Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Sử dụng hệ thống câu hỏi để phát huy tính tích cực và chủ động cho học sinh trong dạy học lịch sử 12 phần lịch sử việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.42 KB, 18 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI
SỬ DỤNG HỆ THỐNG CÂU HỎI ĐỂ PHÁT HUY TÍNH TÍCH
CỰC VÀ CHỦ ĐỘNG CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC
LỊCH SỬ LỚP 12- PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM

Người thực hiện: Phạm Thị Cửu
Chức vụ : Giáo viên
SKKN thuộc môn: Lịch Sử

THANH HOÁ , NĂM 2017


MỤC LỤC
Trang
I. MỞ ĐẦU………………………………………………………………...........1
1.1. Lí do chọn đề tài ……………………………………………………….1
1. 2. Mục đích nghiên cứu………………………………………………......3
1. 3. Đối tượng nghiên cứu………………………………………………….3
1. 4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………...3
1.5. Những điểm mới của SKKN..................................................................3
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ……………………….
……...4
2.1. Cơ sở lý luận………………………………………………………….....4
2.2. Thực trạng vấn đề………………………………………. …………......5
2.3. Giải pháp để tiến hành giải quyết vấn đề…………………………......5


2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm ………………………… ........12
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ……………………………………………......14
3.1. Kết luận……………………………………………………………........14
3.2. Kiến nghị ………………………………………………..…………......14



I. MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài .
Như chúng ta đã biết những năm gần đây chất lượng dạy Sử và học Sử đang
thu hút sự quan tâm chú ý của toàn xã hội. Trong bối cảnh đó với nhiệm vụ là
một giáo viên giảng dạy môn Lịch sử luôn trăn trở về việc dạy của mình, làm
sao để nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử, làm sao để các em học sinh yêu
thích môn học này trong bối cảnh mà những đòi hỏi của nghề nghiệp trong
tương lai khiến rất nhiều học sinh không còn mặn mà, tâm huyết với khối C nói
riêng và đặc biệt là môn Lịch sử nói chung.
Cũng như các môn học khác, môn Lịch sử có nhiệm vụ và khả năng góp phần
vào việc thể hiện mục tiêu đào tạo của trường phổ thông nói chung. Bộ môn
Lịch sử cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ sở của khoa học Lịch sử, nên
đòi hỏi học sinh không chỉ nhớ mà còn phải hiểu và vận dụng kiến thức đã học
vào thực tiễn cuộc sống. Cho nên, cùng với các môn học khác, việc học tập Lịch
sử đòi hỏi phát triển tư duy, thông minh, sáng tạo cho học sinh
Đã có quan niệm sai lầm cho rằng học Lịch sử chỉ cần học thuộc lòng sách
giáo khoa, ghi nhớ các sự kiện - hiện tượng Lịch sử là đạt, không cần phải tư
duy - động não, không có bài tập thực hành… Đây là một trong những nguyên
nhân làm suy giảm chất lượng môn học.
Người giáo viên trong dạy học Lịch sử đa số chỉ làm nhiệm vụ nói lại nội
dung sách giáo khoa. Như vậy, bài giảng không thể gây hứng thú cho học sinh
học tập, gây nhàm chán trong tâm lý dạy - học của cả giáo viên lẫn học sinh.
Đa số học sinh coi bộ môn Lịch sử là môn phụ vì vậy, các em ít chú ý nghe

giảng. Các em ghi chép những gì giáo viên ghi trên bảng và chỉ học thuộc lòng
những gì đã được ghi trong vở, không biết kết hợp với sách giáo khoa và không
biết tìm hiểu mối liên quan giữa Lịch sử với các môn học khác... Các em lười
suy nghĩ, không biết phân tích vấn đề, hay nhớ nhầm lẫn giữa nội dung này với
nội dung khác, không biết nêu vấn đề để thảo luận và tìm hiểu.
Vị trí môn Lịch sử trong trường phổ thông chưa thật sự được coi trọng, cả
giáo viên và học sinh đều có sự nhìn nhận chưa đúng về môn học. Thái độ học
môn Lịch sử của các em học sinh còn mang tính chất đối phó với các kì thi,
kiểm tra, ghi nhớ kiến thức, sự kiện lịch sử một cách máy móc, học vẹt, không
hiểu sâu sa bản chất vấn đề.
Vậy trước thực trạng trên, nguyên nhân tại đâu? Có thể nói rằng, có nhiều
nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên. Song cần phải kể đến một số nguyên nhân
rất quan trọng như:
+ Nội dung kiến thức quá nhiều trong khi thời lượng ít làm cho cả thầy và trò
phải chạy theo thời gian để học hết chương trình. Quá nhiều các sự kiện học sinh
phải nhớ. Điều này khiến các em “sợ” học môn Sử.
+ Phương pháp dạy học chưa có sự đổi mới thật sự. Trong giờ học, người giáo
viên giữ vai trò chủ đạo, vẫn học theo lối cũ, có nghĩa là:
Khi tiến hành bài học, giáo viên đọc cho học sinh chép đề cương của bài
giảng, giáo viên tự sưu tầm tài liệu lịch sử và thông báo trình bày cho các em
1


trong giờ học. Các sự kiện lịch sử, hiện tượng lịch sử, nhân vật lịch sử… không
được trình bày một cách cụ thể, sinh động, gợi cảm. Học sinh không làm việc
trực tiếp với sử liệu. Người giáo viên, không tận dụng được khả năng tạo ra sự
xúc động, sự rung cảm của học sinh trước các sự kiện, hiện tượng lịch sử. Do
đó, tác dụng giáo dục bộ môn bị hạn chế. Người học còn bị thụ động trong quá
trình lĩnh hội kiến thức.
+ Quan niệm coi môn Sử là môn phụ vẫn còn tồn tại phổ biến trong nhà

trường, học sinh, phụ huynh học sinh và cả xã hội. Điều này đã tạo ra một sự bất
bình đẳng giữa môn Sử với các môn học khác trong nhà trường. Trong khi đó,
các môn học đều có nhiệm vụ trong việc góp phần giáo dục thế hệ trẻ theo nội
dung, sở trường và ưu thế của bộ môn mình.
Việc đổi mới chương trình sách giáo khoa ở trường THPT đã đặt ra một yêu
cầu cấp bách đối với giáo viên giảng dạy môn Lịch sử- đổi mới phương pháp
dạy học. Yêu cầu đặt ra đối với việc đổi mới Phương pháp dạy học Lịch sử ở
Trường trung học phổ thông cần đạt là phát huy tính tích cực, chủ động của học
sinh trong quá trình học tập. Và một trong những biện pháp quan trọng để phát
huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong quá trình học tập là sử dụng hệ
thống câu hỏi trong dạy học Lịch sử.
Song việc đặt câu hỏi của giáo viên là một vấn đề không hề đơn giản, vì việc
đặt câu hỏi của giáo viên vừa thể hiện kiến thức, vừa là kinh nghiệm giảng dạy,
vừa là nghệ thuật.
Qua thực tế giảng dạy những năm trước đây và dự giờ một số đồng nghiệp
trong nhà trường, tôi nhận thấy hệ thống câu hỏi mà giáo viên đặt ra chủ yếu là
những kiến thức đã có sẳn trong sách giáo khoa và nhiệm vụ của các em là nhìn
vào sách giáo khoa để trả lời, không cần suy nghĩ và vì vậy kết quả là không thu
hút được sự chú ý quan tâm của học sinh ,không phát triển được tư duy sáng tạo
của học sinh, không thực hiện được nhiệm vụ quan trọng của bộ môn là giúp
học sinh liên hệ những kiến thức đã học đề vận dụng vào thực tiễn.
Thực tế trên đặt ra câu hỏi làm như thế nào để phát huy tính tích cực chủ động
của học sinh trong dạy học Lịch sử ? Đây là vấn đề cần sự chung tay của ngành
khoa học lịch sử, những nhà viết sách, các nhà quản lí giáo dục và sự nỗ lực,
nghiên cứu, tìm tòi sáng tạo không ngừng của những giáo viên trực tiếp giảng
dạy bộ môn Lịch sử ở nhà trường phổ thông.
Từ thực tế giảng dạy trong những năm gần đây, là một giáo viên giảng dạy bộ
môn Lịch sử ở nhà trường tôi thấy rõ chất lượng dạy – học bộ môn Lịch sử ở
nhà trường đang có những dấu hiệu đi xuống, đặc biệt là học sinh khối 12, mà
nguyên nhân là định hướng nghề nghiệp, những đòi hỏi của xã hội về nhu cầu

việc làm trong tương lai khiến khiến nhiều học sinh có xu hướng “buông” bộ
môn này, nhưng một nguyên nhân nữa và cũng rất quan trọng đó là từ phía giáo
viên, trong bối cảnh mà đa số học sinh ngại học lịch sử vì cho rằng lịch sử khô
khan, nhàm chán và không thực tế đối với việc lựa chọn nghề nghiệp trong
tương lai thì những tiết giảng kém thuyết phục, nặng về đọc chép, không phát
huy được tính sáng tạo của học sinh lại càng đẩy xa hơn học sinh đối với bộ môn
2


lịch sử. Tôi quan niệm có thể sự phát triển của xã hội, nhu cầu về nguồn nhân
lực trong tương lai khiến nhiều học sinh không còn mặn mà với môn Lịch sử
song trách nhiệm của người giáo viên khi lên lớp phải luôn tạo ra sức thuyết
phục đối với bộ môn, khơi dạy niềm đam mê lịch sử của học sinh vì trong bất kỳ
hoàn cảnh nào, thời kỳ nào thì bộ môn Lịch sử ở nhà trường phổ thông cũng hết
sức quan trọng, đó là động lực để tôi không ngừng nỗ lực nghiên cứu tìm ra
những những hướng đi mới nhằm khơi dạy niềm đam mê học sử của học sinh và
một trong những giải pháp đó là việc sử dụng hệ thống câu hỏi phát huy tính chủ
động sáng tạo của học sinh và tôi đã chọn đề tài “ Sử dụng hệ thống câu hỏi
để phát huy tính tích cực và chủ động cho học sinh trong dạy học Lịch sử 12
-Phần lịch sử Việt nam "
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Mục đích của đề tài nhằm đưa ra một số giải pháp thực hiện việc xây dựng hệ
thống câu hỏi trong dạy học lịch sử để phát huy tính tích cực, chủ động trong
học tập của học sinh, nâng cao hiệu quả giảng dạy bộ môn Lịch sử.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Học sinh lớp 12 trường THPT Nga Sơn
1.4. Phương pháp nghiên cứu .
Để thực hiện tốt đề tài này tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu hổ trợ.
- Phương pháp phát vấn, nêu vấn đề.

- Thao giảng, dự giờ trao đổi ý kiến với các đồng nghiệp trong quá trình dạy.
- Áp dụng kinh nghiệm phương pháp mới trên lớp.
- Kiểm tra đánh giá kết quả học sinh và làm bài để từ đó có điều chỉnh và bổ
sung.
1.5. Những điểm mới của SKKN
- Nếu như kiểu dạy học truyền thống, giáo viên là nguồn kiến thức duy nhất,
phần lớn thời gian trên lớp dùng cho giáo viên giảng, học sinh chỉ chăm chú
nghe và ghi lại lời giáo viên. Học sinh chỉ làm việc một mình trên lớp, ở nhà
hoặc với giáo viên khi kiểm tra. Việc ghi chép được đơn giản hóa làm sao cho dễ
nhớ. Các môn chỉ dừng lại ở câu hỏi, bài tập, thực hành một cách thụ động, việc
đánh giá kết quả học tập được đo bằng trí nhớ. Việc học lí thuyết không gắn với
thực hành nhất là các môn khoa học xã hội.
- Còn phương pháp dạy học phát huy tính tích cực và chủ động của học sinh,
ngoài lời giảng của giáo viên trên lớp, học sinh được tiếp xúc với các nguồn kiến
thức khác: vốn kiến thức đã học, kiến thức của bạn bè, trong sách giáo khoa, tài
liệu tham khảo, đồ dung trực quan, thực tế cuộc sống. Học sinh chăm chú nghe
giảng nhận thức và ghi những điều mình tiếp nhận: kiến thức mới, vấn đề được
đặt ra, phương pháp…
- Học sinh ngoài việc tự làm việc còn trao đổi, thảo luận với các bạn trong tổ,
trên lớp, ngoài giờ học hoặc đề xuất ý kiến thắc mắc, trao đổi với giáo viên.Các
tiện trực quan, quy ước, giúp cho học sinh nhớ, biết, hiểu sâu sắc, nắm chắc vấn
đề.
3


- Ngoài câu hỏi kiểm tra, bài tập thực hành, học sinh được tự đặt vấn đề, câu
hỏi để trình bày, trao đổi, được nêu ý kiến của riêng mình. Sự đánh giá kết quả
học tập, căn cứ vào trình độ hiểu biết của học sinh, đòi hỏi học sinh phải lập
luận.
- Việc dạy lý thuyết để nâng cao trình độ nhận thức của học sinh làm cơ sở để

vận dụng những kiến thức đã học vào thực hành bộ môn vào trong cuộc sống,
qua đó làm phong phú kiến thức đã học.
- Nguồn kiến thức của học sinh rất phong phú, đa dạng: lời nói, tài liệu viết, đồ
dùng trực quan, thực tế cuộc sống….
Như vậy, qua so sánh hai kiểu dạy học trên thì ta thấy phương pháp phát huy
tính tích cực và chủ động của học sinh sẽ đem lại hiệu quả cao hơn, tuy nhiên nó
đòi hỏi giáo viên và học sinh phải được tích cực hóa trong quả trình dạy học,
phải chủ động, sáng tạo. Cần phải tiếp thu những điểm cơ bản có tính nguyên
tắc của cách dạy truyền thống song phải luôn luôn đổi mới làm một cuộc cách
mạng trong người dạy và học để khắc phục sự bảo thủ, thụ động như: giáo viên
chỉ chuẩn bị giảng những điều học sinh dễ nhớ, học sinh chỉ chú trọng ghi lời
giảng của giáo viên và kiến thức trong sách để trình bày lại khi kiểm tra.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận
Việc giáo dục thế hệ trẻ và gây cho họ một sự hứng thú thật sự. Bởi vì qua
môn học này tầm nhìn của họ đối với cuộc sống quá khứ - hiện tại - tương lai
được mở rộng hơn, họ tìm thấy trong quá khứ nhiều câu trả lời xác đáng cho
hôm nay và ngày mai.
Chính vì vậy mà .G.Tsecnưsepxki nhà tư tưởng dân chủ Nga thế kỷ XIX đã
nói rằng: “Có thể không biết không say mê học tập môn Toán...có thể không biết
hàng nghìn môn khoa học khác nhưng dù sao đã là người có giáo dục mà không
yêu thích lịch sử thì chỉ có thể là một con người không phát triển đầy đủ về trí
tuê” (*)
Như vậy giáo dục lịch sử nói chung dạy Lịch Sử ở trường nói riêng ta phải
làm thế nào để phát triển tư duy gây hứng thú học tập cho học sinh, vậy trước
hết gợi cho học sinh phải phát hiện vấn đề cần tìm hiểu, hay nói một cách khác
(*) Trích nguyên văn của G.Tsecnưsepxki nhà tư tưởng dân chủ Nga thế kỷ XIX.

“Đặt học sinh vào tình huống có vấn đề”. Không thấy vấn đề không giải
quyết vấn đề, vì việc học tập là một hình thức của việc nhận thức khoa học, là

một chuỗi các vấn đề được đặt ra và được nhận thức ở mức độ cao hơn.
Có nhiều hình thức để tạo tình huống có vấn đề và giải quyết vấn đề như so
sánh, phân tích, đặt câu hỏi sử dụng các loại tư liệu tham khảo, đồ dùng trực
quan, công nghệ thông tin…
Một điểm quan trọng mà từ kinh nghiệm thực tiễn của giáo viên ở trường,
dạy như một công thức giáo điều rập khuôn, nếu sử dụng câu hỏi thì câu hỏi đặt
ra quá đơn giản, chỉ đòi hỏi học sinh trả lời có hoặc không. Điều này không giúp
ích gì trong việc tạo hứng thú cho học sinh.

4


Trái lại câu hỏi quá khó không vừa sức thì dễ làm các em nản chí, chính vì
vậy câu hỏi phải vừa đóng vừa mở. Vì vậy việc đặt câu hỏi có vai trò rất quan
trọng trong giờ dạy học Lịch Sử nói riêng và các môn học khác nói chung sẽ
phát huy được tính tích cực và gây hứng thú đối với học sinh.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dung sáng kiến kinh nghiệm.
Ở trường THPT Nga Sơn, đa số học sinh còn lười học, chưa say mê môn học
Lịch Sử. Nếu học thì các em chỉ học đối phó nhưng sự say mê và hứng thú thật
sự chưa có, đặc biệt là đối với học sinh khối 12 không chọn bộ môn Lịch sử để
đăng ký thi THPT quốc gia, các em học Lịch sử để lấy điểm tổng kết cuối năm
chứ không phục vụ mục tiêu thi tuyển vào các trường đại học, cao đẳng vì cho
rằng học sử thiên về lí thuyết, khó thuộc và với thực tế trên đa phần các em quên
đi nhiệm vụ của bộ môn lịch sử không chỉ đơn thuần là học để thi mà còn để
hiểu biết về lịch sử dân tộc và nhân loại, để bồi dưỡng lòng tự hào dân tộc … rồi
liên hệ và vận dụng vào thực tiễn cuộc sống hiện nay. Đa số các em chưa độc lập
suy nghĩ để trả lời câu hỏi mà phải lệ thuộc hoàn toàn vào sách giáo khoa, hay
chỉ nêu một mốc thời gian mà không diễn tả được thời gian đó nói lên sự kiện
gì. Bởi vậy bản thân các em nên có một phương pháp học như thế nào để chiếm
lĩnh kiến thức từ bài giảng của giáo viên.

Mặt khác giáo viên ở trường (một số đồng chí) chưa tuân thủ tính logic của
bộ môn, chưa cải tiến nội dung và phương pháp dạy học, chưa gây được hứng
thú học tập cho học sinh. Từ đó dẫn đến học sinh nhàm chán, học một cách thụ
động, dẫn đến chất lượng một số lớp còn thấp, tỉ lệ học sinh yếu, kém còn nhiều.
Để khắc phục trình trạng trên và nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ở
trường, bản thân tôi đã nỗ lực tìm tòi, nghiên cứu đưa ra các phương pháp học
tập tích cực và mang lại sự hứng thú cho học sinh và tôi đã chọn đề tài: “ Sử
dụng hệ thống câu hỏi để phát huy tính tích cực và chủ động cho học sinh
trong dạy học Lịch sử 12- Phần Lịch sử Việt Nam”.
2.3.Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Việc đặt câu hỏi trong dạy học Lịch sử là một trong những biện pháp quan
trọng để phát triển tư duy học sinh. Song sử dụng câu hỏi và hệ thống câu hỏi
như thế nào để phát huy tính tích cực của học sinh là một vấn đề khó và phức
tạp. Để thực hiện tốt vấn đề trên, trước hết giáo viên phải thực hiện tốt khâu
soạn giáo án.
Trước đây chúng ta xác định mục đích, yêu cầu của bài học là “Làm cho học
sinh nắm được hoặc hiểu được ..” có nghĩa là trong giờ dạy, giáo viên là trung
tâm, học sinh thụ động tiếp thu kiến thức, nhận thông tin từ người thầy. Nhưng
từ khi đổi mới chương trình sách giáo khoa, đổi mới phương pháp giảng dạy,
khâu soạn giảng cũng có nhiều thay đổi, mục tiêu bài học có 3 mức dộ: biết,
hiểu, vận dụng. Như vậy, chúng ta đã chuyển hoạt động của giáo viên sang hoạt
động của học sinh là chính, học sinh xây dựng kiến thức cho mình dưới sự
hướng dẫn của giáo viên thông qua hệ thống câu hỏi. Học sinh không chỉ nắm
kiến thức mà còn nắm phương pháp để hiểu và vận dụng kiến thức.

5


Để đạt mục đích trên, đòi hỏi giáo viên phải đầu tư cho bài soạn, đặt biệt là
việc xây dựng hệ thống câu hỏi của bài dạy. Sử dụng câu hỏi trong dạy học Lịch

sử để phát huy tính tích cưc học tập của học sinh có thể thực hiện ở tất cả các
bước trong giờ dạy Lịch sử.
Sử dụng câu hỏi trong dạy học nói chung, dạy học Lịch sử nói riêng là một
trong những biện pháp quan trọng, rất có ưu thế để phát triển tư duy học sinh. Vì
vậy, khi tổ chức dạy học, giáo viên có thể sử dụng các dạng câu hỏi khác nhau
như câu hỏi nêu vấn đề, câu hỏi xác định mối liên hệ giữa câu hỏi với các sự
kiện, hiện tượng lịch sử, câu hỏi đối chiếu, so sánh giữa sự kiện, hiện tượng lịch
sử này với sự kiện hiện tượng lịch sử khác cùng loại, câu hỏi liên hệ thực tiễn…
Tuy nhiên trong khuôn khổ của đề tài này người nghiên cứu chỉ giới hạn nghiên
cứu dạng câu hỏi mang tính liên hệ thực tiễn trong khuôn khổ phần lịch sử Việt
Nam trong chương trình Sách giáo khoa 12.
Để sử dụng câu hỏi mang tính liên hệ tôi đã quan tâm một số vấn đề sau:
+ Câu hỏi phải đảm bảo tính khoa học, tính liên hệ phải rõ ràng truyền tải
mục đích cụ thể.
+ Câu hỏi liên hệ phải sáng tạo, hấp dẫn, khơi dạy trí tò mò, thích khám phá
của học sinh, đặt học sinh vào hoàn cảnh có vấn đề, buộc các em phải tư duy.
+ Lượng kiến thức trong bài học Lịch sử là rất nhiều và trong một bài học
giáo viên cần đưa ra rất nhiều dạng câu hỏi ở các cấp độ khác nhau và dưới
nhiều dạng câu hỏi khác nhau vì vậy việc sử dụng câu hỏi mang tính liên hệ tới
lịch sử dân tộc hay liên hệ thực tiễn bản thân giáo viên cũng cần phải lựa chọn
một cách kỹ lưỡng, không nên trong một bài học đưa ra quá nhiều câu hỏi dàn
trải, lan man không có mục đích rõ ràng và sử dụng câu hỏi trong thời điểm nào
cho thực sự hợp lý, đảm bảo tính Logic của bài học nhằm phát huy hiệu quả tối
đa.
+ Do những câu hỏi dạng liên hệ thực tiễn không có hướng dẫn trả lời trong
sách giáo khoa vì vậy để đảm bảo mục tiêu giáo dục, người giáo viên phải
nghiên cứu, tham khảo các nguồn học liệu … để xây dựng hướng dẫn trả lời cho
những câu hỏi này đảm bảo tính khoa học, thực tiễn, có tính giáo dục.
+ Đối với những bài giáo viên sử dụng giáo án điện tử thì giáo viên khai thác
thế mạnh của nó để có thể cung cấp cho học sinh nghững hình ảnh, những số

liệu … để làm rõ thêm tính liên hệ thực tiễn trong bài học. Tuy nhiên cũng rất
lưu ý về vấn đề thời gian tránh lạm dụng bởi kiến thức trong bài học là rất nhiều,
sử dụng câu hỏi liên hệ chỉ là một phần nhỏ trong bài học mà thôi.
+ Vì đây là câu hỏi nhận biết và vận dụng nên giáo viên cũng không nên cầu
toàn với những câu trả lời của học sinh, cần trân trọng những ý tưởng của các
em.
Trong thực tiễn nghiên cứu và giảng dạy tôi thường lựa chọn sử dụng dạng câu
hỏi này ở thời điểm :
+ Đặt câu hỏi sau khi kết thúc các mục hoặc kết thúc bài học
+ Đặt câu hỏi phục vụ cho dạy bài mới và cho học sinh về nhà tìm hiểu.
Các bước tiến hành:
6


- Giáo viên đưa ra câu hỏi.
- Học sinh nghiên cứu, thảo luận.
- Học sinh trả lời.
- Giáo viên bổ sung, góp ý.
Từ thực tiễn nghiên cứu và trực tiếp giảng dạy tôi đã xây dựng hệ thống câu
hỏi liên hệ thực tiễn phần Lịch sử Việt Nam trong chương trình Sách giáo khoa
12 như sau :
a. Nêu câu hỏi đặt vấn đề:
* Đối với giáo viên:
Trước khi bước vào bài mới,giáo viên nên nêu ngay câu hỏi định hướng nhận
thức cho học sinh. Các câu hỏi nêu vấn đề đưa ra vào đầu giờ nhằm động viên
sự chú ý, huy động các năng lực nhận thức của học sinh mà học sinh phải nắm.
Đương nhiên, khi đặt câu hỏi không yêu cầu học sinh trả lời ngay mà chỉ sau khi
giáo viên đã cung cấp đầy đủ sự kiện thì học sinh mới trả lời được.
Ví dụ: Khi dạy bài 14- Phong trào cách mạng 1930- 1935(sgk Lịch sử 12 - cơ
bản)

Gv nêu câu hỏi: Vì sao nói “ Chính quyền Xô viết-Nghệ Tĩnh là hình ảnh thu
nhỏ của nước VNDCCH sau này,nhà nước của dân, do dân, vì dân”
Để hiểu rõ vấn đề đó các em cần phải tự mình tìm hiểu nguyên nhân ra đời,nội
dung và ý nghĩa của chính quyền Xô viết - Nghệ tĩnh.
Hoặc khi dạy bài 17- Nước VNDCCH từ sau ngày 2/9/1945 đến trước ngày
19/12/1946 ( Sgk lịch sử 12- cơ bản) để phần chuyển ý sang mục II gây đươc sự
chú ý cho học sinh chúng ta có thể nói : để thoát khỏi tình thế ngàn cân treo sợi
tóc, Đảng và Chính phủ đã xây dựng chính quyền cách mạng, giải quyết nạn
đói, nạn dốt và khó khăn tài chính như thế nào? Đạt được kết quả ra sao, chúng
ta chuyển sang mục II- Bước đầu xây dựng chính quyền,giải quyết nạn đói,nạn
dốt và khó khăn về tài chính.
Trong quá trình dạy học,chúng ta vẫn tuân thủ trình tự cấu trúc của SGK, song
cần khai thác nhấn mạnh, giúp học sinh trả lời câu hỏi nêu trên. Học sinh trả lời
được câu hỏi này tức là đã nắm và hiểu được kiến thức chủ yếu của bài.
* Đối với học sinh:
Câu hỏi này là câu hỏi thường có tính chất bài tập, muốn trả lời phải huy động
kiến thức cơ bản của toàn bài. Chính vì vậy học sinh phải chuẩn bị bài và trả lời
trước câu hỏi cuối mục ở nhà,chú ý tập trung cao độ theo dõi bài giảng,chọn lọc
sự kiện được trình bày trên lớp.
b. Xác định mối liên hệ, xâu chuỗi giữa các câu hỏi với các sự kiện, hiện
tượng trong bài học.
Một trong những biện pháp sư phạm là xác lập mối liên hệ giữa các câu hỏi
các sự kiện,hiện tượng trong bài.
Ví dụ: Sau k hi học xong bài 20- Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân
pháp kết thúc ( 1953- 1954) – SGK Lịch sử 12.

7


Chúng ta có thể tổ chức trò chơi ô chữ cho các em xâu chuỗi các sự kiện, hiện

tượng lịch sử lại với nhau để khắc sâu hơn kiến thức và có hứng thú học tập
thông qua các câu hỏi gợi ý.
Hệ thống câu hỏi trò chơi như sau: ( GV sử dụng giáo án điện tử để trình
chiếu)
Câu 1: Tham dự hội nghị 8/5/1954 phái đoàn chính phủ Viêt nam dân chủ cộng
hòa do ai làm trưởng đoàn?
Câu 2: Đợt 1 của chiến dịch lịch sử Điên Biên Phủ, ta tấn công tiêu diêt toàn bộ
phân khu bắc và căn cứ nào của pháp?
Câu 3: Pháp xây dựng Điên biên phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất ở
đâu?
Câu 4: 9/1953 với quyết tâm giữ vững quyền chủ động đánh địch, ta đã đề ra kế
hoạch tác chiến nào?
Câu 5: kế hoạch nào của Pháp bị phá sản sau chiến dịch Biên Giới 1950?
Câu 6: Nhằm xoay chuyển cục diên chiến tranh Pháp - Mĩ đã cử ai làm tổng chỉ
huy quân đội Pháp ở Đông Dương ?
Câu 7: Tên của một tướng Pháp đầu hàng cùng toàn bộ tham mưu của mình
vào 17h 30’ ngày 7/5/1954.
Câu 8: Từ khóa: Đây là tên của một hiêp định ký kết vào ngày lập lại hòa bình
ở Đông dương?
Đáp án ô chữ
P H A M
Đ

V
Đ
Ô
Đ

Ă
Ô

N
Ơ

N
N
G
C

Đ
G
X
R
A

Ô
D
U
Ơ
N
X

N
H
Ư
Â
V
A
T

G

I
Ơ
N
E
V
Ơ

M
N

L
G

A
R

I

A

M

Từ hàng dọc là : GIƠ NE VƠ
Từ những kiến thức này được sắp xếp trình diễn trên bảng phụ hoặc máy chiếu
để các em có thể quan sát được câu hỏi và hệ thống kiến thức, học sinh tự tìm ra
câu trả lời ,tìm ra mối liên hệ giữa chúng. Trong học sinh sẽ có cuộc tranh luận
đâu là từ chìa khóa của ô chữ và học sinh sẽ phát hiện ra chìa khóa là « GIƠ NE
VƠ ».Cách lập bảng như vậy hợp với cách sử dụng câu hỏi sẽ có hiệu quả không
chỉ về kiến thức mà còn có tác dụng giáo dục,rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, phát
triển tư duy cho học sinh và giúp các em tránh nhàm chán trong tiết học.

-Việc xây dựng bảng các sự kiện qua các câu hỏi trò chơi và mối liên hệ giữa
chúng là một trong những biện pháp giúp học sinh nhớ ngay sự kiện cơ bản ở
trên lớp,đồng thời kích thích tính tích cực học tập của các em.

8


c. Xây dựng hệ thống câu hỏi trên lớp
- Trong qúa trình giảng dạy ở trên lớp,giáo viên còn phải biết đặt ra và giúp học
sinh giải quyết các câu hỏi có tính chất nhận thức kiến thức. Một hệ thống câu
hỏi tốt nêu ra trong quá trình giảng dạy phải phù hợp với khả năng của các
em,kích thích tư duy phát triển. Đồng thời tạo ra mối liên hệ bên trong của học
sinh và giữa học sinh với giáo viên. Tức là mỗi câu hỏi đưa ra, mỗi học sinh và
giáo viên phải thấy rõ vì sao trả lời được ? Câu hỏi quá khó hay chưa đủ sự
kiện,tư liệu để các em trả lời.
- Trong SGK, thường sau mỗi mục, mỗi bài có từ 1 đến 3 câu hỏi, những câu
hỏi này là cơ sở để giáo viên xác định kiến thức trong sách, đồng thời bổ sung
để xây dựng hệ thống câu hỏi của bài. Câu hỏi phải có sự chuẩn bị từ khi soạn
giáo án, phải có dự kiến nêu ra lúc nào ? Học sinh trả lời như thế nào ? Đáp án
ra sao ? Rõ ràng việc sử dụng câu hỏi trong dạy học còn là một nghệ thuật .
Những câu hỏi đặt ra bắt buộc học sinh phải suy nghĩ, phải kích thích được lòng
ham hiểu biết, trí thông minh, sáng tạo của học sinh. Đặc biệt là giúp học sinh
yếu kém tích cực hoạt động và dần dần hình thành kiến thức cơ bản cho các em
qua hệ thống câu hỏi, từ đó các em có hứng thú học tập và xây dựng bài hơn.
-Thông thường trong quá trình giảng dạy chúng ta thường đặt ra nhiều loại câu
hỏi, căn cứ vào tính chất, đặc điểm của các kiến thức lịch sử,chúng ta có các
loại câu hỏi.Cụ thể như sau :
* Loại câu hỏi về sự phát sinh các sự kiên, hiên tượng lịch sử mà chúng ta
thường hỏi về nguyên nhân, bối cảnh hay hoàn cảnh lịch sử của sự kiên, hiên
tượng lịch sử và thường áp cho đối tượng học sinh yếu kém.

Ví dụ :
Nguyên nhân dẫn đến phong trào cách mạng 1930-1931( Bài 14- Phong trào
cách mạng 1930-1935,SGK Lịch sử 12)
Nguyên nhân dẫn đến cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam kỳ, Binh biến Đô
Lương(Bài 16-Phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945,SGK Lịch sử 12)
Loại câu hỏi này thường xuất hiện vào phần đầu bài giảng, bởi vì bất kỳ một
sự kiện, hiện tượng nào đều xuất hiện trong hoàn cảnh lịch sử nhất định, đều có
nguyên nhân phát sinh của nó.Đây cũng là một đặc điểm tư duy của lịch sử cần
hình thành từng bước cho học sinh.
*Loại câu hỏi về quá trình, diễn biến, phát triển của sự kiên, hiên tượng lịch sử
như diễn biến của các cuộc khởi nghĩa, diễn biến các cuộc cách mạng.
Ví dụ :
Trình bày quá trình hoạt động cách mạng của Nguyễn ái Quốc trong thời gian ở
Pháp ( Bài 12 - Phong trào dân tộc, dân chủ ở Việt Nam 1919-1925, SGK Lịch
sử 12)
Hãy trình bày diễn biến chiến dịch Biên giới thu đông 1950( Bài 18 - Những
năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp 1946-1950,SGK Lịch sử
12)
Tuy đây là câu hỏi ít suy luận song lại đòi hỏi trí nhớ, phải biết nhiều sự kiện
địa danh, nhân vật để giúp học sinh phát triển trí nhớ nên cần phải chia câu hỏi
9


thành nhiều câu hỏi nhỏ, đồng thời lập các bảng niên biểu, mối liên hệ giữa các
sự kiện.
* Câu hỏi nêu lên đặc trưng bản chất của các hiên tượng lịch sử, bao gồm sự
đánh giá và thái độ của học sinh đối với các hiên tượng lịch sử ấy.Loại câu hỏi
này thường dùng cho học sinh khá giỏi khi thaỏ luận để bổ trợ kiến thức cho các
đối tượng yếu kém.
Ví dụ :

Tại sao Nguyễn Tất Thành lại ra đi tìm đường cứu nước? Hướng đi của Người
có gì mới so với các nhà yêu nước chống pháp trước đó? (Bài 12 - Phong trào
dân tộc dân chủ ở Việt nam 1919-1925, SGK Lịch sử 12)
Tại sao nói, ngay sau khi ra đời nước VNDCCH lại ở vào tình thế ‘‘Ngàn cân
treo sợi tóc?’’ ( Bài 17- Nước VNDCCH từ sau ngày 2/9/1945 đến trước ngày
19/12/1946,SGK Lịch sử 12)
Thường là những câu hỏi này khó đối với học sinh, nó đòi hỏi các em phải
biết phân tích,đánh giá,biết bày tỏ thái độ của mình đối với sự kiện,hiện tượng
lịch sử.Học sinh rất ngại trả lời những câu hỏi này, tuy nhiên giáo viên cần kiên
trì đưa thêm những câu hỏi gợi mở giúp các em trả lời câu hỏi của mình.
Ví dụ :
Khi dạy mục 3-tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945( Bài 16 - phong trào giải
phóng dân tộc 1939-1945)
Câu hỏi nhận thức : Tại sao khi phát xít Nhật đầu hàng đồng minh, Đảng ta
quyết định tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc?
Câu hỏi gợi mở : Chủ trương khởi nghĩa vũ trang đề ra trong hội nghị TƯ lần
thứ VIII (tháng 5/1941) là gì? Các yếu tố nào( về thời cơ cách mạng) đầy đủ ở
nước ta lúc bâý giờ chưa ?
+ Loại câu hỏi tìm hiểu kết quả , nguyên nhân dẫn đến kểt quả đó và ý nghĩa
lịch sử của sự kiên . Với dạng câu hỏi này cũng dùng cho đối tượng học sinh
yếu kém để các em tự phát hiên và chiếm lĩnh được kiến thức cơ bản và giúp các
em hoạt động liên tục trong quá trình học tập .
+ Lịch sử chính là quá trình phát triển liên tục, đan xen giữa các sự kiện, hiện
tượng hay một quá, đan xen giữa các sự kiện hoặc một hiện tượng hay một quá
trình lịch sử nào đó,nguyên nhân thắng lợi hay thất bại và ảnh hưởng của nó đối
với quá trình phát triển lịch sử.
Ví dụ :
+ Em hãy nêu ý nghĩa của việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam ngày
3/2/1930.(Mục II-Đảng cộng sản Việt Nam ra đời.Bài 13-Phong trào dân tộc dân
chủ 1925-1930)

+ Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của các cuộc khởi nghĩa Bắc sơn,
Nam Kỳ và Binh biến Đô Lương ( Bài 16- Phong trào gpdt 1939-1945)
+ Trình bày ý nghĩa lịch sử và nguyên nhân thành công của cách mạng tháng
Tám năm 1945 ( V-Bài 16- Phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945)
- Để trả lời những câu hỏi này, học sinh dựa vào SGK để trả lời bằng ngôn
ngữ của mình chứ không lặp lại SGK.
10


*Loại câu hỏi đối chiếu,so sánh giữa các sự kiên, hiên tượng lịch sử này với
sự kiên, hiên tượng lịch sử khác mà các em đã học. Đây là loại câu hỏi khá khó
đối với học sinh. Ưu điểm của loại câu hỏi là vừa giúp học sinh củng cố ôn tập
lại kiến thức cũ vừa tiếp nhận kiến thức mới và áp dụng khi hoạt động thảo luận
nhóm để các em bổ trợ kiến thức cho nhau và cùng giải quyết vấn đề.
Ví dụ:
Khi dạy bài 22-Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm
lược(SGK Lịch sử 12).GV nêu câu hỏi: Chiến lược " chiến tranh cục bộ" và
"chiến tranh đặc biệt" của Mĩ ở Miền Nam có điểm gì giống và khác nhau?
Tóm lại:Các loại câu hỏi nêu trên tạo thành một hệ thống câu hỏi hoàn
chỉnh,giúp cho học sinh trong quá trình học tập lịch sử phát hiện ra nguyên
nhân, diễn biến, kết quả và ý nghĩa của một sự kiện hay một quá trình lịch sử.
Những câu hỏi đó giáo viên vận dụng nhuần nhuyễn trong các tiết dạy không chỉ
cho các em biíet được các sự kiện đi sâu hiểu bản chất của sự kiện, nó không chỉ
đòi hỏi học sinh nhớ các sự kiện lịch sử cơ bản mà phải suy nghĩ nhận thức sâu
sắc bản chất của sự kiện lịch sử.
d. Vận dụng hệ thống câu hỏi phát huy tính tích cực của học sinh vào
một mục cụ thể:
Thiết kế câu hỏi gợi mở để giải quyết câu hỏi nhận thức:
Ví dụ: Phần III- Đấu tranh chống ngoại xâm và nội phản bảo vệ chính quyền
cách mạng. Mục 3.Hoà hoãn với Pháp nhằm đẩy quân Trung Hoa dân Quốc...ở

Bài 17 " Nước VNDCCH từ sau ngày 2/9/1945......( SGK Lịch sử 12).
Giáo viên tổ chức cho học sinh tìm hiểu sự bắt tay hoà hoãn giữa Tưởng và
Pháp qua hiệp ước Hoa - Pháp(28-2-1946), theo hiệp ước này Pháp nhường cho
Tưởng một số quyền lợi về kinh tế trên đất Trung Quốc và được vận chuyển
hàng hoá qua cảng Hải Phòng vào Hoa Nam không phải đóng thuế. Ngược lại
Pháp đưa quân ra miền Bắc thay thế quân Tưởng làm nhiệm vụ giải pháp khí
giới quân Nhật. Điều này vi phạm trắng trợn chủ quyền của dân tộc ta, chúng coi
Việt Nam là món hàng để trao đổi. Trước tình hình đó, Đảng ta có chủ trương,
sách lược gì để đối phó? Giáo viên đưa ra câu hỏi nhận thức.
CÂU HỎI NHẬN
THỨC

DỰ KIẾN TRẢ LỜI

CÂU HỎI GỢI MỞ

Vì sao Đảng,
Chính phủ ta Hồ
Chủ Tịch lại kí
với thực dân Pháp
Hiệp định sơ bộ
6-3-1964?

Vì Pháp và Tưởng kí thoả
hiệp chính trị (28-2-1946).
Việc làm này buộc đảng ta
phải lựa chọn một trong
hai con đường hành động.

1. Việc Pháp và Tưởng

kí hiệp định chính trị
(28-2-1946) đặt cho
Đảng ta lựa chọn một
trong hai con đường
nào?
2. Đảng ta đã lựa chọn
con đường nào?

11


Một là: Đánh
Pháp trước khi
Pháp đưa quân ra
miền Bắc. Như
vậy cùng một lúc
phải đánh cả Pháp
lẫn Tưởng.

Hai là: hoà với Pháp mượn
tay Pháp đuổi Tưởng về
nước, loại bớt một kẻ thù
nguy hiểm, kéo dài thời
gian hoà bình để chuẩn bị
lực lượng về mọi mặt
chống Pháp sau này.

Đảng ta đã lựa chọn con
đường thứ hai vì đất
nước ta lúc này vô cùng

khó khăn không thể một
lúc đánh nhau với nhiều
kẻ thù, hơn nữa lúc này
Pháp đưa quân ra miền
Bắc với danh nghĩa
chính thống.

Sau một thời gian vận dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào các tiết dạy học
môn lich sử và đã đạt được kết quả khả quan. Trước hết bản thân tôi đã nhận
thấy rằng những kinh nghiệm này rất phù hợp với chương trình sách giáo khoa
mới và những tiết dạy theo hướng đổi mới. Học sinh có hứng thú học tập hơn,
tích cực chủ động sáng tạo để mở rộng vốn hiểu biết, đồng thời cũng rất linh
hoạt trong việc thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội kiến thức và phát triển kỹ năng.
Không khí học tập sôi nổi, nhẹ nhàng và học sinh yêu thích môn học hơn. Tôi
cũng hy vọng với viêc áp dụng đề tài này học sinh sẽ đạt kết quả cao trong các
kỳ thi.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Từ thực tiễn nghiên cứu và áp dụng trong giảng dạy trong vài năm gần đây đã
cho thấy sản phẩm nghiên cứu của tôi đã đảm bảo tính khả thi.Với việc cung cấp
cho học sinh hệ thống câu hỏi liên hệ thực tiễn sinh động đã khơi dạy tính tò mờ
thích khám phá những điều mới mẻ của học sinh, thu hút được học sinh trong
những giờ học lịch sử.
Với đặc điểm học sinh nhà trường chất lượng đầu vào thấp, đa phần các em
tiếp nhận kiến thức cơ bản còn khó khăn thì những câu hỏi mang tính nhận biết
và vận dụng thì càng khó khăn hơn nữa và người nghiên cứu đề tài cũng chỉ có
một tham vọng là những câu hỏi liên hệ thực tiễn trên chỉ áp dụng đối với học
sinh có nhận thức khá trở lên. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu và giảng
dạy việc áp dụng hệ thống câu hỏi trên đã nhận được sự quan tâm và thu hút của
12



đa số học sinh trong lớp, khi đặt các em vào tình huống có vấn đề các em đã chủ
động suy nghĩ và lựa chọn cho mình những câu trả lời khá thú vị điều mà trước
đây không thể có nếu như giáo viên cứ đi theo một lối mòn là sử dụng những
câu hỏi đã có đáp án săn trong sách giáo khoa và học sinh nhìn sách giáo khoa
để trả lời, không hề có sự vận động trí não, không hề có sự tư duy, sáng tạo.
Sau mỗi bài học với việc cung cấp hệ thống câu hỏi liên hệ thực tiễn đã hình
thành cho học sinh kỹ năng phân tích, đánh giá, khái quát, liên hệ vào thực tiễn
học tập và lao động của bản thân qua đó góp phần định hướng mục đích và lý
tưởng sống cho học sinh trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong những năm gần đây, tôi luôn được nhà trường phân công dạy lớp 12,
đó là một thuận lợi để tôi nghiên cứu, khảo nghiệm đề tài của mình vào thực
tiễn. Kết quả khả quan trong đề tài nghiên cứu của tôi được minh chứng qua kết
quả từ phiếu thăm dò học sinh và kết quả trong làm bài kiểm tra.
- Về kết quả từ phiếu thăm dò sự hứng thú của học sinh
+ Năm học 2015 -2016: ( Trước khi nghiên cứu và ứng dụng )
Thái độ của học sinh
Lớp Sĩ số
Hứng thú với bài học
Không hứng thú với bài học
SL
%
SL
%
12A
43
24
55,8
19

44,2
12C
42
20
47,6
22
52,4
+ Năm học 2016 -2017: ( Sau khi nghiên cứu và ứng dụng)
Thái độ của học sinh
Lớp Sĩ số
Hứng thú với bài học
Không hứng thú với bài học
SL
%
SL
%
12B
44
36
81,8
8
18,2
12C
41
35
85,3
6
14,7
- Về kết quả điểm sau những bài kiểm tra ( Kiểm tra 1 tiết)
+ Năm học 2015 -2016: ( Trước khi nghiên cứu và ứng dụng )


Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
Lớp số
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
12A 43
0
0
13 30,2 29 67,4
2
2,4
0
0
12C 42
1
2,3
14 33,4 26
62

1
2,3
0
0
+ Năm học 2016 -2017: ( Sau khi nghiên cứu và ứng dụng)
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
Lớp Sĩ
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
số
12B 44
2
4,5
24 54,5 18
41
0
0
0

0
12C 41
6
14,6 26 63,4
9
22
0
0
0
0
Kết quả đạt được trong nghiên cứu và giảng dạy của bản thân là cơ sở để tôi
mạnh dạn chia sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp và nhận được sự đánh giá tích

13


cực, từ năm học 2015-2016 đề tài của tôi đã được cả nhóm chuyên môn Lịch sử
trong nhà trường ứng dụng rộng rãi trong dạy học và cũng thu được những kết
quả tốt đẹp. Đó là động lực để những năm tiếp theo tôi tiếp tục nghiên cứu, mở
rộng phạm vi nghiên cứu của đề tài không chỉ ở phần Lịch sử Việt nam lớp 12
mà còn rộng hơn nữa.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Sử dụng câu hỏi liên hệ trong dạy học Lịch sử để phát huy tính tích cực,
chủ động cho học sinh trung học phổ thông hiện nay là rất cần thiết. Vì nó có
ảnh hưởng rất lớn đến việc nâng cao chất lượng dạy học bộ môn lịch sử. Tuy
nhiên đặt câu hỏi như thế nào để phát huy trí thông minh, tính tích cực trong học
tập của học sinh rõ ràng không phải là vấn đề đơn giản và để việc sử dụng hệ
thống câu hỏi nói trên có hiệu quả đòi hỏi người giáo viên phải có một quá trình
nghiên cứu khoa học, nghiêm túc và đặc biệt là phải tâm huyết với nghề, tâm

huyết với học sinh.
Nội dung trình bày trong đề tài chỉ là kinh nghiệm của bản thân, và phạm vi
nghiên cứu cũng bó hẹp trong một phần lịch sử nhất định, trong quá trình thực
hiện không thể tránh khỏi những hạn chế, sai sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến
của quý thầy cô để đề tài được hoàn chỉnh, đưa vào ứng dụng rộng rãi trong quá
trình giảng dạy lịch sử, nhằm góp phần thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học,
nâng cao chất lượng bộ môn lịch sử ở trường THPT.
3.2. Kiến nghị
- Với nhà trường: Nhà trường tiếp tục tạo mọi điều kiện tốt nhất để những ý
tưởng mới, sáng tạo và hiệu quả được đưa vào giảng dạy góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục của bộ môn Lịch sử nói riêng và các môn học khác nói chung.
Giáo viên bộ môn tiếp tục cùng với người nghiên cứu tiếp tục nghiên cứu phát
triển mở rộng đề tài trên phạm vi rộng hơn và có tính ứng dụng rộng rãi hơn.
- Với Sở Giáo dục và Đào tạo: Thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt
chuyên đề, trao đổi về chuyên môn, phương pháp giảng dạy, để giáo viên giảng
dạy Lịch sử được trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 27 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.

Phạm Thị Cửu

14



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Sách giáo khoa Lịch sử lớp 12 hiện hành.
2- Lý luận dạy học của Phan Ngọc Liên – Trần Văn Trị - NXB Giáo dục
2004.
3- Tạp chí nghiên cứu lịch sử.
4- Con đường và biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường phổ
thông” của Ngô Minh Oanh NXB Giáo dục năm 2008.

15



×