Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Thực trạng bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.55 KB, 13 trang )

Đặng Thị Hà Phương. Lớp K55-Xã hội học
Mục lục
1. Tính bức xúc của vấn đề...................................................................................................1
2. Giải thích trên cơ sở lí thuyết, dữ liệu kết quả nghiên cứu về nguyên nhân của vấn
đề
2.1. Khái niệm bạo lực gia đình.......................................................................................2
2.2. Các hình thức bạo lực gia đình.................................................................................2
2.3. Thực trạng bạo lực gia đình .....................................................................................4
2.4. Nguyên nhân bạo lực gia đình .................................................................................6
3. Xu hướng của bạo lực gia đình trong tương lai...............................................................9
4. Kết luận...................................................................................................................................12
Danh mục tài liệu tham khảo.......................................................................................................13

1, Tính bức xúc của vấn đề:
Gia đình là tế bào của xã hội.Quan hệ gia đình giữa chồng với vợ, cha mẹ và con cái, anh
chị em với nhau là quan hệ tình cảm thiêng liêng, ấm áp....Gia đình là tổ ấm, là nơi thoả mãn
những nhu cầu tình cảm và vật chất của các thành viên, bảo vệ họ trước những căng thẳng của
cuộc sống. Thế nhưng có phải gia đình nào cũng là thiên đường không khi mà baọ lực gia đình
đang là vấn đề mang tính chất toàn cầu, xảy ra ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Theo số liệu
điều tra của Liên đoàn Phụ nữ toàn quốc bạo lực gia đình đang đe doạ cuộc sống của 30% trong
tổng số 270 triệu gia đình sống trên lục địa (Theo tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 4/2008).
Quả thực, đó là một con số không nhỏ. Riêng ở Việt Nam trong khoảng 10 năm trở lại
đây, vấn đề này mới được nghiên cứu ở một số công trình của Hội Liên hiệp Phụ nữ và một số
tác giả ở trong nước. Hậu quả của bạo lực gia đình gây ra là một đặc biệt nghiêm trọng, nó không
chỉ gây tổn thương đến cuộc sống, sức khoẻ, danh dự của các thành viên trong gia đình, mà còn
vi phạm tới các chuẩn mực đạo đức xã hội, tiếp tay cho sự gia tăng của các tệ nạn như: mại dâm,
ma tuý, người lang thang cơ nhỡ, nạn buôn bán trẻ em và phụ nữ.... Cụ thể, bạo lực gia đình gây
ảnh hưởng sâu sắc tới tinh thần của người phụ nữ khiến phụ nữ không yên tâm làm việc hoặc
luôn có cảm giác lo sợ, buồn bã, muốn tử tự và là một trong những nguyên nhân lớn gây nên tan
vỡ gia đình. Tình trạng phụ nữ bị trầm cảm, strees mạnh và nguy hiểm hơn là bị suy giảm thần
kinh trở thành bệnh là những di hậu của bạo lực gia đình. Những tổn hại về thể chất theo thời


gian sẽ dần qua đi nhưng những tổn thương về tinh thần đối với nạn nhân sẽ rất khó để xóa bỏ.
Với những đứa trẻ sống trong gia đình mà có bạo lực gia đình sẽ trở thành nỗi ám ảnh với nó
suốt đời. Những trẻ gái sống trong môi trường bạo lực, khi trưởng thành khó đặt niềm tin vào
những người đàn ông khác và thường gặp trắc trở trong tình yêu. Họ có niềm hoài nghi quá mức
với đối tượng khác giới, lý do bắt nguồn tự việc chứng kiến hành vi bạo lực của cha đối với mẹ
hoặc với bản thân mình. Các trẻ trai về sau này có thể bắt chước các hành vi bạo lực với người
vợ trong tương lai. Từ tính bức xúc của vấn đề trên, tôi quyết định lựa chon đề tài của mình là “
Thực trạng bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay”.
1


Đặng Thị Hà Phương. Lớp K55-Xã hội học
2, Giải thích trên cơ sở lí thuyết, dữ liệu kết quả nghiên cứu về nguyên nhân của vấn đề.
2.1, Khái niệm bạo lực gia đình
Bạo lực gia đình được hiểu là “hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có
khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần , kinh tế đối với thành viên khác trong gia
đình”( khoản 1, Điều 1, Luật phòng chống bạo lực gia đình) ( Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam 2008b:85).
Bạo lực gia đình có thể xảy ra giữa chồng và vợ, giữa bố mẹ chồng và con dâu, giữa anh em
ruột với nhau, giữa con dâu với bố mẹ chồng, bố mẹ và con cái...Tuy nhiên, theo các số liệu
nghiên cứu thì có tới hơn 90% các trường hợp bạo lực gia đình là do nam giới( đa số là chồng)
gây ra với vợ. . Bạo lực gia đình là sự lạm dụng quyền lực, một hành động sử dụng vũ lực nhằm
hăm doạ hoặc đánh đập người thân trong gia đình để điều khiển hay kiểm soát người đó (Tạp chí
Lý luận chính trị, số 4-2005). Cần lưu ý rằng, bạo lực gia đình dựa trên cơ sở giới là một khái
niệm hẹp hơn khái niệm bạo lực chống lại phụ nữ. Theo định nghĩa được nêu trong Tuyên ngôn
về loại trừ nạn bạo lực chống lại phụ nữ do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1993,
bạo lực chống lại phụ nữ là bất kỳ hành động bạo lực dựa trên cơ sở giới nào dẫn đến, hoặc có
khả năng dẫn đến tổn thất về thân thể, về tình dục hay tâm lý hay những đau khổ của phụ nữ, bao
gồm cả sự đe doạ có những hành động như vậy, sự cưỡng bức hay tước đoạt một cách tuỳ tiện sự
tự do, dù nó xảy ra ở nơi công cộng hay trong cuộc sống riêng tư” (Tạp chí Lý luận chính trị, số

4 năm 2005).
2.2 ,Các hình thức bạo lực gia đình :
Các hình thức bạo lực gia đình bao gồm tấn công thân thể, tấn công tình dục và ngược đãi
về tâm lí.
a,Phân chia theo hình thức bạo hành gồm có:
Thứ nhất, là bạo lực thể xác như: Tát, đấm, cấu véo, kéo tóc, làm bỏng, bóp cổ, đánh,
ném đồ vật vào người, nhốt trong phòng hoặc trói, lột quần áo. xô đẩy, đánh đấm, dùng roi vọt,
Đe dọa hoặc tấn công bằng vũ khí hoặc bằng vật khác, thậm chí có tính hành hung và gây
thương tích cho các nạn nhân. Đây là hình thức bạo lực chủ yếu do dùng sức mạnh của cơ bắp để
dạy bảo các thành viên trong gia đình. Hình thức này chủ yếu do nam giới sử dụng là chủ yếu.
Thứ hai, là bạo lực tình dục hình thức này được hiểu bằng việc đánh đập để bắt quan hệ
tình dục. Cho thuốc vào đồ uống để dễ dàng quan hệ tình dục với người khác, Từ chối không sử
dụng biện pháp tránh thai hoặc bao cao su khi quan hệ tình dục.Thông điệp của kẻ hành hung với
nạn nhân là họ không có quyền gì về cơ thể mình.Đôi khi nạn nhân sẽ kháng cự và bị trừng phạt,
đôi khi họ phải làm theo với hi vọng sẽ chấm dứt nhanh bạo lực. Đối với một số nạn nhân bị
đánh đập, việc bạo lực tình dục là vấn đề sâu kín và khó nói ra... Theo UNICEF, cứ 100 trẻ em
được hỏi thì có 3 em đã bị hiếp dâm hoặc chịu hình thức xâm hại khác khi còn nhỏ và 2 trong số
đó bị ép buộc 1 lần hoặc vài lần. Trong số những trường hợp này, cứ 100 người thì có hơn 9
người gây ra hành vi lạm dụng tình dục được xác định là họ hàng, hơn 1 là cha, cha dượng hoặc
người tình của mẹ.Cũng theo số liệu điều tra, bạo lực tình dục chiếm khoảng 10-69% tổng số các
vụ bạo lực gia đình.
Thứ ba, là kiểu bị ngược đãi tâm lí.Có nhiều kiểu ngược đãi về tâm lí khác nhau như:
2


Đặng Thị Hà Phương. Lớp K55-Xã hội học
Đe dọa bạo hành và làm hại: Đe dọa bạo lực và làm hại của kẻ hành hung có thể trực tiếp
nhằm vào nạn nhân hay người mà nạn nhân yêu quý, hoặc đe dọa tự tử. Đôi khi sự đe dọa bao
gồm việc giết nạn nhân và người khác rồi tự tử.Đe dọa có thể bằng lời nói trực tiếp và hành
động.Kẻ hành hung có thể bạo lực với người khác (như láng giềng, thành viên gia đình) để

khủng bố nạn nhân. Kẻ hành hung có thể cưỡng ép nạn nhân làm viêc gì đó phạm pháp ( như mại
dâm, ăn cắp) và sau đó đe dọa làm lộ chuyện, hay có thể buộc tội giả để chống lại họ.
Tấn công tài sản, vật nuôi và các hành động hăm dọa khác: Tấn công tài sản và vật nuôi
không phải là hành động ngẫu nhiên. Thông điệp cho nạn nhân luôn là: “sau đó sẽ đến lượt cô”.
Thứ ba là hình thức bạo lực về tinh thần, diễn ra một cách âm thầm, chủ yếu là dùng ngôn
ngữ thậm tệ để chiết dạy, dày vò tinh thần (đây là loại hình thức bạo lực gây ra sự sa sút nghiêm
trong về tinh thần trong chị em phụ nữ, đây được coi là hình thức bạo lực tinh vi nhất hiện nay).
Đặc biệt loại bạo lực này xảy ra và có xu hướng ngày càng gia tăng. Theo một nghiên cứu của
Trung tâm tư vấn Tình yêu, hôn nhân và gia đình thành phố Hồ Chí Minh thì trong 1665 vụ bạo
hành trong gia đình có 43,6% phụ nữ bị bạo hành về thể xác, 55,3% bị bạo hành về tinh thần và
1,6% bị bạo hành về tình dục (Tạp chí Tâm lý học, số 5, 5/2008). Như vậy có thể khẳng định
rằng, bạo lực gia đình là sự phản ánh cuộc khủng hoảng của gia đình, bất đồng trong quan điểm,
sa sút về tình cảm và cả sự suy thoái về các chuẩn mực đạo đức.
Cô lập: Kẻ hành hung thường cố gắng kiểm soát nạn nhân về thời gian, hoạt động và tiếp xúc
với người khác. Chúng kiểm soát họ thông qua việc kết hợp sự cô lập với chiến thuật làm sai lạc
thông tin. Chiến thuật cô lập có trở thành bạo hành công khai hơn theo thời gian.Việc kẻ hành
hung sử dụng các chiến thuật làm sai lệch thông tin như bóp méo sự thật, cung cấp thông tin trái
ngược hay giữ lại thông tin với việc cô lập cưỡng bức nạn nhân. Ví dụ, kẻ hành hung có thể nói
dối nạn nhân về quyền pháp lý của họ hay kết quả can thiệp của y tế..Thông qua việc cô lập nạn
nhân, kẻ hành hung ngăn cản sự phát hiện bạo lực và tránh nhận trách nhiệm về việc này.
Kẻ hành hung cô lập nạn nhân bởi hành động đóng kich ghen tuông và ngăn cản mạng lưới hỗ
trợ và xã hội.Một số kẻ hành hung hành động chiếm hữu thời gian và sự chú ý của nạn nhân. Họ
thường buộc tội nạn nhân là không chung thủy về tình dục hoặc như dành quá nhiều thời gian
cho con cái, cho gia đình lớn, cho công việc hay với bạn bè. Họ phàn nàn rằng gia đình hay bạn
bè đã cố làm hỏng mối quan hệ của họ. Sự ghen tuông này đã buộc tội gia đình và là một chiến
thuật để kiểm soát nạn nhân.
Sử dụng con cái: Một số hành vi bạo hành được hướng về hay dính líu đến con cái nhằm kiểm
soát hay trừng phạt nạn nhân( như đánh đập con cái, sử dụng trẻ em vào tình dục, bắt con cái
phải chứng kiến bạo lực, lôi kéo con cái vào việc lăng mạ nạn nhân). Kẻ hành hung có thể sử
dụng con cái để duy trì việc khống chế bạn tình của mình bằng cách không chi trả cho việc nuôi

con, yêu cầu con cái dò la cho mình, yêu cầu ít nhất luôn có một đứa trẻ bên nạn nhân, đe dọa
đem đứa trẻ xa mẹ nó, lôi kéo bà ta vào trong cuộc đấu tranh pháp lý kéo dài về giam giữ hay bắt
cóc hoặc giam giữ làm con tin như một cách bắt nạn nhân phải tuân theo.
Trẻ em cũng bị lôi kéo vào cuộc tấn công và đôi khi cũng bị tổn thương chỉ đơn giản là vì có mặt
ở đó hay bởi vì đứa trẻ định can ngăn việc đánh nhau. Sự viếng thăm con cái của kẻ hành hung

3


Đặng Thị Hà Phương. Lớp K55-Xã hội học
được dùng như là dịp để theo dõi và kiểm soát nạn nhân. Sự thăm viếng trở thành cơn ác mộng
cho trẻ khi chúng bị chất vấn về cuộc sống hàng ngày của nạn nhân .
Sử dụng kinh tế: Kẻ hành hung kiểm soát nạn nhân thông qua qua việc kiểm soát sự tiếp cận
của họ với nguồn lực gia đình: thời gian đi lại, ăn uống, quần áo, nơi ở, bảo hiểm và tiền bạc. Bất
kể ai là người kiếm tiền chủ yếu trong gia đình hay do cả hai người đóng góp thì kẻ hành hung
luôn là người kiểm soát chi tiêu trong gia đình. Anh ta cố gắng ngăn cản nạn nhân trở nên độc
lập về tài chính nhằm duy trì quyền lực và kiểm soát. Ngược lại, anh ta cũng có thể từ chối làm
việc và đòi hỏi chị ta phải hỗ trợ gia đình. Anh ta mong muốn bạn tình là “ tay hòm chìa khóa”
của gia đình, yêu cầu chị ta ghi chép và viết “séc” hoặc anh ta không cho chị ấy biết thông tin về
tài chính. Trong mọi trường hợp, chỉ riêng anh ta quyết định. Nạn nhân bị đẩy vào vị trí phải “
xin phép” anh ta trong mọi chi tiêu cho nhu cầu cơ bản của gia đình. Khi nạn nhân rời bỏ mối
quan hệ bị đánh đập, kẻ hành hung có thể dùng kinh tế làm cách khống chế...
b, Phân chia theo nạn nhân :
Thứ nhất, Bạo lực với bạn tình hoặc vợ/chồng, đây là kiểu bạo hành chủ yếu chiếm một
phần khá lớn trong cuộc sống. Cũng giống như các kiểu bạo hành ở phần trên, hình thức bạo
hành này chỉ tính chung vào nạn nhân của bào hành là người tình vợ/chồng. Người bị bạo hành
chịu nhiều hình thức bạo hành như: bị đánh đập, tát, kéo, ép phải quan hệ tình dục mà không
muốn, sờ vào cho kín mà không có sự cho phép của chủ…
Thứ hai, Bạo lực với trẻ em bao gồm các hành vi sử dụng bạo lực với trẻ em như: tát,
đánh đập các hành vi gây đau đớn về thể xác cũng như tinh thần của trẻ em…

Thứ ba, Bạo lực với người già là các hành vi như sử dụng sức khoẻ để doạ lạt, gây áp
lực đẻ làm theo ý của mình, các hành vi gây tác động đến thân thể và tinh thần…
Thứ tư, Bạo lực xã hội: Ngăn không cho tiếp xúc với gia đình, bạn bè, bao vây kinh tế
nhằm hạn chế các hoạt động mang tính cộng đồng.
2.3 Thực trạng bạo lực gia đình:
Bạo lực gia đình, đặc biệt là bạo lực chống lại phụ nữ đang xảy ra ở khắp nơi trên thế giới với
nhiều dạng thức tinh vi không phân biệt dân tộc, màu da, tầng lớp, lứa tuổi, trình độ văn hóa, địa
vị xã hội. Ngay ở những nước được coi là phát triển và văn minh ở châu Âu, châu Mỹ vẫn có
không ít người phải chịu đựng nạn này.
Theo số liệu điều tra năm 2001, hơn 1/2 triệu phụ nữ Mỹ (588.490 phụ nữ) chết do bạo lực gia
đình bởi người chồng của họ. Có khoảng 85% nạn nhân của bạo lực gia đình (n = 588.490) là nữ,
chỉ có xấp xỉ 15% (n = 103.220) nạn nhân là nam. Trong năm 2001, bạo lực gây tội nghiêm trọng
của chồng đối với vợ tăng 20%, số vụ bạo lực của vợ đối với chồng tăng 3% trong tổng số những
vụ nghiêm trọng đối với đàn ông. Trung bình mỗi ngày có hơn 3 phụ nữ bị giết bởi người chồng
hoặc bạn trai của họ. Năm 2000, có 1.247 phụ nữ bị giết bởi chồng mình.
Ở Pháp, điều tra mới đây cũng cho thấy tỷ lệ phụ nữ bị chồng ngược đãi là 2,5% tức là khoảng
1,5 triệu người. Theo “Liên đoàn đoàn kết phụ nữ quốc gia Pháp” nhận định: “Chỉ riêng tại Paris,
kinh đô ánh sáng của văn minh nhân loại, 60 phụ nữ bị chồng hay người tình đánh giết mỗi
năm”. Trên cả nước Pháp có 450 phụ nữ chết do bạo hành thể xác hay bạo hành tinh thần trong
gia đình.
4


Đặng Thị Hà Phương. Lớp K55-Xã hội học
Trong tài liệu được công bố tại Hội nghị châu Âu lần thứ nhất về phòng chống thương tích và
Nâng cao an toàn, tại Viên, Áo từ ngày 25 đến 27 tháng 6 năm 2006 cũng đưa ra những số liệu
đáng quan tâm về nạn bạo lực gia đình - bạo lực giữa các đôi lứa chiếm 40-70% các vụ án mạng
ở phụ nữ; cứ 4 phụ nữ thì có 1 người (tỷ lệ này ở nam là 1 trên 20) đã từng bị bạo lực tình dục
trong cuộc đời; 4-6% người già sống trong gia đình đã từng bị đối xử tệ.
Các số liệu cho thấy bạo lực gia đình thực sự là một vấn đề có tính toàn cầu và đòi hỏi một cách

tiếp cận đa ngành để giải quyết triệt để.
Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, cho đến thời điểm hiện tại chưa có các cuộc khảo sát trên toàn quốc về tình trạng
bạo lực gia đình. Tuy nhiên, các số liệu thống kê của một số ban ngành liên quan và kết quả của
các nghiên cứu điểm cũng cho phép phác họa bức tranh chung của vấn đề bạo lực gia đình.
Theo báo cáo của Viện khoa học xét xử (Toà án nhân dân tối cao) tại 42 tỉnh trong 5 năm (20002005), các tỉnh đã xét xử 10.608 vụ án hôn nhân và gia đình, trong đó 42% vụ án ly hôn có
nguyên nhân từ bạo lực gia đình. Tình trạng bạo lực gia đình những năm gần đây đang diễn ra
với tính chất ngày càng nghiêm trọng, đối tượng vi phạm cùng số nạn nhân gia tăng ở khắp các
vùng, miền trong cả nước. Do nhiều nguyên nhân nhạy cảm, công tác phòng chống bạo lực gia
đình đang gặp nhiều trở ngại.
Cũng theo báo cáo của Tòa án Nhân dân tối cao, từ ngày 1- 1-2000 đến ngày 31-12-2005 các tòa
án địa phương trong cả nước đã thụ lý và giải quyết sơ thẩm 352.047 vụ việc về lĩnh vực hôn
nhân gia đình. Trong đó có tới 39.730 vụ ly hôn do bạo lực gia đình chiếm tới 53,1% tổng số vụ
ly hôn. Riêng năm 2005, có tới 39.730 vụ ly hôn trong tổng số 65.929 vụ án về hôn nhân gia
đình chiếm tỷ lệ là 60,3%. Trên địa bàn Hà Nội từ tháng 1-2000 đến tháng 9-2002, Trung tâm
Cảnh sát 113 Hà Nội đã nhận được 517 tin tố cáo, cầu cứu của các nạn nhân bị bạo lực gia đình.
Trong 8 năm gần đây có tới 11.630 vụ bạo lực gia đình được chính quyền can thiệp giải quyết.
Cao nhất là các tỉnh Hà Tây 1.484 vụ, Kiên Giang 2.005 vụ... Trên báo chí hàng ngày đã đăng tải
nhiều vụ bạo lực rất dã man trong gia đình như: Bài “Khống chế, đổ thuốc diệt cỏ vào miệng
vợ!?” Báo Thanh niên - số 186 ra ngày 5-7-2003; “Kẻ giết vợ dã man”, “Hình phạt chung thân vì
hành xử vợ bằng... búa” - Báo Phụ nữ Việt Nam ra ngày 8-9-2003; “Đổ xăng đốt vợ” - Báo Công
an nhân dân ra ngày 7-12-2002... Những bài báo đã mô tả những hành động tội ác dã man, vô
nhân tính của người chồng đối với vợ mình và rút ra những bài học sau những vụ bạo lực đó.
Bên cạnh những hành động bạo lực dã man và thô bạo, một loại bạo lực gia đình khá phổ biến
đang phát triển ở Việt Nam hiện nay là sự ép buộc vợ quan hệ tình dục. Dạng bạo lực này ngày
càng gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với phụ nữ. Tuy nhiên, dạng bạo lực này không
mấy ai biết và chú ý đến bởi vì nó được ngụy trang một cách kín đáo dưới vỏ bọc là “quan hệ
tình cảm” giữa hai vợ chồng. Mặt khác, đây là vấn đề tế nhị cho nên chị em thường giấu giếm vì
không muốn “vạch áo cho người xem lưng”. Những điều này góp phần làm cho bạo lực về tình
dục ngày một phát triển và gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với phụ nữ.

Ngoài ra, còn rất nhiều dạng bạo lực khác làm tổn thương lớn đến phụ nữ như không quan
tâm, bỏ rơi, không nói chuyện theo kiểu “chiến tranh lạnh”, chửi bới thậm chí còn là những hành
vi quản lý tiền nong chi tiêu trong gia đình... Theo số liệu thống kê, những năm gần đây, nạn bạo
5


Đặng Thị Hà Phương. Lớp K55-Xã hội học
lực gia đình ở nước ta đang diễn ra phức tạp, tính chất nghiêm trọng, đối tượng thực hiện hành vi
bạo lực rất đa dạng. Trong 5 năm (2001-2005) tại 29 tỉnh, thành phố có 775 vụ án liên quan đến
bạo lực gia đình đã được xét xử, trong đó số vụ án “ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ
chồng, con cháu, người có công nuôi dưỡng” chiếm 43%, số vụ án vi phạm chế độ một vợ, một
chồng chiếm 46%. Cũng theo con số thống kê cho thấy, phần lớn các vụ tranh chấp dân sự đều
có nguyên nhân sâu xa từ bạo lực gia đình. Các vụ án tranh chấp tài sản có giá trị lớn chiếm phần
lớn trong tổng số vụ án dân sự có liên quan đến bạo lực gia đình. Còn theo Tổ chức Y tế thế giới,
trong năm 2005 cho thấy, 66% các trường hợp ly hôn ở nước ta có liên quan đến bạo lực.
Các số liệu điều tra mới đây cũng cho thấy tình trạng bạo lực gia đình ở Việt Nam khá phổ biến.
Có 7,4% số người được hỏi cho biết từng chứng kiến bạo lực thể chất tại cộng đồng, 25% số gia
đình từng xảy ra tình trạng bạo lực tinh thần; gần 30% số gia đình được hỏi cho biết có tình trạng
bạo lực tình dục. Tuy nhiên, theo đánh giá của nhóm nghiên cứu về bạo lực gia đình của Vụ các
vấn đề xã hội thuộc Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội, những con số này còn có thể cao
hơn nếu người dân hiểu biết hơn về các khái niệm bạo lực gia đình.
Nhân ngày Gia đình Việt Nam (28-6) vừa qua, Hội Liên hiệp Phụ nữ TPHCM phối hợp với Công
ty Ứng dụng Khoa học Tâm lý Hồn Việt tổ chức hội thảo “Vì một gia đình không bạo lực”. Tại
hội thảo, các đại biểu đã được nghe 8 tham luận của các cơ quan ban ngành, cá nhân xoay quanh
vấn đề bạo hành và cả những nhân chứng sống, đã khái quát thực trạng đáng báo động của vấn
nạn này. Trong xã hội công nghiệp đang phát triển, với những thay đổi xã hội về mọi mặt, nạn
bạo hành không những không giảm mà chuyển biến dưới nhiều hình thức phức tạp và nguy hiểm
hơn. Theo một số công trình nghiên cứu về tình trạng bạo lực gia đình Việt Nam, có ít nhất từ
20% - 30% phụ nữ đã trở thành nạn nhân của bạo hành gia đình suốt cả cuộc đời; có 66% vụ ly
hôn liên quan đến bạo lực gia đình.

Kết quả khảo sát của Uỷ ban Các vấn đề xã hội của quốc hội tại 8 tỉnh, thành phố cho thấy, năm
2005 hơn 60% vụ ly hôn là do bạo lực gia đình; hàng năm có 2,3% gia đình có các hành vi bạo
lực về thể chất (đánh đập), 25% gia đình có hành vi bạo lực tinh thần và 30% cặp vợ chồng xảy
ra hiện tượng ép buộc quan hệ tình dục.
2.4 Nguyên nhân của bạo lực gia đình:
Rất khó để phân tích một cách rạch ròi các nguyên nhân gây nên bạo lực gia đình. Lí do là ở chỗ
bạo lực gia đình là hệ quả tổng hợp của một loạt các yếu tố, các chiều tác động khác nhau từ điều
kiện kinh tế- xã hội khách quan đến nhận thức chủ quan của con người, từ những nhân tố về văn
hóa, gia đình đến những nhân tố về đạo đức và định hướng giá trị( Lê Thị Qúy, 2000). Ngoài ra
hành vi bạo lực là loại hành vi rất khó xác định do nó có thể xuất hiện dưới nhiều dạng khác
nhau, ở nhiều tình huống hoàn cảnh khác nhau và theo Phạm Thanh Nhiễm là do các hành vi bạo
lực xuất hiện từ trong gia đình đến ngoài xã hội, từ việc lớn đến việc nhỏ, từ những bất ngờ ngẫu
nhiên đến những quá trình lâu dài ( Phạm Thanh Nhiễm, 1993).
Quan điểm cơ sở của bạo lực phụ thuộc vào sự phát triển về khí chất của từng cá nhân.Những
người theo quan điểm này cho rằng cở sở của bạo lực là do cấu tạo hệ thần kinh( do sự mất cân
bằng của hệ thần kinh nên xuất hiện hành vi bạo lực), là yếu tố tự nhiên mà mỗi cá nhân phải
chịu trách nhiệm. Quan điểm này đã tuyêt đối hóa các yếu tố bẩm sinh mà coi nhẹ các yếu tố xã
6


Đặng Thị Hà Phương. Lớp K55-Xã hội học
hội. Quan điểm khác trái ngược là quy cơ sở của hành vi bạo lực gia đình là do các yếu tố từ phía
xã hội hay các điều kiện khách quan.( Điều kiện sống, môi trường của cá nhân).
Từ cách tiếp cận về lí thuyết xung đột, ta có thể dùng để giải thích cho nguyên nhân của bạo lực
gia đình. Richard Gelles và Murray Ttraus đã chỉ rõ trong lý thuyết xung đột rằng “ mâu thuẫn
và bạo lực trong gia đình là khá phổ biến. Điều đó là do gia đình là một nhóm xã hội có những
đặc điểm góp phần tạo ra một khung cảnh có xu hướng dẫn đến mâu thuẫn và bạo lực”. Điều
đáng lưu ý là chính những đặc điểm này cũng là những yếu tố tọa nên sự hòa thuận, thân mật,
hạnh phúc gia đình. Biến đổi xã hội làm cho đời sống gia đình có xu hướng mở rộng phạm vi và
mức độ mâu thuẫn trong lĩnh vực của đời sống hôn nhân và gia đình. Theo David Mace, điều đó

không những là tất yếu mà còn là sự cần thiết để nâng cao chất lượng của đời sống hôn nhân.
Trong cuốn “ Xã hội học gia đình” của tác giả Lê Thái Thị Băng Tâm có nêu” một trong những
vấn đề thực tế cho việc ứng dụng học thuyết xung đột chính là vấn đề bạo lực gia đình. Đây là
vấn đề mấu chốt và đề cập trực tiếp tới một số biến thể của lý thuyết xung đột. Nhìn chung, lí
thuyết xung đột dự đoán rằng việc đối đầu và mâu thuẫn xảy ra khi có sự cạnh tranh giữa những
người có liên quan trong tình trạng thiếu hụt các nguồn lực. Chúng ta có thể xác định những
tiềm ẩn của xung đột khi một người hay một nhóm không có nguồn lực ngang bằng với một
người hay một nhóm khác. Các nhà nghiên cứu về lí thuyết xung đột nhìn nhận sự mất cân bằng
xã hội như một điều tất yếu của việc nảy sinh xung đột.”
Lý thuyết xung đột cũng có đề cập đến vấn đề bất bình đẳng giới. Một số nhà theo thuyết bình
quyền cho rằng nơi nào có bất bình đẳng giới thì nơi đó tồn tại một hệ thống xã hội gia trưởng
bởi nó điều chỉnh và chấp nhận tình trạng bạo lực gia đình như là một trong nhiều hình thức của
việc nô dịch hóa phụ nữ trước nam giới .Về cơ bản, nam giới thường bảo vệ nguồn lực vượt trội
của mình trước những người yếu thế hơn và rất nhiều nguồn lực trong số đó đã chỉ ra rằng người
phụ nữ nên “ an phận ở vị trí mình”.
Các nhóm nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình :
Nhóm nguyên nhân về tâm lý và nhận thức bao gồm các nguyên nhân: quan niệm trọng nam
khinh nữ, tư tưởng gia trưởng; bất bình đẳng giới; tâm lý che dấu, cam chịu; học vấn thấp, nhận
thức kém, không biết quyền, thiếu hiểu biết luật pháp, không biết cách ứng xử phù hợp. Liên
quan đến nhóm nguyên nhân này có thể thấy rõ trên thực tế vấn đề bạo lực gia đình đã xảy ra từ
rất nhiều năm nay, bởi đất nước ta là đất nước khá phong kiến, cảnh chồng chúa vợ tôi hay trọng
nam hơn nữ vẫn còn nặng. Hiện nay trong mọi tầng lớp nhân dân không kể người giàu, người
nghèo, không kể là người trí thức hay người bình dân đều xảy ra bạo lực gia đình. Theo Ủy ban
về các vấn đề xã hội của Quốc hội, nguyên nhân sâu xa của bạo lực gia đình do tư tưởng bất bình
đẳng giới, cụ thể là "trọng nam, khinh nữ", lối xử sự gia trưởng tồn tại dai dẳng. Từ xưa đến nay,
trong gia đình, quyền uy của người đàn ông luôn cao hơn người phụ nữ. Dựa vào quyền ấy,
nhiều ông chồng tự cho mình cái quyền được đánh vợ, coi đánh vợ như là một sự “giáo dục” và
“thể hiện quyền lực” của “bề trên” đối với “kẻ dưới”. Trong nhiều trường hợp ở các gia đình mọi
việc đổ hết cho người phụ nữ, người chồng có quyết phán xét, hành hạ, đánh đập vợ, con ...
Cũng trong nhóm nguyên nhân này phải kể đến tâm lý của chị em phụ nữ vì thương chồng nên

cũng muốn giấu giếm, đôi khi bị chồng đánh nhưng không dám nói. Quan niệm phụ nữ là phải
7


Đặng Thị Hà Phương. Lớp K55-Xã hội học
cam chịu, với những ràng buộc về con cái, họ hàng đã cột chặt người phụ nữ vào những phẩm
gia mà truyền thống đã áp đặt. Sự cam chịu của họ cũng tiếp tay cho sự tái phạm của chồng.
Nhiều phụ nữ là nạn nhân của bạo hành gia đình đã không được sự ủng hộ giúp đỡ của người
thân và những người xung quanh cũng chính từ quan niệm cam chịu này.
Cách suy nghĩ thiếu tự tin, cam chịu khiến người phụ nữ càng khó thoát ra khỏi những trói buộc
trong một gia đình không còn tình yêu và sự bình đẳng. Nhiều người trong số họ nghĩ rằng, bị
đánh đập là điều bình thường, là lỗi tại mình và không bao giờ nói cho người khác biết. Đôi khi
bị chồng miệt thị, chê bai quá nhiều, họ lại nghĩ mình là người rất tệ hại, không đáng coi trọng.
Đằng sau những tệ nạn bạo lực gia đình còn có những lý do sâu xa khác. Đó là trình độ văn hóa
thấp, tình trạng kém hiểu biết về pháp luật, về quyền của mình mà bản thân những người trong
cuộc cũng chưa nhận thức được. Có địa phương mỗi năm có hàng trăm người tự tử vì bạo lực gia
đình nhưng chưa có ai lên tiếng về vấn đề này. Trong số những người bị bạo hành gia đình rất
nhiều người thậm chí không biết mình là nạn nhân của một dạng tội phạm đặc biệt. Nhiều người
trong số họ chỉ mong được giải thoát khỏi người chồng/cha/anh bạo hành, không cần biết người
gây ra những đau đớn cho mình bị xử lý thế nào.
Một nguyên nhân khác thuộc nhóm này là sự thiếu kỹ năng ứng xử. Điều quan trọng nhất để
thoát khỏi bạo hành gia đình là nạn nhân phải biết tự bảo vệ mình. Họ phải tự tin về giá trị bản
thân, không cho phép người khác làm tổn thương và hành hạ mình. Họ cũng phải ý thức được
mình đang sống trong nạn bạo hành thì mới có thể lên tiếng, tìm sự trợ giúp và đấu tranh chống
lại nó. Trước khi đợi một ai đó cứu giúp, phải biết tự giải thoát cho mình. Kỹ năng ứng xử trong
gia đình - giữa các cặp vợ chồng, giữa những người lớn, giữa người lớn và trẻ em… - là một
phần quan trọng góp phần giữ gìn sự bền vững cho gia đình.
Nhóm nguyên nhân xuất phát từ lối sống và hoàn cảnh sống: chồng hoặc vợ (con, cháu…) rơi
vào tệ nạn xã hội, nghiện rượu, hút, đánh đề ... hoặc bất đồng về quan điểm, lối sống, vợ/chồng
ngoại tình…Có rất nhiều lý do để giải thích sự tồn tại và mức độ của bạo lực gia đình. Một số

trường hợp do người chồng hoặc vợ/con/cháu rơi vào tệ nạn xã hội, nghiện rượu, hút, đánh đề,
cờ bạc, nghiện hút đánh đập vợ/con… đòi tiền để thỏa mãn cơn nghiện. Một số trường hợp khác
là do căng thẳng, thần kinh không ổn định, thất vọng trong cuộc sống. Nguyên nhân trực tiếp dẫn
đến bạo lực gia đình, theo rất nhiều nghiên cứu, chủ yếu là do say rượu và mượn rượu (60 70%), khó khăn về kinh tế, do vợ hoặc chồng ngoại tình. Một số ông chồng đánh vợ với những
lý do rất vô lý như do vợ không đẻ được con trai, do vợ nói nhiều, thậm chí nói ít; đánh vợ để trả
thù vì ngày xưa “cưa” khó... Trong trường hợp người chồng/cha đánh vợ/con vô cớ hoặc “không
hợp lý” thì thường được mọi người giải thích là do chồng/cha say rượu, cờ bạc, nghiện hút hoặc
chỉ đơn giản là quá nóng tính. Khi say rượu, ham mê cờ bạc, nhiều ông chồng/cha mất tự chủ và
thường giải quyết bất đồng với vợ con bằng những hành vi bạo lực. Đó cũng là lý do của nhiều
trường hợp chồng/cha đánh đập vợ/con một cách nghiêm trọng đã từng xảy ra trong thực tế.
Những bất đồng về kinh tế, nuôi dạy con cái, tình dục... cũng là nguyên nhân dẫn đến bạo lực.
Tuy nhiên, các nghiên cứu lại cho thấy đây thường không phải là nguyên nhân trực tiếp (hoặc
không được thừa nhận) và người chồng/cha phải tìm những lý do “hợp lý” khác như làm trái ý
chồng/cha để có thể đánh đập, mắng chửi vợ/con.
8


Đặng Thị Hà Phương. Lớp K55-Xã hội học
Hoàn cảnh sống khó khăn cũng là một nguyên nhân dẫn đến gia tăng tình trạng bạo lực gia đình.
Trong số các nạn nhân của bạo lực gia đình rất ít người có đủ tiền, thời gian và thông tin để gọi
điện hoặc đến tận nơi nhờ tư vấn và giúp đỡ. Tuy nhiên, trên thực tế bạo hành diễn ra ở tất cả các
nhóm gia đình, không phân biệt trình độ, mức sống. Trước đây, người ta cứ cho rằng bạo hành
gia đình đi liền với trình độ nhận thức thấp, đời sống đói nghèo và lạc hậu. Nhưng thực tế, nhiều
nạn nhân là những người có trình độ cao và mức sống khá giả. Do đó, cần nhấn mạnh ở đây
nhóm nguyên nhân về lối sống của các gia đình và từng cá nhân trong gia đình
Nhóm nguyên nhân từ môi trường quản lý xã hội: việc phòng chống bạo lực gia đình hiện chưa
được quan tâm đúng mức; chính quyền địa phương chưa xử lý triệt để những vụ việc về bạo
hành gia đình; thiếu những quy định cụ thể về luật pháp để giáo dục, xử lý có hiệu quả đối với
người gây bạo lực để họ thay đổi hành vi theo hướng tích cực.
Việc điều chỉnh các mối quan hệ có liên quan đến bạo lực gia đình được quy định tại nhiều văn

bản pháp luật như Hiến pháp năm 1992, Luật hôn nhân và gia đình, Luật bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình
sự, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Pháp lệnh về người cao tuổi. Tuy nhiên, các điều luật
còn chung chung, còn thiếu những quy định cụ thể như: chưa có định nghĩa pháp lý về bạo lực
gia đình; chưa xác định trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia
đình; chưa có quy định pháp lý về biện pháp ngăn ngừa bạo lực gia đình; biện pháp hỗ trợ, bảo
vệ nạn nhân bạo lực gia đình. Thiếu các quy định pháp lý mang tính đặc thù để giáo dục, xử lý
có hiệu quả đối với người gây bạo lực để họ thay đổi hành vi theo hướng tích cực.
Mới đây, Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội đã điều tra tại 8 tỉnh thành (Nam Định,
Thanh Hóa, Quảng Ngãi, Trà Vinh, Đồng Tháp, Hà Nội, Lào Cai, Sơn La) về tình trạng bạo lực
trong gia đình. Kết quả cho thấy, việc phòng chống bạo hành gia đình hiện chưa được quan tâm
đúng mức. Ngay cả những nạn nhân của tệ nạn này khi phỏng vấn vẫn cho rằng họ không phải
chịu bạo lực, nhưng khi kể ví dụ cụ thể thì nêu ra vô số các trường hợp là hậu quả của hành vi
này. Ở nhiều nơi, chính quyền địa phương chưa xử lý triệt để những vụ việc về bạo hành gia
đình. Họ nghĩ rằng đó là chuyện riêng của mỗi nhà, không thuộc chức năng, nhiệm vụ giải quyết
của chính quyền. Ngay chính bản thân người phụ nữ là nạn nhân cũng không lên tiếng đấu tranh
và sẵn sàng bỏ qua cho "tội phạm".
3, Xu hướng của bạo lực gia đình trong tương lai:
Trong tương lai, vấn đề bạo lực gia đình sẽ ngày càng có xu hướng giảm.
Với việc ban hành các bộ luật phòng chống bạo lực gia đình, việc thực thi cũng như áp dụng các
bộ luật đó cùng với sự quan tâm của các cấp chính quyền địa phương thì vấn đề bạo lực gia đình
trong tương lai sẽ có xu hướng giảm Để bảo vệ sự phát triển bền vững của gia đình, ngày
21/11/2007 Quốc hội đã thông qua Luật Phòng chống bạo lực gia đình. Luật có 6 Chương, 46
Điều và có hiệu lực từ ngày 1/7/2008. Sự ra đời của Luật Phòng chống bạo lực gia đình cho thấy
sự phát triển vượt bậc của pháp luật bảo đảm sự phát triển của gia đình ở Việt Nam hiện nay.
Luật quy định cụ thể các hành vi bạo lực gia đình, nguyên tắc phòng chống bạo lực gia đình, các
quyền và nghĩa vụ của nạn nhân bạo lực gia đình; quy định trách nhiệm của Nhà nước trong việc
phòng chống bạo lực gia đình, như cung cấp ngân sách về phòng chống bạo lực gia đình; quy
9



Đặng Thị Hà Phương. Lớp K55-Xã hội học
định trách nhiệm của các tổ chức cá nhân cơ quan nhà nước trong việc phòng chống bạo lực gia
đình. Luật phòng chống bạo lực gia đình đã dành cả chương 2 để quy định vấn đề phòng chống
bạo lực gia đình, như thông tin tuyên truyền về phòng chống bạo lực gia đình, hòa giải mâu
thuẫn các tranh chấp giữa các thành viên trong gia đình. Luật cũng đã quy định cụ thể việc bảo
vệ và hỗ trợ nạn nhân bị bạo lực gia đình, như báo tin về bạo lực gia đình, sử dụng các biện pháp
ngăn chặn về bạo lực gia đình, cấm tiếp xúc nạn nhân bị hành vi bạo lực gia đình v.v…
Đặc biệt, chương 5 luật phòng chống bạo lực gia đình đã quy định các hình thức xử lý đối với
người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình, như xử phạt hành chính,
xử lý kỷ luật, truy cứu trách nhiệm hình sự, hoặc áp dụng các biện pháp giáo dục tại phường, xã,
thị trấn, đưa vào cơ sở giáo dục v.v..Có thể nói với nhiều quy định cụ thể, Luật phòng chống bạo
lực gia đình là văn bản quan trọng đảm bảo sự phát triển của gia đình ở Việt Nam. Bên cạnh đó
cùng với việc đưa ra luật để phòng chống bạo lực gia đình còn có chính sách đối với những
người tham gia phòng chống bạo lực gia đình. Theo quy định tại khoản 5 Điều 6 Luật Phòng,
chống bạo lực gia đình: “Người trực tiếp tham gia phòng, chống bạo lực gia đình mà có thành
tích thì được khen thưởng, nếu bị thiệt hại về sức khoẻ, tính mạng và tài sản thì được hưởng chế
độ theo quy định của pháp luật”.
Ngày 04-02-2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 08/2009/NĐ-CP quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật phòng, chống bạo lực gia đình, tại Điều 5 đã quy
định:
+ Người trực tiếp tham gia phòng, chống bạo lực gia đình mà có thành tích thì được khen
thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng;
+ Người có hành vi dũng cảm cứu người, cứu tài sản của Nhà nước và nhân dân khi trực
tiếp thực hiện việc ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình, nếu bị chết thì được xem xét để công
nhận liệt sĩ, nếu bị thương làm suy giảm khả năng lao động từ 21% trở lên thì được xem xét để
được hưởng chính sách như thương binh theo quy định của pháp luật;
+ Người trực tiếp tham gia phòng, chống bạo lực gia đình mà bị thiệt hại về tài sản thì
được Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi xảy ra bạo lực gia đình hoàn trả thiệt hại trong trường hợp
người gây thiệt hại không có khả năng bồi thường thiệt hại; kinh phí hoàn trả được lấy từ ngân

sách của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh dành cho thực hiện nhiệm vụ phòng, chống bạo lực gia đình
tại địa phương”.
Chính vì thế mà vấn đề bạo lực gia đình trong tương lai sẽ có xu hướng giảm hơn so với bây giờ.
Ngoài ra cùng với việc ban hành và thực thi luật phòng chống bạo lực gia đình một cách nghiêm
túc thì công tác tuyên truyền về phòng chống bạo lực gia đình cũng được diễn ra rất đa dạng và
phong phú. Chính điều đó đã góp phần làm giảm bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay cũng như
trong tương lai. Với chiến dịch” mình là đàn ông mình chống bạo lực” là một trong những biện
pháp “ khích tướng” được áp dụng để hạn chế tình trạng này. Với ý thức của rất nhiều người,
việc đối mặt với vấn nạn bạo lực gia đình, điều quan trọng là cứu giúp người phụ nữ thoát khỏi
hoàn cảnh của họ. Rất nhiều người đàn ông không bao giờ có quan niệm về bạo lực gia đình và
không sử dụng bạo lực tại gia đình. Nhiều người còn phản đối kịch liệt việc sử dụng bạo lực
trong gia đình và rất bất bình khi nghe những chuyện bất bình về bạo lực trong gia đình. Cho nên
10


Đặng Thị Hà Phương. Lớp K55-Xã hội học
việc tổ chức thành lập các nhóm nam giới tham gia hoạt động chống bạo lực gia đình được các
chuyên gia đánh giá là khá hiệu quả. Thực hiện thí điểm tại vài địa phương khác nhau để đánh
giá hiệu quả và khắc phục những thiếu sót và những hạn chế rồi từ đó nhân rộng ra nhiều nơi.
Với việc làm thiết thực này thì vấn đề bạo lực gia đình trong tương lai sẽ có xu hướng giảm.
Bên cạnh đó với những việc làm thiết thực như thành lập các mô hình phòng chống bạo lực gia
đình, đưa các mô hình phòng chống bạo lực gia đình vào hoạt động đã góp phần làm giảm thiểu
tình trạng bạo lực gia đình nên xu hướng bạo lực gia đình trong tương lai đang ngày càng giảm
dần. Một trong những mô hình phòng chống bạo lực gia đình đã được nghiên cứu và thử nghiệm
thành công là mô hình hoạt động của Trung tâm nghiên cứu và ứng dụng khoa học về giới-gia
đình-phụ nữ và vị thành niên (CSAGA). Trung tâm đang duy trì 2 hình thức hỗ trợ nạn nhân của
nạn bạo lực gia đình rất hiệu quả là tư vấn qua điện thoại và xây dựng câu lạc bộ nạn nhân. Bắt
đầu hoạt động từ năm 1997 qua các hệ thống tổng đài 1088, 1900585830, đến nay đường dây tư
vấn của CSAGA đã tư vấn cho 7.522 nạn nhân của nạn bạo hành gia đình. 13 câu lạc bộ của
CSAGA với trên 350 thành viên ở các tỉnh, thành phố, là nơi cung cấp các thông tin, kiến thức

cần thiết để nạn nhân hiểu biết về vấn đề bạo hành, tạo môi trường an toàn, thân thiện giúp các
thành viên cảm thấy tự tin, bộc lộ và chia sẻ vấn đề của mình, từ đó tìm ra cách giải quyết tốt
nhất.
Đánh giá về định hướng và hiệu quả của mô hình này Bà Nguyễn Vân Anh, Giám đốc CSAGA
cho biết có khoảng từ 55-95% phụ nữ bị hành hạ thể xác chưa bao giờ “cầu viện” tới một cơ
quan chính quyền hay người có thẩm quyền. Nạn nhân bạo lực gia đình thường cảm thấy lo lắng
sợ hãi, có cảm giác bị cô lập, bị bỏ rơi, bị khống chế và kiểm soát... Chính vì vậy, việc hỗ trợ tâm
lý cho nạn nhân của bạo hành gia đình (thông qua các hình thức tư vấn và câu lạc bộ nạn nhân)
rất cần thiết nhằm giúp họ tăng thêm sức mạnh, hiểu biết để bảo vệ an toàn cho bản thân và thay
đổi tình trạng của mình.
Một mô hình phòng chống bạo lực gia đình thành công khác là dự án "phòng, chống bạo lực gia
đình đối với phụ nữ" do Tổ chức hỗ trợ và phát triển Thụy Sỹ tài trợ. Dự án đang được triển khai
tại 20 xã thuộc huyện Nho Quan và Gia Viễn thuộc tỉnh Ninh Bình.
Để triển khai thực hiện dự án, Hội phụ nữ các xã đã thành lập câu lạc bộ (CLB) làm chồng, làm
cha, CLB làm vợ, làm mẹ. Tại các buổi sinh hoạt, hội viên được tham gia trao đổi ý kiến, thảo
luận các chủ đề xoay quanh vấn đề bình đẳng giới, nghĩa vụ của người vợ, người chồng trong gia
đình dưới hình thức vẽ và bình tranh... Nhờ đó, cả nữ giới và nam giới hiểu rõ vấn đề bạo lực gia
đình. Sau những buổi tham gia sinh hoạt tại các câu lạc bộ, nam giới đã có sự chia sẻ với phụ nữ
về công việc gia đình, các hành vi ứng xử đã "mềm dẻo" hơn trước. Và quan trọng hơn, từ việc
triển khai dự án, thành lập các CLB, nhiều chị em phụ nữ đã mạnh dạn đến phòng tư vấn "phòng,
chống bạo lực gia đình " của xã xin được tư vấn hay đọc sách báo... để nâng cao hiểu biết, nhận
thức về quyền lợi của mình... Trong khuôn khổ dự án này đến nay, hơn 300 lượt nam giới từng
có hành vi ngược đãi vợ và 387 phụ nữ bị ngược đãi tham gia sinh hoạt và được các chuyên gia
tư vấn giúp đỡ, theo dõi... nên đã có nhiều biến chuyển trong ý thức, lối sống cách ứng xử đối
với vợ, con, gia đình, hàng xóm... Đặc biệt, Ban phòng chống bạo lực và đội can thiệp thôn ở các
xã đã hòa giải được 947 vụ bạo lực gia đình, giảm gần 70% các vụ ly hôn. Trước kia, có tới 2/3
11


Đặng Thị Hà Phương. Lớp K55-Xã hội học

trong tổng số 938 hội viên phụ nữ của xã phải chịu các hành vi bạo lực của chồng, có trường hợp
còn xúc phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm của người phụ nữ, pháp luật phải lên tiếng... Qua
thực hiện dự án, các hành vi bạo lực nghiêm trọng hầu như không còn, số chị em phải chịu cảnh
bạo lực gia đình giảm mạnh. Đây là hình thức giúp đỡ phụ nữ rất hữu hiệu trong việc bảo vệ bản
thân, hạnh phúc gia đình nên rất cần được duy trì và nhân rộng tới nhiều địa phương trong cả
nước.Những thay đổi trong nhận thức và chuyển biến tích cực về mối quan hệ gia đình trong
nhóm đối tượng thử nghiệm đã cho thấy hiệu quả của giải pháp này. Đây là sự "thử nghiệm"
thành công, góp phần ngăn chặn, phòng ngừa bạo lực mới và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Như
vậy có thể nhận định rằng xu hướng bạo lực gia đình trong tương lai sẽ có xu hướng giảm nhờ
những biện pháp tích cực trên.
4. Kết luận
Tóm lại, ta có thể thấy bạo lực gia đình là một trong những hiện tượng đáng lo ngại nhất của tình
trạng khủng hoảng gia đình. Bước sang thế kỷ 21, bạo lực gia đình vẫn lan rộng và trở thành vấn
đề xã hội nghiêm trọng và phổ biến ở nhiều nước trên thế giới và ở Việt Nam. Bạo lực gia đình
đang là nguy cơ gây tan vỡ và suy giảm sự bền vững của gia đình Việt Nam Điều này đặt ra cho
xã hội văn minh nhiệm vụ cấp bách – tìm ra những giải pháp hữu hiệu khắc phục và đi đến xóa
bỏ hoàn toàn hiện tượng này.

12


Đặng Thị Hà Phương. Lớp K55-Xã hội học

Danh mục tài liệu tham khảo
1. Xã hội học gia đình. Lê Thái Thị Băng Tâm. Hà Nội, năm 2012
2. Bạo lực gia đình- Bất bình đẳng trong quan hệ giới. Lê Thị Qúy. Tạp chí khoa học &phụ
nữ. Số 4/2000.
3.Bạo lực gia đình- Chuyên đề khoa học. Lê Quang Sơn.Tháng 8/2007.
4. Những cơ sở lí luận nghiên cứu bạo lực gia đình.Lê Ngọc Văn. Năm 2007
5. />6. />7. />class_id=1&_page=1&mode=detail&document_id=51256.

8. />9. />
13



×