Tải bản đầy đủ (.pdf) (182 trang)

Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh, thành phố ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 182 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ LAN

NỮ TRÍ THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ
TỈNH, THÀNH PHỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

HÀ NỘI - 2017


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ LAN

NỮ TRÍ THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ
TỈNH, THÀNH PHỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Mã số: 62 22 03 08

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐỖ THỊ THẠCH

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực,
có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả

Nguyễn Thị Lan


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN

1.1. Những công trình nghiên cứu ở trong nước có liên quan đến đề tài luận án
1.2. Những công trình nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan đến luận án
1.3. Đánh giá những công trình tổng quan và những vấn đề luận án tiếp tục
làm sáng tỏ
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ VÀ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
NỮ TRÍ THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Quan niệm về nữ trí thức, nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam
2.2. Đặc điểm và vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam
hiện nay
2.3. Những yếu tố tác động đến vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị


7
7
22
26
31
31
35
55

Chương 3: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VAI TRÒ CỦA NỮ TRÍ THỨC
TRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
HIỆN NAY

3.1. Thực trạng thực hiện vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị
hiện nay
3.2. Những vấn đề đặt ra đối với phát huy vai trò nữ trí thức trong các trường
chính trị hiện nay

68
68
97

Chương 4: QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT
HUY VAI TRÒ NỮ TRÍ THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. Quan điểm cơ bản phát huy vai trò nữ trí thức trong các trường chính trị ở
Việt Nam hiện nay
4.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của nữ trí thức trong các
trường chính trị hiện nay

4.3. Đề xuất một số khuyến nghị
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

114
114
121
142
148
151
152
164


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Một số trường chính trị có tỷ lệ nữ trí thức thấp trong tổng số
đội ngũ trí thức của nhà trường

41

Bảng 2.2: Một số trường chính trị có số lượng nữ trí thức chiếm tỷ lệ cao
trong tổng số đội ngũ trí thức nhà trường

42

Bảng 2.3: Trình độ học vấn của nữ trí thức ở một số trường chính trị

trong cả nước

45

Bảng 3.1: Chức danh giảng dạy của nữ giảng viên ở một số trường
chính trị

69

Bảng 3.2: Nữ trí thức ở một số trường chính trị tham gia các chương
trình đào tạo, bồi dưỡng

72

Bảng 3.3: Số lượng lớp và chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của một số
trường chính trị trong năm học 2015 - 2016

77

Bảng 3.4: Số lượng nữ trí thức tham gia đề tài nghiên cứu khoa học cấp
cơ sở ở một số trường chính trị

81

Bảng 3.5: Số lượng nữ trí thức tham gia đề tài nghiên cứu khoa học cấp
tỉnh, thành phố ở một số trường chính trị từ năm 2008 đến 2015

82

Bảng 3.6: Số lượng nam/nữ trí thức tham gia đề tài nghiên cứu khoa học

cấp tỉnh, thành phố ở một số trường chính trị

84

Bảng 3.7: Số lượng nữ trí thức tham gia Ban chấp hành Đảng bộ ở một
số trường chính trị nhiệm kỳ 2010 - 2015 và 2015 - 2020

91

Bảng 3.8: Số lượng nữ trí thức tham gia Ban Giám hiệu ở một số trường
chính trị hiện nay

92


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Ở Việt Nam, hiện nay có 63 trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương (sau đây gọi chung là trường chính trị), được Đảng, Nhà nước
giao thực hiện chức năng, nhiệm vụ là tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh
đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở, cán bộ, công chức ở địa phương
về lý luận chính trị - hành chính; đường lối, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước; kiến thức và chuyên môn, nghiệp vụ
về công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội; kiến thức về pháp luật và quản lý nhà nước và một số lĩnh
vực khác [17].
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, cùng với sự phát triển đi lên
của đất nước, trong những năm qua hệ thống các trường chính trị đã không
ngừng phát triển, có nhiều đóng góp tích cực, hiệu quả vào sự nghiệp đào tạo,

bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị ở cơ sở, từng bước đáp ứng
yêu cầu đặt ra của sự nghiệp đổi mới đất nước. Những kết quả đạt được trong
việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của các trường chính trị tỉnh, thành phố có
sự đóng góp quyết định của đội ngũ trí thức nói chung và nữ trí thức nói riêng
đang làm việc ở các cơ sở đó.
Là một bộ phận chủ lực trong công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học,
lãnh đạo, quản lý trong các trường chính trị, trong những năm qua, được sự
quan tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền, nhà trường và sự vươn lên của
bản thân, đội ngũ nữ trí thức các trường chính trị không ngừng phát triển cả
về số lượng, cơ cấu và chất lượng. Họ đã và đang làm việc hăng say, nhiệt
huyết với tinh thần, trách nhiệm cao nhất trong thực hiện nhiệm vụ chuyên
môn. Một số chị đã trở thành nhà giáo ưu tú, giáo viên dạy giỏi toàn quốc; có
chị trở thành nhà quản lý giỏi với cương vị là thủ trưởng đơn vị. Hiện nay, nữ


2
trí thức các trường chính trị tham gia công tác lãnh đạo, quản lý từ cấp khoa,
phòng trở lên chiếm trên 20%, trong đó cán bộ quản lý cấp trường chiếm tỷ lệ
khoảng 8%; tỷ lệ có học hàm, học vị cũng được tăng lên,… Những đóng góp
của các chị góp phần không nhỏ vào thành tích to lớn của các nhà trường
trong công tác đào tạo cán bộ của Đảng, nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, qua
đó góp phần khẳng định vị thế, vai trò của nữ trí thức Việt Nam nói chung
trong tiến trình xây dựng đất nước.
Tuy nhiên, từ thực tiễn ở các trường chính trị hiện nay, cho thấy, đội
ngũ nữ trí thức ở đây, chưa thực sự phát huy hết tiềm năng, vai trò; chưa đáp
ứng được yêu cầu khách quan của sự nghiệp đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý
cấp cơ sở cũng như công tác nghiên cứu khoa học phục vụ phát triển kinh tế xã hội địa phương. Tỷ lệ nữ trí thức ở các trường chính trị có trình độ đại học
trở lên chiếm ưu thế tuyệt đối (100%), nhưng càng ở bậc cao, tỷ lệ này càng
thấp đi, thậm chí rất thấp (tiến sỹ chỉ khoảng 2%, chỉ có 12,1% nhà giáo ưu
tú, chưa có nữ giáo sư, phó giáo sư...). Số lượng nữ trí thức người dân tộc

thiểu số chiếm tỷ lệ rất thấp. Phần lớn nữ trí thức có trình độ cao đều đã ở tuổi
cao, nữ trí thức trẻ làm lãnh đạo, quản lý nhà trường còn ít. Trình độ ngoại
ngữ, tin học, kiến thức, kỹ năng, năng lực lãnh đạo, quản lý của một bộ phận
không nhỏ nữ trí thức chưa tương xứng với yêu cầu phân cấp quản lý công
việc ở các trường chính trị hiện nay,…
Bất cập trên do nhiều nguyên nhân, như nhận thức xã hội về vai trò của
nữ trí thức chưa có sự công bằng so với nam trí thức; môi trường, điều kiện
làm việc, cơ chế, chính sách có tính đặc thù cho nữ trí thức trong các trường
chính trị còn hạn chế; do sự tự ty, an phận của một bộ phận không nhỏ nữ trí
thức v.v.. Vì vậy, trước yêu cầu của sự nghiệp đào tạo đội ngũ cán bộ cho cấp
cơ sở, nâng cao chất lượng về chuyên môn, nghiệp vụ, cũng như công tác
nghiên cứu khoa học góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương,… cần


3
phải phát huy vai trò của toàn thể đội ngũ cán bộ các nhà trường, trong đó có
vai trò quan trọng của đông đảo nữ trí thức các trường chính trị là rất cần
thiết, đòi hỏi phải có các giải pháp toàn diện, động bộ, khả thi.
Tuy nhiên, cho đến nay, ở nước ta chưa có một công trình nào nghiên
cứu cụ thể về nữ trí thức trong các trường chính trị. Đây là một khoảng trống
cần nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, của Đảng, Nhà nước, các
địa phương. Là một giảng viên đang giảng dạy tại trường chính trị, tác giả đã
lựa chọn đề tài “Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh, thành phố ở
Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ, chuyên ngành Chủ nghĩa xã
hội khoa học với mong muốn góp phần đề xuất các hướng phát triển đội ngũ
nữ trí thức các trường chính trị đáp ứng yêu cầu đào tạo cán bộ của Đảng,
Nhà nước hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của nữ trí thức trong các

trường chính trị ở Việt Nam, luận án đề xuất một số quan điểm cơ bản, giải
pháp chủ yếu góp phần phát huy vai trò nữ trí thức trong các trường chính trị
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống
chính trị cấp cơ sở hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Thứ nhất, làm rõ đặc điểm, vai trò và những yếu tố tác động đến nữ trí
thức trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, phân tích thực trạng thực hiện vai trò của nữ trí thức trong các
trường chính trị ở Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra.
Thứ ba, đề xuất các quan điểm cơ bản, những giải pháp chủ yếu nhằm
phát huy vai trò nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam đáp ứng yêu


4
cầu, nhiệm vụ đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ
sở hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đội ngũ nữ trí thức trong các trường chính trị ở
Việt Nam (vai trò, thực hiện vai trò).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Hiện nay, cả nước có 63 trường chính trị tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương. Tuy nhiên, trong luận án tác giả đã lựa chọn tiến
hành nghiên cứu, khảo sát nữ trí thức ở 08 trường chính trị đại diện cho các
vùng miền trong cả nước.
Phía Bắc: Trường Chính trị tỉnh Lào Cai, Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ,
Trường Chính trị Tô Hiệu thành phố Hải Phòng.
Miền Trung và Tây Nguyên: Trường Chính trị tỉnh Nghệ An, Trường
Chính trị tỉnh Quảng Ngãi, Trường Chính trị tỉnh Đắk Lắk.
Phía Nam: Trường Chính trị tỉnh Tây Ninh và Trường Chính trị thành phố

Cần Thơ.
- Về thời gian: Luận án nghiên cứu nữ trí thức trong các trường chính trị
từ năm 2008 đến nay (Từ khi có Quyết định 184-QĐ/TW, ngày 03/9/2008 của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy
của các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương).
- Về nội dung: Nữ trí thức trong các trường chính trị hiện nay tham gia
vào nhiều hoạt động khác nhau của nhà trường từ giảng dạy lý luận chính trị,
nghiên cứu khoa học, lãnh đạo, quản lý, công tác quản trị văn phòng, công tác
tài chính kế toán,… Tuy nhiên, trong giới hạn của luận án, tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu vai trò, thực hiện vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị


5
trên 03 lĩnh vực chủ yếu: (1) Hoạt động đào tạo, (2) Hoạt động nghiên cứu
khoa học và (3) Hoạt động lãnh đạo, quản lý của nhà trường.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đội
ngũ trí thức, nữ trí thức, vai trò của đội ngũ nữ trí thức.
Luận án tham khảo các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học ở trong
nước và nước ngoài liên quan đến đối tượng nghiên cứu của luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lịch sử, luận án sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so
sánh và một số phương pháp liên ngành.
Luận án sử dụng phương pháp điều tra xã hội học, gồm 01 mẫu phiếu
khảo sát, với số lượng: 425 phiếu; phạm vi: 08 trường chính trị tỉnh, thành phố
đã được lựa chọn ở mục phạm vi không gian; đối tượng phiếu khảo sát: 220 nữ
trí thức và 205 nam trí thức là cán bộ giảng viên, chuyên viên, lãnh đạo, quản
lý các cấp của nhà trường; kết quả khảo sát (Phụ lục 7).

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Một là, luận án góp phần làm rõ đặc điểm, vai trò, điểm mạnh, điểm hạn
chế trong thực hiện vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị hiện nay;
chỉ rõ những vấn đề đặt ra đối với việc phát huy vai trò của nữ trí thức trong
các trường chính trị hiện nay.
Hai là, luận án góp phần đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị nhằm
phát huy vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị đáp ứng yêu cầu
trong công tác đào tạo cán bộ cấp cơ sở hiện nay.


6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án cung cấp một số cơ sở lý luận, thực tiễn góp phần trong xây
dựng và thực hiện chính sách đối với nữ trí thức trong các trường chính trị nói
riêng, nữ trí thức làm công tác lý luận chính trị nói chung.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu,
giảng dạy và học tập những chuyên đề liên quan đến vấn đề con người, đội
ngũ trí thức, nữ trí thức, phụ nữ và các chuyên ngành khác có liên quan.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình của tác giả đã công
bố liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm
4 chương, 11 tiết.


7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN


1.1.1. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu về trí thức
Trong những năm qua, các công trình nghiên cứu về trí thức Việt Nam
rất đa dạng, phong phú, tiêu biểu như:
Hoàng Phê trong cuốn Từ điển Tiếng Việt cho rằng, trí thức là “người
chuyên làm việc lao động trí óc và có chuyên môn cần thiết cho hoạt động
nghề nghiệp của mình” [68]. Cách định nghĩa này đã chỉ ra một số đặc
điểm của trí thức, nhưng, cho đến nay, nó đã bị vượt qua, bởi nó chưa nhấn
mạnh được đặc điểm lao động đặc thù của người trí thức là lao động trí óc
sáng tạo, phức tạp, tạo ra những sản phẩm có giá trị đặc biệt về tinh thần,
vật chất.
Với hai công trình Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất nước
[44] và Trí thức Việt Nam tiến cùng thời đại [45] của Nguyễn Đắc Hưng đã
làm rõ quan niệm về trí thức; vị trí, vai trò của trí thức; những phương hướng
chủ yếu để xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức ở nước ta đáp ứng yêu cầu
của thời đại. Trên cơ sở khẳng định nội hàm rất rộng của khái niệm trí thức,
tác giả đã chỉ rõ: Trí thức là những người không chỉ có trình độ học vấn cao
mà điều quan trọng nhất là họ thực sự lao động bằng trí tuệ có tính sáng tạo,
có những cống hiến nhất định hữu ích cho xã hội và phải được xã hội kiểm
định chất lượng thông qua hoạt động thực tiễn [45, tr.16-17]. Đây là sự đổi
mới tư duy về trí thức, từ chỗ coi trọng trình độ chuyên môn được đào tạo đến
chỗ thừa nhận và đòi hỏi năng lực lao động thực tế thông qua sự kiểm định
khách quan của xã hội.


8
Nguyễn An Ninh, Phát huy tiềm năng của trí thức khoa học xã hội và
nhân văn trong công cuộc đổi mới đất nước [67]. Từ những kiến giải về tiềm
năng của trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong giai đoạn hiện nay, tác giả
đã đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm phát huy tiềm năng của đội ngũ này

góp phần vào quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong hai công trình nghiên cứu: Xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ
Việt Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất nước [48] và công trình Nguồn lực
trí tuệ Việt Nam - Lịch sử, hiện trạng và triển vọng [49] của Nguyễn Văn
Khánh đã tập trung luận chứng khoa học về vấn đề trí thức, nguồn lực trí tuệ
với cách tiếp cận liên ngành. Đội ngũ trí thức được tác giả quan niệm là tầng
lớp tinh hoa của nguồn lực trí tuệ Việt Nam. Trên cơ sở khảo sát, đánh giá chất
lượng của nguồn nhân lực này, ông đã đưa ra hệ thống giải pháp có ý nghĩa
thiết thực đối với việc xây dựng và phát huy vai trò của nguồn lực trí tuệ đáp
ứng yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp chấn hưng đất nước.
Nguyễn Khánh Bật, Trần Thị Huyền, Xây dựng đội ngũ trí thức thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh [10].
Đây là công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu về trí thức dưới góc độ
tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhóm tác giả đã khái quát những nội dung cơ bản
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức, làm rõ sự vận dụng sáng tạo của
Đảng và Nhà nước ta trong công tác xây dựng trí thức đồng thời đánh giá
những đóng góp, hạn chế của đội ngũ này trong cách mạng Việt Nam, trên
có sở đó, đi sâu phân tích những giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức ở nước
ta thời kỳ 2011 - 2020 đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Phạm Tất Dong trong đề tài Luận cứ khoa học cho các chính sách
nhằm phát huy năng lực sáng tạo của giới trí thức và sinh viên [15] đã tập
trung phân tích làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và tính pháp lý của việc


9
hoạch định chính sách, giải pháp hướng vào việc khơi dậy, khai thác, sử
dụng năng lực sáng tạo của giới trí thức và sinh viên trong hoạt động giáo
dục và đào tạo.
Đàm Đức Vượng, Nguyễn Viết Thông, Xây dựng đội ngũ trí thức Việt

Nam giai đoạn 2011- 2020 [122]. Đây là công trình nghiên cứu công phu và
có hệ thống về trí thức. Trên cơ sở đánh giá tổng thể về thực trạng đội ngũ trí
thức Việt Nam, đề tài đi sâu phân tích, kiến nghị những giải pháp nhằm xây
dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.
Đề tài đã làm rõ thêm nội hàm của khái niệm trí thức trên bình diện rộng.
Không những chỉ ra tính chất lao động trí óc cùng với những yêu cầu về sự
hiểu biết, trình độ, khát vọng dân chủ, công bằng, tự do và kết quả sáng tạo
trong việc truyền bá, phổ biến, ứng dụng vào đời sống xã hội của trí thức,
các tác giả đề tài còn xác định rõ thiên chức, phẩm chất, tính cách của người
trí thức Việt Nam. Đây là tư liệu quan trọng cho tác giả luận án khi nghiên
cứu về đặc điểm của đội ngũ nữ trí thức ở các trường chính trị ở Việt Nam
hiện nay.
Luận án Trí thức Việt Nam trong phát triển kinh tế tri thức [92] của
Nguyễn Công Trí, đã chỉ ra những đặc trưng, tiêu chí cơ bản để xác định trí
thức, vai trò của đội ngũ này trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức. Luận
án xác định, trí thức là người lao động trí óc và thường có trình độ học vấn
cao, được đào tạo hoặc tự đào tạo. Tuy nhiên, “giá trị quan trọng nhất của
người trí thức chân chính đó là chân lý và lẽ phải; trí thức là người tự tin và
ngay thẳng, có lòng tự trọng, khả năng hành xử đúng mực và thích ứng cao
với các biến đổi của môi trường tự nhiên, xã hội” [92, tr.30].
Trần Thị Lan trong cuốn Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo
dục đại học Việt Nam [55] đã nêu lên cơ sở lý luận về chất lượng lao động
của trí thức giáo dục đại học; đánh giá thực trạng chất lượng lao động của đội
ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam và đề xuất những giải pháp cơ bản để


10
nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ này. Tác giả luận án cho rằng “trí
thức là một tầng lớp xã hội được đặc trưng bởi phương thức lao động trí óc,
sáng tạo. Họ là lực lượng chủ yếu tham gia trực tiếp vào việc phát kiến, giữ

gìn và truyền bá tri thức góp phần thúc đẩy sự phát triển nhận thức khoa học
và sự tiến bộ của xã hội” [55, tr.26].
Tiếp tục làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và sự nhận thức
đúng đắn của Đảng ta trong quan điểm về trí thức, một số bài viết đăng trên
các tạp chí trong thời gian qua đã đề cập đến vấn đề này, tiêu biểu như: Đội
ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [50];
Những bài học từ quan điểm của Lênin về trí thức [51] của Phan Thanh Khôi;
và Suy ngẫm và nhận thức về vấn đề tri thức [6] của Nguyễn Đức Bách…
Đồng thời, nhiều bài viết đã khai thác những khía cạnh mới về chức năng,
nhiệm vụ, chính sách sử dụng, đãi ngộ trí thức và giải pháp phát huy vai trò
của đội ngũ trí thức nhằm đáp ứng đòi hỏi, yêu cầu của quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, hội nhập, phát triển kinh tế tri thức. Có thể kể đến một số
bài viết như có giá trị khoa học như: Mấy vấn đề cần đổi mới tạo động lực và
điều kiện để trí thức nước ta phát huy tài năng trí tuệ [5] của Nguyễn Đức
Bách và Nhà khoa học và sự sáng tạo trong khoa học xã hội [52] của Phan
Thanh Khôi,…
Bàn về khái niệm trí thức, Dương Trung Quốc, trong bài viết Đảng và
trí thức - một thoáng nhìn lịch sử [69] đã cho rằng, trí thức phải được coi là
một “phẩm chất” nhiều hơn là một tầng lớp. Do tác động của xu thế phát triển
giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ và sự phát triển của “kinh tế tri thức”
làm cho nội hàm của khái niệm “trí thức” cần được mở rộng hơn. Học vấn đã
có cơ hội đến với các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, mọi lực lượng lao động
xã hội đều phải coi tri thức là một nhu cầu sống còn của mình.
Những công trình nghiên cứu nêu trên đã cung cấp cơ sở lý luận, thực
tiễn quan trọng để tác giả luận án luận chứng về nữ trí thức, về vai trò của đội


11
ngũ nữ trí thức dưới góc độ là một bộ phận của đội ngũ trí thức trong điều
kiện đổi mới, hội nhập, phát triển kinh tế tri thức và công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về phụ nữ, bình đẳng giới và
nữ trí thức
Thứ nhất, những công trình nghiên cứu tiêu biểu về phụ nữ, bình
đẳng giới.
Khi nghiên cứu về phụ nữ, bình đẳng giới ở Việt Nam, các nhà nghiên
cứu đã tiếp cận dưới cả hai góc độ, vị thế, vai trò của phụ nữ trong gia đình
và ngoài xã hội. Một số công trình nghiên cứu về giới, bình đẳng giới ở Việt
Nam đã góp phần nâng cao nhận thức, lý luận và năng lực vận dụng quan
điểm giới, bình đẳng giới vào nghiên cứu những vấn đề đặt ra đối với nữ trí
thức trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay. Tiêu biểu có thể kể đến
một số công trình như sau:
Cuốn sách Địa vị người phụ nữ trong gia đình nữ trí thức [26] của
Đoàn Thị Bích Điểm đã chỉ ra rằng, vị thế của người phụ nữ ngày càng được
nâng cao trong gia đình so với phụ nữ Việt Nam trong chế độ xã hội cũ. Tuy
nhiên so với nam giới vị thế này vẫn còn kém xa, kể cả trong các gia đình nữ
trí thức. Họ chủ yếu có ưu thế trong việc quyết định những công việc liên
quan đến nội trợ, ít quan trọng hơn như mua thức ăn, quần áo, tiền học cho
con,... Tác giả cũng đã giải thích thực trạng trên là do dựa trên sự phân công
lao động xã hội theo giới. Phụ nữ là lực lượng thường xuyên thực hiện các
công việc nội trợ nên quyết định những công việc này. Đàn ông là trụ cột của
gia đình nên thường lo toan những việc lớn. Điều này đã khẳng định dù có
dân chủ hơn, bình đẳng hơn, các gia đình trong đó có gia đình nữ trí thức vẫn
bị ảnh hưởng bởi các định kiến giới.
Lê Thị Quý trong bài viết Phụ nữ trong đổi mới: Thành tựu và thách
thức [70] cho rằng nhiều nghiên cứu đã luận giải tỷ số chênh lệch giữa nam


12
và nữ với tư cách là lãnh đạo quản lý trong bộ máy nhà nước ở các cấp.

Đồng thời, tác giả bước đầu chỉ ra quan niệm, định kiến giới của một số
cán bộ chính quyền và người dân đối với việc phụ nữ tham gia lãnh đạo.
Nghiên cứu này đã cung cấp một số cơ sở cho đề tài khi nghiên cứu nữ trí
thức tham gia vào lĩnh vực lãnh đạo quản lý trong các trường chính trị ở
Việt Nam hiện nay.
Trong bài viết Chất lượng nguồn nhân lực nữ qua lăng kính giới [30]
của Lưu Song Hà, Phan Thị Thu Hà đã phân tích chất lượng nguồn nhân lực
nữ ở Việt Nam từ những khía cạnh thể lực, trí lực và tâm lực. Từ kết quả
nghiên cứu thực tiễn, nhóm tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm góp
phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ và bình đẳng giới. Nghiên cứu
này góp phần gợi mở cho tác giả luận án về những giải pháp nhằm nâng cao
việc thực hiện vai trò của nữ trí thức các trường chính trị trong việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị được giao.
Đỗ Thị Thạch trong bài Tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong
công tác lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay [79], đã nhấn mạnh ở Việt
Nam, cùng với tiến trình lịch sử của dân tộc, phụ nữ luôn phát huy vai trò
và tỏ rõ khả năng của mình trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần
tích cực vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước. Trong công cuộc đổi
mới hiện nay, vai trò của phụ nữ càng cần phải phát huy hơn bao giờ hết,
nhất là trong lãnh đạo, quản lý, vì phụ nữ vừa có tiềm năng, năng lực, vừa
có truyền thống trong lịch sử, vừa là yêu cầu chung trong sự nghiệp phát
triển đất nước.
Thứ hai, những công trình nghiên cứu về nữ trí thức
Nữ trí thức Việt Nam một bộ phận của trí thức Việt Nam, là bộ phận
tinh hoa của phụ nữ Việt Nam, cùng với đội ngũ trí thức và phụ nữ Việt Nam,
cho đến nay, nhiều nhà khoa học trong nước đã dày công nghiên cứu, bỏ nhiều
tâm huyết để tìm hiểu, đánh giá và tìm ra các giải pháp hữu hiệu nhằm khai thác


13

tiềm năng, phát huy vai trò của đội ngũ nữ trí thức Việt Nam. Tiêu biểu có thể
kể đến một số công trình như sau:
Đỗ Thị Thạch trong công trình Phát huy nguồn lực nữ trí thức Việt
Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa [74] đã làm rõ quan niệm
về trí thức, nữ trí thức. Tác giả, đã phân tích những phẩm chất trí tuệ, cũng
như những yếu tố tác động đến sự phát triển trí tuệ của nữ trí thức; những
đóng góp của họ đối với sự phát triển của gia đình và đất nước, v.v... Từ đó,
tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy nguồn lực nữ trí thức Việt
Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là công
trình đã có một cách tiếp cận mới, góp phần làm rõ quá trình hình thành và
đặc điểm của nguồn lực nữ trí thức Việt Nam; góp phần quan trọng trong việc
xóa bỏ định kiến giới, khẳng định vai trò to lớn của nguồn lực nữ trí thức đối
với sự phát triển của xã hội, tiến tới thực hiện mục tiêu bình đẳng giới ở nước
ta hiện nay. Công trình là tư liệu nghiên cứu quan trọng cho cách tiếp cận của
luận án.
Trần Thị Minh Đức với công trình Thực trạng nữ trí thức Việt Nam
trong sự nghiệp phát triển đất nước [27] đã đề cập đến cơ sở thực tiễn và
những vấn đề lý luận quan trọng của việc nghiên cứu nữ trí thức Việt Nam
trong phát triển đất nước. Nghiên cứu đã tập trung phân tích đặc điểm, cơ
cấu xã hội của đội ngũ nữ trí thức, vai trò của họ trong một số lĩnh vực tiêu
biểu được coi là thế mạnh. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra vai trò không thể
thay thế của nữ trí thức làm điểm nhấn khác biệt với nam trí thức đó là
chức năng làm vợ, thiên chức làm mẹ. Vai trò "kép” của nữ trí thức vừa là
hạnh phúc vừa là thách thức đối với họ cần phải hội tụ nhiều biện pháp mới
vượt qua.
Khẳng định vai trò to lớn của nữ trí thức đối với sự phát triển của đất
nước, và đưa ra những kiến nghị chính sách đối với Đảng và Nhà nước, tại


14

Hội thảo khoa học của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Đại học Quốc gia
Hà Nội Nữ trí thức Việt Nam đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước [40] được tổ chức tại thủ đô Hà Nội. Hội thảo đã tập hợp được rất
nhiều quan điểm, bài viết có giá trị nói về những đóng góp to lớn của nữ trí
thức trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội trong những năm qua. Đồng thời, nhiều
bài tham luận đã chỉ rõ thách thức đối với nữ trí thức và những rào cản đang
cản trở bước tiến của họ. Theo ý kiến của nhiều tác giả, những thách thức và
các rào cản nảy sinh từ định kiến giới trong xã hội; từ gia đình và bản thân
người phụ nữ. Trên cơ sở đó, nhiều nhà khoa học trong Hội thảo cũng đã đề
ra những giải pháp phát triển nữ trí thức trong tương lai để tiến kịp sự phát
triển của nam giới.
Đề tài nghiên cứu khoa học Vai trò, vị thế của nữ trí thức trong quá
trình công nghiệp hóa ở Việt Nam [95] của Trung tâm Nghiên cứu phụ nữ Trường Cán bộ Phụ nữ Trung ương (nay là Học viên Phụ nữ Việt Nam) đã
chỉ rõ, mặc dù so với nam giới, vị thế của phụ nữ còn thấp, kể cả trong gia
đình trí thức, nhưng xu hướng trong gia đình nữ trí thức, mối quan hệ vợ
chồng là mối quan hệ dân chủ, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau,... Như vậy, sự
hiểu biết, tri thức có vai trò quan trọng trong xây dựng mối quan hệ bình đẳng
giới trong gia đình.
Tại Hội thảo của Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam
Giải pháp nâng cao vai trò của nữ trí thức trong hoạt động khoa học và
công nghệ giai đoạn 2015-2020 [39], các đại biểu đã được nghe 05 báo cáo
của các nhà nghiên cứu, khoa học và các ý kiến đóng góp sôi nổi của nữ trí
thức thuộc Hội Nữ trí thức Việt Nam. Trong đó, báo cáo “Giải pháp phát
huy vai trò của nữ trí thức trong giảng dạy, nghiên cứu lý luận chính trị”
của tác giả Nguyễn Thị Báo đã cung cấp nhiều thông tin, đưa ra nhiều giải
pháp cụ thể để phát huy hơn nữa vai trò của nữ trí thức trong lĩnh vực nghiên


15
cứu, giảng dạy lý luận chính trị. Đây là một tài liệu hữu ích, có giá trị tham

khảo quan trọng cho luận án.
Trong công trình Nữ trí thức với sự nghiệp phát triển đất nước [83] của
Nguyễn Thị Việt Thanh đã tập hợp một số tham luận được thực hiện trong
khuôn khổ đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước “Phát huy vai trò và vị thế
của nguồn nhân lực nữ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế”. Các bài tham luận đã mang đến cái nhìn khoa học về
những vấn đề khác nhau. Nhiều tham luận đã có giá trị khoa học cao khi áp
dụng các phương pháp hiện đại, nghiên cứu nữ trí thức từ góc độ một nguồn
lực lao động quan trọng của đất nước, nhưng lại có những đặc tính riêng về
giới, với những thuận lợi nhưng cũng có nhiều trở ngại, thách thức nảy sinh
khi phải cố gắng dung hòa giữa chức năng của người phụ nữ trong gia đình và
vai trò của một cá thể độc lập trong xã hội. Công trình này đã cung cấp cho
luận án phương pháp tiếp cận khoa học hiện đại khi nghiên cứu, đánh giá nữ
trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay.
Nguyễn Đình Tấn trong bài viết Vai trò của nữ trí thức trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa [73] đã cho rằng: Nữ trí thức là bộ phận hợp
thành của tầng lớp trí thức (họ mang tất cả những đặc trưng cơ bản của người
trí thức nói chung. Họ là những người có đặc trưng về giới tính là phụ nữ, có
đủ trình độ kiến thức, chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp và
làm việc trong lĩnh vực trí óc), có vai trò quan trọng trên mọi mặt của đời
sống xã hội và gia đình; họ là một lực lượng lao động trí tuệ hùng hậu, v.v...
có đóng góp tích cực vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Lưu Song Hà trong bài viết Nữ trí thức với gia đình và sự nghiệp [29]
đã đề cập đến vai trò “kép” của phụ nữ, đồng thời cũng đã so sánh vai trò
này đối với nữ trí thức. Bên cạnh nhiều thành công thì nữ trí thức gặp nhiều
khó khăn, thách thức khi phải gánh trên vai nhiều chức phận, những rào cản


16
từ việc thực hiện chức năng này hay chức năng kia làm cho người phụ nữ

nhiều lúc khó vượt qua. Từ việc khẳng định vai trò, trách nhiệm nặng nề hơn
của nữ trí thức, tác giả đề xuất một số giải pháp để thực hiện bình đẳng giới
tốt hơn.
Tiếp tục bàn về nữ trí thức, Lê Tuấn trong bài viết Gỡ bỏ những rào cản
để nữ trí thức phát triển [115] đã khẳng định vai trò của nữ trí thức trong suốt
chiều dài của dân tộc Việt Nam. “Đội ngũ nữ trí thức bằng tài năng, trí tuệ,
cống hiến không mệt mỏi, có đóng góp quan trọng vào sự phát triển ở nhiều
lĩnh vực”. Đồng thời, tác giả cũng khẳng định “mặc dù có những bước trưởng
thành quan trọng, nhưng đội ngũ trí thức vẫn chưa phát triển tương xứng với
tiềm năng của mình, cũng như yêu cầu khách quan của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước”. Do đó, tác giả đã đề xuất cần có các hoạt động và
hình thức thu hút, tập hợp nữ trí thức. Cách tiếp cận của tác giả là một gợi ý
cho hướng đề xuất giải pháp của luận án.
Đỗ Thị Thạch trong bài viết Đặc điểm của đội ngũ nữ trí thức Việt Nam
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa [77] đã chỉ rõ những đặc điểm
của đội ngũ nữ trí thức Việt Nam về cơ cấu xã hội, cơ cấu trình độ, cơ cấu
ngành nghề,... Những cơ cấu này đã tác động tích cực, tiêu cực tới vị thế, vai
trò, chất lượng của đội ngũ nữ trí thức hiện nay. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề
xuất giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, khắc phục mặt hạn chế xét từ góc
độ cơ cấu đặc điểm của đội ngũ nữ trí thức nước ta hiện nay. Cách tiếp cận
này của tác giả không chỉ đánh giá được sâu, cụ thể đặc điểm của nữ trí thức
Việt Nam, mà còn là một gợi ý phù hợp cho luận án khi phân tích, làm rõ đặc
điểm của nữ trí thức trong các trường chính trị hiện nay.
Tiếp đó, Đỗ Thị Thạch đã đánh giá những phẩm chất cơ bản của nữ
trí thức Việt Nam trước yêu cầu hội nhập quốc tế. Trong bài viết Trí thức
nữ Việt Nam trước yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế [76] tác giả cho rằng, đội ngũ nữ trí thức Việt Nam phải đảm bảo


17

ba phẩm chất cơ bản là phẩm chất chính trị vững vàng, có trí tuệ cao, có
trách nhiệm xã hội. Để phát huy vai trò của nữ trí thức đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế cần thực hiện đồng bộ
các giải pháp về nhận thức của cá nhân, cộng đồng đối với vai trò của nữ
trí thức, giải pháp về xây dựng chính sách hợp lý, giải pháp xây dựng tổ
chức Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nữ trí thức đại biểu cho quyền
lợi của nữ trí thức.
Trong bài viết Vai trò, vị thế của nữ trí thức Việt Nam trong phát triển
bền vững [80], Đỗ Thị Thạch đã khẳng định vị thế của nữ trí thức trên các lĩnh
vực của đời sống. Theo tác giả, để phát triển bền vững, việc phát huy vai trò
của nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ trí thức có ý nghĩa
quyết định. Tuy nhiên, tác giả cũng đã chỉ ra rằng, vị thế, vai trò của phụ nữ
nói chung, nhất là nữ trí thức nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế, nhất là so với
đồng nghiệp nam giới của nữ trí thức. Vì vậy, trong bài viết này, tác giả đã tập
trung đưa ra những giải pháp cơ bản để phát huy vai trò, vị thế của đội ngũ nữ
trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước bền vững. Bài viết là một tư liệu
tham khảo rất quan trọng, liên quan trực tiếp đến nội dung mà luận án tiến
hành nghiên cứu.
Tiếp tục bàn về vai trò của đội ngũ nữ trí thức trong phát triển bền vững
đất nước, Phan Thanh Khôi trong bài viết Đội ngũ nữ trí thức trong phát triển
bền vững đất nước [54] đã đưa ra những định hướng lớn như: Xây dựng đội
ngũ nữ trí thức Việt Nam gắn với chiến lược phát triển bền vững đất nước;
xây dựng đội ngũ nữ trí thức Việt Nam phù hợp với đường lối phát triển đội
ngũ trí thức nước ta nói chung và xây dựng đội ngũ nữ trí thức Việt Nam gắn
với chiến lược quốc gia về bình đẳng giới. Có thể nói, những định hướng này,
một mặt, phù hợp sự phát triển khách quan của đội ngũ nữ trí thức, mặt khác,
đáp ứng được yêu cầu xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam nói chung xứng


18

đáng là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình hiện
đại hóa và phát triển bền vững đất nước.
Như vậy, đã có khá nhiều các công trình nghiên cứu về nữ trí thức, vị
thế, vai trò của nữ trí thức và những rào cản đối với nữ trí thức, những giải
pháp, đề xuất để tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò của đội ngũ này trong quá
trình phát triển đất nước. Song, một thực tế đặt ra rằng, những khó khăn,
thách thức nào đang là rào cản đối với việc phát huy tối đa vai trò của nữ trí
thức hiện nay, giải pháp nào khắc phục hiệu quả nhất vẫn còn nhiều vấn đề
phải bàn thêm, nhất là những vấn đề về chính sách, về giải quyết những khó
khăn liên quan đến thiên chức người phụ nữ và thực hiện chủ trương bình
đẳng giới. Các công trình khoa học nghiên cứu trên là những cơ sở lý luận, tư
liệu khoa học quý giá cho luận án trong quá trình nghiên cứu, tiếp cận và giải
quyết vấn đề phát huy vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt
Nam hiện nay.
1.1.3. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu về trường chính trị và
nữ trí thức trong các trường chính trị
Trường chính trị là đơn vị sự nghiệp trực thuộc tỉnh ủy, thành ủy và Ủy
ban nhân dân tỉnh/thành phố, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp và thường xuyên
của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thành ủy đã thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ
của mình, góp phần tăng cường và thống nhất sự lãnh đạo, quản lý của các
tỉnh, thành ủy và Ủy ban nhân dân các tỉnh/thành phố đối với công tác đào
tạo, quản lý cán bộ cơ sở.
Một là, những công trình nghiên cứu liên quan về trường chính trị
Nguyễn Văn Sách, Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ - 55 năm xây dựng
và phát triển (1957 - 2012) [71]. Cuốn sách đã ghi lại quá trình xây dựng và
phát triển của nhà trường từ năm 1957 đến nay. Suốt 55 năm qua, dưới sự
lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, cán bộ, công chức, viên chức nói chung và cán bộ


19

nữ trí thức của nhà trường nói riêng đã có nhiều đóng góp vào sự nghiệp đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ của tỉnh qua các thời kỳ cách mạng, góp phần tích cực
vào sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Đây là
một tài liệu quan trọng cho luận án khi tiến hành khảo sát thực tiễn tại Trường
Chính trị tỉnh Phú Thọ.
Vụ Các trường chính trị (thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh), Báo cáo kết quả đề tài khảo sát, đánh giá kết quả triển khai thực hiện
chương trình, giáo trình Trung cấp Lý luận chính trị - Hành chính và bộ quy
chế, quy định quản lý đào tạo ở các trường chính trị tỉnh, thành phố khu vực
miền núi phía Bắc [120]. Kết quả khảo sát đã tập trung đánh giá những ưu
điểm và những tồn tại cần tiếp tục được quan tâm, giải quyết về khung
chương trình đào tạo, quy chế, quy định đào tạo quản lý của ở các trường
chính trị tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc. Đồng thời, báo cáo khảo sát cũng
đã đánh giá tình hình tổ chức cán bộ của các trường chính trị (về số lượng,
chất lượng của đội ngũ cán bộ) miền núi phía Bắc. Đây là tài liệu quan trọng
cho luận án khi nghiên cứu, khảo sát ở các trường chính trị tỉnh thuộc khu vực
miền núi phía Bắc Việt Nam.
Ở khu vực phía Nam, Vụ Các trường chính trị (thuộc Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh), Báo cáo kết quả đề tài khảo sát, đánh giá kết quả
triển khai thực hiện chương trình, giáo trình Trung cấp Lý luận chính trị Hành chính và bộ quy chế, quy định quản lý đào tạo ở các trường chính trị
tỉnh, thành phố khu vực miền Tây Nam Bộ [121]. Kết quả khảo sát đã tập
trung đánh giá những ưu điểm và những tồn tại cần tiếp tục được quan tâm,
giải quyết về khung chương trình đào tạo, quy chế, quy định đào tạo quản lý
của ở các trường chính trị tỉnh, thành phố khu vực miền Tây Nam Bộ. Đồng
thời, báo cáo khảo sát cũng đã đánh giá tình hình tổ chức cán bộ của các
trường chính trị (về số lượng, chất lượng của cán bộ) miền Tây Nam Bộ. Đây


20
là tài liệu quan trọng cho luận án khí nghiên cứu, khảo sát các trường chính trị

tỉnh thuộc khu vực miền Tây Nam Bộ Việt Nam.
Hai là, một số công trình nghiên cứu liên quan đến nữ trí thức trong
các trường chính trị
Trần Thị Minh Ngọc với bài viết Phát huy vai trò của nữ trí thức
trong công tác nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị tại các trường chính
trị nước ta và một số vấn đề đặt ra trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Nữ trí
thức Hà Nội trong sự nghiệp phát triển thủ đô [65] đã chỉ ra đặc điểm của
nữ trí thức trong nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị tại các trường
chính trị, trên cơ sở đó tác giả đi vào phân tích làm rõ thực trạng của đội
ngũ này trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời, chỉ rõ những nguyên nhân
chủ quan, khách quan dẫn đến sự hạn chế trong việc phát huy vai trò của
đội ngũ nữ trí thức. Từ đó, tác giả đã đề xuất những giải pháp hữu hiệu có
tính khả thi cao trong việc tiếp tục nâng cao vai trò của đội ngũ nữ trí thức
trong giảng dạy lý luận chính trị tại các trường chính ở nước ta hiện nay.
Vũ Mạnh Hồng trong bài viết Phụ nữ trường chính trị tỉnh Hòa Bình
phát huy tốt vai trò trong sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và nghiên
cứu khoa học [43] đã khẳng định vị trí, vai trò của phụ nữ nhà trường trong
công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học, lãnh đạo quản lý và các hoạt
động khác, đóng góp to lớn vào sự phát triển Trường Chính trị tỉnh Hòa
Bình hiện nay.
Nguyễn Mạnh Hải trong bài viết Chuẩn nghề nghiệp đối với giảng
viên trường chính trị tỉnh [32] đánh giá khái quát đội ngũ giảng viên
trường chính trị đã có nhiều bước phát triển tích cực về số lượng và chất
lượng. Tuy nhiên, chất lượng đội ngũ này còn nhiều hạn chế, bất cập. Do
đó, việc nâng cao chất lượng về mọi mặt, đặc biệt là về phẩm chất chính
trị, đạo đức nghề nghiệp, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ này
là đòi hỏi cấp bách.



×