Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ thừa thiên huế tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.54 KB, 22 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết số 03 - NQ/TW ngày 16/7/1998 của Ban chấp hành
Trung ương Đảng (khóa VIII) đã chỉ rõ: Bên cạnh việc phát triển kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải: “Xây dựng
và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, hết sức coi
trọng, bảo tồn, kế thừa và phát huy những giá trị văn học truyền thống,
văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể”. Tinh
thần của nghị quyết tiếp tục được bổ sung và khẳng định trong kết luận
của hội nghị lần thứ 10, số 03 - KL/ TW ngày 20/7/2004 của Ban chấp
hành trung ương Đảng khóa IX: “Trong quá trình mở rộng hội nhập
kinh tế quốc tế và giao lưu văn hóa, cùng với việc tập trung xây dựng
những giá trị mới của Việt Nam đương đại, cần đẩy mạnh công tác bảo
tồn, kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc”. Như vậy, để
thực hiện thành công công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong giai
đoạn hiện nay, chúng ta phải tiến hành đồng thời nhiều phương pháp
khác nhau. Trong đó, cần xuất phát từ truyền thống văn hóa của dân tộc,
một trong những nhân tố tạo nên truyền thống đó là kho tàng văn học
dân gian nói chung, ca dao, tục ngữ nói riêng đã được ông cha ta dày
công xây dựng và lưu giữ.
Vì những lẽ đó, chúng tôi đã chọn đề tài: “Triết lý nhân sinh trong ca
dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế” làm đề tài luận văn thạc sĩ khoa học.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài.
Đề tài mà chúng tôi nghiên cứu tiếp cận là vấn đề có tính chất đặc
thù ở một địa phương nên chưa được nghiên cứu nhiều, phần lớn các
công trình nghiên cứu tập trung dưới góc độ văn hóa dân gian là chính.
Một số công trình có nội dung chứa đựng nhiều ca dao, tục ngữ có liên
quan đến đề tài. Trước hết, là công trình sưu tập, nghiên cứu của Vũ Ngọc
Phan (1995), “Tục ngữ, ca dao Việt Nam”, Cao Huy Đỉnh (1974), “Tìm
hiểu tiến trình văn hóa dân gian Việt Nam”, Đinh Gia Khánh (2000),
1




“Văn học dân gian Việt Nam”. Ba cuốn sách nói trên, các tác giả đã làm
rõ khái niệm, nguồn gốc, sự hình thành, phát triển, nội dung và các hình
thức nghệ thuật của ca dao, tục ngữ Việt Nam nói chung. Ngoài ra, tác
giả còn làm rõ mối quan hệ giữa ca dao, tục ngữ.
Công trình sưu tập ca dao, tục ngữ công phu nhất, có nội dung phong
phú là bộ sách “Tục ngữ phong dao” của Nguyễn Văn Ngọc, xuất bản
lần đầu vào năm 1928, tập 1 của bộ sách này giới thiệu khoảng 6500 câu
tục ngữ của các vùng miền Bắc, Trung, Nam cho đến nay vẫn được coi là
một trong những công trình sưu tập tục ngữ Việt Nam có quy mô lớn.
Đáng chú ý là công trình nghiên cứu của: Triều Nguyên (2005)“Ca
dao Thừa Thiên - Huế”, Nhà xuất bản Hội liên hiệp văn học nghệ thuật
Thừa Thiên- Huế, Huế. Tác giả đã trình rõ những nội dung phản ánh
của ca dao Thừa Thiên - Huế về các vấn đề như: Ca dao về tình yêu quê
hương đất nước, ca dao về tình cảm đôi lứa, ca dao về quan hệ hôn nhân
- gia đình, ca dao đối đáp, trêu ghẹo và ca dao cổ động các phong trào
cách mạng trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Triều Nguyên (2000), “Tục ngữ Thừa Thiên - Huế”, Nhà xuất bản
Sở văn hóa thông tin, Hà Nội. Tác giả đã làm rõ nội dung phản ánh của
tục ngữ Thừa Thiên - Huế như: Tục ngữ phản ánh mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên, tục ngữ phản ánh mối quan hệ giữa con người với
gia đình và xã hội
Lê Văn Chưởng (2010), “Đặc khảo văn học dân gian Thừa Thiên
Huế”, Nhà xuất bản trẻ. Tác giả đã trình bày những nội dung của ca
dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế. Đối với tục ngữ; đó là những câu tục
ngữ nói thiên nhiên, về lao động sản xuất, về gia đình - xã hội và về đạo
đức. Đối với ca dao; ca dao nói đến quê hương non nước trữ tình, nói
đến tình yêu đôi lứa qua hai giai đoạn chào hỏi - làm quen và tỏ tình kết duyên và ca dao nói về vấn đề hôn nhân - gia đình.
Luận văn đã nghiên cứu liên quan đến đề tài này là: Lương Thị Lan

Huệ (2004), “Một số vấn đề triết học qua ca dao, tục ngữ Việt Nam”.
Tác giả đã trình bày một số tư tưởng triết học trong ca dao, tục ngữ
2


người Việt như: Tư tưởng triết học biểu hiện qua mối quan hệ giữa con
người với thế giới tự nhiên và mối quan hệ giữa con người đối với xã
hội. Tác giả cũng đã rút ra một số nhận xét về ca dao, tục ngữ Việt Nam,
nêu ý nghĩa triết học của ca dao, tục ngữ trong công cuộc đổi mới ở
nước ta hiện nay.
Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc các nguồn tài liệu liên quan đến đề
tài, chúng tôi đi sâu nghiên cứu một khía cạnh cụ thể trong ca dao, tục
ngữ đó là triết lý nhân sinh ở địa bàn là tỉnh Thừa Thiên - Huế. Nội
dung đề tài thể hiện sự đan xen giữa tư tưởng triết học và văn học, vì
vậy đối với chúng tôi đây là đề tài khá mới và hấp dẫn.
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CA DAO TỤC NGỮ
1.1. Sự hình thành của ca dao, tục ngữ
Ca dao, tục ngữ là một trong những bộ phận quan trọng cấu thành
văn học dân gian, là những viên ngọc quý, có giá trị về mặt trí tuệ, tình
cảm và nghệ thuật biểu hiện. Ca dao, tục ngữ vừa là một hiện tượng
ngôn ngữ, vừa là một hiện tượng thuộc về ý thức xã hội.
1.1.1. Khái niệm, nội dung và hình thức nghệ thuật của ca dao,
tục ngữ
1.1.1.1. Ca dao
Theo từ điển Bách Khoa Việt Nam, tập 1, trang 303, Hà Nội, 1995, thì
“ca dao thường là những câu thơ, bài hát dân gian có ý nghĩa khái quát,
phản ánh đời sống, phong tục, đạo đức hoặc mang tính chất trữ tình, đặc
biệt là tình yêu nam nữ”.
Nội dung của ca dao khá phong phú, đa dạng. Ca dao phản ánh lịch sử,
mang nội dung đấu tranh chống áp bức của chế độ phong kiến, chống

quân xâm lược.
Ca dao đấu tranh chống lại các tệ nạn xã hội và các hiện tượng tiêu
cực. “Con ơi nhớ lấy câu này/ Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”.

3


Ca dao là tiếng hát trữ tình của con người. Chẳng hạn nói về tình yêu
nam nữ ca dao có câu: “Tình anh như nước dâng trào/ Tình em như dải
lụa đào tẩm hương”.
Phong phú nhất, đặc sắc nhất là mảng ca dao về tình yêu nam nữ.
“Đôi ta bắt gặp nhau đây/ Như con bò gầy gặp bãi cỏ hoang”.
Một bộ phận quan trọng của ca dao là nhận định về con người và về
việc đời như là sự tổng kết các kinh nghiệm, triết lý, quan niệm đạo
đức, là cách ứng xử của nhân dân. “Rượu nhạt uống lắm cũng say/
Người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàn”.
Nói đến ca dao tức là nói đến thơ, về mặt hình thức, trước hết phải
nói đến nhịp điệu. Ca dao ngắt nhịp hai là phổ biến. “Phá Tam Giang/
anh cũng lội/ núi Mẫu Sơn/ anh cũng trèo/”.
Ca dao thường là những bài ngắn, âm điệu lưu loát. Ngoài hình
thức nghệ thuật cụ thể hóa mà ca dao sử dụng, còn có hình thức nhân
cách hóa.
1.1.1.2. Tục ngữ
Cũng theo từ điển Bách Khoa Việt Nam, tập 4, trang 676, Hà Nội,
2005, thì tục ngữ là “một bộ phận của văn học dân gian, gồm những câu
ngắn gọn, có vần điệu, đúc kết tri thức, kinh nghiệm sống, đạo đức thực
tiễn của người dân”.
Về nội dung thì tục ngữ là những nhận định sau kinh nghiệm của con
người về cuộc sống trong gia đình, cuộc sống trong xã hội, phản ánh
quá trình lao động sản xuất.

Phần quan trọng của tục ngữ là nói về lịch sử - xã hội, những quan
niệm nhân sinh, tư tưởng chính trị và xã hội. “Con dại cái mang”.
Một số hiện tượng và nhân vật lịch sử cá biệt, một số biến đổi về
kinh tế, chính trị ảnh hưởng đến đời sống nhân dân: “Hăm mốt Lê Lai,
hăm hai Lê Lợi”.
Tục ngữ phản ánh những tập tục sinh hoạt hằng ngày về mọi mặt
như ăn, ở, mặc, giao tế, cưới xin, ma chay, hội hè, sinh hoạt tôn giáo:
“Lấy vợ đàn bà, làm nhà hướng nam”.
4


Tục ngữ ghi lại những đặc điểm trong tổ chức và tập tục của thôn
xã: “Phép vua thua lệ làng”.
Một số câu khác phản ánh tổ chức gia đình và những quan điểm thân
tộc của nhân dân trong xã hội phong kiến:
Tục ngữ còn miêu tả đời sống của các giai cấp và các tầng lớp nhân
dân khác nhau: “Tháng tám đói qua, tháng ba đói chết”.
Tục ngữ thể hiện tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa chân chính của nhân
dân lao động: “Người ta là hoa của đất”.
Thể hiện khá đầy đủ những đức tính tốt đẹp của nhân dân lao động:
“Còn nước còn tát”.
Phản ánh những nhận thức có tính chất duy vật của nhân dân về sự
tồn tại khách quan của thế giới: “Còn da lông mọc, còn chồi lên cây”.
Về những mặt đối lập trong các sự vật và hiện tượng tự nhiên và xã hội:
“Được mùa cau, đau mùa lúa”.
Về mối quan hệ nhân quả giữa các sự vật, hiện tượng: “Rau nào, sâu ấy”.
Về quy luật phát triển biện chứng của thế giới khách quan: “Cái sẩy
nẩy cái vung”.
Tục ngữ được hình thành từ cuộc sống thực tiễn. Sự hình thành của
tục ngữ có thể quy vào ba nguồn chính: Một bộ phận được hình thành

trong đời sống của nhân dân. Một bộ phận khác rút ra, tách ra từ những
sáng tác của các thể loại văn học dân gian (ca dao, truyện cổ tích, câu
đố). Và một bộ phận những câu tục ngữ hình thành từ các tác phẩm văn
học, các sáng tác của các nhà văn, nhà thơ, những lời phát biểu, phán
đoán của các nhà triết gia.
Đa số tục ngữ đều có 1 vế, chứa 1 phán đoán. Mỗi câu tục ngữ
thường có hai nghĩa: nghĩa đen và nghĩa bóng.
Hầu hết các câu tục ngữ đều có vần, nhiều nhất là vần lưng nên nhịp
điệu nhanh, mạnh, vững chắc:
Cũng có những câu không vần, không đối nhưng vẫn giàu chất nhạc,
chất hàm súc của thơ: “Trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết”

5


Hai thể loại tục ngữ và ca dao có mối quan hệ với nhau, nếu nội
dung tục ngữ là một phán đoán, thiên về lý trí, đúc kết kinh nghiệm về
cuộc sống thì nội dung ca dao lại là tâm tình là suy nghĩ của con người
trước mọi điều diễn ra xung quanh cuộc sống. Nếu tục ngữ thường dừng
lại ở nhận thức hiện thực khách quan, nhận thức "cái vốn có" thì ca dao
tiến thêm một bước rất quan trọng là bộc lộ nguyện vọng của nhân dân
đối với việc cải tạo hiện thực, đề xuất ra "cái nên có”.
Như vậy, cả ca dao và tục ngữ đều có giá trị nhất định về mặt trí tuệ,
tình cảm và nghệ thuật biểu hiện.
1.2. Một số vấn đề về ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế
1.2.1. Điều kiện tự nhiên, lịch sử - xã hội của Thừa Thiên - Huế
Điều kiện tự nhiên, lịch sử - xã hội có ảnh hưởng lớn đến việc hình
thành tính cách và lối sống của con người xứ Huế, đến quá trình hình
thành và phát triển của văn học dân gian Thừa Thiên - Huế.
1.2.1.1. Điều kiện tự nhiên

* Vị trí địa lý: Tỉnh Thừa Thiên - Huế nằm ở tọa độ địa lý 16 - 16,80 0
vĩ bắc và 107,8 - 108,200 kinh đông, phía bắc giáp tỉnh Quảng Trị, phía
nam giáp Đà Nẵng với ranh giới là đèo Hải Vân, phía tây giáp Lào, phía
đông giáp biển Đông, nằm trên trục đường giao thông quan trọng xuyên
suốt Bắc - Nam trên quốc lộ 1, tuyến đường sắt xuyên Việt và trục hành
lang Đông - Tây nối Thái Lan - Lào- Việt theo đường 9.
* Địa hình: Tỉnh Thừa Thiên - Huế nằm trên dải đất hẹp với chiều
dài 127 km, chiều rộng trung bình 60 km với đầy đủ các dạng địa hình
rừng núi, gò đồi, đồng bằng duyên hải, đầm phá và biển..., địa hình thấp
dần từ Tây sang Đông, phức tạp và bị chia cắt mạnh.
* Khí hậu: Tỉnh Thừa Thiên - Huế nằm trong khu vực nhiệt đới gió
mùa. Thời tiết chia làm hai mùa rõ rệt, mùa mưa trùng với mùa bão, và
mùa khô kéo dài từ tháng 3 đến tháng 7.
* Môi trường thiên nhiên: Tỉnh Thừa Thiên - Huế là một vùng có
môi trường thiên nhiên phong phú, đa dạng, bên cạnh có nhiều núi cao
như núi Truồi, Bạch Mã, Lăng Cô và nhiều núi đồi khác như Ngự Bình,
Ngọc Trản, Thiên Thai, Long Thọ, Thiên Mụ, Thúy Vân, Linh Thái, còn
6


có nhiều đèo như đèo Phước Tượng, Phú Gia và tiêu biểu nhất là đèo Hải
Vân. Thừa Thiên Huế cũng là một vùng quê có môi trường nước khá
phong phú trong đó những con sông lớn như Ô Lâu, sông Bồ, Hương
Giang, Phú Bài, Nong, Truồi và một hệ thống phụ lưu ngang dọc chia cắt
dải đồng bằng hẹp chạy dọc theo bờ biển. Cùng với hệ thống sông ngòi,
nơi đây có nhiều đầm phá như Tam Giang, An Truyền, Hà Trung, Cầu
Hai như là những túi đựng nước trước khi đổ ra các cửa biển Thuận An,
Tư Hiền, Lăng Cô. Đặc biệt là sông Hương không những dài mà nước
trong quanh năm rất thơ mộng, trữ tình, soi bóng núi Ngự Bình, tạo thành
biểu tượng “Sông Hương - Núi Ngự” của Thừa Thiên - Huế.

Bốn yếu tố núi, sông, đồng bằng, biển nơi đây đã sản sinh nhiều
truyện dân gian kỳ bí, nhiều thơ ca dân gian trữ tình, trong đó nổi bật là
ca dao, tục ngữ.
1.2.1.2. Điều kiện lịch sử - xã hội
Xứ sở Thừa Thiên - Huế trong thời kỳ đầu gắn liền với Quảng Trị, có
xưng danh là châu Thuận, châu Hóa. Văn học dân gian Thừa Thiên - Huế,
trong đó có ca dao, tục ngữ chủ yếu được sinh ra từ xứ sở này.
Từ 1945 đến 1954, nhân dân Thừa Thiên - Huế cùng với cả nước
tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Giai đoạn từ 1954 đến 1975, Thừa Thiên - Huế là cái nôi của phong
trào học sinh, sinh viên, trong đó có cả tăng ni Phật tử đấu tranh chống
đế quốc Mỹ và tay sai Ngô Đình Diệm.
Giai đoạn từ 1975 đến nay nhân dân xứ Huế sống trong cảnh hòa
bình, hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng và phát triển quê hương.
Thừa Thiên - Huế là một địa phương đa tộc người, ngoài người Kinh
chiếm đa số, đồng thời là chủ thể văn hóa của địa phương, còn có
những tộc người thiểu số, họ cư trú thành từng địa bàn hoặc xen lẫn với
người Việt.
Giai đoạn đầu của Thuận Hóa (1306-1558), bên cạnh đa số cư dân
Bắc Trung Bộ đến định cư, nơi đây còn một ít người Chăm lưu trú. Đến
giai đoạn sau (1558-1801), lưu dân địa phương này ngày mỗi gia tăng,
7


Thừa Thiên - Huế có thêm 3 huyện mới là Phong Điền, Hương Thủy,
Phú Lộc, có hai huyện miền núi là Nam Đông và A Lưới. Tại 2 huyện
này, ngoài người Kinh còn có những tộc người thiếu số như Bru-Vân
Kiều, Tà-Ôi, Cờ-Tu thuộc ngữ hệ Môn-khmer.
1.2.2. Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế - tấm gương phản chiếu
đời sống kinh tế - xã hội của Thừa Thiên - Huế

Ca dao, tục ngữ là một bộ phận hợp thành của hình thái ý thức xã
hội văn học nghệ thuật. Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế là tấm gương
phản chiếu đời sống kinh tế - xã hội và các quan hệ xã hội của quần
chúng nhân dân lao động Thừa Thiên - Huế trong những giai đoạn lịch
sử khác nhau. Có thể thấy các nội dung phản ánh chủ yếu của ca dao,
tục ngữ Thừa Thiên - Huế về các điểm chủ yếu sau đây:
1.2.2.1. Về quê hương đất nước
Quê hương đất nước là một đề tài phổ biến trong ca dao, tục ngữ
Thừa Thiên - Huế. Biểu tượng của bức tranh thiên nhiên trữ tình của
Huế là “sông Hương - núi Ngự”: “Ai vô xứ Huế mà coi/ Sông Hương
núi Ngự cảnh trời đẹp thay”.
Dọc đôi bờ sông Hương là núi Ngọc Trản và làng Kim Long phía
Tây Hoàng Thành. “Nước đầu cầu khúc sâu, khúc cạn/ Chèo qua Ngọc
Trản đến vạn Kim Long/ Sương sa, gió thổi lạnh lùng/ Sương xao trăng
lặn gây lòng nhớ thương”.
Có núi Truồi hùng vĩ, tiêu điểm của huyện Phú Lộc canh giữ biển Đông:
“Núi Truồi ai đắp nên cao/ Dâu Truồi ai biếu ngọt ngào lòng anh”.
Đặc biệt là núi Bạch Mã: “Núi Bạch Mã hai hàng sau trước/Đất Lộc
Trì khi ướt khi khô/ Đường về đá bạc lô nhô/ Cầu Hai đầm nước xô bờ
ngày đêm”.
Ngoài cái đẹp hữu tình, biển cả bao la, ở đây còn tiềm ẩn cái tháp
của địa danh Ô - Lý: “Từ thuở mang gươm đi mở nước”. Trên con
đường Thiên Lý thuộc địa phận Phú Lộc, núi Phước Tượng có “con voi
đá” khổng lồ, chứng nhân của sự cách trở của nghĩa vợ chồng: “Đèo
mô cao bằng đèo Phước Tượng/ Nghĩa mô trượng (trọng) bằng nghĩa
8


phu thê”.
Cuối huyện Phú Lộc, sừng sững chọc trời là núi Hải Vân: “Chiều

chiều mây phủ Hải Vân/ Chim kêu ghềnh đá, gẫm thân lại buồn”.
Quê hương Huế còn có nhiều địa danh gắn với di tích lịch sử văn
hóa, cổ xưa nhất là chùa Thiên Mụ. Bên hữa ngạn sông Hương nổi lên
gò Long Thọ:
Huế còn có các chùa Quốc Bảo, Từ Hiếu, Từ Đàm, Trà Am, Chùa
Ông, Diệu Đế: “Đông Ba,Gia Hội hai cầu/ Giữa chùa Diệu Đế bồn lầu
hai chuông”.
Bên cạnh hệ thống chùa, tiêu biểu và độc đáo nhất của kinh đô Huế
là biểu tượng Ngọ Môn.
Đề cập đến địa danh lịch sử văn hóa Huế, không thể không nhắc đến
cầu Trường Tiền.
Đi xa về phía Tây - Nam Hoàng Thành, hiện hữu một hệ thống lăng
tẩm đồ sộ, hoành tráng, trong đó lăng Tự Đức và Khải Định.
Khác với lăng Tự Đức, lăng Khải Định xây dựng ở sườn núi Chân
Chữ, còn gọi là Châu Ê: “Châu Ê, ơi hỡi Châu Ê/ Khi đi trai tráng, khi
về bũng beo”.
Quê hương Huế, qua ca dao, tục ngữ chúng ta còn biết nhiều đặc
sản rất ấn tượng liên quan đến đời sông vật chất và tinh thần “Cơm Mỹ
Xá, cá Hội Yên, vịt đàn Thủ Lễ, Thôn Niên heo gà”.
Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế không chỉ miêu tả, giới thiệu về
quê hương đất nước Thừa Thiên - Huế mà còn gắn vào đó một tình cảm
thiêng liêng, sâu lắng, mang lại sức gợi cảm mạnh, nó luôn ẩn hiện
trong tâm thức của người Huế không những ở quá khứ mà còn ở hiện
tại và tương lai.
1.2.2.2. Về tình cảm lứa đôi
Trong kho tàng ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế, chủ đề tình yêu
đôi lứa chiếm khối lượng lớn, rất phong phú và đa dạng. Ca dao, tục
ngữ Thừa Thiên - Huế phản ánh tình cảm lứa đôi với nhiều cung bậc,
màu sắc; ghi lại tất cả các chặng đường, các khía cạnh của tình yêu, các
9



trạng thái tình cảm của nam nữ thanh niên đôi khi gặp nhiều trắc trở,
khó khăn nhưng tinh tế, sâu sắc qua hai giai đoạn là chào hỏi - làm quen
và tỏ tình - kết duyên.
Chào hỏi - làm quen là tiền đề dẫn đến tỏ tình - kết duyên: Trai gái
Thừa Thiên - Huế bày tỏ tình cảm của mình theo phong cách phiếm
chỉ. Người con gái dùng tiếng “ai” để chỉ đối tượng.: “Ai về cầu ngói
Thanh Toàn/ Cho em về với một đoàn cho vui”
Người con trai lại liên hệ hình ảnh “người áo trắng”: “Áo em trắng
quá nhìn không ra”.
Trong tỏ tình - kết duyên của đôi lứa, “thầy mẹ” hiện thân khá nhiều:
“Nơi không thương thì thầy mẹ ép/ Nơi đẹp tình thì thầy mẹ khiến đừng”.
Trai gái Thừa Thiên - Huế cùng sống trong môi trường thiên nhiên
non nước hữu tình và môi trường lịch sử - xã hội phong kiến nên hình
thành những đặc trưng riêng trong cách tỏ tình. Cùng với những đặc
trưng ấy, nam nữ Thừa Thiên - Huế, chủ yếu là nữ giới trong tỏ tình kết duyên thường có hình bóng cha mẹ. Đây là tính cách đặc thù rất
Huế của nữ giới trong tình yêu và hôn nhân, điều này vừa thể hiện nếp
nhà, vừa hàm chứa sự bền vững của tình yêu.
1.2.2.3. Về hôn nhân, gia đình
Những câu ca dao, tục ngữ về chủ đề hôn nhân, gia đình biểu hiện
các mối quan hệ tốt đẹp giữa tình cảm vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh
em họ hàng, bà con hàng xóm.
Trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế, có hai quan niệm về hôn
nhân, hoặc đôi bên nam nữ tự do lựa chọn đối tượng thích hợp với
mình, hoặc “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”.
Trong kén chọn hôn nhân, ngoài sự xứng đôi vừa lứa, còn liên quan
đến dòng giống: “Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống”.
Cũng có quan niệm hôn nhân ngược lại, vì “phú dự quý thị nhơn
chi sở nhục, bần dự tiện thị nhơn chi sở ố”, nhưng chỉ là hy hữu.

Sau cùng, tiêu chí cốt lõi nhất là hôn nhân một vợ, một chồng, đặc biệt
là nữ giới. “Ra đi mẹ đã dặn con/ Chính thê thì lấy, hầu non thì đừng”.
10


Ở các tầng lớp trên của xã hội, hôn nhân của con cái thường do cha
mẹ sắp đặt.
Hai quan niệm trên hàm chứa trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế
tuy đối nghịch nhau nhưng đều cùng hướng đến hạnh phúc của hôn
nhân - gia đình.
Trọng tâm của ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế trong chủ đề hôn
nhân - gia đình chủ yếu nói lên tình cảm vợ chồng: “Vợ chồng yêu mến
thuận hòa”.
Vợ chồng chung thủy với nhau khi còn sống đã đành, lúc biệt ly, kẻ
mất người còn không ít trường hợp vẫn chung thủy với người đã khuất.
“Chồng em sớm thác suối vàng/ Em ở ri cho trọn đạo nghĩa khói nhang
với chồng”.
Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế còn phản ánh sự đổ vỡ của gia đình.
“Đêm nằm nghĩ lại mà coi/ Lấy chồng đánh bạc như voi phá nhà”.
Nhìn chung, đời sống hôn nhân, gia đình trong ca dao, Thừa Thiên - Huế
mang nhiều sắc thái, trong đó phổ biến là vợ chồng thương yêu nhau,
thủy chung với nhau trong mọi hoàn cảnh.
1.2.2.4 .Về lao động sản xuất và các vấn đề khác của cuộc sống
Văn học dân gian nói chung và ca dao, tục ngữ Huế nói riêng đều
xuất phát trực tiếp từ lao động rồi trực tiếp phục vụ cho sản xuất và
người lao động.
Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế phản ánh nhiều sắc thái trong lao
động sản xuất và mối quan hệ của con người với tự nhiên. Từ những
kinh nghiệm về thời tiết: “Cu cu tắm thì ráo, trảo trảo tắm thì mưa”.
Đến những kinh nghiệm về thời điểm trồng trọt: “Trồng sắn buổi

mai, trồng khoai buổi chiều”.
Những kiến thức về chăn nuôi và đánh bắt, trong đó chủ yếu là kinh
nghiệm chọn giống nuôi, phổ biến là chọn chó, mèo, heo, trâu, gà:
“Nhất chó bốn đeo, nhì mèo tam thể” (chọn chó, mèo).
Kinh nghiệm đi lưới: “Trời sương mù, nhiều cá thu cá nục”.

11


Bên cạnh bộ phận ca dao, tục ngữ nói về lao động sản xuất, phục vụ
sản xuất, còn có một bộ phận đáng kể ca dao, tục ngữ phục vụ chiến
đấu, điển hình là phục vụ cho các phong trào cách mạng trong kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ. Một số phong trào lớn còn vang vọng
trong ca dao như:
Phong trào ủng hộ tiền bạc cho Chính phủ và cuộc kháng chiến
chống Pháp 1946-1949:
Phong trào diệt giặc dốt, giặc đói khởi đầu từ năm 1945 (kéo dài cho
đến 1954): “Anh kia bộ dạng oai phong/ Nếu không biết chữ, chớ hòng
thương được em”.
Phong trào vận động không đi lính cho giặc, nếu đã đi thì bỏ ngũ trở về.
Vận động giác ngộ cách mạng, tố cáo tội ác của giặc: “Khố rách
như tua con mực/ Áo tả tơi mảng ngược mảnh xuôi/ Vì đâu cực khổ trọn
đời/ Vì chưng sưu thuế, vọt roi mấy tầng”.
Và tập trung hơn cả, là động viên toàn dân tham gia kháng chiến, trực
tiếp cầm súng, hoặc vào các đoàn thể Cách mạng để bảo vệ quê hương:
“Anh đi, sung vào đoàn cảm tử/ Em ở nhà, vô đội phụ nữ cứu thương”.
Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế còn quan tâm đến các quan hệ
liên quan đến sự sinh tồn của con người.
Ca dao nhìn nhận, đánh giá con người với tư cách là một cá thể, tồn
tại tự thân theo vòng đời, có quyền sống một cách tự nhiên:“Ai thương

thì bỏ ngoài da/ Cơm thương thì bỏ ruột già ruột non”.
Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế còn phản ánh những vấn đề thuộc
đời sống vật chất của con người như công việc, sức khỏe, ăn chơi, sống
chết: “Làm khi lành, để dành khi đau”.
Như vậy, có thể thấy rằng, nội dung phản ánh của ca dao, tục ngữ
Thừa Thiên - Huế mang tính triết lý sâu sắc, phản ánh chân thực đời
sống và tâm hồn của nhân dân Huế nói riêng, của cả dân tộc nói chung.

12


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Ca dao, tục ngữ là bộ phận hợp thành quan trọng của văn học dân
gian. Chắt lọc từ những giọt mồ hôi rơi xuống luống cày, từ những tấm
lưng oằn xuống vì vất vả, vì nắng cháy, ca dao, tục ngữ đã phản ánh đời
sống sinh tồn của những người nông dân tay lấm chân bùn Việt Nam.
Không nằm ngoài quy luật chung của sự vận động và phát triển, ca
dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế đã hòa vào dòng chảy của văn học bình
dân Việt Nam và có vị trí đáng kể trong dòng văn học ấy.
Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế là tấm gương phản chiếu của đời
sống kinh tế xã hội Thừa Thiên Huế nói riêng và Việt Nam nói chung. Vì
vậy, thông qua sự phản ánh đó chúng ta có thể nắm bắt được những triết
lý về đời sống của con người ở vùng đất này. Theo nghĩa đó chương 1
của luận văn là tiền đề cho sự tiếp tục triển khai ở chương 2.
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ TRIẾT LÝ VỀ NHÂN SINH
TRONG CA DAO, TỤC NGỮ THỪA THIÊN - HUẾ
Nói đến nhân sinh quan tức là chúng ta nói đến sinh mệnh con người,
đến cuộc sống của con người trong xã hội và trong quan hệ của con người
với tự nhiên, đến mục đích và lẽ sống của con người. Vì vậy, khi bàn đến
tính triết lý nhân sinh chính là bàn về quan niệm trên các mặt đó.

2.1. Triết lý về quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên
Ca dao, tục ngữ biểu hiện tính triết lý của con người trong quá trình
sinh sống, trước hết là triết lý về nền sản xuất nông nghiệp, thông qua
mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên.
Trong quá trình lao động, bằng việc tác động vào vào giới tự nhiên con
người đã hiểu được vai trò quan trọng mang tính chất quyết định của giới
tự nhiên đối với sự sống còn của họ.
Mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên thực sự là mối quan
hệ máu thịt, không tách rời nhau. Trong mối quan hệ đó, con người luôn
đứng ở vị tí trung tâm, nhận thức về giới tự nhiên.
13


Người dân Thừa Thiên - Huế sống chủ yếu bằng nghề nông nghiệp
nên trong mối quan hệ với giới tự nhiên, một trong những vấn đề mà họ
quan tâm hàng đầu là vấn đề về thời tiết, khí hậu.
Tìm hiểu kho tàng tục ngữ Thừa Thiên - Huế, chúng ta có thể thấy
một số câu tục ngữ nói về thời tiết khí hậu như: “Cá đối tháng 7, cá gáy
tháng 10/ Cóc nghiến răng, đang nắng thì mưa”.
Trải qua quá trình lao động, người dân đã hiểu được rằng, giữa họ
và giới tự nhiên có mối quan hệ mật thiết: “Lụt thì lút cả làng”.
Tính triết lý trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên còn được
thể hiện ở chỗ trong điều kiện kinh tế xã hội của nền nông nghiệp lúa
nước, có quá nhiều thiên tai và tri thức khoa học chưa được phổ biến
nhưng người nông dân vẫn lạc quan, yêu cuộc sống, tin tưởng và tự làm
chủ bản thân mình. Chính điều đó tạo cho người nông dân đức tính cần
cù, chịu khó, ham học hỏi, ham hiểu biết
2.2. Triết lý về đời người và các quan hệ xã hội
Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế chứa đựng triết lý nhân sinh trong
quan niệm về đời người, thông qua cách lý giải nguồn gốc, sinh mệnh

của con người.
Con người, từ khi được sinh ra cho đến khi trở về với cát bụi, luôn ý
thức được giá trị của bản thân mình, sự tồn tại của con người là vô giá
không có gì so sánh được: “Người sống hơn đống vàng”.
Trải qua thực tiễn, bằng kinh nghiệm sống người dân hiểu được rằng
con người luôn nằm trong vòng sinh tử, có quá trình sinh ra, tồn tại và
diệt vong. “Rắn già rắn lột xác, người già người bỏ vô săng”.
Khi bàn về đời người, cũng có người cho rằng, mỗi người từ khi
được sinh ra đã có một số phận riêng; rằng sự giàu nghèo, sống chết của
họ là do trời sắp đặt. “Tả sinh hữu mệnh, phú quý tại thiên”.
Một số khác lại cho rằng, đời con người, sự sống chết của con người
là do con người quyết định, không liên quan gì đến trời. “Ở bầu thì
tròn, ở ống thì dài”.
Nói đến đời người, một trong những tư tưởng tiến bộ mang tính nhân
14


văn sâu sắc nhất được phản ánh trong tục ngữ Thừa Thiên - Huế là quan
niệm về cái chết. Nghĩ về cái chết, người dân Thừa Thiên - Huế cho rằng
phải: “Chết vinh, chết trong” vì “ chết trong hơn sống đục”. Đây là một
bài học quý mang tính triết lý sống cao, có ý nghĩa giáo dục sâu sắc.
Người dân Thừa Thiên - Huế luôn quan tâm đến vấn đề sau khi chết
con người sẽ như thế nào. Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế đã phản
ánh hai quan niệm trái ngược nhau. Có quan điểm cho rằng, chết là hết,
còn nếu sống thì phải nổi trôi trên đường đời gian khó: “Đừng có chết
mất thì thôi/ Sống thời có lúc no xôi chán chè”.
Ngược lại với quan điểm trên là quan điểm cho rằng sống chỉ là tạm
bợ: “Sống gửi thác về”.
Triết lý nhân sinh biểu hiện trong quan niệm về đời người trong ca
dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế có có giá trị nhân văn cao thể hiện ở

niềm tin và tình thương yêu mãnh liệt của con người. Nó nói lên một
điều đáng quý rằng, từ xa xưa người Huế nói riêng, dân tộc Việt
Nam nói chung, đã đi theo chủ nghĩa nhân văn.
Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế đề cao đạo lý làm người, với tinh
thần lạc quan và rộng lượng. Chẳng hạn, con gái lỡ dại chửa hoang là
điều bực tức, đau buồn, nhưng khi nghe nói: “Con dại, có cháu ngoại
mà bồng”, lại thấy toát lên niềm vui, sự tha thứ.
Trong quan hệ, luôn có sự cảm thông, cái dễ với mình cũng dễ với
người và ngược lại: “Dễ mình dễ ta, khó mình khó ta”.
Có cả lòng tin vào sự biến đổi theo hướng tốt đẹp hơn ở tương lai,
của sự vật, con người: “Dó lâu năm dó thành kỳ, đá chai lăn lóc có khi
thành vàng”.
Những nội dung cơ bản của đạo làm người được phản ánh trong ca
dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây/ Ai vun ai
quén cho mày mày ăn”.
Nổi bật hơn cả trong quan niệm về đạo làm người thể hiện ở đạo lý
Nhân - Nghĩa. Bắt nguồn từ đạo lý sống Nhân - Nghĩa mà trong quá
trình lao động, cùng dựng nước và giữ nước mà người dân đã xây dựng
15


nên lòng yêu nước: Nhiều điều phủ lấy giá gương/ Người trong một
nước thì thương nhau cùng”.
Trong quan niệm về đạo làm người của người dân Thừa Thiên - Huế,
con người sống trong xã hội còn phải biết lễ nghĩa phép tắc: “Kính trên
nhường dưới”.
Đạo làm người của con người còn được thể hiện ở lối sống có tình, có
nghĩa: “Con ơi nhớ lấy lời khuyên/ Chữ tình, chữ lý đi liền với nhau”.
Qua việc tìm hiểu tư tưởng của người dân Thừa Thiên - Huế về đạo
làm người thể hiện trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế là chúng ta

thấy được tư tưởng biện chứng mềm dẻo trong cách ứng xử, trong giao
tiếp xã hội:“Mật ngọt chết ruồi”.
Trong đối nhân xử thế cũng vậy. Tùy vào từng hoàn cảnh mà có
hành động cho phù hợp, tránh kiểu ứng xử rập khuôn máy móc: “Tùy
cơ ứng biến”.
Như vậy, ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế đã phản ánh khá rõ tư
tưởng của người dân về vấn đề đạo làm người. Quan niệm ấy đã thể
hiện tính nhân văn sâu sắc của con người.
Ngoài khía cạnh đạo làm người, ca dao tục ngữ Thừa Thiên - Huế còn
phản ánh các quan hệ xã hội, đó là mối quan hệ giữa gia đình - xã hội.
Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế còn phản ánh tổ chức gia đình và
mối quan hệ của những người trong gia tộc. Trong gia tộc nếu có người
làm quan thì cả họ sẽ được che chở, giúp đở: “Một người làm quan cả
họ được cậy/ Một người làm bậy cả họ mất nhờ”.
Một số câu ca dao, tục ngữ nói về các hiện tượng lịch sử - xã hội về
các nhân vật lịch sử và cả những biến động về kinh tế, chính trị.
Chẳng hạn việc thao túng triều đình của hai ông Tường, ông Thuyết:
“Nước Nam có bốn anh hùng/ Tường gian, Viêm dối, Khiêm khùng,
Thuyết ngu”.
Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế khi phản ánh các vấn đề xã hội
cũng đã phản ánh sâu sắc tâm lý: “Trọng phú khinh bần” của con người
trong xã hội: “Giàu ba họ cũng bần, bần ông nội cũng xa”.
16


Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế còn là vũ khí sắc bén để lên án,
phê phán đối với những thói tham lam, keo kiệt, ích kỷ của con người,
thói thu dấu của mình nhưng lại hay moi móc người khác, lợi dụng lúc
người khác gặp khó khăn để cướp đoạt tài sản: “Của người bồ tát, của
mình lạt buộc/ Cơm ăn chẳng hết thì treo”.

Và cả sự xem thường tính mạng, nhân phẩm của người khác: “Coi
người như rác như rơm”.
Vấn đề đạo đức của con người trong xã hội được đặt lên hàng đầu.
Người Huế luôn cho rằng: “Có đức mặc sức mà ăn”.
Vấn đề khác nổi lên trong xã hội, được ca dao, tục ngữ Thừa Thiên
- Huế phản ánh khá rõ là vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp: “Cướp
đêm là giặc, cướp ngày là quan”.
Như vậy, khi tìm hiểu tính triết lý sống từ các khía cạnh xã hôị qua
ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế, chúng ta thấy được mối quan hệ của
chúng với thời điểm lịch sử chúng xuất hiện. Qua đó chúng ta hiểu được
quan điểm của nhân dân đối với các hiện tượng ấy.
2.3. Một số nhận xét ban đầu qua việc tìm hiểu triết lý nhân sinh
của ca dao, tục ngữ Thừa Thiên Huế
2.3.1. Những dấu hiệu của tư tưởng biện chứng trong ca dao, tục
ngữ Thừa Thiên Huế
Nghiên cứu ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế nói về mối quan hệ
giữa con người với thế giới tự nhiên hoặc về quan hệ gia đình và xã hội,
chúng ta bắt gặp một số yếu tố biện chứng.
Mối liên hệ qua lại giữa các sự vật và hiện tượng; sự vật và hiện
tượng: “Có choái thì cây mới leo, có cột có kèo mới có đòn tay”.
Nói lên mâu thuẫn tất yếu trong một xã hội có áp bức, bóc lột: “Có
của lấy của che thân, không của lấy thân thế của”.
Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế cũng cho thấy người lao động đã
phần nào hiểu được rằng khi thêm “lượng” thì sẽ dẫn đến sự biến đổi về
“chất ”, tạo ra “chất mới”: “Tích tiểu thành đại/ Năng nhặt, chặt bị”.

17


Nội dung của quy luật phủ định được phản ánh thông qua nhận xét,

phán đoán, khẳng định của người dân: “Phi cổ bất thành kim”.
Nói đến mối quan hệ tất nhiên - ngẫu nhiên: “Bổ bò nhằm khi khế rụng”.
Mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng, nội dung và hình thức:
“Trông mặt, đặt tên”.
Giữa nội dung và hình thức, giữa bản chất và hiện tượng theo quan
niệm dân gian thì nội dung và bản chất bên trong là cái giữ vai trò
quyết định, hơn hẳn hình thức bên ngoài: “Xấu người đẹp nết, còn hơn
đẹp người”.
Một biểu hiện khác nữa của tính biện chứng trong ca dao, tục ngữ
Thừa Thiên - Huế là sự bàn luận về cái chung, cái giống nhau và cái
khác biệt của các sự vật hiện tượng. Có cái chung, cái giống nhau về
bản chất: “Ếch nào chả là thịt”.
Những cũng có cái chung không giống nhau về bản chất: “Chim với
phượng cũng kể là loài hai chân/ Thú với kỳ lân cũng kể là loài bốn
vó”.
Trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế, phạm trù nguyên nhân - kết
quả cũng đã được đề cập đến: “Ở lành thì gặp lành/ Ở ác gặp ác rành
rành chẳng sai”.
Bên cạnh đó, người Huế rất coi trọng vấn đề nhận thức. Nhận thức
bắt đầu bằng sự hiểu biết, muốn hiểu biết phải có học hỏi: “Có học mới
biết, có học mới khôn”.
Nhận thức phải là một quá trình mới đạt tới chân lý khách quan,
đồng thời quá trình nhận thức là do thực tiễn kiểm nghiệm, thực tiễn đặt
ra nhu cầu nhiệm vụ cho nhận thức: “Học đi đôi với hành”.
Những yếu tố biện chứng vừa nêu trên chưa dựa trên cơ sở hay có
sự chỉ đạo của tri thức khoa học, mà chỉ ở mức độ mầm mống. Mặc dù
vậy, những tư tưởng có yếu tố biện chứng đó trong ca dao, tục ngữ có
tác dụng tích cực đối với việc tìm hiểu, cải biến thế giới tự nhiên và xã
hội. Vì vậy chúng luôn chiếm một vị trí quan trong trong tư tưởng của
người dân xứ Huế.

18


2.3.2. Tính mâu thuẫn và không nhất quán trong ca dao, tục ngữ
Thừa Thiên - Huế
Sự mâu thuẫn về tư tưởng là một nét nổi bật và phổ biến trong ca
dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế.
Nhiều câu tục ngữ nói về các hiện tượng và những cách suy nghĩ
không phù hợp với lý tưởng sống của nhân dân: “Cha bòn, con phá/
Cha làm thầy, con đốt sách”.
Nói về vinh - nhục, sướng - khổ: “Chẳng thà ăn dĩa muối rang/ Còn
hơn ăn vàng vừa khóc vừa than/ Trang anh hùng khi nhục khi vinh”.
Nói về may - rủi, họa - phúc: “May hó long, rủi xong máu/ Phúc bất
trùng lai, họa vô đơn chí”.
Nói về chuyện khôn - dại: “Dại nhà khôn chợ mới ngoan/ Khôn nhà
dại chợ thế gian chê cười”.
Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế còn thể hiện tính chất trái ngược
nhau của các sự vật, hiện tương. “Ăn cỗ đi trước lội nước theo sau/ Ăn
cổ đi sau, lội bàu đi trước”.
Những mâu thuẫn trong tư tưởng của người lao động, một mặt, phản
ánh sự tác động tiêu cực của hình thái tổ chức xã hội có giai cấp đối với
tư tưởng, tâm lý và hành vi của con người, đối với mối quan hệ giữa
những con người với nhau trong gia đình và xã hội. Mặt khác, với tính
cách là biểu hiện của tư tưởng, nhiều khi chúng không hề đối lập về nội
dung tư tưởng và những truyền thống đạo đức tốt đẹp của nhân dân.
2.3.3. Vấn đề kinh nghiệm trong ca dao, tục ngữ
Thừa Thiên - Huế
Kinh nghiệm hiểu theo nghĩa hẹp đó là sự kiểm nghiệm tri thức của
con người bằng sự quan sát hiện thực xung quanh hay bằng thực
nghiệm trong phòng thí nghiệm, còn hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ

thực tiễn xã hội Kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức, đồng thời là tiêu
chuẩn của chân lý.
Nhận thức của người dân Huế trong quá trình sinh sống và lao động
19


chủ yếu dựa vào những tri thức kinh nghiệm. Chẳng hạn qua việc quan
sát các hiện tượng của tự nhiên, người lao động đã đúc kết được những
kinh nghiệm để dự báo về thời tiết như: “Ong vò vẽ làm tổ bụi gai/
Thấp thời lụt nhỏ, cao thời lụt to”.
Nhận thức kinh nghiệm cơ bản xuất phát từ hoạt động thực tiễn xã
hội của nhân dân lao động, nên ít nhiều đã mang tính chân lý.Tuy nhiên,
nhận thức kinh nghiệm cũng bộc lộ nhiều hạn chế, nó chưa đem lại cho
con người sự hiểu biết đầy đủ, chính xác, cũng chưa thể dẫn tới những
chân lý phổ biến.
Mặt khác, bằng sự nhận thức kinh nghiệm nhiều khi gặp phải các
mâu thuẫn. Dạng nhận thức bằng kinh nghiệm có xu hướng bị tuyệt đối
hóa, coi đó là những chân lý tuyệt đối. Vì vậy, khi áp dụng nhận thức kinh
nghiệm vào những trường hợp cụ thể của cuộc sống, tầm nhìn đã hạn chế,
khiến cho không tránh khỏi tính chất chủ quan, thậm chí cố chấp, bảo thủ,
cản trở đó sự phát triển của nhận thức.
2.3.4. Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên Huế - bộ phận cấu
thành văn hóa Huế
Văn hóa Huế đó là một nền văn hóa của sự hài hòa và gắn bó mật
thiết giữa con người và môi trường sống. Văn hóa Huế, được làm giàu
bởi dòng văn học dân gian, trong đó có sự đóng góp to lớn của ca dao,
tục ngữ, chính. Chính vì thế ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế đã trở
thành một bộ phận quan trọng của văn hóa Huế.
Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế có ý nghĩa quan trọng và ảnh
hưởng to lớn đến văn hóa Huế. Đó là sự tổng hợp những kiến thức của

nhân dân lao động thời xưa về những vấn đề của cuộc sống và lao động
sản xuất của con người.
Nhìn chung ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế hàm chứa những giá
trị và luôn in dấu ấn đậm nét trong đời sống văn hóa của người Huế.
Những gì mà ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế phản ánh là bài học quý
báu cho cuộc sống hiện tại và được sử dụng như những phương tiện
nhận thức cuộc sống, coi đó là chân lý, là lẽ sống.
20


Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế là một trong những cái nôi nuôi
dưỡng và phát huy lòng yêu nước, đề cao lòng nhân ái và tình cảm gắn
bó từ trong gia đình, họ tộc đến dân tộc, cho các thế hệ mai sau
Trong xã hội đã xuất hiện cách sống xa lạ, trái với thuần phong mỹ
tục của dân tộc. Do đó, vấn đề cấp thiết đặt ra là phải giữ gìn, phát huy
những giá trị văn hóa, trong đó có những giá trị được đúc kết trong ca
dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Nghiên cứu ca dao, tục ngữ Huế, chúng ta rút ra được những triết lý
nhân sinh sâu sắc, phản ánh tư tưởng, quan điểm của nhân dân lao động
về những vấn đề của cuộc sống, của lao động sản xuất. Tính triết lý đó
được biểu hiện khá đầy đủ và rõ nét trong mối quan hệ giữa con người
với thế giới tự nhiên, trong quan niệm về đời người và trong các vấn đề
về xã hôi. Ở rất nhiều phương diện, ca dao, tục ngữ có ý nghĩa to lớn
đối với sự phát triển của văn hóa Huế, nó trở thành một bộ phận làm
phong phú, đa dạng nền văn hóa Huế, góp phần vào việc xây dựng nền
văn hóa mới, nền văn hóa tiên tiến, đầm đà bản sắc Huế nói riêng và
bản sắc dân tộc nói chung.
KẾT LUẬN
Ca dao, tục ngữ THừa Thiên - Huế là sản phảm văn hóa tinh thần,

cho đến nay đã trở thành một kho tàng lý luận phong phú, đa dạng, phản
ánh rõ nét đời sống vật chất và tinh thần của người dân lao động xứ
Huế, có ý nghĩa về mặt.
Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế đã cung cấp cho chúng ta một
lượng kiến thức lớn, một hệ thống triết lý nhân sinh khá phong phú về
thế giới tự nhiên, về đời sống con người, về xã hội và cả mối quan hệ
gắn bó mật thiết giữa tự nhiên - con người - xã hội.
Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế là di sản quý báu, là những viên
21


ngọc quý của đời sống tinh thần, được xem như là những giá trị trong
kho tàng triết lý của dân tộc mà chúng ta cần và có thể chọn lọc, kể thừa
trong cuộc sống hiện nay và có ý nghĩa nhất định trong việc góp phần
xây dựng lối sốn nhân văn, khoan dung, độ lượng và nói chung là một
nhân cách phù hợp với yêu cầu của thời đại.

22



×