Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Sử dụng sơ đồ tư duy nhằm nâng cao hiệu quả trong dạy học môn lịch sử lớp 12 ở trường THPT tống duy tân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (894.83 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
A. Mở đầu:................................................................................................................2
I. Lý do chọn đề tài………………………………………………………………… 2
II. Mục đích của đề tài……………………………………………………………....3
III. Đối tượng nghiên cứu…………………………………………………………...3
IV. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………………......3
B. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm..………………………………… ……….....4
I. Cơ sở lý luận……………………………………………………………………...4
II. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm…………………...5
III. Các giải pháp thực hiện………………………………………………………. ..7
III.1. Tổ chức dạy học bằng sơ đồ tư duy…………………………………………..7
III.2. Sử dụng sơ đồ tư duy trong kiểm tra bài cũ..………………………………..10
III.3. Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học bài mới………………………………..11
III.4. Sử dụng sơ đồ tư duy để củng cố kiến thức bài học……………………….. .12
III.5. sử dụng sơ đồ tư duy để ra bài tập về nhà…………………………………...13
III.6. Sử dụng sơ đồ tư duy để ôn tập kiến thức…………………………………...14
IV. Kết quả đạt được……………………………………………………………. ..17
1. Trước khi áp dụng sơ đồ tư duy vào dạy học môn Lịch sử……………..............17
2. Sau khi áp dụng sơ đồ tư duy vào dạy học môn Lịch sử …………………….....17
C. Kết luận và kiến nghị…………………………………………………………...19
I. Kết luận………………………………………………………………………….19
II. Kiến nghị……………………………………………………………………….19
Tài liệu tham khảo………………………………………………………………....20

1


A. MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Lịch sử là một trong những môn học đặc thù với chuỗi những sự kiện, diễn
biến, là môn học về “quá khứ”, về những gì đã diễn ra. Nhiệm vụ của sử học là


khôi phục lại trung thực, khách quan về bức tranh của quá khứ, từ đó rút ra bài học
về quá khứ, vận dụng vào trong cuộc sống hiện tại và dự đoán về tương lai. Do đó,
đây hoàn toàn không phải là một môn học chỉ yêu cầu người học ghi nhớ và biết về
sự kiện, hiện tượng hay nhân vật lịch sử mà điều quan trọng là người học cần phải
biết sự kiện – hiểu sự kiện – nhớ sự kiện, trên cơ sở đó mới có được sự phân tích,
tư duy lôgic, biết khái quát và đánh giá sự kiện một cách chính xác nhất. Trong quá
trình dạy học lịch sử, người thầy không được áp đặt ý kiến chủ quan của mình mà
để cho học sinh có những kết luận, đánh giá và nhận định trên sự hướng dẫn, tư vấn
của người thầy.
Trong việc khôi phục lại bức tranh của quá khứ một cách chân thực và sinh
động thì không thể thiếu được phương tiện trực quan. Bởi vậy, trong dạy học Lịch
sử, bên cạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin thì việc sử dụng sơ đồ tư duy trong
dạy và học là một phương pháp tối ưu nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo, sự tư duy độc lập của học sinh trong việc chiếm lĩnh tri thức. Với việc đổi mới
dạy học theo hướng “lấy học sinh làm trung tâm – không thể áp đặt kiến thức một
chiều từ giáo viên” [ 8] thì việc phát huy năng lực tối đa của người học là một vấn
đề hết sức quan trọng và cần thiết.
Tuy nhiên, trong thực tế giảng dạy ở nhiều trường phổ thông nói chung và
trường THPT Tống Duy Tân – nơi tôi đang giảng dạy – nói riêng, trong nhiều năm
học sinh vẫn tiếp thu kiến thức lịch sử một cách khá thụ động, chưa có khả năng tự
học, chủ yếu vẫn dựa vào kiến thức giáo viên truyền đạt, học “thuộc lòng”, ghi nhớ
máy móc. Học sinh chủ yếu học bài nào biết bài đó, chưa có sự liên hệ giữa các bài,
chưa có sự liên hệ kiến thức với nhau nên chưa phát huy được tư duy logic, tư duy
hệ thống. Do đó, tâm lý chung của các em là rất ngại học, thậm chí là “sợ” môn học
này.
Với mong muốn tạo cho các em một tâm lí hứng khởi, chủ động, tích cực và
hình thành tư duy lôgic, tư duy hệ thống trong quá trình dạy học lịch sử, tôi mạnh
dạn chọn đề tài: “Sử dụng sơ đồ tư duy nhằm nâng cao hiệu quả trong dạy học
môn Lịch sử lớp 12 ở trường THPT Tống Duy Tân”. Đây là đề tài tôi đã áp dụng
trong quá trình dạy học ở trường THPT Tống Duy Tân trong nhiều năm qua và

nhận được sự phản hồi, thu được kết quả rất tốt từ phía học sinh. Tuy vậy, đề tài
2


chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự quan tâm góp
ý của bạn bè và đồng nghiệp để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
II. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài nghiên cứu nhằm những mục đích sau:
- Dạy cho học sinh “học cách học”, từ đó giúp học sinh biết sự kiện – hiểu sự
kiện – nhớ sự kiện, trên cơ sở đó có được sự phân tích, tư duy logic, biết khái quát,
đánh giá và rút ra bản chất của sự kiện một cách chính xác nhất.
- Từ việc nắm vững kiến thức giúp các em biết vận dụng linh hoạt vào việc
giải các bài tập, câu hỏi lịch sử.
- Việc sử dụng sơ đồ tư duy tạo cho các em tính chủ động, tích cực, sáng tạo
trong việc chiếm lĩnh tri thức, từ đó các em tâm lý hứng thú khi học Lịch sử. Thông
qua việc dạy học Lịch sử, giáo dục truyền thống yêu nước, yêu CNXH, xác định
động cơ, thái độ đúng đắn trong quá trình học tập, đặc biệt là trong tình hình hiện
nay.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đề tài này có thể áp dụng được với tất cả các khối lớp và trên thực tế tôi đã áp
dụng với cả 3 khối lớp mà tôi được giao giảng dạy, kết quả mang lại rất khả quan.
Trong khuôn khổ của đề tài tôi chỉ giới hạn nghiên cứu trong 4 lớp 12 mà tôi được
phân công giảng dạy: 12A, 12C, 12D, 12E ở trường THPT Tống Duy Tân – Đây là
đối tượng đang chuẩn bị cho kỳ thi THPT quốc gia. Ngoài ra, đề tài cũng chú trọng
đến đối tượng học sinh khá, giỏi giúp các em có được những kiến thức sâu sắc về
Lịch sử phục vụ cho những kì thi sắp tới.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: để có thể hiểu bài, nắm bắt được các kiến
thức cơ bản, hiểu rõ được bản chất sự kiện, đồng thời có thể vẽ được sơ đồ tư duy
thì điều quan trọng là phải tìm hiểu, nghiên cứu kỹ tài liệu nhất là kiến thức sách

giáo khoa và các tài liệu tham khảo có liên quan.
- Phương pháp điều tra, thu thập thông tin: trên cơ sở những tiết học, tính hiệu
quả của các tiết học và việc học sinh hứng thú tiếp thu bài như thế nào, làm bài đạt
kết quả ra sao… để đánh giá tính hiệu quả, tính thực tiễn của đề tài.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: điều tra tính hiệu quả của đề tài thông
qua phiếu học tập, thông qua kết quả học tập của học sinh từng lớp, từng kỳ và cả
năm học.
3


B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Cha đẻ của phương pháp tư duy Mind-map (sơ đồ tư duy, giản đồ ý) là Tony
Buzan. Ông sinh năm 1942 tại Luân-Đôn (Anh). Ông là tác giả của hơn 90 đầu
sách, được dịch ra trên 30 thứ tiếng, xuất bản trên 125 quốc gia. Ông đã đi nhiều
nước để phổ biến về phương pháp của mình. Ông đã có mặt ở Việt Nam vào tháng
4 năm 2007. Ở Việt Nam hiện đã có 2 quyển sách được dịch từ công trình nghiên
cứu của ông là “Sơ đồ tư duy” và “Sử dụng trí não của bạn” [ 4] .

Tony Buzan – người truyền cảm hứng bằng sơ đồ tư duy [ 7 ]
Vậy sơ đồ tư duy là gì?
Sơ đồ tư duy hay còn gọi là lược đồ tư duy, bản đồ tư duy (Mind Map). Đây là
hình thức ghi chép nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt những ý
chính, ý cơ bản của một nội dung, hệ thống hóa một chủ đề… bằng cách kết hợp
việc sử dụng hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết… Sơ đồ tư duy là một sơ đồ
4


mở, nó không có một định dạng hoặc một khuôn mẫu nhất định [ 6] . Tùy thuộc vào
từng nội dung kiến thức, từng vấn đề, từng bài học khác nhau, tùy thuộc vào khả

năng tư duy và nhìn nhận vấn đề khác nhau của từng người mà sản phẩm tư duy (sơ
đồ tư duy) sẽ có sự khác nhau.
Việc sử dụng sơ đồ tư duy vào trong quá trình dạy học nhất là dạy học Lịch sử
sẽ huy động tối đa tiềm năng của bộ não, giúp học sinh học tập tích cực và có tác
dụng hỗ trợ cho các phương pháp dạy học khác. Hơn nữa, việc vận dụng sơ đồ tư
duy trong dạy học sẽ giúp học sinh tự tay ghi chép hay tổng hợp một vấn đề, một
chủ đề đã học, đã đọc theo cách hiểu của học sinh dưới dạng sơ đồ tư duy.
Sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử không giống với sơ đồ địa lý phải đòi hỏi
về kích thước phải đúng tỷ lệ, đúng màu sắc mà cho phép các em thỏa sức sáng tạo,
phát triển thẩm mỹ, khả năng tư duy để chiếm lĩnh tri thức. Đây là phương pháp
không chỉ giúp giáo viên truyền thụ kiến thức tốt mà còn giúp học sinh hiểu bài,
nhớ bài, thuộc bài ngay tại lớp; giúp học sinh tránh được sự căng thẳng, mệt mỏi,
nhàm chán trong các tiết học; làm cho tiết học trở nên sôi nổi, học sinh hứng thú vì
phát huy được tính sáng tạo, tư duy logic, tư duy hệ thống của các em. Bên cạnh
đó, đây cũng là phương pháp hiệu quả trong việc phân loại đối tượng học sinh: học
sinh khá, giỏi sẽ phát huy tốt năng lực và khả năng tư duy độc lập của mình, hiểu
và nắm bài rất nhanh; ngược lại học sinh lười học, ngại suy nghĩ có thể sẽ khó hiểu
bài. Chính vì vậy, trong quá trình dạy học, giáo viên cũng nên lưu ý đến đối tượng
này.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
KINH NGHIỆM
Trong trường phổ thông nói chung và ở trường THPT Tống Duy Tân nói riêng
– nơi tôi đang công tác hiện nay, nói đến môn Lịch sử tâm lí chung của tất cả các
em học sinh là rất sợ sệt, ngại học thậm chí ngay cả đối với một bộ phận nhỏ những
em theo học khối C. Hầu hết các em đều cho rằng đây là một môn học khó nhớ,
khô khan, nhiều số liệu, nhiều sự kiện; môn học của "quá khứ", xa với thực tiễn
mà các em đang sống nên rất dễ nhầm lẫn, khó hiểu và không có nhiều thú vị, các
em hầu như không hứng thú với bộ môn lịch sử. Bởi vậy, khi hỏi đến những sự kiện
lịch sử, nhân vật lịch sử dù là cơ bản hay điển hình nhất nhiều khi các em còn lúng
túng, trả lời sai kiến thức cơ bản. Đặc biệt, tư duy lôgic, mối liên hệ giữa các sự

kiện trong một bài, các bài học hoặc một giai đoạn lịch sử, tiến trình lịch sử đôi khi
các em không thực sự quan tâm.
5


Hơn nữa, đa phần học sinh đều quen với tâm lý “đọc – chép” nên ngại và lười
trong tư duy. Cách học truyền thống của các em từ trước đến nay chủ yếu là ghi
chép đầy vở, về nhà lấy ra “học thuộc lòng”, đến lớp “trả bài” cho thầy, cô rồi dần
dần để cho các kiến thức đó trôi vào quên lãng. Bởi vậy, trong nhận thức của một
bộ phận không ít các em đây là môn học khô khan, kiến thức nhiều và rất nặng nề.
Hầu hết các em thấy việc học môn Sử là bắt buộc nên chất lượng bộ môn chưa cao.
Từ thực tiễn giáo dục của nhà trường, thiết nghĩ cần thiết và cấp bách phải đổi
mới phương pháp và hình thức dạy học lịch sử. Ngoài việc tổ chức tích cực các
hoạt động ngoại khóa, tham quan tìm hiểu lịch sử, tổ chức các trò chơi lịch sử...
quan trọng là phải đổi mới và tạo không khí sôi nổi, tạo hứng thú cho các em ngay
trong 45 phút lên lớp.
Để thực hiện được điều này, trong mỗi tiết dạy lịch sử, tôi luôn tạo cho các em
một sự tiếp cận lịch sử mới mẻ, tìm hiểu sự thật lịch sử bằng nhiều kênh thông tin
khác nhau, khai thác triệt để các sơ đồ lịch sử, các bảng so sánh và đặc biệt là hình
thành cho các em thói quen lập các sơ đồ tư duy qua từng bài học. Từ việc tìm hiểu,
nắm bắt và tổng hợp các kiến thức lịch sử, các em sẽ tự rút ra những nhận định, rút
ra bản chất và quy luật lịch sử. Một trong những phương pháp mà tôi tích cực sử
dụng phù hợp với đặc trưng của từng bài, từng giai đoạn lịch sử khi giảng dạy
chương trình Lịch sử 12 đó là việc "Sử dụng sơ đồ tư duy nhằm nâng cao hiệu
quả trong quá trình dạy học môn Lịch sử lớp 12 ở trường THPT Tống Duy
Tân”.
Đây là một vấn đề không hoàn toàn mới mẻ nhưng theo tôi rất quan trọng
bởi vì các em không những nắm được kiến thức lịch sử, thấy được mối liên hệ giữa
các nội dung lịch sử, các bài học lịch sử mà còn giúp cho những bài giảng lịch sử
thêm sống động, hấp dẫn và thu hút được sự chú ý của các em. Hơn nữa, cải cách

giáo dục hiện nay đang hướng tới việc “lấy học sinh làm trung tâm” thì việc sử
dụng sơ đồ tư duy trong dạy học nói chung và dạy học Lịch sử nói riêng lại càng
quan trọng. Cuối mỗi kì tôi đều làm phiếu thăm dò, kết quả mang lại rất khả quan:
90% học sinh thích thú khi được làm việc theo phương pháp này, 10% không tỏ
thái độ gì. Kết quả học tập cũng có nhiều thay đổi: khoảng 85% số học sinh tôi dạy
khi được hỏi có thể trả lời nhanh và rất chính xác về những kiến thức mà các em đã
được học trong chương trình, 10% suy nghĩ và có thể trả lời được, 5% lúng túng và
còn phải xem lại sách vở.

6


III. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
Trong quá trình dạy học, để giúp học sinh có thể nắm bắt kiến thức lịch sử một
cách dễ dàng, không máy móc, có tư duy lôgic, mạch lạc, nắm bắt được mối quan
hệ giữa các sự kiện lịch sử trong từng bài, tổng hợp vấn đề qua từng giai đoạn lịch
sử, tôi rất chú trọng việc hướng dẫn các em cách thiết kế sơ đồ tư duy. Qua tìm hiểu
thực tế và sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử ở trường THPT, bản thân đã
tổ chức thực hiện việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học môn Lịch sử 12 như sau:
III.1. Tổ chức dạy học bằng sơ đồ tư duy
Sơ đồ tư duy có thể phát huy được tối đa tiềm năng của bộ não, giúp học sinh
có thể nắm bắt kiến thức một cách logic, khoa học. Sơ đồ tư duy chính là một
phương pháp dạy cho học sinh “học cách học” có hiệu quả. Sơ đồ tư duy có thể
được áp dụng ở rất nhiều dạng bài khác nhau như: học bài mới, ôn tập kiến thức,
củng cố kiến thức, hệ thống kiến thức theo từng chương hoặc giai đoạn, làm bài tập
lịch sử nhất là các dạng bài tập trắc nghiệm khách quan… Để giúp các em hiểu,
nắm vững kiến thức và có thể hình thành cho mình sơ đồ tư duy mạch lạc, tôi
hướng dẫn học sinh đi từ khái quát đến cụ thể. Đặc biệt, tôi cho học sinh nắm vững
nguyên lý của sơ đồ tư duy, từ đó hướng dẫn học sinh lập bản đồ tư duy: Nội dung
chìa khóa là cây, tiếp sau đó là đến cành và nhánh [ 10] . Có nghĩa là chủ đề chính,


sau đó đưa ra các ý lớn thứ nhất, ý lớn thứ hai, ý lớn thứ ba… Mỗi ý lớn lại có các
ý nhỏ liên quan với nó và tiếp tục với các ý nhỏ hơn… Các đường nhánh không
nhất thiết phải vẽ bằng đường thẳng, các đường cong sẽ cho cảm giác mềm mại và
dễ nhìn hơn.
Để thực hiện việc lập sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử, tôi có thể tóm tắt
thành các bước như sau:
- Bước 1: Học sinh lập sơ đồ tư duy theo nhóm hoặc các nhân dựa trên yêu
cầu, gợi ý, hướng dẫn của giáo viên.
- Bước 2: Sau khi thực hiện xong, học sinh hoặc đại diện cho nhóm sẽ lên trình
bày về sản phẩm tư duy của mình.
- Bước 3: Học sinh thảo luận, bổ sung kiến thức cho nhau để hoàn thiện sơ đồ
tư duy. Giáo viên lúc này đóng vai trò là trọng tài, là cố vấn giúp các em hoàn thiện
sơ đồ tư duy và dẫn dắt vào kiến thức của bài học.
- Bước 4: Củng cố kiến thức bằng sơ đồ tư duy mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn
hoặc bằng sơ đồ tư duy mà cả lớp đã hoàn thiện. Khi củng cố kiến thức, giáo viên
hướng dẫn học sinh hệ thống lại kiến thức bằng sơ đồ tư duy.

7


Hình minh họa cấu trúc sơ đồ tư duy [ 11]
Sơ đồ tư duy luôn là một sơ đồ mở. Mỗi học sinh, mỗi nhóm có thể có cách tư
duy để hoàn thiện sơ đồ một cách khác nhau, giáo viên không nên áp đặt ý kiến chủ
quan của mình. Giáo viên chỉ nên góp ý có học sinh về mặt kiến thức, về đường
nét, về màu sắc hoặc về cấu trúc mà thôi. Đặc biệt, nên khuyến khích những sơ đồ
tư duy ngắn gọn, mạch lạc, trọng tâm và dễ hiểu của các em học sinh. Khi ghi chép
trên bảng, giáo viên cũng nên lựa chọn cách ghi chép bằng sơ đồ tư duy cho dễ
hiểu, dễ nhớ.
Ví dụ: Khi dạy bài 1: “Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh

thế giới thứ hai (1945 – 1949)” . Yêu cầu về mặt kiến thức, học sinh phải nhận
thức được một cách khái quát toàn cảnh thế giới sau chiến tranh thế giới thứ hai với
đặc trưng lớn là thế giới chia thành hai phe – tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa,
do hai siêu cường Mĩ và Liên Xô đứng đầu mỗi phe. Đặc trưng lớn đó đã trở thành
nhân tố chủ yếu chi phối nền chính trị thế giới và các quan hệ quốc tế trong hầu
như nửa sau thế kỉ XX [ 3] . Vì vậy, ở bài này tôi hướng dẫn học sinh hoạt động

nhóm với từ khóa là “trật tự thế giới mới”. Từ đó, học sinh xây dựng từng kiến
thức lớn, nhỏ để hoàn thành sơ đồ tư duy.
8


Sau khi xác định từ khóa, tôi chia lớp thành 4 nhóm và yêu cầu các em hoàn
thiện sơ đồ tư duy. Trước khi vẽ, tôi lưu ý các em nguyên tắc khi vẽ sơ đồ tư duy
chỉ thể hiện những nội dung chính, ngắn gọn nhất.

Sơ đồ tư duy bài 1: “Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế
giới thứ hai (1945 – 1949)” [ 11]

Khi các em đã hoàn thành trong thời gian nhất định, tôi cho đại diện các nhóm
lên báo cáo, thuyết minh về sơ đồ tư duy do nhóm mình thiết lập. Qua việc trình
bày của các em, tôi không chỉ biết được các em tìm hiểu nắm bắt kiến thức như thế
nào mà còn thấy được khả năng trình bày, tư duy, tinh thần, thái độ học tập của các
em. Sau khi trình bày, tôi sẽ mời các em đóng góp ý kiến, chỉnh sửa bản đồ tư duy
một cách hoàn chỉnh theo sự cố vấn của tôi. Thông qua việc trình bày này, tôi có
thể bổ sung kiến thức cho các em, rèn cho các em khả năng thuyết trình, sự tự tin,
mạnh dạn trước đám đông.
Sau khi hoàn thiện sơ đồ tư duy của các em, tôi sẽ củng cố và khắc sâu kiến
thức cho các em. Tôi sẽ chiếu sơ đồ tư duy đã chuẩn bị sẵn ở nhà cho các em quan
sát, đây cũng là một gợi ý cho các em ở các bài sau trong quá trình hình thành và

hoàn thiện sơ đồ tư duy của mình.
9


III.2. Sử dụng sơ đồ tư duy trong kiểm tra bài cũ
Thông thường thời lượng kiểm tra bài cũ trong một tiết học chỉ khoảng từ 5
đến 7 phút, vì vậy giáo viên không nên đưa ra những câu hỏi quá khó như phân tích
hoặc chứng minh.... Tuy nhiên, nếu giáo viên chỉ yêu cầu học sinh lên trả lời câu
hỏi, sau đó tùy vào mức độ thuộc bài của học sinh đến đâu sẽ cho điểm đến đó thì
điều này sẽ dễ dẫn đến tình trạng “học vẹt”. Do đó, trong phần kiểm tra bài cũ, giáo
viên không chỉ kiểm tra phần nhớ bài mà phải chú trọng đến cả phần hiểu bài nữa.
Cách làm này sẽ đánh giá được chính xác học sinh, giúp học sinh hiểu bài, nhớ lâu
kiến thức và nâng cao được chất lượng dạy học, giúp các em có thể làm những bài
tập trắc nghiệm khách quan một cách tốt nhất. Sơ đồ tư duy sẽ giúp chúng ta đánh
giá được cả phần nhớ và phần hiểu của học sinh.
Khi sử dụng sơ đồ tư duy trong kiểm tra bài cũ, tôi thường sử dụng sơ đồ ở
dạng thiếu thông tin, yêu cầu học sinh điền các thông tin còn thiếu và rút ra mối
quan hệ giữa các nhánh thông tin với từ khóa trung tâm.
Ví dụ: Khi kiểm tra bài cũ bài 4: “Các nước Đông Nam Á và Ấn Độ”, mục 3:
Sự ra đời và phát triển của tổ chức ASEAN, tôi sử dụng máy chiếu chiếu bản đồ tư
duy với những điểm còn khuyết thiếu và yêu cầu học sinh lên bảng hoàn thành sơ
đồ tư duy mà tôi đưa ra.

[ 9]
10


Tôi đã dùng sơ đồ này cho hai học sinh lên hoàn thành. Sau khi hoàn thành
xong, cho các em về chỗ, tôi mời học sinh bên dưới đứng lên nhận xét câu trả lời
của từng bạn. Rất nhanh, các em đã hoàn thành được sơ đồ tư duy và nhớ lại kiến

thức đã học rất tốt.
III.3. Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học bài mới
Để việc dạy học lịch sử có chất lượng, không bị nhàm chán, tiết học lịch sử
không trở nên khô khan thì người giáo viên phải có cách thiết kế bài dạy một cách
hợp lý, phải linh hoạt trong việc vận dụng các phương pháp và phương tiện dạy
học. Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử không chỉ là một gợi ý cho cách
trình bày mà còn làm cho bài dạy trở nên dễ hiểu, dễ nhớ, tạo nên sự hứng thú cho
học sinh trong quá trình học. Tùy thuộc vào từng bài dạy, từng đơn vị kiến thức,
từng giai đoạn, từng quá trình lịch sử sẽ có những sơ đồ tư duy khác nhau.
Ở một số bài mới, tôi không ghi tiêu mục theo cách cũ mà vẽ chủ đề chính của
bài lên bảng. Sau đó, tôi cho các em ngồi theo nhóm, thảo luận sơ đồ tư duy của
mỗi học sinh đã chuẩn bị trước ở nhà, đối chiếu với sơ đồ tư duy của các bạn trong
nhóm. Tôi đặt câu hỏi chủ đề nội dung chính hôm nay có mấy nhánh chính số 1 và
gọi học sinh lên bảng vẽ nối tiếp chủ đề chia thành các nhánh lớn lên bảng và có
ghi chú thích lên từng nhánh lớn. Sau khi học sinh ghi xong nhánh chính số 1, tôi
tiếp tục đặt câu hỏi ở nhánh thứ nhất có mấy nhánh nhỏ cấp số 2… Cứ như vậy, học
sinh sẽ tìm hiểu kiến thức và hoàn thành sơ đồ tư duy dễ dàng.
Để minh họa cho sơ đồ tư duy tôi thường minh họa bằng hình ảnh, đoạn phim
ngắn để học sinh rõ hơn về các cấp số 1, cấp số 2…
Chẳng hạn, khi dạy bài 20: “Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn
quốc chống thực dân Pháp (1946 – 1950)”, mục 2: Chiến dịch Biên giới thu –
đông năm 1950, để học sinh nắm được một vài nét diễn biến chính, ghi nhớ được

kết quả, ý nghĩa lịch sử to lớn của chiến dịch Biên giới thu – đông năm 1950 [ 2] .
Sau khi giới thiệu xong nội dung kiến thức cần nắm trong bài học, tôi tổ chức cho học
sinh làm việc cá nhân hoặc theo nhóm nhỏ, dựa vào nội dung trong sách giáo khoa, bản
đồ trong sách giáo khoa, bản đồ treo tường để hoàn thành bài tập. Sau khi các em hoàn
thiện phần bài làm của mình, tôi sẽ cho các em trình bày sơ đồ tư duy của mình lên
bảng (cũng có lớp nếu các em đã chuẩn bị miếng bìa to và nhóm trình bày vào đó thì
cho các em lên bảng treo và trình bày phần chuẩn bị của mình). Các em sẽ đóng góp ý

kiến, tôi chỉ đóng vai trò là người cố vấn và sửa những lỗi về mặt kiến thức. Cuối cùng
tôi cùng học sinh hoàn thiện được một sơ đồ tư duy kiến thức theo ý muốn của mình.
Khi các em hoàn thiện và nắm được sơ đồ tư duy về chiến dịch Biên giới thu đông
năm 1950, tôi đã cho các em giải quyết các bài tập trắc nghiệm lần lượt theo các mức
11


độ: nhận biết, thông hiểu, vận dụng thấp và vận dụng cao đối với cả bài 20 (bài 20 học
trong ba tiết, trong đó mục IV – chiến dịch Biên giới thu đông 1950 là mục học trong
tiết cuối cùng). Kết quả cho thấy, hầu hết các em đều trả lời rất nhanh và chính xác các
câu hỏi ở 3 mức độ: nhận biết, thông hiểu, vận dụng thấp. Câu hỏi mức độ vận dụng
cao khoảng hơn 50% số học sinh (chủ yếu là học sinh khá, giỏi) trả lời được. Đặc biệt,
các em đều rất thích và rất hứng thú khi học theo phương pháp này.

Sơ đồ tư duy về chiến dịch Biên giới thu – đông năm 1950 [ 11]
III.4. Sử dụng sơ đồ tư duy để củng cố kiến thức bài học
Việc sử dụng sơ đồ tư duy trong củng cố bài học lịch sử là một cách củng cố
bài học dễ nhớ, dễ hiểu và mạch lạc nhất. Sau bài học, giáo viên có thể cho học
sinh thiết kế một sơ đồ tư duy theo cách hiểu của các em. Mỗi em sẽ có một sự
sáng tạo riêng, một màu sắc riêng.
Giáo viên có thể giao cho học sinh vẽ sơ đồ thiếu nội dung kiến thức cụ thể hoặc
đầy đủ lượng kiến thức của bài học vừa được dạy, cho học sinh hoạt động cá nhân hoặc
nhóm. Tuy nhiên, các thông tin còn thiếu này sẽ bao trùm nội dung toàn bài để một lần
nữa khắc sâu kiến thức và lưu ý đến trọng tâm bài học.
Ví dụ: Khi dạy bài 9: “Quan hệ quốc tế trong và sau thời kỳ chiến tranh
lạnh”, đây là bài học trong hai tiết nên việc củng cố lại kiến thức để các em khắc sâu,
đồng thời có sự kết nối giữa các tiết học là điều cần thiết. Sau khi học sinh đã tự thiết

12



kế cho mình một sơ đồ tư duy xong thì tôi củng cố kiến thức bài học cho học sinh với
sơ đồ tư duy mà tôi đã chuẩn bị sẵn.

Đây là sản phẩm của một nhóm học sinh sau khi hoàn thành
Qua việc củng cố bài học theo hình thức này học sinh sẽ nhớ lâu, nhớ kỹ nội
dung bài học và phát huy được tính sáng tạo, tư duy của mình, các em sẽ yêu thích
môn Lịch sử hơn.
III.5. Sử dụng sơ đồ tư duy để ra bài tập về nhà
Sau mỗi tiết học, để học sinh có thể nắm bài và học bài tốt hơn, tôi thường ra
bài tập về nhà phù hợp với thời gian, trình độ của học sinh. So với một số yêu cầu
trên lớp, bài tập về nhà cũng cần khó hơn, mang tính khái quát, tổng hợp hơn và
cần có sự đầu tư lớn hơn nhất là những em theo khối C. Qua một số bài tập này,
giáo viên sẽ thấy được tính sáng tạo cũng như sự tích cực trong việc tím hiểu thông
tin, tìm kiếm tài liệu của học sinh.
Chẳng hạn, để dạy tốt bài 21: “Xây dựng CNXH ở miền Bắc, đấu tranh
chống chế độ Mĩ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam (1954 – 1965)”, tôi giao
nhiệm vụ cho học sinh về nhà tìm kiếm nội dung của bài học theo các câu hỏi cuối
mỗi mục trong bài. Mặt khác, yêu cầu học sinh sưu tầm một số tranh ảnh có liên
quan đến bài học. Đồng thời, tự mình vẽ sơ đồ tư duy theo ý hiểu và sự tìm hiểu

13


của mình. Khi dạy học, tôi cũng chuẩn bị sẵn một sơ đồ tư duy để giới thiệu và
nhấn mạnh kiến thức để học sinh nắm chắc, nhớ sâu kiến thức bài học.

Sơ đồ tư duy xây dựng CNXH ở Miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc Mỹ và
chính quyền Sài Gòn ở miền Nam [ 11]


III.6. Sử dụng sơ đồ tư duy để ôn tập kiến thức
Việc ôn tập, tổng hợp, hệ thống hóa kiến thức theo từng phần, từng mục, từng
bài và từng chương hay từng vấn đề là vô cùng quan trọng, cần thiết, nhất là đối với
các em học sinh khối 12. Với phương pháp thi mới – thi trắc nghiệm thì việc học
sinh nhớ kiến thức, hiểu vấn đề, có tư duy lôgic, vận dụng nhanh để nhìn nhận và
hiểu vấn đề là rất quan trọng. Nhiều giáo viên đã từng sử dụng sơ đồ để hệ thống
hóa kiến thức song phương pháp chủ yếu vẫn là thầy cung cấp, thầy tổng hợp còn
trò tiếp thu một cách thụ động. Với thế mạnh là hệ thống hóa được kiến thức dưới
dạng sơ đồ, các đường nối là mạch diễn tả, mạch lôgic kiến thức hoặc các mối quan
hệ nhân quả, quan hệ tương đương, cộng thêm màu sắc của các đường nối, sơ đồ tư
duy sẽ giúp học sinh có cái nhìn tổng thể, tổng quát cả một phần kiến thức đã học,
đặc biệt các em đóng vai trò trung tâm và chủ động trong việc lĩnh hội kiến thức.
14


Để sử dụng sơ đồ tư duy trong ôn tập kiến thức một cách hiệu quả, giáo viên
cũng có thể sử dụng linh hoạt theo nhiều cách khác nhau. Giáo viên có thể giao bài
tập cho học sinh về nhà, hướng dẫn học sinh cách làm, sau đó đến tiết ôn tập, củng
cố hoặc đến cuối bài, giáo viên cho các em trao đổi với nhau và đối chiếu với sơ đồ
tư duy mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn. Hoặc, giáo viên cũng có thể đưa ra một sơ đồ
tư duy mở, vẽ các nhánh chính và nhánh phụ… Tuy nhiên, giáo viên không cần
thiết phải đưa ra các nhánh vẽ đầy đủ, chính xác, sau đó yêu cầu các em xây dựng
sơ đồ tư duy. Theo nhận thức của các em, sơ đồ tư duy có thể sửa, thêm hoặc bớt
các thông tin với các nhánh phù hợp. Các cá nhân và các nhóm sau khi chuẩn bị và
các em lên bảng trình bày. Các nhóm khác ở nhận xét về cách trình bày và bổ sung
nếu cần thiết… Trong các tiết ôn tập hoặc đối với những bài giảng dạy trong nhiều
tiết, trong phần ôn tập và củng cố bài, thiết nghĩ đây là cách làm tối ưu để các em
khắc sâu kiến thức, nhớ lâu, hiểu kỹ vấn đề. Đây là phương pháp có thể áp dụng ở
bất kỳ cơ sở vật chất của nhà trường, các sản phẩm tư duy có thể viết trên giấy, trên
mảnh bìa, trên bảng hoặc trên phần mềm mind-map.

Ví dụ: Trước khi dạy bài 11: “Tổng kết lịch sử thế giới hiện đại (1945 –
2000)”, tôi yêu cầu học sinh về nhà chuẩn bị và vẽ sơ đồ tư duy về những kiến thức
đã học. Đến tiết học, tôi yêu cầu một em lên trình bày sản phẩm tư duy của mình và
thuyết trình trước lớp, các bạn khác sẽ đóng góp ý kiến và hoàn thiện bản đồ tư duy
dưới sự cố vấn của tôi.

Học sinh Ngô Thị Trang – 12C lên vẽ sơ đồ tư duy sau khi đã chuẩn bị ở nhà

15


Sơ đồ tư duy sau khi các em hoàn thành

Sau khi hoàn thành sơ đồ tư duy của mình, em Ngô Thị Trang
thuyết trình trước lớp
16


Với sự chủ động trong việc chiếm lĩnh tri thức của các em, tiết học đã rất sôi
nổi và hầu hết các em đều nắm được những nội dung quan trọng của lịch sử thế
giới từ 1945 – 2000; đồng thời thấy được những xu thế phát triển của thế giới sau
chiến tranh lạnh.
IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
1. Trước khi áp dụng sơ đồ tư duy vào dạy học môn Lịch sử
- Nhiều học sinh có tâm lý ngại học, chủ yếu học để thi, bài nào biết bài đó,
học vẹt, học thuộc lòng mà không nắm được bản chất của Lịch sử, hay nói cách
khác rất ít em hiểu về bản chất của sự kiện, hiện tượng Lịch sử.
- Trong giờ học, có nhiều em không thực sự tập trung, tâm lý uể oải trong quá
trình học vẫn còn.
- Kết quả trong kiểm tra, đánh giá chưa cao. Hơn 10% học sinh yếu, kém. Số

học sinh thực sự hứng thú với môn Lịch sử không nhiều.
2. Sau khi áp dụng sơ đồ tư duy vào dạy học môn Lịch sử
* Kết quả chung:
- Qua nhiều năm áp dụng sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử đặc biệt
là đối với học sinh khối 12, tôi nhận thấy rằng việc đổi mới phương pháp dạy học
được kết hợp nhuần nhuyễn trong các tiết học sẽ làm cho học sinh thêm hứng thú,
phát huy hết khả năng tư duy sáng tạo, óc thẩm mỹ của các em.
- Việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử đã khiến cho 100% các em
phải động não, phải suy nghĩ và phải tự mình tập trung để lĩnh hội kiến thức. Mỗi
em có cách tư duy, cách hiểu, cách lập luận, cách vẽ khác nhau. Khi quan sát các
bạn trình bày, tự mình đóng góp ý kiến dưới sự tư vấn, hướng dẫn của giáo viên,
các em có thể tự mình hoàn chỉnh một sơ đồ tư duy khoa học, lôgic, dễ hiểu, dễ nhớ
nhất. Điều quan trọng nhất là các em có thể tự ghi chép theo ý mình và ôn tập ở nhà
để có thể nhớ lâu và khắc ghi kiến thức bài học.
- Trong năm học 2016 - 2017, tôi đã sử dụng sơ đồ tư duy vào hai tiết thao
giảng ở khối lớp 12. Kết quả được nhóm, tổ chuyên môn và các thầy cô giáo đi dự
đánh giá cao và hai giờ đó đều được xếp giờ dạy giỏi cấp trường với số điểm rất
cao.
- Đây là đề tài tôi giới hạn nghiên cứu ở khối lớp 12. Trên thực tế, ngoài khối
12, tôi rất tích cực sử dụng và khai thác sơ đồ tư duy vào giảng dạy trên lớp đối với
các lớp tôi được giao giảng dạy ở khối 10, khối 11 và trong quá trình ôn thi học
sinh giỏi, ôn thi THPT quốc gia. Theo thông tin phản hồi cho thấy các em đều rất
thích thú, nắm bài nhanh, hiệu quả làm bài rất tốt nhất là các bài thi trắc nghiệm.
17


* Kết quả cụ thể
- Đề tài đã được tôi áp dụng trong nhiều năm giảng dạy và thu được kết quả
rất tốt. Giờ học Lịch sử trở nên sôi nổi.
- Năm học 2016 - 2017, tôi được phân công giảng dạy 4 lớp 12 (trên tổng số

6 lớp), với tổng số học sinh là 185 học sinh, trong đó có 1 lớp Ban KHTN và 3 lớp
Ban cơ bản. Kết quả đạt được như sau:
+ Loại giỏi: 17 học sinh = 9,19%
+ Loại khá: 73 học sinh = 39,46%
+ Loại Trung bình: 93 học sinh = 50.27%
+ Loại yếu: 2 học sinh = 1,08%
- Trong năm học 2016 - 2017, tôi có 2 học sinh tham gia kì thi học sinh giỏi
cấp tỉnh, kết quả 2 em đều đạt giải.
- Giờ học lịch sử trở nên sôi nổi, tất cả các em có tâm lí được làm việc, được
chuẩn bị và tham gia xây dựng bài rất hăng say.

18


C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN
Từ việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Lịch sử nói chung và trong dạy
học môn Lịch sử lớp 12 nói riêng ở trường THPT Tống Duy Tân, bản thân tôi đúc
rút một số kinh nghiệm như sau:
Thứ nhất, cần tích cực khai thác và sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học môn
Lịch sử để nâng cao tính tích cực, chủ động, khả năng sáng tạo của học sinh trong
việc tiếp thu kiến thức, từ đó nâng cao chất lượng của các giờ học Lịch sử.
Thứ hai, bản thân mỗi giáo viên phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, sự sáng tạo và cả nghệ thuật hội họa.
Thứ ba, khi sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Lịch sử phải hướng dẫn, giao
nhiệm vụ cho học sinh nhất là việc chuẩn bị kỹ bài ở nhà, giáo viên phải có sự kiểm
tra, đánh giá, tuyên dương những nhóm, những em làm tốt, có sự sáng tạo; giúp đỡ
các em học yếu, kém, động viên và chỉ dẫn các em để khuyến khích và phát huy
niềm yêu thích bộ môn ở từng em.
Thứ tư, khi sử dụng sơ đồ tư duy vào từng nội dung, từng bài học, từng giai

đoạn lịch sử một cách phù hợp, đảm bảo nguyên tắc vừa sức, tránh tình trạng ôm
đồm, sử dụng một cách bừa bãi gây nhàm chán cho học sinh.
II. KIẾN NGHỊ
Về phía phụ huynh học sinh: Thường xuyên kiểm tra và đôn đốc việc học tập
ở nhà của các em, tạo điều kiện để các em tích cực chuẩn bị, làm các bài tập và
thực hiện các yêu cầu của giáo viên.
Về phía trường: Hỗ trợ và tạo điều kiện về cơ sở vật chất cho giáo viên trong
việc áp dụng phương pháp này vào trong thực tiễn dạy học.
Về phía ngành: Hỗ trợ thêm về phương tiện thiết bị nhằm phục vụ tốt hơn cho
công tác dạy học của giáo viên.
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG Thanh Hoá, ngày 25 tháng 5 năm 2017
Tôi cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

Đỗ Thị Hoa

TÀI LIỆU THAM KHẢO
19


1. Sách giáo khoa Lịch sử 12 – Bộ Giáo dục và đào tạo - Nhà xuất bản Giáo
dục.
2. Sách giáo viên - Bộ Giáo dục và đào tạo - Nhà xuất bản Giáo dục.
3. Dạy học theo chuẩn kiến thức kỹ năng – Lịch sử 12 – Phan Ngọc Liên –
Nguyễn Xuân Trường – Nhà xuất bản giáo dục.
4. Sơ đồ tư duy – Tony Buzan – Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí
Minh.
5. Phần mềm Mindmap.
6. Bản đồ tư duy – Phương pháp dạy học hiệu quả - Th.s Nguyễn Thị Thanh
Xuân – DNU.

7. Cha đẻ Tony Buzan giới thiệu sơ đồ tư duy - />8. Đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm – nâng cao chất
lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên – Nguyễn Minh Sơn – Phòng GD&ĐT tình
Bắc Giang.
9. Đổi mới dạy học Lịch sử với sơ đồ tư duy – Nguyễn Mai Thanh – Trường
THPT Tiên Lữ (Hưng Yên) - Báo giáo dục thời đại (2016)
10. Bí quyết giúp học sinh dùng sơ đồ tư duy Lịch sử - Báo giáo dục –
Howngs nghiệp 24h – Theo giáo dục và thời đại.
11. Nguồn Internet.

20



×