các hình thức hành động nhằm thực hiện hành động có kết quả.
- Theo TS. Vũ Dũng: “Kỹ năng là năng lực vận dụng có kết quả những tri
thức về phương thức hành động đã được chủ thể lĩnh hội để thực hiện những
nhiệm vụ tương ứng.
- Các nhà Tâm lý học Việt Nam như PGS.TS Ngô Công Hoàn, PGS.TS
Nguyễn Thị Ánh Tuyết, GS Nguyễn Quang Uẩn, Trần Quốc Thành cho rằng kỹ
năng là một mặt năng lực của con người thực hiện một công việc có hiệu quả.
Như vậy, hai quan điểm này tuy về hình thức diễn đạt có vẻ khác nhau
nhưng thực chất chúng không hoàn toàn mâu thuẫn hay loại trừ lẫn nhau. Dù
theo quan điểm nào thì khi nói đến kỹ năng chúng ta đều phải quán triệt một số
điểm sau:
- Mọi kỹ năng đều dựa trên cơ sở tri thức, muốn hành động, muốn thao
tác trước hết phải có kiến thức về nó dù cho tri thức có thể ẩn chứa ở nhiều dạng
khác nhau.
- Nói kỹ năng của con người là nói tới hành động có mục đích, tức khi
hành động, thao tác con người luôn hình dung kết quả đạt tới.
- Để có kỹ năng con người cũng phải biết cách thực hiện hành động trong
những điều kiện cụ thể và hành động theo quy trình với sự tập luyện nhất định.
- Kỹ năng liên quan mật thiết đến năng lực của con người. Nó là biểu hiện
cụ thể của năng lực.
Từ phân tích trên kỹ năng có thể hiểu như sau:
Kỹ năng là khả năng thực hiện có kết quả một hành động, công việc nào
đó trên cơ sở nắm vững phương thức thực hiện và vận dụng những tri thức, kinh
nghiệm đã có phù hợp với những điều kiện nhất định. Như vậy, kỹ năng không
chỉ đơn thuần là mặt kỹ thuật hành động mà nó còn là biểu hiện của năng lực cá
nhân.
1.1.1.2. Khái niệm kỹ năng sống
* Quan niệm về kỹ năng sống


6


- Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), KNS là khả năng để có hành vi
thích ứng (adaptive) và tích cực (positive), giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu
quả trước các nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày
- Theo Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), KNS là cách tiếp cận
giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân
bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kỹ năng.
- Theo UNESCO, KNS gắn với 4 trụ cột của GD, đó là:
[1] Học để biết, gồm các KN tư duy như: giải quyết vấn đề, tư duy phê phán, ra
quyết định, nhận thức được hậu quả,…
[2] Học làm người gồm các KN cá nhân như: ứng phó với căng thẳng, cảm xúc,
tự nhận thức, tự tin,…
[3] Học để sống với người khác, gồm các KN xã hội như: giao tiếp, thương
lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông.
[4] Học để làm, gồm KN thực hiện công việc và các nhiệm vụ như: KN đặt mục
tiêu, đảm nhận trách nhiệm,…
Kỹ năng sống là kỹ năng là tập hợp các kỹ năng mà con người sử dụng để
liên lạc và giao tiếp với những cá nhân khác xung quanh họ, được hình thành và
liên tục phát triển trong môi trường sống trên cơ sở các giá trị và quy định xã hội
nhất định.
Nói cách khác đi, kỹ năng sống là cách một cá thể “sống” giữa các cá thể
khác: cách bạn hành xử, cách bạn nói năng, thậm chí là cách bạn cảm nhận và
nhìn nhận về một sự vật hay hiện tượng diễn ra trong cuộc sống…
Định nghĩa theo khái niệm chuyên ngành Kỹ năng sống chính của một cá
nhân được thể hiện bằng EQ và SQ, đó chính là kiến thức mềm “kiến thức xã
hội” mà chúng ta cần phải có.
1.1.1.3. Khái niệm giáo dục “Kỹ năng sống”
Giáo dục “Kỹ năng sống” cho trẻ là giáo dục cách sống tích cực trong xã

hội hiện đại. Giáo dục cho trẻ những kỹ năng mang tính cá nhân và xã hội nhằm
giúp trẻ có thể chuyển kiến thức, thái độ, cảm nhận thành những khả năng thực
thụ, giúp trẻ biết xử lý hành vi của mình trong các tình huống khác nhau trong
cuộc sống .
Một cá nhân nếu có đầy đủ kiến thức trong cuộc sống nhưng lại chưa có
kỹ năng cuộc sống (bao gồm rất nhiều kỹ năng) và biết sử dụng linh hoạt kỹ
năng này thì không đảm bảo cá nhân đó có thể đưa ra các quyết định hợp lý,
giao tiếp có hiệu quả và có mối quan hệ tốt với mọi người. Kỹ năng sống chính

7


là năng lực tâm lý xã hội để đáp ứng và đối phó những yêu cầu và thách thức
trong cuộc sống hàng ngày.
Kỹ năng sống của trẻ bao gồm rất nhiều kỹ năng: Kỹ năng giao tiếp ứng
xử, kỹ năng vệ sinh, kỹ năng thích nghi với môi trường sống, kỹ năng hợp tác
chia sẻ.
1.1.1.4. Bản chất của kỹ năng sống
Bản chất của KNS là kỹ năng tự quản bản thân và kỹ năng xã hội cần thiết
để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Như vậy, kĩ
năng sống là:
- Khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp
với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình
huống của cuộc sống.
Lưu ý: Cần phân biệt KNS với các KN thực hiện công việc, kĩ năng
chuyên môn, nghề nghiệp như đọc, đếm, vẽ, soạn thảo văn bản, xác định
phương hướng,… đến trường với các mối quan hệ mở rộng nhanh chóng. Khi
trẻ đi nhà trẻ, đến lớp, môi trường không còn ở trong bốn bức tường với cha mẹ,
ông bà mà đã mở rộng ra tới con đường đến trường, lớp, công viên, với hàng
xóm, người lạ, người quen, với cô giáo, bạn bè… Thêm vào đó, cũng là sự đa

chiều của các nguồn thông tin thông qua các phương tiện thông tin đại chúng,
cũng như sự ảnh hưởng của tâm lý đám đông - bạn bè cùng lứa trong đó có cả
các kỹ năng sống sai lệch vô hình chung đã tạo ra những hình mẫu không chuẩn
mực cho trẻ, làm cho nhu cầu được định hướng đúng đắn về kỹ năng sống.
Vì thế, có thể nói, kỹ năng sống cần phải được trang bị càng nhiều hơn và
ở trình độ cao hơn khi trẻ ở các độ tuổi quan trọng như đi học mẫu giáo hoặc và
đặc biệt là trước khi đến trường tiểu học. Tuy nhiên, do phần lớn cha mẹ thường
chỉ quan tâm để dạy trẻ các kỹ năng sống mang tính giao tiếp - tức là các kỹ
năng xã hội mang tính chuẩn mực về hành vi (hành động và ngôn ngữ) như chào
hỏi, xin phép… với phương pháp áp đặt (tức là bảo trẻ làm theo) mà chưa thực
sự quan tâm đến thế giới nội tâm cũng như cảm xúc của trẻ nên thế giới nội tâm
cũng như các vấn đề tâm lý/cảm xúc lành mạnh vẫn là một kỹ năng bị bỏ ngỏ
làm phát sinh các vấn đề ở trẻ như: thiếu tự tin khi tìm hiểu cái mới, môi trường
xung quanh, quá nhút nhát, sợ bị thua cuộc…
Tuỳ thuộc vào hoàn cảnh và độ tuổi, vấn đề kỹ năng sống được bộc lộ ở
mỗi trẻ khác nhau là khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung, khi bắt đầu đưa trẻ tới
lớp là khi chúng ta nên bắt đầu việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ một cách có

8


kế hoạch và chiến lược, nếu bạn muốn bé phát triển toàn diện về cả thể chất và
tâm hồn.
1.1.2. Phân loại kỹ năng sống
* Theo UNESCO, WHO và UNICEF, có thể xem KNS gồm các kỹ năng
cốt lõi sau:
- Kỹ năng giải quyết vấn đề
- Kỹ năng suy nghĩ/tư duy phân tích có phê phán
- Kỹ năng giao tiếp hiệu quả
- Kỹ năng ra quyết định

- Kỹ năng tư duy sáng tạo
- Kỹ năng giao tiếp ứng xử cá nhân
- Kỹ năng tự nhận thức và tự tin của bản thân, xác định giá trị
- Kỹ năng thể hiện sự cảm thông
- Kỹ năng ứng phó với căng thẳng và cảm xúc.
* Trong giáo dục ở Anh, KNS được chia thành 6 nhóm chính là:
- Hợp tác nhóm
- Tự quản
- Tham gia hiệu quả
- Suy nghĩ/tư duy bình luận, phê phán
- Suy nghĩ sáng tạo
- Nêu vấn đề và giải quyết vấn đề
* Ở Việt Nam
- Nhóm các KN nhận biết và sống với chính mình: tự nhận thức, xác định
giá trị, ứng phó với căng thẳng, tìm kiếm sự hỗ trợ, tự trọng, tự tin...
- Nhóm các KN nhận biết và sống với người khác: giao tiếp có hiệu quả,
giải quyết mâu thuẫn, thương lượng, từ chối, bày tỏ sự cảm thông, hợp tác...
- Nhóm các KN ra quyết định một cách có hiệu quả: tìm kiếm và xử lí
thông tin, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề...
Kỹ năng sống thay đổi theo nền văn hoá và hoàn cảnh xã hội. Vì vậy, trong quá
trình dạy kỹ năng sống, cần xem xét các yếu tố văn hoá và xã hội có ảnh hưởng
đến việc ra quyết định hay lựa chọn hành động.
* Một số kỹ năng sống cốt lõi
- Kỹ năng tự nhận thức
- Tự trọng
- Thể hiện cảm thông
- Có trách nhiệm
9



- Ứng phó với sự căng thẳng
- Kiểm soát cảm xúc
- Giao tiếp hiệu quả
- Quan hệ của cá nhân với người khác
- Suy nghĩ sáng tạo, Ra quyết định
- Giải quyết vấn đề
1.1.3. Sự cần thiết phải giáo dục kỹ năng sống cho trẻ dưới 6 tuổi
Ngày xưa trong giáo dục truyền thống, trẻ chỉ việc nghe lời cha mẹ.
Những gì học ở gia đình và xã hội lại giống nhau. Một hành vi sai trái thường bị
xã hội đồng loạt lên án, nên ít ai dám hành động tiêu cực. Ngày nay thì khác,
những gì học trong gia đình và tác động của xã hội rất khác nhau qua bạn bè,
tuyền thông đại chúng, phim ảnh… trong nhiều trường hợp, trẻ phải tự ứng phó
một mình. Có khi cha mẹ có đó, nhưng theo không kịp những biến động xã hội
ngày càng dồn dập. Với sự bùng nổ thông tin, trẻ tiếp cận với đủ thứ loại tác
động, tốt có, xấu có. Một số không nhỏ phải rời bỏ gia đình, hoặc phải bươn chải
kiếm sống, thậm chí gánh vác trách nhiệm của người lớn. Do ngày càng có
nhiều việc phải quyết định một mình nên trẻ không chỉ cần được biết thế nào là
điều hay lẽ phải mà còn phải có khả năng hành động theo nhận thức.
Trước tình hình này, vào đầu thập kỷ 90 các tổ chức của Liên Hiệp Quốc
như WHO (tổ chức Y tế thế giới), UNICEF (Quỹ cứu trợ nhi đồng), UNESCO
(tổ chức giáo dục văn hóa và khoa học) và các nhà giáo dục thế giới đã cùng tìm
cách giáo dục đề tạo cho trẻ năng lực tâm lý xã hội, nhằm ứng phó với những
yêu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày. Đó là Giáo dục kỹ năng sống
nhằm giúp trẻ biến nhận thức thành hành động, nghĩa là trẻ không chỉ hiểu biết
mà còn phải làm được điều mình hiểu. Cách dạy cũ theo kiểm rao giảng suông,
dạy vẹt học vẹt không đạt được sự thay đổi hành vi này.
Trong cách giáo dục mới, trẻ được giúp đỡ để biết mình là ai, mình muốn
gì, có mục đích gì trong cuộc sống, biết dung hòa giữa cái tôi và cái chúng ta và
có những chọn lựa và quyết định đúng trước những biến cố do cuộc sống đưa
đến. Để có năng lực tâm lý xã hội này, trẻ được dạy các kỹ năng như: ý thức về

bản thân, thấu cảm với người khác, suy nghĩ sáng tạo và có phán đoán, truyền
thông và giao tiếp có hiệu quả, giải quyết vấn đề, lấy quyết định, ứng phó với
cảm xúc và stress v.v..
Phương pháp giáo dục là đặt trẻ trước những tình huống khó giải quyết
để trẻ giải quyết theo nhóm thông qua thảo luận, trò chơi, sắm vai, vẽ tranh hay
hành động cụ thể. Qua đó, trẻ học bằng hành và tự quyết định với sự góp ý của
10


nhóm bạn. Tác động của nhóm bạn rất mạnh mẽ theo hướng tích cực hay tiêu
cực. Nếu sức ép của nhóm bạn xấu có thể khiến trẻ chấp nhận làm chuyện sai
trái, thì giáo viên cũng có thể biến sức ép này thành tích cực để giúp cá nhân có
những quyết định lành mạnh.
Tuy nhiên, giáo dục kỹ năng sống không dễ chút nào, vì nó nằm ngoài
cách suy nghĩ và thói quen của ta từ trước đến nay. Việc đầu tiên là tin vào khả
năng của trẻ để suy nghĩ và có hành động đúng. Ở tuổi vị thành niên, trẻ đã biết
suy nghĩ có trách nhiệm, biết muốn điều tốt cho mình và cho người khác, biết tự
định hướng cho tương lai. Người lớn không nên áp đặt ý kiến của mình mà cần
khơi dậy tiềm năng trẻ, hỗ trợ sự phát triển tiềm năng này bằng thái độ thông
cảm và tôn trọng. Lòng tự tin của trẻ sẽ lớn rất nhanh nếu người lớn nhìn chúng
bằng con mắt mới và sáng tạo, đồng thời với thái độ kiên nhẫn.
Do đó, giáo dục kỹ năng sống chỉ thành công với nhà giáo dục “kiểu mới”
khác với người thầy mệnh lệnh, bao cấp, suy nghĩ và hành động thay cho trẻ.
Trẻ phải chủ động mới biến được nhận thức thành hành động. Nhà giáo dục này
không chỉ phải hiểu tâm lý lứa tuổi, mà còn phải có kiến thức và kỹ năng về
nhóm để biết vận dụng tâm lý nhóm vào công tác giáo dục. Sinh hoạt nhóm rất
quan trọng trong việc giúp trẻ nên chủ động để tự quyết. Giáo dục kỹ năng sống
cũng không thể thành công nếu xã hội, nhất là gia đình, không đổi cách nhìn đứa
trẻ, xem nó như: “con nít, chẳng biết gì”, giáo dục theo kiểu nhục mạ, hạ thấp
vv… Nền tảng của Giáo dục kỹ năng sống là ý thức về giá trị bản thân nơi trẻ

mà đây là một điều mà xã hội ta chưa quen lắm.
Giáo dục ký năng sống là một tiến trình: giáo viên trang bị cho trẻ kiến
thức; giúp trẻ có ý thức và niềm tin để thay đổi. Trẻ phải được thực hành để có
kỹ năng. Trẻ cần được hướng dẫn vận dụng kỹ năng vào các sinh hoạt thường
ngày của trẻ. Điều quan trọng nhất là những kỹ năng này trở thành một thói
quen tốt.
Chỉ vài năm trở lại đây, ở Việt Nam mới xuất hiện khái niệm “rèn luyện
kỹ năng sống” nhưng trên thế giới đặc biệt là các nước có nền giáo dục phát
triển, vấn đề kỹ năng sống đã được coi trọng và đề cao trong các chương trình
giáo dục và đào tạo ở mọi trình độ và cấp bậc từ hàng chục năm nay.
Như trên đã đề cập, kỹ năng sống thực chất là “soft skills (kỹ năng mềm)”
của một cá nhân mà nhờ có nó một cá nhân có thể thâm nhập, hoà nhập và
khẳng định vị trí của mình trong một tập thể, xa hơn là một cộng động, xã hội.
Vì thế, như một lẽ tự nhiên, kỹ năng này cần phải đuợc phát triển và nâng
cao song song với sự trưởng thành về thể chất của con người. Càng lớn lên, môi
11


trường giao tiếp, hoạt động càng rộng hơn phức tạp hơn vì vậy kỹ năng sống
càng phải được phát triển và nâng cao lên.
Thiếu đi kỹ năng sống, con người không thể tiếp cận với môi trường xung
quanh, hoà nhập cũng như khẳng định mình. Cho dù trẻ có tố chất thông minh
nhưng sự thông minh đó để làm gì? ai sẽ biết? nếu trẻ không có một môi trường
để thể hiện, có một cộng đồng xung quanh để trẻ thể hiện mình? Vì thế, những
tố chất tự thân chỉ là điều kiện cần - phần cứng - mà chưa thể đủ nếu thiếu phần
mềm kia để giúp trẻ khẳng định mình trong cuộc sống.
Liên kết với những nghiên cứu gần đây về chỉ số thành công của con
người, chúng ta thấy rõ ràng, con người càng lớn lên, IQ không còn là vấn đề cơ
bản để quyết định sự thành đạt mà lại chính là SQ va EQ. Vậy cái gì quyết định
SQ va EQ? Đó chính là kỹ năng sống, cách trẻ hoà đồng với mọi người để hoà

nhập để được ủng hộ để được sự đồng cảm (SQ), đó chính là trái tim của trẻ,
tính nhân văn trong con người trẻ với những xúc cảm lành mạnh giúp sống lành
mạnh làm chủ hoàn cảnh, bình tĩnh và tự tin (EQ)
* Với trẻ càng nhỏ, kỹ năng sống lại càng quan trọng. Vì sao?
Những năm đầu đời đặc biệt là 5 năm đầu đời mà trong đó, đóng vị trí
quan trọng hơn cả là 3 năm đầu đời. Trong thời gian này, não bộ sẽ tiếp tục phát
triển và đạt tới 80% diện tích não bộ của trẻ khi đạt độ tuổi trưởng thành. Trong
quá trình phát triển này, não bộ cũng thu thập các thông tin để xử lý và làm
“giàu” kiến thức của bé trong đó chủ yếu là kiến thức sống - kiến thức hoà nhập
với môi trường xung quanh ở mức sơ khai tức là kiến thức giao tiếp, tương tác
(chủ yếu trong quan hệ với gia đình, trẻ cùng trang lứa) trên 3 phương diện:
chơi, giao tiếp và cảm nhận.
Tuy những kiến thức này là sơ khai nhưng nền tảng và quan trọng bởi nó
là những kiến thức sống đầu tiên mà trẻ được trải nghiệm, những hình ảnh đầu
tiên mà “não bộ” của bé chụp được về cuộc sống xung quanh bé nên sâu sắc và
mang tính định hướng cao. Không phải vô cớ mà các công trình nghiên cứu tội
phạm học đã chứng minh được sự liên kết giữa những trải nghiệm đầu đời đau
khổ vì bạo lực gia đình hay stress, trầm cảm do thiếu thốn tình cảm… Những
trải nghiệm đầu đời tốt đẹp sẽ giúp trẻ thêm hồ hởi và hoà nhập tốt hơn với cuộc
sống xung quanh trong những năm tháng sau này. Và ngược lại, tất nhiên là khi
những cảm xúc đầu tiên là tiêu cực, nó sẽ làm cho trẻ không có hào hứng để tiếp
tục “đi sâu” tìm hiểu cuộc sống này hoặc nếu có tiếp tục sẽ là những cảm giác
lạc lỏng, mệt mỏi và căng thẳng… hình thành những vấn đề về hành vi, cảm xúc
và nhân cách lệch lạc.
12


Khi chúng ta trưởng thành, nếu chúng ta gặp những tình huống khó khăn
hoặc một lúc nào đó vấp váp, chúng ta vẫn có thể đứng lên và đi tiếp vì có thể
lúc đó chúng ta đã có kinh nghiệm sống, có đủ kỹ năng để xử lý tình huống.

Nhưng với trẻ nhỏ, nếu để những khó khăn này xảy ra, trẻ sẽ không đủ
kiến thức để phân tích và xử lý - vì trẻ không hề có trải nghiệm hay kinh nghiệm
hay kiến thức trước đó. Vì thế, kỹ năng sống rất quan trọng để giúp trẻ tránh
khỏi những hoàn cảnh bị cô lập, tránh được những cảm xúc tiêu cực hoặc hình
thành những hành vi ứng xử thiếu chuẩn mực.
Do đó, kỹ năng sống cần phải đuợc học càng sớm càng tốt, phù hợp với
từng lứa tuổi, đặc điểm của tuỳ từng đứa trẻ cũng như hoàn cảnh.
* Bao giờ thì bắt đầu nên dạy bé kỹ năng sống?
Cũng không nên hiểu kỹ năng sống là một điều gì đó cao siêu, mà ngược
lại trên một phương diện nào đó nó hết sức bình dị, hết sức giản đơn: nó là cách
một con người hành xử (bằng hành động hoặc bằng ngôn ngữ, bằng tư duy hoặc
bằng ý nghĩ, thái độ…) trong một ngữ cảnh xã hội nhất định. Cách hành xử này
có thể được quy định bởi phong tục tâp quán (lễ phép với người già, chào hỏi
khi đi về…), đạo đức xã hội. Vì thế, có thể nói, ngay từ khi sinh ra, con người đã
học kỹ năng sống.
Ngay từ khi sinh ra, cha mẹ đã dạy trẻ ngôn ngữ, dạy trẻ “ạ ông, ạ bà”,
chào ông, chào bà… mà không biết rằng đó chính là những kỹ năng sống sơ
khai mà chúng ta dạy trẻ một cách rất bản năng - kỹ năng giao tiếp .
Thêm vào đó, cũng là sự đa chiều của các nguồn thông tin thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng, cũng như sự ảnh hưởng của tâm lý đám đông bạn bè cùng lứa trong đó có cả các kỹ năng sống sai lệch vô hình chung đã tạo ra
những hình mẫu không chuẩn mực cho trẻ, làm cho nhu cầu được định hướng
đúng đắn về kỹ năng sống.
Vì thế, có thể nói, kỹ năng sống cần phải được trang bị càng nhiều hơn và
ở trình độ cao hơn khi trẻ ở các độ tuổi quan trọng như đi học mẫu giáo và đặc
biệt là trước khi đến lớp 1. Tuy nhiên, do phần lớn cha mẹ thường chỉ quan tâm
để dạy trẻ các kỹ năng sống mang tính giao tiếp - tức là các kỹ năng xã hội mang
tính chuẩn mực về hành vi (hành động và ngôn ngữ) như chào hỏi, xin phép…
với phương pháp áp đặt (tức là bảo trẻ làm theo) mà chưa thực sự quan tâm đến
thế giới nội tâm cũng như cảm xúc của trẻ nên thế giới nội tâm cũng như các
vấn đề tâm lý/ cảm xúc lành mạnh vẫn là một kỹ năng bị bỏ ngỏ làm phát sinh

các vấn đề ở trẻ như: thiếu tự tin khi tìm hiểu cái mới, môi trường xung quanh,
quá nhút nhát, sợ bị thua cuộc…
13


Tuỳ thuộc vào hoàn cảnh và độ tuổi, vấn đề kỹ năng sống đượcc bộc lộ ở
mỗi trẻ khác nhau là khác nhau. Nhìn chung, khi bắt đầu đưa trẻ tới lớp là khi
bạn nên bắt đầu việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ một cách có kế hoạch và
chiến lược, nếu bạn muốn bé phát triển toàn diện về cả thể chất và tâm hồn.
* Những sai lầm thường mắc phải khi dạy bé kỹ năng sống
- Cho bé đi học các lớp về kỹ năng sống là đủ để bé có đủ kỹ năng sống.
Thực sự không đủ vì:
+ Mỗi trẻ có một đặc điểm khác nhau và chỉ có bạn mới hiểu kỹ năng nào
trẻ thiếu .
+ Cho dù trẻ đi học ở đâu thì môi trường gia đình cũng đặc biệt quan
trọng vì là nơi gần gũi nhất và nơi trẻ chịu tác động lớn nhất cũng như là nơi
củng cố mọi kiến thức mà trẻ học.
+ Việc học kỹ năng sống cần phải có sự thống nhất giữa các đối tương
liên quan để đảm bảo định hướng thống nhất và đảm bảo rằng những kiến thức
trẻ được học sẽ được áp dụng vào muôn hình muôn vẻ các tình huống thực tế
- Trẻ là trẻ con nên chỉ cần dạy trẻ - trẻ sẽ làm theo?
Trẻ dù gì cũng có suy nghĩ và cảm nhận của trẻ. Áp đặt thiếu sự thuyết
phục sẽ làm cho việc tiếp thu kiến thức của trẻ không triệt để và không có nền
tảng dẫn cơ bản. Cần phải dạy trẻ và để trẻ tiếp thu một cách tự nhiên và thuyết
phục theo một phương pháp phù hợp với tâm sinh lý của trẻ. Cách dạy bé được
các chuyên gia khuyên dùng là sử dụng các “câu chuyện xã hội”. Ngoài ra, việc
dạy cần phải có mục tiêu rèn luyện cụ thể, để trẻ học. Tuỳ tính cách của trẻ cũng
như sự phát triển thể chất, cần có mục tiêu rèn luyện kỹ năng cụ thể theo thứ tự
ưu tiên.
Thông thường, có một số kỹ năng cơ bản cần phải có ở mọi trẻ là:

+ Kỹ năng giao tiếp
+ Kỹ năng chơi
+ Kỹ năng cảm nhận
1.1.4. Một số nguyên tắc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ dưới 6 tuổi
Sự thay đổi, biến động của môi trường kinh tế, xã hội với những mặt tích
cực và tiêu cực, trong đó không ít cám dỗ và rủi ro, chính điều này khiến cho trẻ
luôn đối diện với áp lực cuộc sống, phải đương đầu với những khó khăn, thử
thách. Để có thể giúp trẻ rèn luyện kỹ năng thì cần có những phương pháp giáo
dục đặc biệt cũng như giữ vững những nguyên tắc giáo dục cần thiết cho trẻ

14


1) Trải nghiệm
Muốn rèn luyện một kỹ năng sống nào đó cho trẻ thì phải đưa trẻ vào tình
huống để trẻ được giải quyết vấn đề. Mỗi tình huống có thể có nhiều cách giải
quyết khác nhau, nhưng trong hoàn cảnh cụ thể thì sẽ chọn phương án tối ưu
nhất.
2) Tiến trình
Quá trình giáo dục, rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ không thể thực hiện
đạt kết quả ngay trong ngày một ngày hai, mà phải trải qua một quá trình lâu
dài. Trong đó phải lần lượt: Từ sự thay đổi về nhận thức của người lớn dẫn dắt
trẻ đến hình thành thái độ, và cuối cùng là thay đổi hành vi theo hướng tích cực.
Được như thế có nghĩa là chúng ta đã thành công trong việc giáo dục các kỹ
năng sống cần thiết cho trẻ.
3) Thời gian
Công tác giáo dục, rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ phải được thực hiện ở
mọi nơi, mọi lúc và thực hiện càng sớm càng tốt. Đây cũng là một nguyên tắc rất
quan trọng, cô giáo cần có sự đảm bảo đủ thời gian trong ngày để giúp trẻ học
tập và bổ sung kỹ năng sống của mình.

Chính vì vậy nên việc giáo dục kỹ năng cho trẻ là vô cùng cần thiết, chưa
kể tới là quá trình hội nhập với thế giới đòi hỏi nguồn nhân lực không chỉ có
kiến thức mà còn phải thực sự tự tin; phải nắm bắt kịp thời các cơ hội cũng như
phải có đầy đủ các kỹ năng, cập nhật thông tin nhanh nhạy và hội nhập với thế
giới, góp phần tích cực cho cuộc sống cá nhân và cộng đồng tốt đẹp hơn, nhằm
thích ứng với mọi biến động của hoàn cảnh. Đặc biệt là với lứa tuổi dậy thì, khi
các em bước vào giai đoạn khủng hoảng lứa tuổi quan trọng của cuộc đời.
1.1.5. Giáo dục kỹ năng sống và tiếp cận kỹ năng sống
Kỹ năng sống như những nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành
thái độ, giá trị, hành vi và thói quen lành mạnh. Vì vậy cần giáo dục KNS cho
trẻ ngay từ khi còn thơ bé, sẽ giúp trẻ tự biết chăm sóc và bảo vệ bản thân tránh
khỏi những nguy hiểm. Trẻ có thể hoà nhập nhanh với cuộc sống xung quanh,
biết cách phát triển các mối quan hệ với mọi người, với thiên nhiên từ đó học
hỏi và làm giàu thêm vốn kiến thức, kinh nghiệm cũng như các kĩ năng của bản
thân. Nếu thiếu các kĩ năng sống cần thiết, trẻ sẽ khó tránh khỏi những lúng
15


túng, sai phạm thậm chí gặp nguy hiểm khi phải giải quyết các tình huống xảy ra
trong cuộc sống hàng ngày. Việc trang bị những KNS phù hợp giúp trẻ có cơ hội
phát triển nhân cách đầy đủ và đúng hướng.
Có rất nhiều định nghĩa về KNS, tùy theo góc độ tiếp cận, lý thuyết ứng
dụng, đối tượng được giáo dục KNS. Dựa vào những quan điểm của các nhà
nghiên cứu, có thể hiểu KNS là những năng lực tâm lý - xã hội, là hành động
tích cực, có liên quan đến kiến thức và thái độ, trực tiếp hướng vào hoạt động
của cá nhân, hoặc tác động vào người khác, hoặc hướng vào những hoạt động là
thay đổi môi trường xung quanh, giúp mỗi cá nhân ứng phó có hiệu quả với các
yêu cầu, thách thức của cuộc sống hằng ngày.
Các kỹ năng sống cần và có thể giáo dục cho trẻ mầm non là: kỹ năng nhận
thức, kỹ năng vận động, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự phục vụ và tự vệ, kỹ năng

kiểm soát cảm xúc, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng hợp tác...
Để thiết lập kĩ năng về bất cứ một hành động nào, con người đều cần luyện
tập theo một quy trình và cần hình thành kĩ năng cho trẻ qua các bước:
- Trẻ có kiến thức về hành động: mục đích, đối tượng, cách thức, điều kiện
hành động
- Có sự hướng dẫn (gợi ý, làm mẫu) của người có kiến thức và kĩ năng cao
hơn, bên cạnh đó trẻ phải tích cực tham gia học hỏi, quan sát, làm thử…
- Trẻ vận dụng kiến thức, kinh nghiệm và những kĩ năng, kĩ xảo đã có vào
thực hành luyện tập để hình thành kĩ năng và sử dụng kĩ năng một cách linh
hoạt trong những điều kiện khác nhau.
Như vậy, để hành động trở thành kĩ năng cần trải qua một quá trình. Giáo
dục KNS cho trẻ phải gắn với các việc làm, tình huống cụ thể: trẻ được quan sát
người khác làm, trẻ được tự thực hiện để trải nghiệm. Sự trải nghiệm nhiều lần
sẽ giúp trẻ nhận thấy ý nghĩa thiết thực của việc làm, từ đó trẻ sẽ chủ động vận
dụng các kĩ năng cần thiết vào từng tình huống cụ thể trong cuộc sống. Hàng
ngày, chúng ta có thể giáo dục KNS cho trẻ qua nhiều hình thức khác nhau:
- Thông qua hoạt động vui chơi: vui chơi là hoạt động tạo cho trẻ nhiều
hứng thú và cũng cho trẻ cơ hội được vận dụng nhiều kiến thức kĩ năng khác
nhau vào giải quyết nhiệm vụ chơi. Trẻ được thử nghiệm nhiều vai trò khác
16


nhau qua các vai chơi; được phát huy trí tưởng tượng, sáng tạo; học hỏi và hợp
tác với các bạn cùng chơi...ví dụ trong trò chơi gia đình trẻ phải điều hoà các
mối quan hệ với hai vai trò khác nhau: mối quan hệ với bạn cùng chơi (quan hệ
thật) và quan hệ với các nhân vật trong trò chơi (quan hệ giả). Để trò chơi phát
triển mỗi đứa trẻ đều phải cùng cố gắng hoàn thành tốt vai trò của mình đồng
thời phải biết chia sẻ, hợp tác với các bạn khác.
- Thông qua sinh hoạt hàng ngày: sinh hoạt hàng ngày của trẻ đa phần là
những hoạt động lặp đi lặp lại vì vậy trẻ được rèn luyện nhiều và thực hiện các

công việc đó một cách dễ dàng vì đã thành nếp sinh hoạt. Ngoài ra, trong sinh
hoạt trẻ cũng gặp phải những vấn đề mới nảy sinh - đó chính là cơ hội quý để
hình thành những kĩ năng sống mới.
- Thông qua xem phim, nghe kể chuyện: nội dung các bộ phim, câu
chuyện phù hợp sẽ là gợi ý cho trẻ về cách cư xử đúng, cách giải quyết vấn đề
hiệu quả.
- Thông qua hoạt động sáng tạo: Với trò chơi đóng vai, trẻ “nhập vai” và
giải quyết tình huống giả định, giúp trẻ tập các kĩ năng sống một cách nhẹ
nhàng, thú vị. Ví dụ: đi siêu thị mà bị lạc thì trẻ làm gì?, làm hỏng đồ chơi của
bạn trẻ sẽ làm thế nào?...
Như vậy, việc giáo dục kĩ năng sống cho trẻ ngay từ khi còn nhỏ là việc
làm cần thiết và có ý nghĩa thiết thực. Mỗi đứa trẻ có những yếu tố cá nhân khác
nhau và sự ảnh hưởng của các quan hệ xã hội cũng như hoàn cảnh sống, môi
trường trải nghiệm khác nhau nên nhà giáo dục cần có những hình thức, biện
pháp linh hoạt, hợp lý dựa trên quan điểm then chốt của giáo dục mầm non là
“Lấy trẻ làm trung tâm” và tận dụng các điều kiện để tạo ra nhiều cơ hội cho đứa
trẻ được tự trải nghiệm. Với kĩ năng sống phong phú trẻ sẽ biết cách khai thác
kiến thức từ cuộc sống xung quanh, tạo lập các mối quan hệ với tự nhiên và con
người để sống an toàn, hòa bình và phát triển.
1.1.6. Định hướng GDKNS trong nhà trường phổ thông ở Việt Nam
Bộ Giáo dục và Đào tạo thống nhất quan điểm của UNICEF: Kỹ năng
sống là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. (Cách tiếp cận
này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kỹ năng).
Mục đích và yêu cầu của đưa giáo dục kỹ năng sống vào các hoạt động
17


giáo dục kỹ năng sống tạo cơ hội cho trẻ vận dụng kiến thức, kỹ năng đã học
vào giải quyết các vấn đề của thực tiễn gần gũi với đời sống hàng ngày.
- Tổ chức GDKNS nhằm tạo hứng thú, sáng tạo và tính tích cực hơn trong

các hoạt động của trẻ tránh làm hình thức, làm quá tải chương trình hiện có.
Nội dung giáo dục KNS cho trẻ trong chương trình GDMN:
Đơn giản; Gần gũi; Thiết thực với cuộc sống; Tạo cơ hội cho trẻ vận dụng kiến
thức, kỹ năng đã học vào giải quyết các vấn đề của thực tiễn gần gũi với đời
sống của trẻ; Tạo hứng thú, sáng tạo và tính tích cực hơn trong các hoạt động
cho trẻ
Ví du: Kĩ năng xã hội
- Kĩ năng ứng xử phù hợp với những người gần gũi xung quanh
- Kĩ năng hợp tác
- Kỹ năng tuân thủ các quy tắc xã hội
- Kỹ năng giao tiếp lịch sự, lễ phép
- Kỹ năng tự phục vụ
1.2. GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO TRẺ MẦM NON

1.2.1. Mục tiêu và nhiệm vụ của giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
Mục tiêu của giáo dục kỹ năng sống là rèn luyện cách tư duy tích cực,
hình thành thói quen tốt thông qua các hoạt động và bài tập trải nghiệm.
Mục tiêu của giáo dục kỹ năng sống là để giúp người học có khả năng làm chủ
bản thân, ứng xử phù hợp với xung quanh và có khả năng ứng phó tích cực
trước các tình huống của cuộc sống.
Mục tiêu giáo dục KNS cho trẻ MN là nhằm giúp trẻ có kinh nghiệm
trong cuộc sống, biết được những điều nên làm và không nên làm, giúp trẻ tự
tin, chủ động và biết cách xử lý các tình huống trong cuộc sống, khơi gợi khả
năng tư duy sáng tạo của trẻ, đặt nền tảng cho trẻ trở thành người có trách nhiệm
và có cuộc sống hài hòa trong tương lai.
Các nhóm KNS có thể dạy cho trẻ em tuổi mầm non:
- Nhóm kĩ năng chăm sóc bản thân
- Nhóm kĩ năng quản lý cảm xúc
- Nhóm kĩ năng giao tiếp
- Nhóm kĩ năng đảm nhận trách nhiệm

- Nhóm kĩ năng lãnh đạo
1.2.2. Các nguyên tắc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non
- Thay đổi trạng thái của trẻ từ bị động sang chủ động.
- Gắn liền kỹ năng với tình huống thực hành.
18


- Đưa ra gợi ý nhưng để trẻ được lựa chọn các giải pháp khác nhau.
- Gắn liền các nhóm kỹ năng cá nhân và kỹ năng xã hội.
- Luôn đặt cá nhân trẻ trong cộng đồng khi xử lý tình huống.
- Củng cố duy trì các kỹ năng thông qua suy nghĩ và hành vi.
1.2.3. Nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non
- Tạo cơ hội cho trẻ vận dụng kiến thức, kỹ năng đã học vào giải quyết
các vấn đề của thực tiễn gần gũi với đời sống của trẻ.
- Tạo hứng thú, sáng tạo và tính tích cực hơn trong các hoạt động cho trẻ
- Sự hợp tác, tự kiểm tra, tính tự tin, tự lập, tò mò, khả năng thấu hiểu và
giao tiếp.
- Học cách có được những mối liên kết mật thiết với các bạn khác trong
lớp, biết chia sẽ, chăm sóc, lắng nghe, trình bày và diễn đạt được ý của
mình trong nhóm bạn.
- Giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới.
- Biết giới thiệu về bản thân và gia đình mình trước đám đông, biết mình
đang học lớp nào, thích cái gì và địa chỉ nhà mình ở đâu.
- Nhận biết các ưu khuyết điểm của bản thân.
- Biết cách ứng xử với mọi người xung quanh. Học cách lắng nghe mọi
người và đối đáp.
- Nhận biết những hoàn cảnh không an toàn, cách giữ an toàn cho mình
nơi công cộng (trong sân trường, công viên, siêu thị, ngoài phố, khi gặp
người lạ,…)
- Đơn giản.

- Gần gũi
- Thiết thực với cuộc sống.
1.2.4. Phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non
- Làm gương/làm mẫu
- Trải nghiệm
- Trò chơi
- Tập luyện thường xuyên
- Trò chuyện, đàm thoại
- Giải quyết tình huống
- Thông qua các hoạt động nghệ thuật như vẽ tranh, ca hát, nhảy múa, kể
chuyện
- Khen ngợi, động viên trẻ kịp thời
- Các hoạt động giáo duc KNS trong trường MN
19


Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ có thể tiến hành trong tất cả các hoạt động giáo
dục hàng ngày như: vui chơi, học tập, chăm sóc sức khỏe, lao động vừa sức, lễ
hội, tham quan...Mỗi hoạt động có ưu thế riêng đối với việc dạy những KNS cần
thiết với cuộc sống của trẻ. Để có được KNS trẻ cần phải có thời gian, trong một
quá trình tập luyện thường xuyên với sự hỗ trợ của người lớn và bạn bè.
Cô giáo có thể sử dụng các biện pháp kết hợp như sau:
a) Giáo dục lồng ghép
Đối với trẻ mầm non, rèn kỹ năng sống cho trẻ là rèn luyện kỹ năng ứng xử
hợp lý các tình huống trong cuộc sống, thói quen và kỹ năng làm việc sinh hoạt
theo nhóm, rèn luyện sức khoẻ và ý thức bảo vệ bảo vệ sức khoẻ, kỹ năng phòng
chống tai nạn, rèn luyện kỹ năng ứng xử văn hoá …
Một trong những kỹ năng đó là kỹ năng phòng chống tai nạn, biết tự bảo vệ
mình vô cùng cần thiết. Ngay từ nhỏ, trẻ cần được giáo dục kỹ năng ứng biến
khi gặp các tình huống khó khăn. Đó chính là những kỹ năng mà trẻ cần được

trang bị để đề phòng bất trắc xảy ra.
Với trẻ mẫu giáo bé, trẻ còn nhỏ tuổi, kinh nghiệm sống chưa có nên kỹ
năng phòng chống tai nạn ở trẻ còn hạn chế. Trẻ chưa nhận thức được mối nguy
hiểm xảy ra xung quanh trẻ và cách nhận biết, phòng tránh và xử lý cho phù
hợp.
Chính vì vậy, với nội dung này, ngay từ đầu năm học cùng với giáo viên
trong lớp, cần nghiên cứu đưa ra những nguy cơ cụ thể có thể xảy ra mất an toàn
với trẻ và đưa vào dạy trẻ ở mọi thời điểm trong ngày. Những nội dung đó được
gắn vào các chủ điểm trong năm một cách phù hợp.
Khi đã đưa ra được những nội dung phù hợp với trẻ thì việc lựa chọn
phương pháp, biện pháp để chuyển tải đến trẻ đạt hiệu quả tối ưu nhất cũng rất
quan trọng. Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý của trẻ mầm non là tư duy trực
quan hình tượng, những kiến thức giáo dục cho trẻ phải cụ thể, gần gũi dễ hiểu
đối với trẻ.
b) Thông qua việc tạo tình huống cụ thể
Trước đây, với những nội dung dạy trẻ nhận biết một số nguy cơ không
an toàn và cách phòng tránh thì giáo viên thường giáo dục trẻ với những lời dặn
dò nhắc nhở đơn giản thông qua nội dung các bài thơ, câu chuyện, bài hát có nội
dung giáo dục dạy trẻ. Song trên thực tế, trong chương trình có rất ít bài hát, bài
thơ, câu chuyện có nội dung đó. Vì vậy, cần nghiên cứu lựa chọn những tình
huống bất trắc thường xảy ra đưa ra những tình huống cụ thể để dạy trẻ có kỹ
năng ứng biến khi gặp tình huống khó khăn, biết cách suy nghĩ và giải quyết.
20


Ví dụ, với chủ điểm “Bản thân”. Trước đây, thông qua câu chuyện “Chú
vịt xám” hoặc nội dung bài hát “Đàn Vịt con” chỉ dùng lời giáo dục trẻ: “Khi
đi công viên hoặc đến những nơi công cộng thì phải đi với bố mẹ, không được
chạy lung tung để khỏi bị lạc” chứ chưa dạy trẻ nếu chẳng may xảy ra sẽ phải xử
lý như thế nào.

Với cách giáo dục như vậy kết quả đạt trên trẻ chưa đạt hiệu quả. Trẻ ghi
nhớ một cách thụ động và thường chóng quên. Và điều cốt yếu trẻ không hiểu
cốt lõi của vấn đề là tại sao không nên làm như vậy và nếu xảy ra thì phải làm
thế nào. Do đó bây giờ ngoài việc giáo dục như vậy vào giờ hoạt động chiều,
cần đưa ra tình huống “Khi bé bị lạc mẹ trong siêu thị - bé sẽ làm gì ?
Cho trẻ suy nghĩ, mỗi trẻ đưa ra một cách giải quyết của riêng trẻ. Lắng nghe ý
kiến của trẻ, cho trẻ suy nghĩ và trả lời theo ý kiến của mình, gợi mở cho trẻ
bằng các câu hỏi: Theo con làm như vậy có được không? Tại sao? Sau đó, cô
giúp trẻ rút ra phương án tối ưu nhất.
Khi bị lạc mẹ, bé hãy bình tĩnh, không khóc và chạy lung tung mà hãy
đứng yên tại chỗ chờ. Vì bố, mẹ sẽ quay lại chỗ đó để tìm bé. Hoặc bé có thể
đến chỗ chú bảo vệ, cô bán hàng trong siêu thị ở gần chỗ đó để nhờ gọi điện
thoại, hoặc thông báo lên loa để tìm bố mẹ. Tuyệt đối không đi theo người lạ dù
người đó có hứa sẽ đưa về với bố mẹ. Vì có thể đó sẽ là kẻ xấu lợi dụng cơ hội
đó bắt cóc hoặc làm hại bé.
Với tình hình phức tạp trong xã hội hiện nay, nhiều tình huống bất trắc có
thể xảy ra đối với trẻ như bị bắt cóc, xâm hại... nên đưa ra những tình huống để
dạy trẻ như:
“Nếu có người không quen biết cho bé quà bé nên làm như thế nào ?
Ở tình huống này, với lứa tuổi của trẻ trên thực tế trẻ rất thích khi được
cho quà và sẽ không biết tại sao không được nhận.
Khi trẻ thảo luận, cần đưa ra những giả thiết, những tình huống xấu “Nếu
đó là kẻ xấu thì sẽ rất nguy hiểm cho bé”. Phân tích, giải thích cho trẻ và giúp
trẻ có phương án giải quyết đó là:
Tuyệt đối không nhận quà, ăn bánh kẹo của người lạ vì có thể bị người xấu
tẩm thuốc mê và trúng mưu của kẻ xấu.
Khi gặp trường hợp này bé nên nói “Cháu cám ơn, nhưng bố mẹ cháu
không cho nhận quà của người lạ”.
Với chủ điểm“Gia đình”, ngoài việc giáo dục trẻ nhận biết và tránh
những đồ dùng nguy hiểm như bàn là, phích nước, bếp đang đun.

Chúng ta đưa tình huống trẻ biết tránh những mối nguy hiểm khác như:
21


“Nếu con đang ở nhà một mình, có người đến gọi mở cửa con sẽ làm gì ?
Chúng ta cho trẻ nói suy nghĩ, cách giải quyết của mình. Trong khi thảo
luận với trẻ cô gợi mở: cũng có trường hợp kẻ xấu có thể gây hại cho bé hoặc
lấy trộm đồ của gia đình cũng chính là người thu tiền điện, nước hoặc chính là
người quen biết với bố mẹ bé để giúp trẻ suy đoán tìm cách giải quyết. Sau đó
cô giúp trẻ rút ra phương án tối ưu nhất trong trường hợp này:
Tuyệt đối không mở cửa, kể cả đó có thể là người quen của bố mẹ, người
thu tiền điện, nước. Nếu có người lớn ở trên gác chưa biết thì gọi xuống, còn
nếu không có ai ở nhà thì hẹn họ nhắn lại gì hoặc tối đến gặp bố mẹ.
Trong thời gian gần đây, cháy nổ là hiểm hoạ luôn rình rập với tất cả mọi
nhà. Chính vì vậy, với trẻ mẫu giáo tuy trẻ còn nhỏ tuổi nhưng cũng cần dạy cho
trẻ một số kỹ năng ứng biến nếu chẳng may có điều đó xảy ra.
“Nếu bé thấy có khói, hoặc cháy ở đâu đó bé sẽ phải làm thế nào?”
Qua tình huống này cần dạy trẻ:
Khi thấy có khói hoặc cháy ở đâu, trước hết bé phải chạy xa chỗ cháy,
Hãy hét to để báo với người nhà và những người xung quang có thể nghe thấy.
Nếu không có người ở nhà thì chạy báo cho hàng xóm.
Từ những tình huống cụ thể mà rất dễ xảy ra đối với trẻ, bằng cách cho trẻ
thảo luận, yêu cầu trẻ suy nghĩ, vận dụng vốn hiểu biết của mình đã có để tìm
cách giải quyết vấn đề. Thông qua đó cô giúp trẻ tìm ra phương án tối ưu nhất,
đó cũng chính là kinh nghiệm mà ta cần dạy trẻ. Thông qua hoạt động đó cũng
giúp trẻ có sự tư duy lôgic, biết cách diễn đạt suy nghĩ của mình và giúp trẻ có
thêm kinh nghiệm trong cuộc sống.
c) Thông qua nội dung các câu chuyện
Xuất phát từ đặc điểm tâm lý của trẻ mầm non là rất thích nghe kể
chuyện. Nội dung các câu chuyện thường để lại ấn tượng cho trẻ khó phai mờ.

Chính vì vậy cần sáng tác hoặc sưu tầm một số câu chuyện lồng vào đó các tình
huống để giáo dục trẻ. Giúp trẻ tiếp nhận một cách hứng thú, tự nguyện.
- Ở chủ điểm “Nước và mùa hè”. Với đặc thù trẻ đang sống ở thành phố,
vì vậy ngoài việc giáo dục trẻ tránh xa ao, hồ, hố nước nguy hiểm mà môi
trường sống của trẻ ít gặp. Thì nhà vệ sinh cũng nhiều tình huống có thể gây
nguy hiểm cho trẻ. Chính vì vậy, cần đưa ra những tình huống để dạy trẻ cách
sử dụng an toàn trong phòng tắm bằng cách đưa vào câu chuyện để trẻ rút ra bài
học kinh nghiệm cho mình.

22


CHUYỆN : TRONG PHÒNG TẮM
Hôm nay, trời rất nóng. Vừa về đến nhà Minh đã giục mẹ:
“Mẹ ơi, con nóng quá, cho con đi tắm”.
Mẹ nhắc:
“Con ngồi một tí cho ráo mồ hôi đã rồi hãy vào tắm nếu không sẽ dễ bị cảm
đấy”
Minh ngồi ở quạt cho đỡ mồ hôi rồi vào tắm.
Mẹ lấy ghế cho Minh ngồi rồi nhẹ nhàng xả nước gội đầu cho Minh. Gội đầu
xong mẹ bảo:
“Con ngồi đây kì cọ cho sạch đi nhé, mẹ ra cắm nồi cơm rồi mẹ vào tắm cho,
con cẩn thận sàn nhà trơn lắm đấy”.
Mẹ ra rồi, Minh thích thú đùa nghịch với dòng nước mát. Cu cậu vặn nước rồi
đùa nghịch với dòng nước. Hứng trí cậu còn đứng lên nhảy nhót vừa té nước
vừa cười khanh khách. Bỗng “Oạch” Minh bị trượt chân ngã đầu đập xuống nề
đau điếng. Minh khóc ầm lên gọi mẹ.
Mẹ vội vàng chạy vào đỡ Minh dậy, xem xét xem Minh có sao không. May mà
chỉ hơi sưng.
Mẹ nói: “Mẹ đã nhắc con phải cẩn thận rồi mà, sàn nhà tắm khi có nước vào sẽ

rất trơn, nếu không cẩn thận sẽ bị ngã rất nguy hiểm, lần sau khi tắm con phải
cẩn thận, đứng tại chỗ hoặc ngồi xuống ghế con nhớ chưa nào?.
- Vâng ạ.
Từ đấy, mỗi khi đi tắm Minh luôn lấy ghế ngồi, không bao giờ đùa nghịch trong
nhà tắm nữa.
Qua câu chuyện giúp trẻ rút ra bài học:
- Sàn nhà tắm rất trơn, tuyệt đối không chạy nhảy, leo trèo sẽ dễ bị ngã.
Có những tình huống bất trắc xảy ra không chỉ với trẻ mà đôi khi còn xảy ra
với cả người lớn đó chính là nội dung câu chuyện.
CHUYỆN: CHIẾC Ổ KHOÁ
Hôm nay chủ nhật, mẹ đưa Khôi đến nhà bác Hạnh làm cùng cơ quan mẹ chơi.
Nhà bác Hạnh thích thật, có cả sân chơi và một khu vườn nhỏ trước sân nhà
nữa. Khi mẹ và bác Hạnh nói chuyện Khôi xin phép mẹ ra sân chơi.
Ra đến sân, Khôi mê mải ngắm những chú chim sâu đang vừa chuyền cành vừa
kêu lích tích như đang trò chuyện.
Ngắm chán, Khôi chạy đi nhặt những chiếc lá rụng để xếp các hình mà cô đã
dậy ở lớp như: Xếp hình ông mặt trời, bông hoa, chiếc thuyền …
23


Đang chơi, Khôi nghe tiếng bác Hạnh gọi to:
“Khôi ơi, vào ăn bánh đi cháu”. Khôi chạy vội vào nhìn đĩa bánh một cách
thích thú. Mẹ nhắc:
“Con vào rửa tay đi rồi hãy ra ăn nhé”.“Vâng ạ”
Khôi chạy vội vào nhà vệ sinh để rửa tay, xong khi quay ra sờ đến nắm chốt
cửa cậu ngạc nhiên “Ôi, sao không giống ở nhà mình”.
Cậu thích thú đóng cửa , xoay vặn chốt với vẻ tò mò.
Tiếng khoá kêu: “tách, tách” làm cu cậu càng thích thú.
Bỗng có tiếng mẹ gọi: Khôi ơi, xong chưa nào?
“Vâng ạ, con ra ngay đây.

Khôi xoay tay nắm để mở cửa giống như ở nhà mình mà không tài nào mở
được. Cậu loay hoay xoay đi xoay lại mà không được. Cu cậu sợ quá khóc oà
lên. Mẹ và bác Hạnh vội vàng chạy lại hướng dẫn Khôi cách mở khoá những cu
cậu càng khóc to hơn. Cuối cùng bác Hạnh phải thuê thợ cắt kính vào cắt để có
thể thò tay vào mở khoá cửa.
Cửa vừa mở, Khôi ào ra ôm chầm lấy mẹ khóc nức nở “Mẹ ơi, con sợ quá”.
Đợi khôi bình tĩnh, mẹ mới ôn tồn giải thích và nhắc nhở: “Lần sau, đi đâu con
không được nghịch khoá như thế nữa nhé, khoá mỗi nhà có các cách sử dụng
khác nhau. Nếu hôm nay, mẹ và bác Hạnh không biết thì sẽ nguy hiểm thế nào.
Mà con xem bây giờ bác Hạnh phải chữa lại cửa rồi.
Khôi ân hận cúi đầu: “Vâng ạ, con xin lỗi bác, con xin lỗi mẹ ạ”
Bác Hạnh tươi cười bảo: Thôi, không sao đâu. Cháu biết lỗi vậy là được rồi.
Lần sau nhớ nhé.
Từ đó, Khôi luôn nhớ lời mẹ dặn
Với câu chuyện này giáo dục trẻ:
- Không vào nhà vệ sinh một mình và chốt, khoá cửa.
Bên cạnh đó, cần đưa ra những tình huống khác đối với trẻ như:
- Không tự ý xả nước ở vòi vì dễ xảy ra bỏng khi sử dụng bình nóng lạnh
- Khi tắm bồn: Chờ người lớn xả nước và giúp vào bồn. Không tự ý xả nước và
trèo vào đề phòng nước quá nhiều sẽ nguy hiểm, không nằm bồn tắm quá lâu …
- Trong cuộc sống sinh hoạt thường ngày, có rất nhiều tình huống bất trắc trẻ rất
dễ gặp trong cuộc sống, tuy nhiên chúng ta ít khi đưa vào dạy trẻ .Với nền kinh
tế phát triển như hiện nay, nhiều gia đình sử dụng ô tô là phương tiện đi lại của
gia đình hàng ngày. Trong việc chấp hành luật lệ an toàn giao thông khi đi ô tô
và xe máy đối với trẻ thường các bậc phụ huynh vẫn còn coi nhẹ chưa được thực
hiện nghiêm túc.
24


Với “Chủ điểm giao thông” đưa tình huống cho trẻ qua câu chuyện:

MỘT CHUYẾN VỀ QUÊ
Ngày chủ nhật, Tuấn được bố đưa về quê chơi. Lên ô tô, bố cài dây bảo hiểm
cho Tuấn và của mình. Xe chạy một lát đã ra đến ngoại ô. Cảnh vật hai bên
đường thật đẹp. Tuấn thích thú nhoài người về phía cửa sổ và nhìn ra ngoài,
nhưng bị vướng dây bảo hiểm làm Tuấn không quay người để nhìn rõ được.
Tuấn liền cởi dây bảo hiểm ra. Thoát khỏi dây bảo hiểm, Tuấn thấy thật thoải
mái, cậu tha hồ quay sang 2 bên để ngắm cảnh. Xe đang lao nhanh. Bỗng… từ
xa có một chú bê chạy qua đường. Xe phanh gấp đột ngột làm cho Tuấn ngã
nhào về phía trước, đầu đập vào phía trước đau điếng. Bố dừng xe, đỡ Tuấn dậy
và ôn tồn nhắc nhở: Sao con lại cởi dây bảo hiểm ra, khi xe phanh gấp sẽ rất
nguy hiểm. May hôm nay con chưa bị làm sao đấy .
Tuấn ân hận xin lỗi bố: Con xin lỗi bố, con nhớ rồi ạ .
Từ đó trở đi, mỗi khi đi ô tô Tuấn luôn nhớ cài dây bảo hiểm để đảm bảo an
toàn giao thông.
CHUYỆN: ĐI XE MÁY
Hôm nay, trường Hà tổng kết năm học đặc biệt là lễ chia tay các bé lớp mẫu
giáo lớn như lớp của Hà. Cu cậu háo hức dậy thật sớm, giục mẹ đưa đi sớm đến
trường vì hôm nay là buổi học cuối cùng mà. Ăn sáng song, cậu vội vàng đeo ba
lô chạy ra ngõ đợi mẹ.
Ra đến đường, Hà luôn miệng giục mẹ:
“Mẹ ơi, mẹ đi nhanh lên nhé”.
Đang đi, bỗng Hà chợt nhớ ra, cậu kêu lên:
“Mẹ ơi, con quên mất mũ bảo hiểm ở nhà rồi.
Mẹ nói: “tại con cứ vội cuống lên đấy mà”. Thôi, mẹ con mình quay lại để lấy
nhé.
- “Không, bây giờ mà quay về thì muộn mất mẹ ạ”
Hà nhất định không chịu quay lại để lấy mũ, mẹ đành phải nhượng bộ không
quay về nữa.
Đang đi, bỗng chiếc xe phía trước chở thùng cam bị rơi xuống đường, làm cam
rơi tung toé. Mẹ vội vàng phanh gấp làm xe loạng choạng rồi đỏ kềnh làm hai

mẹ con ngã lăn ra đường. Hà bị đập đầu xuống đường.
Chú công an đang đứng bên đường nhìn thấy chú bèn bước sang đỡ hai mẹ con
dậy, chú lo lắng hỏi: “Chị và cháu có sao không”. Mẹ xem xét chỗ vết thương
của Hà và nói: “Cảm ơn anh, mẹ con tôi không sao ạ”
25


×