Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

TÌNH TRẠNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ Ở TỈNH SƠN LA THỰC TRẠNG VÀ XU HƯỚNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.95 KB, 32 trang )

Xã hội học gia đình
( Tiểu luận cuối kỳ )
-----@-----

Giảng viên: Th.s Lê Thái Thị Băng Tâm
Sinh viên: Lò Quỳnh Nhung
Lớp: K55 Xã hội học
MSSV:10030618

Bài tiểu luận: TÌNH TRẠNG BẠO LỰC GIA
ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ Ở TỈNH SƠN LA THỰC TRẠNG VÀ XU HƯỚNG

Page 1


MỤC LỤC
1.Lý do chọn đề tài ……………………………………………………………………3
2.Nội dung chính:…………………………………………………………………........4
2.1. Tình hình nghiên cứu…………………………………………………………...4
2.2. Một số khái niệm ………………………………………………………………..5
3. Thực trạng bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ trên địa bàn tỉnh Sơn La…….8
3.1. Khái quát về địa lý tự nhiên, kinh tế- xã hội tỉnh Sơn La……………………8
3.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ……………………………………….8
3.1.2. Tình hình kinh tế- xã hội …………………………………………………9
3.2. Thực trạng bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ trên địa bàn tỉnh Sơn La
………………………………………………………………………………………..11
3.2.1. Thực trạng bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ …………………..11
4. Hậu quả và nguyên nhân của tình trạng bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ
trên địa bàn tỉnh Sơn La ………………………………………………………………18
4.1. Hậu quả ……………………………………………………………………….18
4.2. Nguyên nhân ………………………………………………………………….22


5. Kết luận và xu hướng ……………………………………………………………….28

Page 2


BÀI LÀM
1. Lý do chọn đề tài
Trên thế giới hiện nay, phụ nữ chiếm gần nửa dân số, là một lực lượng lao động to
lớn, góp phần rất quan trọng vào việc xây dựng gia đình và đất nước, thúc đẩy sự tiến bộ
và phồn vinh trên trái đất. Tuy nhiên, chưa ở nước nào phụ nữ thực sự được hoàn toàn
bình đẳng, chị em vẫn phải chịu nhiều thiệt thòi so với nam giới và ở nhiều nơi phụ nữ
vẫn còn bị áp bức, bóc lột nặng nề.
Chính vì vậy, bình đẳng nam nữ một cách toàn diện, triệt để là lý tưởng mà nhân loại
đã theo đuổi nhiều thế kỷ. Đầu thế kỷ XIX, nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng
Pháp S.Phuriê đã cho rằng: Trình độ giải phóng phụ nữ là thước đo trình độ phát triển của
xã hội. Luận điểm này tiếp tục được khẳng định trong học thuyết Mác ngay từ khi nó ra đời
và phát triển ở trình độ mới cao hơn trong các giai đoạn tiếp theo. Những quan điểm trên đã
cổ vũ cho nhiều phong trào đấu tranh đòi quyền bình đẳng giữa nam và nữ, trở thành một
trong những mục tiêu phấn đấu của nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới.
Phải nói rằng đây là một thực trạng đã và đang diễn ra mang tính toàn cầu, trong đó
Việt Nam không phải là ngoại lệ. Bộ văn hoá, thể thao và du lịch Việt Nam đã chỉ ra một trong
năm tồn tại yếu kém của ngành năm 2008, đó là: tình trạng bạo lực gia đình, bạo lực đối với
người già, phụ nữ và trẻ em gây nhức nhối công luận (theo báo thể thao hàng ngày số ra ngày
25/12/2008).
Có thể nói vấn đề đấu tranh giải phóng cho phụ nữ là một trong những vấn đề vô cùng
quan trọng không những đối với xã hội mà nó còn là vấn đề bức xúc trong gia đình Việt Nam
nói chung và gia đình ở tỉnh Sơn La nói riêng.
Page 3



Gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình có tốt thì xã hội mới ổn định và phát triển.
Chính vì vậy, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì điều quan trọng nhất là phải thấy được
vị trí, vai trò của gia đình và có những biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn những yếu tố
trực tiếp tác động đến sự bền vững của gia đình. Trong đó bạo lực gia đình đối với phụ nữ
là một nội dung quan trọng mà xã hội học gia đình cần quan tâm nghiên cứu. Đặc biệt, ở
Việt Nam vấn đề này phải được quan tâm, nghiên cứu để đưa ra giải pháp khắc phục triệt
để tận gốc rễ sâu xa của nó. Phải đi vào nghiên cứu thực trạng ở từng cơ sở, địa phương,
để đưa ra giải pháp phù hợp với đặc điểm của từng địa phương.
Sơn La là một tỉnh miền núi phía Bắc với 12 dân tộc anh em cùng chung sống. Hiện
nay, đời sống vật chất và tinh thần của người dân ở đây ngày càng được nâng cao nhưng mặt
bằng dân trí vẫn còn thấp và phát triển không đều. Nhiều quan niệm, tư tưởng phong kiến,
nhất là tư tưởng “trọng nam khinh nữ” vẫn chưa được xoá bỏ. Họ vẫn phải chịu thiệt thòi cả
về mặt vật chất lẫn tinh thần, vẫn phải chịu sự bất bình đẳng trong mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội và trong gia đình. Đặc biệt là tình trạng bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ đang
gây nhiều bức xúc trong tỉnh Sơn La
2. Nội dung chính.
2.1 Tình hình nghiên cứu
Bạo lực gia đình đối với phụ nữ là một biểu hiện của bất bình đẳng giới và với tính
chất là một sự sai lệch chuẩn mực xã hội. Vì thế, nó đã thu hút được nhiều nhà khoa học,
xã hội học, phụ nữ học trên thế giới quan tâm nghiên cứu từ những năm 60 của thế kỷ
XX.
Ở Việt Nam, vấn đề bạo lực trong gia đình bắt đầu được quan tâm nghiên cứu từ
những năm 90 của thế kỷ XX. Sau Hội nghị quốc tế về bạo lực trên cơ sở giới tổ chức ở
Bali năm 1993 và Hội nghị quốc tế về phụ nữ lần thứ 4 tổ chức tại Bắc Kinh năm
1995,“bạo lực trong gia đình” đã được khẳng định là một chủ đề quan trọng trong
nghiên cứu xã hội phục vụ cho công cuộc phát triển. Trên cơ sở định nghĩa của Liên hợp
quốc về bạo lực đối với phụ nữ, các nghiên cứu về bạo lực gia đình của Việt Nam đã đưa
Page 4



ra nhiều phân loại khác nhau về các hành vi bạo lực trong gia đình. Trong đó hầu hết các
nghiên cứu đều đề cập đến hành vi bạo lực về thể chất với các tên gọi khác nhau như
ngược đãi thân thể (Vũ Mạnh Lợi và cộng sự, 1999), hay bạo hành thể xác (Lê Phương
Mai, 2000; Nguyễn Thị Hoài Đức, 2001), hay cưỡng bức thân thể (Bùi Thu Hằng, 2001).
Bên cạnh đó các tác giả này cũng đề cập đến các hành vi bạo lực về tâm lý, tinh thần, tình
cảm và tình dục. Ngoài ra, nghiên cứu của Lê Thị Quý (2000) và Lê Ngọc Văn (2004)
phân loại bạo lực thành hai loại là bạo lực nhìn thấy được và bạo lực không nhìn thấy
được…Nhìn chung các nghiên cứu đều đưa ra kết luận rằng gốc rễ của nạn bạo lực trên
cơ sở giới là sự bất bình đẳng và quan hệ giới.
Cuốn “Bạo lực gia đình - một sự sai lệch giá trị” của Lê Thị Quý - Đặng Vũ
Cảnh Linh, NXB khoa học xã hội, Hà Nội, 2007 tập trung nghiên cứu tình trạng bạo lực
gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay, những nguyên nhân và hậu quả của bạo lực
gia đình và đặc biệt là công tác phòng chống bạo lực gia đình - những bài học kinh
nghiệm của Việt Nam.
Cuốn “Bình đẳng giới ở Việt Nam” của Trần Thị Vân Anh - Nguyễn Hữu Minh
(chủ biên), NXB khoa học xã hội, Hà Nội, 2008 đã góp phần nghiên cứu về vấn đề bạo
lực gia đình ở Việt Nam dưới góc độ giới, đồng thời dành hẳn một chương để đưa ra
những quan niệm chung nhất về bạo lực gia đình và làm rõ các yếu tố tác động đến hành
vi bạo lực.
Ngoài ra, còn rất nhiều giáo trình, luận văn, luận án hay các tạp chí thông tin khoa
học về phụ nữ có đăng các báo cáo phân tích và đánh giá về vấn đề bình đẳng giới và bạo
lực gia đình đối với phụ nữ.
Như vậy, có thể thấy vấn đề bạo lực trong gia đình đã được nhiều nhà khoa học quan
tâm nghiên cứu.
2.2 Một số khái niệm

Page 5


Phụ nữ chiếm một nửa dân số thế giới, ở Việt Nam, phụ nữ chiếm 50,8 % dân số. Vấn

đề đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ vừa là mục tiêu phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, vừa
là đòi hỏi bức xúc của xã hội. Trong xu thế hội nhập và phát triển, tư tưởng “Nam nữ bình
quyền” hơn lúc nào hết đang được tôn trọng và thúc đẩy ở Việt Nam. Để hiểu rõ hơn về thực
trạng này, trước hết chúng ta đi tìm hiểu một số khái niệm sau
Khái niệm bạo lực gia đình.
Theo Wikipedia: “Bạo hành gia đình hay bạo lực gia đình là thuật ngữ dùng để chỉ
các hành vi bạo lực giữa các thành viên trong cùng một gia đình”.
Theo luật phòng chống gia đình: “Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên
gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về cật chất, tinh thần, kinh tế đối với
thành viên khác trong gia đình”.
Từ đó ta có thể thấy, bạo lực gia đình là một dạng thức của bạo lực trong xã
hội,“Nó là việc các thành viên trong gia đình vận dụng sức mạnh để xử lý các vấn đề
trong gia đình” [2;27].
Bạo lực gia đình là hiện tượng phổ biến trên thế giới nhưng vẫn có rất nhiều người
nhận thức chưa đúng về nó. Luật phòng, chống bạo lực gia đình của Quốc hội nước ta chỉ
rõ: “Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả
năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với các thành viên khác trong gia
đình” [8;1].
Ngày 25-11 hàng năm được Liên hợp quốc lấy làm Ngày quốc tế phòng, chống
bạo lực gia đình. Thế giới từng có nhiều cố gắng trong việc phòng chống bạo lực gia đình
và ban hành nhiều văn kiện pháp lý liên quan. Hiện có 89 nước có quy định pháp luật về
chống bạo lực gia đình, trong đó có 60 nước có luật riêng về phòng chống bạo lực gia
đình; 7 nước có luật riêng về bạo lực chống lại phụ nữ... Tuy nhiên đến nay tình trạng bạo
lực gia đình vẫn đang là nỗi nhức nhối của cả nhân loại.

Page 6


Bạo lực gia đình là vấn đề mang tính toàn cầu, để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng
cho con người, nhất là đối với phụ nữ, nó không chỉ gây hậu quả về thể chất, tâm lý cho

bản thân phụ nữ mà còn với cả trẻ em, gia đình, toàn xã hội và vi phạm nghiêm trọng các
quyền của con người.
Ở Ấn Ðộ, mỗi năm có khoảng hơn 5.000 phụ nữ bị cướp đi mạng sống của mình
vì nhà chồng cho rằng của hồi môn không đủ. Ở Băng-la-đét, theo thống kê tội giết vợ
chiếm 50% trong số các vụ giết người. Ngay tại Mỹ, một cường quốc hùng mạnh được
coi là “tự do” thì hiện tượng bạo lực trong gia đình lại rất phổ biến và đáng báo động.
Trên phạm vi toàn nước Mỹ cứ 15 giây lại có một phụ nữ bị đánh đập, có ít nhất 4 triệu
báo cáo tai nạn do bạo lực trong gia đình chống lại phụ nữ mỗi năm. Còn ở Việt Nam một đất nước đang phát triển, thì tình trạng này phải khẳng định là đang tăng lên. Theo
báo cáo của Bộ Công an, cứ 2 - 3 ngày lại có một người chết liên quan đến bạo lực gia
đình; trong năm 2005 có 14% số vụ giết người liên quan đến bạo lực gia đình (39 vụ
chồng giết vợ và 8 vụ vợ giết chồng). Sáu tháng đầu năm 2006, tỷ lệ này là 30,5% (26/77
vụ) [9; 19].
Đánh giá về vấn đề này, theo GS. Lê Thị Quý ở trung tâm nghiên cứu khoa học về gia
đình và phụ nữ thì tệ nạn này đang phát triển trong xã hội ta hiện nay, nó không chỉ xúc phạm
đến nhân phẩm, quyền con người của phụ nữ mà còn gây ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển
kinh tế - xã hội, văn hoá. Có thể phân bạo lực trong gia đình dưới hai dạng chính là bạo lực
nhìn thấy được và bạo lực không nhìn thấy được ( hay gọi là bạo lực trực tiếp và bạo lực gián
tiếp).
Bạo lực nhìn thấy được thường là các hành vi về thể chất như đánh đập, cưỡng bức tình
dục, sử dụng vũ lực hoặc đe doạ, kể cả việc dùng vũ lực để can thiệp vào ý muốn sử dụng các biện
pháp tránh thai của vợ. Còn bạo lực không nhìn thấy được là dạng bạo lực lao động hoặc kinh tế
có thể khiến nhiều người không nhận thấy được mức độ trầm trọng. Người bị bạo lực thì âm thầm
chịu đựng, cam lòng khuất phục trong suốt cả cuộc đời, còn xã hội thì không ủng hộ họ.

Page 7


Ngoài ra còn nhiều cách phân loại bạo lực gia đình khác nhau: bạo hành thể xác, bạo
hành tinh thần và bạo hành tình dục hay ngược đãi thân thể, ngược đãi về lời nói và ngược
đãi liên quan đến tình dục…và người gây ra bạo lực thường là người chồng hay sự thờ ơ của

người chồng đối với vợ mình. Ngoài ra tham gia vào việc hành hạ phụ nữ thường là cả gia
đình nhà chồng, gồm anh chị em chồng, bố mẹ chồng, một số trường hợp khác thuê người
đánh.
Các nhóm xã hội khác nhau thường có biểu hiện khác nhau về hình thức bạo lực
gia đình. Nhóm gia đình mà vợ, chồng có trình độ học vấn thấp, việc làm không ổn định,
lao động chủ yếu mang tính giản đơn, thì bạo lực gia đình thường diễn ra dưới hình thức
bạo lực về thể chất. Nhóm gia đình có trình độ học vấn cao, nghề nghiệp tương đối ổn
định, bạo lực gia đình thường diễn ra dưới hình thức bạo lực tinh thần. Thực tế cho thấy,
dù dưới bất kỳ hình thức nào thì bạo lực gia đình cũng chủ yếu do người đàn ông (người
chồng) gây ra đối với người phụ nữ (người vợ) và các thành viên khác trong gia đình.
Việc nhận thức vấn đề này lại là một nghịch lý: một số hành vi bạo lực trong gia đình
được nhiều tầng lớp trong xã hội, kể cả phụ nữ, coi là có thể chấp nhận được như
quan hệ lăng nhăng, hỗn láo… Và bạo lực trong gia đình để lại những hậu quả rất
nặng nề: gây tình trạng bất an trong cuộc sống của người phụ nữ, những đứa trẻ… đặc
biệt cản trở sự phát triển, tiến bộ của xã hội. Đây cũng là vấn đề bức xúc đang được
đặt ra ở tỉnh Sơn La.
3. Thực trạng bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ trên địa bàn tỉnh Sơn La:
3.1. Khái quát về địa lý tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Sơn La
3.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Sơn La là một tỉnh nằm ở phía Tây Bắc, tổng diện tích tự nhiên là 14.174 km 2
chiếm 4,27% diện tích cả nước. Toàn tỉnh gồm có 11 đơn vị hành chính (01 thành phố và
10 huyện), có chung đường biên giới Việt - Lào dài trên 250km và đường địa giới giáp
các tỉnh bạn là 628km. Toạ độ địa lý từ 20 030’ - 22002’ vĩ độ Bắc, từ 103011’ - 105002’ kinh
Page 8


độ Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Yên Bái; phía Đông giáp tỉnh Phú Thọ, Hoà Bình; phía Nam
giáp tỉnh Thanh Hoá và tỉnh Hủa Phăn, Luông Pha Băng của nước Cộng hoà dân chủ
nhân dân Lào; phía Tây giáp tỉnh Điện Biên, Lai Châu.
Dân số (thống kê năm 2009) là 1.083.700 người, mật độ dân số 73 người/km 2

trong đó nam chiếm 50,2%, nữ chiếm 49,8%. Bao gồm 12 dân tộc anh em (kinh 17,61%;
Thái 53,20%; Mường 7,57%; Mông 14,61%; Dao 1,77%; Khơ Mú 1,17%; Kháng 0,80%;
La Ha 0,75%; Xinh Mun 1,98%; Tày 0,15%; Lào 0,31%; Hoa 0,02%; dân tộc khác
0,06%). Tổng số lao động trên địa bàn khoảng 584.940 người (chiếm 56% tổng dân số);
lao động nông, lâm nghiệp là chủ yếu với 502.350 người (chiếm 86% tổng lao động) [12;
1].
Sơn La là một tỉnh miền núi có độ cao trung bình từ 600-700m so với mực nước
biển, địa hình chia cắt sâu và mạnh. Địa hình gồm các dãy núi phần lớn chạy dần theo
hướng Tây Bắc - Đông Nam và nghiêng dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam theo chiều
dòng chảy của Sông Đà và Sông Mã. Tỉnh có 2 cao nguyên là cao nguyên Mộc Châu và
cao nguyên Nà Sản.
Tỉnh Sơn La nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa mang đặc điểm của khí
hậu Tây Bắc, chia làm hai mùa: mùa đông lạnh và khô; mùa hè nóng, ẩm và mưa nhiều.
Với đặc điểm địa hình như vậy đã tạo cho tài nguyên thiên nhiên tỉnh Sơn La đa dạng
phong phú với tài nguyên rừng có khả năng phát triển; tài nguyên khoáng sản, tài nguyên
đất, với hệ động thực vật phong phú, đa dạng với nhiều chủng loại quý hiếm.
3.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội
Trong những năm qua được sự quan tâm của Đảng, Nhà Nước và sự nỗ lực vượt
bậc của Đảng bộ chính quyền địa phương, nền kinh tế Sơn La tiếp tục chuyển dịch cơ cấu
theo hướng sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, hình thành các vùng tập trung chuyên
canh, thâm canh, kết hợp mở rộng vùng cây ăn quả, cây công nghiệp gắn với cơ sở chế

Page 9


biến có quy mô và công nghệ phù hợp. Đồng thời hình thành các khu công nghiệp, khu
đô thị mới nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh trong thời gian tới.
Theo Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh năm 2010 của Uỷ ban
nhân dân tỉnh Sơn La, tổng sản phẩm (GDP) trong tỉnh ước đạt 4.377,450 tỷ đồng, bằng 98,6%
kế hoạch và tăng 12,8% so với năm 2009. Trong đó khu vực nông, lâm, thuỷ sản giảm 3,4%;

công nghiệp - xây dựng tăng 19,3%; dịch vụ tăng 24%. Cơ cấu GDP: nông, lâm nghiệp, thuỷ
sản giảm từ 43,6% năm 2009 xuống còn 40,01%; khu vực công nghiệp, xây dựng từ 23,3%
năm 2009 lên 23,4%; dịch vụ tăng từ 33,1% năm 2009 lên 36,56% [12; 2].
Bên cạnh đó, văn hoá - xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân được cải thiện, công tác xoá đói giảm nghèo đạt kết quả quan trọng; các vấn đề
bức xúc của xã hội được tập trung giải quyết.
Giáo dục và đào tạo được củng cố và phát triển toàn diện, các ngành học, bậc học phát
triển nhanh về quy mô trường lớp, học sinh; cuộc vận động “hai không” với 4 nội dung được
triển khai thực hiện nghiêm túc góp phần nâng cao chất lượng giáo dục; đẩy mạnh công tác
phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
Công tác bảo vệ chăm sóc sức khoẻ nhân dân, chính sách khám chữa bệnh cho
người nghèo…được chú trọng; chất lượng khám chữa bệnh được nâng lên; mạng lưới y
tế được củng cố. Tỷ lệ trạm y tế xã có bác sỹ đạt 64%; tổng số cán bộ y tế hiện có 4.019
người, tăng 13,2% so với năm 2009. Tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 01 tuổi là 0,58%, tỷ lệ trẻ
em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm xuống còn 23,5%. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm
2010 là 1,25%; giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên xuống còn 9,5% [12; 9].
Chương trình xoá đói giảm nghèo, xoá nhà tạm được đẩy mạnh và đạt kết quả
cao. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 46% (năm 2006) xuống còn 25% (năm 2010), phấn đấu
giảm xuống dưới 10% vào năm 2015 [12; 11].
Ngoài ra, tình hình an ninh chính trị tiếp tục được giữ vững, trật tự an toàn xã hội
được bảo đảm, phục vụ tích cực cho nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Kết quả
Page
10


thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh được thể hiện toàn diện trên các mặt: công tác nắm
tình hình, công tác tham mưu; đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả chương trình quốc gia phòng,
chống tội phạm, ma tuý…Quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế tiếp tục được củng cố, tăng cường
và mở rộng; đặc biệt là quan hệ hợp tác với các tỉnh giáp biên giới Việt - Lào. Công tác tôn tạo,
tăng dày hệ thống mốc quốc giới Việt - Lào được tập trung chỉ đạo, đến nay đã hoàn thành 13 mốc

biên giới giữa Sơn La với tỉnh Luông Pha Băng.
Như vậy, ta có thể thấy Sơn La là một tỉnh miền núi có nền kinh tế tăng trưởng
khá nhanh, mặc dù những yếu tố vật chất tạo điền kiện cho sự phát triển phần lớn vẫn phụ
thuộc vào sự hỗ trợ của Trung ương, nhưng cũng góp phần dần đưa Sơn La thoát khỏi
tình trạng đặc biệt khó khăn và rút ngắn khoảng cách với các tỉnh phát triển, tạo lập các
yếu tố cơ bản làm tiền đề phát triển trong những năm tiếp theo. Tuy nhiên bên cạnh
những thành tựu đã đạt được, ở Sơn La mặt bằng dân trí vẫn còn thấp và phát triển không
đều. Vì vậy còn nhiều hủ tục lạc hậu đặc biệt là tư tưởng phân biệt nam nữ.
Vì vậy, mặc dù đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử với những cuộc cách mạng to
lớn thì phụ nữ Sơn La, nhất là phụ nữ ở vùng sâu, vùng xa vẫn chịu thiệt thòi về mọi mặt,
vẫn phải chịu sự bất bình đẳng nam nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và trong
gia đình. Đặc biệt là tình trạng bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ đang gây nhiều bức
xúc trong toàn tỉnh.
3.2. Thực trạng bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ trên địa bàn tỉnh
Sơn La
3.2.1. Thực trạng bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ
Một trong những vấn đề bức xúc hiện nay là tình trạng một bộ phận phụ nữ và trẻ
em trở thành nạn nhân của các hành vi ngược đãi diễn ra ngay trong gia đình, do chính
người chồng gây ra. Cũng như các vấn đề xã hội khác, nó chịu tác động của những thay
đổi về môi trường kinh tế, văn hoá, xã hội. Mặc dù đã có sự ngăn chặn khá kiên quyết
của pháp luật, chính quyền, của các đoàn thể nhưng thực tế tại cộng đồng dân cư, không
Page
11


phải cặp vợ chồng nào cũng có thể sống một cách hoàn toàn êm ấm hạnh phúc. Bạo lực
trong gia đình khi lén lút, lúc công khai, đã và đang xảy ra phá vỡ hạnh phúc của một số
gia đình, nhất là các cặp vợ chồng trẻ. Vì vậy chúng ta cần phải đấu tranh nhằm ngăn
chặn, tiến tới xoá bỏ hoàn toàn các hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ.
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, bạo lực gia đình bao gồm nhiều dạng.

Trong xã hội Việt Nam nó thường diễn ra dưới hai hình thức: “bạo lực nhìn thấy được” và
“bạo lực không nhìn thấy được”. Hai dạng bạo lực này ở nơi này được thể hiện trong mối
quan hệ khăng khít, ở nơi khác lại được thể hiện trong sự độc lập, tách biệt lẫn nhau. Điều
này phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của từng gia đình, vào nhận thức và hành động của các
thành viên trong gia đình.
Thứ nhất: bạo lực nhìn thấy được
Vấn đề bạo lực và các hành vi bạo lực trong gia đình là một vấn đề phức tạp, thể
hiện ở nhiều góc độ. Trong thực tế, các nghiên cứu chủ yếu tập trung ở các hành vi bạo
lực nhìn thấy được mà ít có những phân tích sâu đối với những hành vi bạo lực không
nhìn thấy được trong gia đình.
Bạo lực nhìn thấy được đó là bạo lực về thân thể, tình dục với các hành vi đánh
đập, hành hạ đến thương tích phải tìm đến cái chết; hay bị hành hạ chửi rủa hắt hủi khi
không sinh được con trai; người chồng đòi lấy vợ hai hoặc người chồng khinh bỉ coi vợ
như người ở…Ta có thể nhận thấy đây là một dạng bạo lực rất nguy hiểm. Nó làm cho
người phụ nữ bị tổn thương, đau đớn hoặc đôi khi mất đi cả tính mạng của mình.
Thực trạng bạo lực gia đình nói chung, bạo lực nhìn thấy được nói riêng của toàn
tỉnh ngày càng tăng với con số đáng lo ngại. Năm 2005 có 175 vụ ly hôn do mâu thuẫn
gia đình và đánh đập ngược đãi. Đến năm 2006 con số này là 270 vụ, tăng gần 2 lần so
với năm 2005 và không ngừng tăng lên, trong năm 2007 là 212 vụ, năm 2008 số vụ bạo
lực đã lên tới 319 vụ tăng 1,5 lần so với năm 2007. Đến năm 2010 là 645 vụ, tăng 2,1 lần
so với năm 2008, và tăng 4,8 lần so với năm 2005.
Page
12


Thực trạng này ngày càng phổ biến khắp các cơ sở địa phương trong toàn tỉnh,
chiếm tỷ lệ lớn trong các vụ án về hôn nhân và gia đình. Theo thống kê của Toà án nhân
dân trong 455 vụ ly hôn năm 2009 trên địa bàn tỉnh thì có đến gần 400 vụ ly hôn do bạo
lực gia đình gây ra với các nguyên nhân: rượu chè, ngoại tình, cờ bạc...
Bạo lực gia đình không chỉ xảy ra ở vùng sâu, vùng xa với những người có trình độ học

vấn thấp mà còn ở thành phố, trong những gia đình có học vấn cao, có địa vị xã hội. Ngay tại
địa bàn Thành phố, năm 2010 có 67 vụ án hôn nhân gia đình thì có đến 54 vụ án do bạo lực gia
đình gây ra. Còn ở địa bàn các huyện là 571 vụ... [11; 1]. Tuy nhiên con số này chưa hẳn đã
phản ánh đúng thực tế. Nhiều trường hợp các nạn nhân che giấu, âm thầm chịu đựng; một số
bị đánh đập quá mức thì chỉ đến tâm sự với cán bộ cơ sở, không muốn công khai.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc ly hôn của các gia đình nhưng nguyên nhân cơ
bản dẫn đến tình trạng này vẫn là do mâu thuẫn gia đình và sự đánh đập ngược đãi. Trong đó
phụ nữ luôn là người gánh chịu hậu quả. TS. Hoàng Bá Thịnh (Trung tâm nghiên cứu giới gia
đình và môi trường trong phát triển) cho rằng: “Bạo lực gia đình là một hiện tượng xã hội, nó
chịu sự tác động của nhiều yếu tố kinh tế, văn hoá, xã hội khác nhau... Điều dễ nhận thấy là,
bạo lực giới trong gia đình có xu hướng phổ biến hơn ở các cộng đồng có mức sống và dân trí
thấp, hoặc tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn nặng nề” [10; 65].
Sơn La với đặc điểm là một tỉnh miền núi nghèo nàn lạc hậu với hơn 80% là dân
tộc. Mấy năm gần đây mới bắt đầu phát triển công nghiệp. Chính vì vậy trình độ dân trí
còn rất thấp, bên cạnh đó còn chịu ảnh hưởng của truyền thống xưa, tập tục lạc hậu vẫn
ăn sâu bám rễ trong tư tưởng mỗi người nơi đây nên việc nhận thức về bạo lực trong gia
đình chưa đúng đắn.
Theo nghiên cứu ở Huyện Mộc Châu (2006): Các cuộc thảo luận nhóm, phỏng vấn
sâu cho thấy phần lớn người dân đều không có nhận thức rõ ràng về bạo lực gia đình,
khái niệm bạo lực chưa được nghe nói đến hoặc ở mức độ rất mơ hồ. Theo kết quả khảo
sát phiếu điều tra hộ gia đình, có tới 63,3% số người được hỏi chưa bao giờ nghe nói tới
bạo lực gia đình và 36,8% đã được nghe nói nhưng hiểu biết rất mơ hồ [4; 10].
Page
13


Trên thực tế thông tin về bạo lực gia đình đối với người dân, đặc biệt là các dân tộc
thiểu số ở vùng sâu, vùng xa chủ yếu qua các cuộc họp tổ, xã, và do chính quyền cơ sở cung
cấp. Phần lớn các hộ gia đình người dân không có các phương tiện nghe nhìn. Việc triển khai
các chính sách, đường lối, thực hiện chủ trương pháp luật của nhà nước chủ yếu dựa vào đội

ngũ cán bộ cơ sở. Tuy nhiên, trình độ nhận thức của đội ngũ cán bộ cơ sở còn rất hạn chế.
Với cách nghĩ đơn giản, nhiều chị em phụ nữ chấp nhận những hành vi thô bạo của các ông
chồng với quan điểm cho rằng “phải biết thông cảm”, chỉ có một số hành vi được xác định
khá rõ là hành vi bạo lực gia đình như đánh đập, chửi mắng. Thông thường, người phụ nữ
khi bị chồng đánh đập, chửi bới sẽ cam chịu, chờ đợi sự tỉnh ngộ của đức ông chồng,
không muốn làm to chuyện vì quan niệm” xấu chàng hổ ai”… Chỉ có những trường hợp
nào nghiêm trọng đến tính mạng thì lúc đó, chị em mới nói ra nỗi khổ nhục mình phải
chịu. “Theo như lời kể của lãnh đạo Huyện Phù Yên: “Một năm có 6,7 vụ đánh vợ
nghiêm trọng còn đấm tát thì nhiều. Có ông chồng nhốt vợ trong buồng khoá cửa không
cho ra ngoài, có trường hợp vợ bị đánh nhưng không dám nói ra đến khi bị phát hiện thì
mới nói.””
Qua khảo sát thực tế cho thấy tình trạng bạo lực trong gia đình diễn ra phổ biến ở
các gia đình dân tộc, với nhiều hình thức khác nhau. Ở cấp độ nguy hiểm nhất là tình
trạng tự tử do mâu thuẫn gia đình, mâu thuẫn vợ chồng khá nhiều. Theo số liệu báo cáo
của Toà án tỉnh Sơn La trong năm 2010 có tới 71 vụ tự tử. Trong đó số vụ tự tử liên quan
đến mâu thuẫn gia đình là 58 vụ và phần lớn là ở người dân tộc (dân tộc H ‘Mông là 23
vụ).
Đối với người dân tộc thiểu số, do phong tục tập quán lạc hậu, tuy tình trạng ly
hôn không nhiều nhưng thực tế người vợ thường phải cam chịu và chấp nhận kể cả trong
trường hợp người chồng rất vũ phu, đối xử tệ bạc, đã dẫn họ đến cái chết bằng cách tự tử.
Vì vậy, số vụ tự tử liên quan đến bạo lực gia đình ở các dân tộc trên địa bàn tỉnh Sơn La
là khá nhiều

Page
14


Trước thực trạng nêu trên, trong những năm qua Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh đã có
nhiều giải pháp hữu hiệu nhằm giảm thiểu nạn bạo hành trong gia đình, về cơ bản đã trả
lại những quyền tự do, bình đẳng cho chị em phụ nữ.

Hoạt động hoà giải: Công tác hoà giải ở cơ sở luôn được cấp hội phát huy có hiệu
quả, với lực lượng trên 70% hòa giải viên ở cơ sở là phụ nữ, các chị đã chủ động, tích cực
trong việc nắm tình hình, kịp thời thăm hỏi, tư vấn, góp ý các gia đình có nguy cơ xảy ra
bạo lực gia đình nên đã góp phần ngăn chặn các vụ bạo lực gia đình trên địa bàn.
Công tác giải quyết đơn thư: Trong 6 năm các cấp Hội phụ nữ trong tỉnh đã nhận tổng số
1701 đơn có nội dung về hôn nhân và gia đình, nguyên nhân chủ yếu là do chồng cờ bạc,
nghiện ma tuý, ngoại tình, về đánh đập, ruồng rẫy vợ con…Riêng bạo lực gia đình có 215
đơn, trong đó cấp tỉnh là 35 đơn, cấp huyện, thành, hội là 51 đơn và cấp cơ sở là 129 đơn.
Hội phụ nữ đã trực tiếp giải quyết được 102 đơn, số còn lại được chuyển cho cơ quan
pháp luật có thẩm quyền giải quyết.
Như vậy, bạo lực nhìn thấy được đối với phụ nữ trong gia đình ở Sơn La ngày
càng có xu hướng gia tăng, nhưng việc nhận thức về nó, về vai trò của người phụ nữ chưa
thực sự đúng đắn và đầy đủ.
Thứ hai: bạo lực không nhìn thấy được
Bạo lực không nhìn thấy được là những hành vi xúc phạm tâm lý, tình cảm, tinh
thần…; nhìn bề ngoài khó phát hiện nhưng lại làm cho phụ nữ đau khổ về mặt tinh thần,
tâm lý. Hay đay nghiến, chì triết do phụ nữ không làm ra tiền phải phụ thuộc vào chồng,
phụ nữ bị bắt phải làm việc để có tiền cho chồng đánh bạc. Lúc vợ có lỗi lầm thì chửi bới
vợ, hoặc sức khoẻ yếu không đáp ứng được nhu cầu tình dục…Dạng bạo lực này xuất
phát từ sự phân công lao động bất hợp lý giữa nam và nữ trong gia đình. Hiện nay ở
nhiều nước, đặc biệt là các nước phương Đông vẫn còn tồn tại quan điểm cho rằng: Phục
vụ vô điều kiện cho chồng con nói riêng và nam giới nói chung là“chức năng” là“thiên
hướng”, là sự “hy sinh” nhường nhịn của người phụ nữ trong gia đình. Quan điểm này
xuất phát từ tư tưởng phụ quyền được phản ánh trong luật pháp phong kiến và chuyển
Page
15


thành phong tục tập quán hoà quyện vào đời sống xã hội từ hàng chục thế kỷ nay, như là
một dạng đạo đức xã hội, một lối sống của nhân dân từ trong gia đình ra ngoài xã hội.

Ở các mức độ khác nhau, quan niệm này đã gán cho phụ nữ những trách nhiệm
chính rất nặng nề trong các công việc tái sản xuất ra sức lao động (nội trợ, chăm sóc con
cái và thành viên trong gia đình) trong khi họ là người thực hiện chính nhiệm vụ tái sản
xuất sinh bọc ra con người (mang thai, sinh con và cho con bú bằng sữa của mình). Bên
cạnh đó, phụ nữ vẫn thực hiện trách nhiệm lao động sản xuất như nam giới. Nhiều quan
niệm sai lầm cho rằng, việc nội trợ là “thiên chức” của phụ nữ và họ không bằng lòng
nếu như người phụ nữ nào không hoàn thành các thiên chức trên. Có lẽ họ đã không
hiểu hoặc cố tình không hiểu thiên chức ở đây là trời trao nghĩa là tạo hoá đã quy định
là không thay đổi được. Đó là các chức năng (mang thai, sinh con và cho con bú bằng
sữa mẹ) còn trách nhiệm nội trợ là “xã hội chức” nghĩa là xã hội trao cho phụ nữ và
có thể thay đổi được. Tuy nhiên, cũng còn rất nhiều nam giới đã thực hiện hành vi bóc
lột phụ nữ với những nguỵ biện về thiên chức. Đồng nghĩa với việc lao động quá sức,
sự hưởng thụ của phụ nữ bị coi là thứ yếu, thậm chí không được tính đến.
Cách mạng tháng Tám đã thành công được 65 năm, ở khắp nơi, người ta hô hào về
bình đẳng giới, trong từng điều kiện cụ thể, cuộc đấu tranh đòi quyền bình đẳng nam nữ
đã được tiến hành mạnh mẽ trên các lĩnh vực luật pháp, gia đình và xã hội. Điều đó đã
làm biến đổi về căn bản vị trí, quyền lợi của người phụ nữ so với trước đây.
Tuy nhiên cuộc đấu tranh nào cũng có khó khăn của nó, đặc biệt Sơn La vốn là
một tỉnh miền núi có trình độ dân trí thấp, ảnh hưởng nặng nề của tàn dư, hủ tục lạc hậu.
Vì những lý do đó, chúng ta có thể giải thích được vì sao Sơn La vẫn tồn tại tư tưởng
“trọng nam khinh nữ”, thậm chí ở nơi vùng sâu, vùng xa có xu hướng phục hồi và phát
triển. Chính tư tưởng này đã tạo ra một thứ bạo lực vô cùng ghê gớm, nó khiến cho họ
không bị đánh đập về thể xác thì cũng bị đầy đoạ về tinh thần, không bị mắng chửi nhưng
vẫn phải lao động cực nhọc và phục tùng như một nô lệ. Ngày nay, trong khi có nhiều
người chồng đã yêu thương, chia sẻ với vợ gánh nặng gia đình, thì vẫn còn không ít
Page
16


những người chồng thờ ơ trút toàn bộ trách nhiệm gia đình lên đầu vợ. Từ việc lao động,

kiếm sống, đến việc quản lý, thu vén các công việc trong gia đình như cơm nước, giặt
giũ, chăm sóc người già, giáo dục con cái…Trong khi người vợ tất bật từ sáng đến tối thì
những ông vua này lại nhởn nhơ, nhàn nhã bên các chiếu bạc hoặc giải sầu với rượu.
Điều đáng lưu ý là ở nhiều làng xã, những người chồng kiểu này vẫn được ủng hộ, thậm
chí cả chính giới phụ nữ
Ở Sơn La từ năm 2005 -2008 cho thấy, phụ nữ là người đóng vai trò chính trong
việc nội trợ, ví dụ như nấu cơm (nữ: 68%, nam: 4,4%); giặt giũ (nữ: 69,5%, nam:3,4%);
dọn dẹp trong gia đình (nữ:53,2%, nam: 5,7%); chăm sóc con cái và dạy con học (nữ:
41,1%, nam: 9,3%) [10; 14]. Hình ảnh người phụ nữ Thái luôn gắn với chiếc gùi, chiếc
túi đeo, hay bên khung cửi dệt vải và các đồ gia dụng khác phần nào phản ánh vị trí
người phụ nữ trong gia đình. Với khối lượng công việc nhiều như thế, chúng ta thấy có sự
bất bình đẳng giới, song theo quan niệm của người phụ nữ Thái thì đó là trách nhiệm, bổn
phận của người vợ, người mẹ trong gia đình, là niềm vui trong lao động và hạnh phúc của
họ nên trên thực tế hiện nay hầu như không có gì thay đổi về thực trạng này. Những con
số này nằm chung trong thực trạng cả nước, theo tác giả Nguyễn Linh Khiếu: “Những
công việc gia đình riêng người vợ thực hiện đặc biệt cao là: nấu ăn 77,9%; mua thực
phẩm 86,9%; giặt quần áo 77,6% và chăm sóc con cái 43,3%” [7; 225]. Như vậy các
công việc nấu ăn, giặt giũ quần áo, chăm sóc con…chủ yếu do phụ nữ đảm nhiệm, người
đàn ông có tham gia nhưng tỷ lệ lại rất thấp như: “nấu ăn 2,15%; mua thực phẩm 2,3%;
giặt quần áo 1,9%; chăm sóc con cái 2,3%; chăm sóc người già, người ốm 3,7%” [7;
225].
Bên cạnh đó, hiện nay nhiều ông chồng đã bước đầu tự giác chia sẻ công việc
cùng vợ và một số gia đình khác thuê người giúp việc…tạo ra thời gian nghỉ ngơi, tiếp
thu học tập văn hoá của người phụ nữ được tăng lên. Dẫu là đang có sự chia sẻ công việc
gia đình của người chồng đối với người vợ, nhưng về cơ bản người phụ nữ vẫn là người
đóng vai trò chính.
Page
17



Trong cuộc điều tra được hỏi ở Huyện Sông Mã thì có hơn 80% trả lời là trong các
gia đình nghèo người cực khổ nhất là phụ nữ và trẻ em. Họ phải lao động từ sáng tới
khuya. Không có một công việc trồng trọt, chăn nuôi nào dù nặng nhọc nhất từ cày bừa,
gieo cấy, gặt hái mà không qua tay họ. Thậm chí có chị phải làm cả những việc mà trước
đây chỉ dành cho đàn ông như bốc vác, kéo xe…Ngược lại, nhiều ông chồng của họ lại
dùng mọi lời đường mật hoặc cả biện pháp trấn áp để lấy cho bằng được những đồng tiền
ít ỏi trong túi vợ và nướng vào các canh bạc, rượu chè.
Trong điều kiện như vậy người phụ nữ đã không còn thời gian nghỉ ngơi để nâng
cao trình độ văn hoá.” Nhiều phụ nữ trả lời rằng, trong 3 năm gần đây họ không đi khỏi
huyện, không xem một vở kịch nào kể cả khi các đoàn nghệ thuật về tận địa phương biểu
diễn, trình độ văn hoá thấp khiến cho các chị em trốn tránh các hoạt động văn hoá, xã hội,
tự ti mặc cảm và chỉ biết vùi đầu vào công việc kiếm sống vất vả…” tất cả tạo thành một
vòng xoáy luẩn quẩn, khiến họ cam chịu cuộc sống như vậy. Ở thành thị nhiều phụ nữ trí
thức đã không còn đủ thời gian để đọc thêm tài liệu chuyên môn, học ngoại ngữ hoặc
nâng cao nghiệp vụ.
Bên cạnh đó, còn nhiều người chưa dám thừa nhận có một dạng bạo lực tình dục
trong gia đình, nhưng trên thực tế lại tồn tại dạng bạo lực này. Ca dao xưa đã thương cảm
cho hoàn cảnh tất bật của người vợ và chê trách những ông chồng bằng những câu hát rất
thực tế:
Đang cơn lửa tắt cơm sôi
Lợn kêu con khóc chồng đòi tòm tem
Hành vi của người chồng biểu hiện uy quyền của anh ta và đặt người phụ nữ trong
tình trạng khó xử. Đã có nhiều phụ nữ rơi vào tình trạng này mà không “chiều” chồng đã
bị anh ta đánh đập không thương tiếc. Trong thực tế, tệ bạo lực tình dục cũng xảy ra khá
nhiều ở Sơn La nhưng dường như đây vẫn còn là một vấn đề nhạy cảm nên họ vẫn tìm
cách che đậy.
Page
18



Thậm chí, có những đức ông chồng còn đi tìm thú vui với những người phụ nữ
khác, làm tan nát hạnh phúc gia đình. Riêng năm 2010 Toà án Tỉnh đã xét xử 83 vụ ly
hôn do ngoại tình. Chính áp lực này khiến cho người phụ nữ phải chịu tổn thương cả về
thể xác lẫn tinh thần, đặc biệt những di chứng về mặt tâm lý tình cảm. Đã có người không
chịu được đành phải kháng cự và bị chồng đánh sưng tím mặt mũi chân tay. Điều này đã
khiến cho những người phụ nữ ấy có tâm lý sợ hãi mỗi khi “gần gũi” chồng.
Thực trạng bạo lực không nhìn thấy được nêu trên là rất nguy hiểm, vì nó đã vắt
cạn kiệt tâm hồn, trí tuệ của người phụ nữ, nó sẽ mãi mãi đẩy người phụ nữ vào sự cách
biệt với nam giới trong lao động, trong hưởng thụ những giá trị văn hoá. Thực trạng này,
vô hình chung đã tạo cho người chồng một thói quen hưởng thụ, một thói quen gia trưởng
và ích kỷ.
4. Hậu quả và nguyên nhân của tình trạng bạo lực trong gia đình đối với phụ
nữ trên địa bàn tỉnh Sơn La
4.1. Hậu quả
Bạo lực gia đình đối với phụ nữ đang có xu hướng gia tăng trên địa bàn tỉnh Sơn
La và hậu quả mà nó để lại là rất lớn. Qua nghiên cứu cho thấy hậu quả của bạo lực gia
đình không chỉ tác động đến phụ nữ mà còn tác động đến cả gia đình và xã hội.
Thứ nhất: ảnh hưởng đến cơ hội phát triển của phụ nữ
Bạo lực gia đình là nguyên nhân hạn chế sự tiến bộ và phát triển của người phụ
nữ. Vị trí thấp kém trong gia đình đã cản trở người phụ nữ tham gia các hoạt động xã hội.
Lao động kiếm sống và gánh nặng gia đình luôn đè nặng lên vai người phụ nữ. Họ không
có thời gian học tập, nghỉ ngơi, giải trí để nâng cao trình độ hay học tập để kiếm được
công việc tốt hơn. Trong giai đoạn khi cán cân quyền lực luôn nghiêng về phía nam giới
còn phụ nữ thì mặc cảm, tự ti, chấp nhận vị trí thấp kém thì họ dễ trở thành nạn nhân của
bạo lực gia đình
Page
19


Do vậy, bạo lực gia đình đã gây nên tình trạng bất an trong cuộc sống của người phụ nữ và

cản trở sự phát triển của họ, vì họ luôn sống chung một nhà với kẻ gây ra bạo lực. Kết quả các
nghiên cứu cho thấy, bạo lực gia đình là nguyên nhân chính phá vỡ cuộc sống gia đình, ly hôn có
thể không ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ, nhưng có thể gián tiếp ảnh hưởng đến sức khoẻ của
phụ nữ thông qua việc gây ra nguy cơ nghèo khổ của phụ nữ. Trong nhiều trường hợp ly hôn được
xem là lối thoát cuối cùng khi người vợ không thể chịu đựng thêm nữa sự ngược đãi. Khảo sát của
Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh năm 2010 cho thấy có 25% gia đình có hành vi bạo lực tinh thần; khoảng
15% vợ bị chồng đánh, gần 80% bị chồng chửi, 70% bị chồng bỏ mặc; 30% cặp vợ chồng có hiện
tượng ép buộc quan hệ tình dục [6; 9]. Hậu quả của bạo lực gia đình gây thương tích thân thể
chiếm 12,8%; tổn thương về tinh thần 28,3%; vợ chồng ly thân 5,1%; ly hôn 14,8%; con cái
không được chăm lo 13,3%; tử vong 2,8%; tự tử 1,2%; (số này ở vùng sâu và dân tộc chiếm cao
hơn), 2,7% bạo lực về kinh tế [6; 10].
Hậu quả của bạo lực gia đình là rất lớn, ảnh hưởng của nó cũng rất lâu dài, đặc biệt là
ảnh hưởng tới đời sống tinh thần, đạo đức của con người khiến người phụ nữ luôn phải sống
trong lo âu, đau đớn và sợ hãi. Do vậy, họ không thể hoàn thành tốt vai trò của mình đối với
gia đình, đặc biệt là việc chăm sóc, nuôi dạy con cái. Khi đó, khả năng tan vỡ của gia đình là
rất lớn. Phụ nữ là những đối tượng nhạy cảm, vì vậy, các triệu chứng trầm cảm, stress mạnh,
nguy hại hơn là sự suy giảm thần kinh đã trở thành bệnh là những di chứng của nạn bạo hành
gia đình. Không chỉ thế, người phụ nữ còn là đối tượng hứng chịu những tổn hại về sinh lý
dưới tác động của hành vi bạo lực về tình dục.
Thứ hai: ảnh hưởng đến nhân cách trẻ em
Bạo lực gia đình không chỉ gây tổn hại đến tâm lí và sức khỏe của người phụ nữ
mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến tâm lí và sức khỏe của những đứa trẻ phải chứng
kiến bạo lực gia đình. Đây cũng là nguy cơ gây tan vỡ và suy giảm sự bền vững của gia
đình.
Số liệu khảo sát điều tra xã hội học năm 2010 của Tỉnh cho biết: bạo lực gia đình
ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của trẻ chiếm 91,0%; gây tổn hại về sức khỏe, thể
Page
20



chất: 87,5%; gây tổn thương về tâm lý, tinh thần: 89,4%; gây tan vỡ gia đình: 89,7% và
làm rối loạn trật tự, an toàn xã hội: 89% [6; 27]. Với tuổi thơ hậu quả là hết sức nguy hại
vì nó làm cho các em mất niềm tin vào các thành viên gia đình, từ đó chán học, sa ngã
vào các tệ nạn xã hội hoặc có hành vi phạm pháp.
Bạo lực gia đình từng bước biến đứa trẻ hiền lành trở nên lì lợm, đồng thời có thể làm
xuất hiện ở trẻ những biểu hiện tâm lý tiêu cực, như trầm cảm, nhu nhược, thiếu tự tin,… hậu
quả là đứa trẻ sẽ xa rời gia đình, dễ dàng tiếp thu những ảnh hưởng tiêu cực của xã hội, hoặc trở
thành nạn nhân của các tệ nạn xã hội.
Thứ ba: ảnh hưởng đến mối quan hệ vợ chồng và sự bền vững gia đình
Bạo lực gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến mối quan hệ vợ chồng. Khi người vợ bị
chồng đánh nhiều lần dẫn đến sợ sệt, hoặc có thái độ chống đối sẵn sàng tự vệ đối với
chồng. Bên cạnh đó là sự mất niềm tin của người phụ nữ đối với chồng. Có không ít
người phụ nữ vì một số lý do nào đó mà họ phải âm thầm chịu đựng, nỗi đau đó sẽ lặng
lẽ đi theo họ, làm cho mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng.
Tình trạng bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ cũng tác động không nhỏ đến đời sống
gia đình. Mặc dù gia đình khó khăn là một trong những nguyên nhân dẫn đến bạo lực, thực trạng
này cũng là yếu tố tác động rất lớn tới kinh tế gia đình. Trong gia đình việc lao động sản xuất
phát triển kinh tế là công việc của cả vợ và chồng. Do đó khi người chồng có những hành vi bạo
lực đối với vợ, nảy sinh mâu thuẫn dẫn đến hệ quả kinh tế - xã hội: năng suất lao động thấp, số
ngày nghỉ làm việc tăng, thu nhập giảm đi, dẫn đến sự đói nghèo là khó tránh khỏi. Đó là còn
chưa kể đến những tổn thất kinh tế khi người vợ nằm viện điều trị…
Theo kết quả hoạt động phòng chống bạo lực của Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Sơn La từ năm
2005 - 2010 cho thấy bạo lực trong gia đình là nguyên nhân chính phá vỡ cuộc sống gia đình. Chỉ
tính riêng năm 2010, toàn tỉnh có 645 vụ ly hôn liên quan đến mâu thuẫn gia đình, bị đánh đập
ngược đãi, chính vì thế phải ngăn chặn tình trạng trên để bảo vệ ngọn lửa yêu thương trong từng
gia đình [11; 2].
Page
21



Thứ tư: ảnh hưởng tới sự phát triển tiến bộ của xã hội
Bạo lực gia đình đối với phụ nữ cũng để lại hậu quả rất lớn đối với xã hội, bởi lẽ
gia đình là tế bào của xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, trong khi đó đỉnh cao của bạo
lực gia đình là chấm dứt hôn nhân, phá vỡ tế bào xã hội. Thực trạng trên đã làm cho
nhiều gia đình có cuộc sống hết sức nghèo khổ. Đây là một trong những nguyên nhân cản
trở sự phát triển tiến bộ của xã hội nói chung và tỉnh Sơn La nói riêng trong những năm
qua.
Phụ nữ đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển xã hội, cùng một công
việc nhưng nhiều người phụ nữ có thể đảm đương tốt hơn nam giới. Tuy nhiên, bạo lực
trong gia đình đã làm cho phụ nữ mất đi cơ hội và hạn chế khả năng phát triển của họ.
Đây là một tổn thất rất lớn cho xã hội, do đó ngăn chặn tình trạng này là trách nhiệm
không chỉ của cá nhân hay cơ quan đoàn thể nào mà là của toàn xã hội.
Tóm lại, bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ đã để lại hậu quả rất lớn, không chỉ
đối với phụ nữ mà còn đối với cả thế hệ trẻ, với gia đình và xã hội
4.2. Nguyên nhân
Có thể nói, khó khăn lớn nhất đối với việc tìm hiểu những nguyên nhân của bạo
lực gia đình là ở chỗ, bạo lực gia đình là hệ quả của sự tổng hợp một loạt các yếu tố, các
chiều tác động khác nhau, từ điều kiện kinh tế - xã hội khách quan đến nhận thức chủ
quan của con người, từ những nhân tố về văn hoá, gia đình đến những nhân tố về đạo đức
và định hướng giá trị. Bởi vậy, qua nghiên cứu tài liệu và tổng kết thực tiễn, thì việc phân
định các nguyên nhân dưới đây chỉ mang tính chất tương đối.
• Nguyên nhân khách quan
Trước hết, cần phải thừa nhận trong xã hội ta hiện nay vẫn còn tồn tại khá phổ
biến tình trạng bất bình đẳng giới, đặc biệt ở những vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa
như Sơn La. Người phụ nữ vẫn phải chịu nhiều thiệt thòi so với nam giới trong phân
Page
22


công lao động xã hội. Tư tưởng "trọng nam khinh nữ"; định kiến giới, vẫn còn diễn ra

khá phổ biến ở nhiều địa phương. Đây chính là “mảnh đất màu mỡ” để bạo lực gia đình
tồn tại và phát triển. Có rất nhiều công việc trong gia đình mà đáng lý cả 2 vợ chồng đều
phải cùng gánh vác. Nhưng tiếc thay do đầu óc gia trưởng, do định kiến giới mà người
đàn ông, người chồng gần như đứng ngoài cuộc, họ tự cho đó là công việc của phụ nữ,
của người vợ. Nếu những người phụ nữ, người vợ không hoàn thành được những công
việc ấy thì họ lại tự cho mình "có quyền" được trách móc, xỉ nhục, thậm chí đánh đập
vợ, con ... Với nhận thức như vậy, tư tưởng ấy kết hợp với trạng thái tâm lý không bình
thường, trong những hoàn cảnh "điển hình": như kinh tế khó khăn, thua cờ bạc, uống
rượu, nghiện rượu, say rượu... thì hành vi bạo lực gia đình xảy ra là tất yếu. Trong khi đó
thiết chế pháp luật vẫn thiếu những quy định pháp lý cụ thể trong phòng chống bạo lực
gia đình.
Thứ nhất: nguyên nhân kinh tế - xã hội
Trong xã hội hiện đại khó khăn về kinh tế luôn là một trong những nguyên nhân quan
trọng nhất dẫn đến bạo hành gia đình. Khi sống trong cảnh nghèo đói phải bươn chải để
kiếm sống họ thường có xu hướng căng thẳng về tâm lý hơn. Nam giới – với quan niệm
là trụ cột gia đình thường phải chịu những áp lực về mặt kinh tế nên thường bị stress và
khi không có nơi nào trút giận họ sẽ trút giận lên gia đình của mình.
Như vậy, chính sức mạnh kinh tế làm yếu tố nền tảng của đời sống xã hội, lực
lượng nào chiếm lĩnh và chi phối nhiều hơn trong lĩnh vực kinh tế thì làm chủ, và do
vậy để duy trì chế độ nam quyền, phụ quyền thì bất bình đẳng cũng bắt đầu xuất hiện
giữa nam và nữ trong gia đình và cả ngoài xã hội. Nhưng cũng không thể coi đói
nghèo là yếu tố lớn nhất đẻ ra nạn bạo lực gia đình, bởi lẽ có rất nhiều cặp vợ chồng
quanh năm nghèo đói nhưng vẫn sống với nhau hoà thuận và đầm ấm. Cũng có những
trường hợp khi nghèo đói thì vợ chồng thương yêu nhau, nhưng khi kinh tế khá lên thì
hoặc là một người, hoặc cả hai người sa vào tệ nạn xã hội. Điều này phản ánh sự đa
dạng và phức tạp của cuộc sống gia đình.
Page
23



Tuy nhiên theo như nghiên cứu gần đây của Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Sơn La cho
thấy đói nghèo có liên quan chặt chẽ tới tình trạng bạo lực trong gia đình, cụ thể: phụ nữ
ở gia đình có kinh tế khá, tỷ lệ phụ nữ bị chửi là 17 % so với 30,7% ở gia đình nghèo,
thấp hơn 2 lần. Tỷ lệ phụ nữ bị đánh ở gia đình kinh tế khá là 3,3% so với 13,1% ở gia
đình nghèo, thấp hơn 4 lần.
Sở dĩ như vậy là do ở Sơn La, đa số chị em phụ nữ thường có thu nhập thấp hơn
chồng, phụ thuộc kinh tế vào người chồng. Chính vì vậy tiếng nói của chị em ít có trọng
lượng, và thường không có vai trò quyết định. Đây cũng chính là nguyên nhân sâu xa dẫn
đến bất bình đẳng nói chung.
Các nghiên cứu đã chỉ ra mối liên hệ giữa tệ nạn xã hội và bạo lực giới trong gia
đình. Những mặt trái của quan hệ thị trường đã tác động xấu đến quan hệ giới trong gia
đình, như đề cao một cách thái quá những giá trị vật chất mà coi nhẹ giá trị tình cảm, đạo
đức. Những mối quan hệ tình cảm ngoài hôn nhân cũng là lý do của bạo lực gia đình; với
nam giới thì còn những tác động của các tệ nạn xã hội (cờ bạc, nghiện hút, rượu…). Một
nghiên cứu cho thấy, khoảng một nửa phụ nữ được phỏng vấn nói chồng họ có thói quen
uống rượu, ở nông thôn, con số này chiếm 53,7% và đô thị là 45,2%. Say rượu, bia, đàn
ông rất dễ có hành động bạo lực đối với vợ và không ít trường hợp gây nên thương tích,
thậm chí dẫn đến tử vong.
Bên cạnh đó, hiện nay nền kinh tế thị trường ngoài những mặt tích cực, nó còn gây
ra những bất lợi lớn cho phụ nữ khi bước vào nền kinh tế thị trường là do vấn đề việc
làm, do trình độ học thức thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu mới dẫn đến thất nghiệp, tỷ lệ
chung là 8,4% trong đó phụ nữ chiếm hơn một nửa. Phụ nữ Sơn La đa phần là buôn bán
nhỏ, nội trợ và làm nông nghiệp là chính, do vậy thời gian lao động quá cao chiếm 14-15
tiếng/ngày, trong khi người chồng chỉ khoảng 8-10 tiếng/ngày. Điều này khiến cho phụ
nữ có rất ít thời gian nghỉ ngơi, học tập và hưởng thụ văn hoá, hạn chế sự nhận thức về
các hình thức bạo lực gia đình.
Thứ hai: nguyên nhân trình độ nhận thức
Page
24



Một trong những nguyên nhân hết sức quan trọng dẫn đến tình trạng bạo lực trong
gia đình của phụ nữ Sơn La hiện nay là do trình độ nhận thức còn rất hạn chế, đặc biệt
các dân tộc ở vùng cao với tỷ lệ mù chữ khá cao (63,8%), trong đó tập trung chủ yếu là
phụ nữ (161/169 người), chiếm tỷ lệ 90% (nghiên cứu thực trạng phụ nữ dân tộc H


Mông, 2006). Và cũng tương ứng với kết quả điều tra của cả nước là yếu tố học vấn có

tác động không nhỏ đến khả năng xảy ra bạo lực gia đình. Phụ nữ có học vấn cao bị
ngược đãi ít hơn so với nhóm học vấn khác. Cụ thể ở hành vi bị chửi [1; 315]:
Trình độ học vấn
Mù chữ
Từ lớp 1 – 5
Từ lớp 6 – 9
Từ lớp 10 – 12
Từ cao đẳng đại học trở lên.

Tỷ lệ bị chửi
37,1%
30,2%
22,4%
17,4%
9,6%

Tỷ lệ bị đánh
14,1%
8,8%
5,5%
5,1%

0,9%

Bạo lực giới trong gia đình còn chịu ảnh hưởng của nhiều tư tưởng gia trưởng
trong xã hội, là sự không ngang nhau về địa vị - quyền lực trong mối quan hệ giữa hai
giới nam và nữ. Vẫn còn tồn tại những quan niệm không đúng về vai trò, vị trí của người
phụ nữ trong gia đình, tư tưởng phong kiến trọng nam khinh nữ chưa phải là đã hết trong
một bộ phận thuộc các tầng lớp xã hội khác nhau. Nếu trong xã hội phong kiến, tư tưởng
gia trưởng thường được thể hiện dưới hình thức bạo lực tinh thần là chủ yếu, thì ngày nay
dường như lại thể hiện nhiều ở dạng bạo lực thể xác. Không hiếm trường hợp sinh con
một bề là con gái đã bị mẹ chồng, chị em chồng hắt hủi, coi thường và ép đẻ bằng được
con trai mới thôi. Với phụ nữ, tư tưởng trọng nam còn thể hiện sự tự ti, mặc cảm về thân
phận, cam chịu trước nam giới.
Như vậy, có thể nói, thói quen phong tục tập quán như một bộ luật không thành
văn hướng dẫn, điều chỉnh hành vi của con người và xã hội. Ở Sơn La định kiến về trọng
nam khinh nữ đã ăn sâu vào trong đầu óc con người và hiện nay vẫn có ảnh hưởng khá
phổ biến, đặc biệt trong gia đình.

Page
25


×