Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Bài tập học kỳ Tố tụng hình sự: Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyền và nghĩa vụ của người bị hại trong TTHS và việc hoàn thiện quy định này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.07 KB, 21 trang )

MỤC LỤC

A - MỞ ĐẦU
Pháp luật nước ta có rất nhiều chế định để bảo vệ những quyền và lợi ích
hợp pháp của con người, đặc biệt trong pháp luật tố tụng hình sự đối tượng được
đặc biệt quan tâm là người bị hại. Vì vậy, người bị hại cần phải được bảo vệ kịp
thời, thậm chí ngay khi họ bị đe dọa gây thiệt hại. Và một trong những công cụ
pháp lý quan trọng để bảo vệ người bị hại đó chính là pháp luật tố tụng hình sự.
Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng nói
chung và người bị hại nói riêng là một trong những nội dung quan trọng trong
định hướng cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình sự ở
nước ta hiện nay. Để làm rõ hơn về nội dung này, bài viết sau sẽ đi sâu vào tìm
hiểu đề tài số 03:“Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyền và nghĩa vụ
của người bị hại trong TTHS và việc hoàn thiện quy định này.”

B - NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI BỊ HẠI
1. Khái niệm người bị hại
Người bị hại là người tham gia tố tụng có mặt hầu hết trong các vụ án
hình sự. Theo từ điển luật học: “Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất,
về tinh thần hoặc về tài sản do tội phạm gây ra. Người bị hại chỉ có thể là thể
nhân bị thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản chứ không thể là pháp
nhân”1.

1 Từ

điển Luật học, NXB TĐBK - NXB TP, Trang 571.
1


Để có sự nhận thức đầy đủ và thống nhất về khái niệm người bị hại thì


cần tiếp cận khái niệm này dưới những góc độ khác nhau:
- Dưới góc độ xã hội, người bị hại là con người cụ thể trong xã hội, chịu
tác động tiêu cực của sự việc, hành vi hoặc bất kì tác động nào khác dẫn đến
những thiệt thòi, mất mát hay tổn thương cho chính họ. Tất nhiên, sự tác động
đó là trái ý muốn của người bị hại và họ tiếp nhận một cách thụ động. Thiệt hại
gây ra cho người bị hại có thể là thiệt hại về vật chất, tinh thần, tài sản mà không
giới hạn và không cần giới hạn thiệt hại.
- Theo pháp luật thực định tại khoản 1 điều 51 BLTTHS "Người bị hại là
người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra”.Với quy
định này, người bị hại thường được hiểu là con người cụ thể bị hành vi phạm tội
trực tiếp xâm hại.
Về hình thức: mặc dù BLTTHS quy định "người bị hại là người bị thiệt
hại…" song ở một khía cạnh nào đó có thể hiểu từ "người" theo nghĩa rộng bao
gồm cả cá nhân, tổ chức tương tự như với trường hợp "người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan.”
Về bản chất, xác định người bị hại không chỉ là cá nhân mà bao gồm cả
pháp nhân bị thiệt hại do hành vi phạm tội sẽ đảm bảo sự công bằng giữa các
chủ thể này trong trường hợp cùng bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Về khoa học: ngoài cá nhân, cần thừa nhận pháp nhân và kể cả tổ chức
không có tư cách pháp nhân cũng là người bị hại trong trường hợp bị thiệt hại
trực tiếp về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra. Dấu hiệu “đã thực tế bị thiệt hại”
không phải là dấu hiệu bắt buộc của người bị hại. Chỉ cần có hành vi phạm tội
đe dọa gây ra thiệt hại cho một người được xác định thì người đó là người bị hại.
Thiệt hại của người bị hại là thiệt hại trực tiếp do tội phạm gây ra. Ngoài ra,
người bị hại có thể có thêm thiệt hại gián tiếp. Người bị hại được cơ quan có
thẩm quyền THTT công nhận tư cách tham gia tố tụng của họ.

2



Từ những phân tích trên thì Điều 51 cần được sửa đổi theo hướng làm rõ
người bị hại để đảm bảo sự công bằng, bình đẳng trong tố tụng hình sự, bảo vệ
tốt các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại.
Để hiểu rõ hơn khái niệm người bị hại, cần phải phân biệt với một số khái
niệm đồng nghĩa hoặc giáp ranh như: người bị hại với nạn nhân, người bị hại với
đối tượng tác động của tội phạm. Đây là những khái niệm gần nhau nhưng
không đồng nhất với nhau.
Thứ nhất: Có quan điểm cho rằng người bị hại chính là nạn nhân của tội
phạm. Nội dung khái niệm người bị hại có nội hàm hẹp hơn so với khái niệm
nạn nhân của tội phạm. Như đã biết, hành vi phạm tội luôn gây ra hoặc đe dọa
gây ra những thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ.
Để gây ra những thiệt hại cho những quan hệ này, hành vi phạm tội đã tác động
gây thiệt hại cho một số cá nhân, tổ chức. Trong khi đó “Nạn nhân của tội phạm
là những cá nhân, tổ chức bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại, gây ra những
thiệt hại về thể chất, về tinh thần, tài sản hoặc các quyền, lợi ích hợp pháp
khác”.2 Thiệt hại không chỉ dừng ở thiệt hại vật chất và tinh thần mà còn thiệt
hại về các lợi ích khác.
Thứ hai: Đối tượng tác động của tội phạm là một bộ phận khách thể của
tội phạm bị hành vi phạm tội tác động đến, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt
hại. Đối tượng tác động của tội phạm không chỉ là con người mà còn bao gồm
các đối tượng vật chất khác và các hoạt động bình thường của chủ thể.
Như vậy, người bị hại là cá nhân, tổ chức bị tội phạm trực tiếp gây ra thiệt
hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản. Người bị hại được
các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng công nhận khi xác định có dấu hiệu
thiệt hại.

2 Trần

Hữu Tráng, Nạn nhân học trong Tội phạm học- một số vấn đề lý luận và thực tiễn,
Luận văn Thạc sỹ Luật học 2000, trang 18.

3


2. Vị trí, vai trò và cơ sở quy định quyền và nghĩa vụ của người bị hại
- Vị trí: Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra có vị trí tố tụng đối lập với
nhóm chủ thể gây ra thiệt hại. Những người bị thiệt hại do tội phạm gây ra có
thể được coi là cùng bên với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong TTHS nhưng
có cũng địa vị tố tụng độc lập với hai cơ quan này. Trước Tòa án, người bị thiệt
hại do tội phạm gây ra được coi là một bên tranh tụng thực hiện quyền buộc tội,
quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.
- Vai trò: Là chủ thể tham gia tố tụng hình sự đồng thời với quyền yêu cầu
bồi thường, khắc phục thiệt hại và cũng có nghĩa vụ khai báo trung thực khi
tham gia tố tụng
- Cơ sở quy định quyền và nghĩa vụ của người bị hại:
+ Cơ sở pháp lý:
Chế định về quyền con người được ghi nhận tại nhiều văn bản pháp lý
quốc tế của nhiều quốc gia trên thế giới.Các văn bản quốc tế công nhận quyền
con người như Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 hay tuyên ngôn toàn thế
giới về nhân quyền 1948. Hiến pháp Việt Nam năm 2013 cũng đã công nhận:
"Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về
sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình
hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm
danh dự, nhân phẩm" (khoản 1 điều 20). Một trong những công cụ pháp lý quan
trọng để bảo vệ người bị hại đó là pháp luật TTHS. Xác định đúng tư cách người
bị hại, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại trong quá trình
tiến hành tố tụng là một trong những đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hình sự
được chính xác, khách quan, toàn diện.
+ Cơ sở thực tiễn: Trên thực tế, cơ quan tiến hành tố tụng đôi khi chỉ tập
trung vào điều tra nghi phạm mà chưa tập trung vào khai thác những tình tiết
quan trọng có thể khai thác từ người bị hại.Vì vậy, cần có những quy định cụ thể

để người bị hại có thể đảm bảm được quyền và lợi ích của mình.
4


II. QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI BỊ HẠI TRONG TTHS
2. Nội dung quyền và nghĩa vụ của người bị hại
2.1. Quyền của người bị hại
2.1.1. Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu
Được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 51 BLTTHS năm 2003: “Người
bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền: Đưa ra tài liệu, đồ vật,
yêu cầu”. Theo đó,người bị hại có quyền:
- Thứ nhất, quyền đưa ra tài liệu, đồ vật: Người bị hại trong nhiều trường
hợp là người chứng kiến cụ việc xảy ra, biết các tình tiết liên quan đến hành vi
phạm tội, cho nên những tài liệu, đồ vật mà người bị hại hoặc người đại diện
hợp pháp của họ đưa ra thường có độ chính xác, có ích cho quá trình giải quyết
vụ án. Ví dụ: giấy khám chữa bệnh, hóa đơn tiền viện phí và tiền thuốc...
- Thứ hai, quyền yêu cầu: Người bị hại có thể đưa ra những yêu cầu trong
các giai đoạn tố tụng khác nhau. Ví dụ: yêu cầu cơ quan điều tra thu thập thêm
chứng cứ để định tội, yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, yêu cầu giám
định hoặc giám định lại nếu có căn cứ cho rằng kết quả giám định trước không
đúng sự thật, yêu cầu khởi tố vụ án trong 1 số trường hợp, rút đơn yêu cầu khởi
tố. Cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng quyền được đưa ra tài liệu, đồ vật,
yêu cầu của người bị hại.
2.1.2. Quyền được thông báo về kết quả điều tra
Quyền được thông báo về kết quả điều tra được quy định tại điểm b,
khoản 2 Điều 51 BLTTHS, theo đó: “ Người bị hại được thông báo về kết quả
điều tra để họ biết được những vấn đề thuộc nội dung vụ án, làm cơ sở cho việc
chuẩn bị lý lẽ, yêu cầu buộc tội đối với bị cáo và/hoặc chứng minh thiệt hại mà
bị cáo đã gây ra cho mình.”
Trong quá trình điều tra, cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp

theo quy định của pháp luật để xác định tội phạm và thiệt hại do hành vi phạm
tội đó gây ra. Các quyết định khi kết thúc giai đoạn điều tra ảnh hưởng trực tiếp
5


đến quyền lợi người bị hại nên người bị hại có quyền được biết về kết quả điều
tra. Khi được thông báo về kết quả điều tra, người bị hại sẽ được biết những vấn
đề về nội dung vụ án, trên cơ sở đó chuẩn bị những chứng cứ, lí lẽ hoặc yêu cầu
để buộc tội bị cáo hoặc chứng minh thiệt hại của mình.
Tuy nhiên, do điều luật quy định một cách chung chung mà không làm rõ
người bị hại sẽ được thông báo về kết quả điều tra bằng hình thức nào, họ có
quyền được nhận văn bản tố tụng nào liên quan đến kết quả điều tra nên việc
đảm bảo thực hiện quyền này trên thực tế còn gặp nhiều khó khăn. Đối chiếu với
các quy định khác của BLTTHS, ta thấy quy định về việc giao nhận một số văn
bản tố tụng trong giai đoạn điều tra cho người bị hại còn thiếu hoặc chưa hợp lý.
2.1.3. Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên
dịch
Khoản 2 Điều 51 BLTTHS quy định: "d) Đề nghị thay đổi người tiến hành
tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này". Khi
có căn cứ cho rằng người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch
không vô tư trong việc giải quyết vụ án thì người bị hại có quyền đề nghị thay
đổi họ. Việc pháp luật quy định quyền này cho người bị hại, trước hết trong vụ
án hình sự, quyền lợi của người bị hại luôn đối lập với quyền lợi của người
phạm tội, vì vậy, họ rất cần người tiến hành tố tụng phải vô tư, khách quan. Mặt
khác, quyền này chính là sự cụ thể hóa nguyên tắc vô tư, khách quan của người
tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng hoặc người tham gia tố tụng được
quy định tại điều 14 BLTTHS.
2.1.4. Đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường
Việc bồi thường để bù đắp thiệt hại bị xâm phạm cho người bị hại là rất
cần thiết. Sở dĩ xem quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại của người bị hại là

quyền quan trọng, cơ bản, bởi vì nó đáp ứng được động cơ, mục đích chủ yếu
của hai chủ thể này trong TTHS. Điểm d Khoản 2 Điều 51 quy định người bị
hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền “ Đề nghị mức bồi
6


thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường”. Có thiệt hại do tội phạm gây ra
cho người bị hại không khôi phục được hoàn toàn mà chỉ khắc phục được một
phần nên pháp luật quy định cho người bị hại được đề nghị mức bồi thường để
bù đắp cho những mất mát của mình. Đưa ra mức bồi thường như thế nào là thỏa
đáng và Tòa chấp thuận hiện đang là vấn đề khó khăn với người bị hại. Pháp
luật chưa quy định cụ thể về vấn đề bồi thường cho người bị hại mà nhất là vấn
đề bồi thường về tính mạng, sức khỏe hay tinh thần khiến người dân chưa thực
sự hiểu và khó áp dụng. Vì vậy cơ quan có thẩm quyền phải có trách nhiệm
hướng dẫn và giải thích pháp luật cho người bị hại.
Người bị hại và đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền đề nghị các
cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp để đảm bảo bồi thường như kê
biên tài sản (Điều 146 BLTTHS), Việc đảm bảo bồi thường thiệt hại rất quan
trọng vì đảm bảo được khả năng thực tế mà người phạm tội có thể bồi thường
cho người bị hại.
2.1.5. Tham gia phiên tòa, trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa
Phiên tòa chính là nơi kiểm tra công khai các chứng cứ có trong hồ sơ vụ
án để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án và các phán quyết đối với bị cáo. Người
bị hại có quyền tham gia phiên tòa để thực hiện các quyền của mình. Tại điểm đ
Khoản 2 Điều 51 BLTTHS quy định người bị hại, người đại diện hợp pháp của
người bị hại có quyền : “Tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, tranh luận tại
phiên toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”. Theo đó người bị hại
có thể đưa ra các yêu cầu, các tài liệu chứng minh cho thiệt hại là cơ sở để đề
nghị mức bồi thường. Đồng thời việc tham gia cũng đảm bảo cho người bị hại
biết được các quyết định của Tòa án để xem xét có nên kháng cáo và thời hạn

kháng cáo. Việc tham giá phiên tòa và trình bày ý kiến tranh luận là một quyền
thể hiện tính dân chủ, ngoài ra “các đánh giá khác nhau, phản biện nhau của các
bên tham gia tố tụng tại phiên tòa sẽ giúp cho Tòa án khách quan hơn, toàn diện
hơn, thận trọng hơn khi đánh giá để ra phán quyết.”3
3 Trần Văn Độ (2004), Bản chất của tranh tụng tại phiên tòa, Tạp chí khoa học pháp lý.

7


2.1.6. Quyền được khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng; kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về phần
bồi thường cũng như về hình phạt đối với bị cáo
Được quy định tại điểm e, khoản 2 Điều 51 BLTTHS theo đó người bị hại
có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về phần bồi thường cũng như
về hình phạt đối với bị cáo. Trong quá trình tố tụng nếu người bị hại phát hiện
thấy quyết định hoặc hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền tố tụng có
những điểm bất hợp lí, vi phạm pháp luật thì họ có quyền khiếu nại những quyết
định, hành vi tố tụng đó theo trình tự, thủ tục quy định tại chương XXXV của
BLTTHS. Nếu theo đúng câu chữ của điều luật này thì người bị hại chỉ có quyền
kháng cáo trong phạm vi phần bồi thường và phần hình phạt, những vấn đề khác
như tội danh, xử lý vật chứng… nếu không đồng tình với bản án, quyết định sơ
thẩm thì người bị hại cũng không có quyền kháng cáo.
Kháng cáo là một quyền quan trọng của người bị hại. Theo hướng dẫn của
hội đồng thẩm phán TANDTC trong Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ban
hành ngày 08/12/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao về
Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ tư : "Xét xử phúc thẩm" của
Bộ luật Tố tụng hình sự về thành phần những chủ thể được quyền kháng cáo thì
không chỉ người bị hại, đại diện hợp pháp của người bị hại mà còn có người
được người bị hại ủy quyền cũng có quyền kháng cáo. Khi tội phạm xảy ra,
quan hệ pháp luật hình sự xuất hiện là quan hệ giữa nhà nước và người phạm tội,

còn mối quan hệ giữa bị can, bị cáo và người bị hại chỉ là quan hệ dân sự trong
việc bồi thường những thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra. Hậu quả pháp lí
của việc kháng cáo là những phần của bản án bị kháng cáo thì chưa được đưa ra
thi hành và tòa án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án và kháng cáo cho phúc thẩm
trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo.
2.1.7. Quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
Đây là quyền đặc thù của người bị hại, là quan điểm mới của nhà nước
thể chế hóa sự quan tâm tới người bị hại vào pháp luật, được áp dụng phổ biến ở
8


khá nhiều nước. Trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại được quy
định tại khoản 3 Điều 51 BLTTHS.Theo đó,tại phiên tòa người bị hại hoặc
người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa. Khởi tố vụ
án theo yêu cầu của người vị hại là trường hợp do tính chất của vụ án và vì
quyền lợi của người bị hại nên các cơ quan có thẩm quyền không tự mình khởi
tố vụ án hình sự mà việc khởi tố chỉ được thực hiện khi có yêu cầu của người bị
hại, mặt khác cũng có quyền rút đơn “nhằm mục đích động viên, khuyến khích
các công dân tự hòa giải, tự thu xếp, dàn hòa ổn thỏa, đồng thời tạo quan hệ
đoàn kết, thân ái giữa các công dân với nhau khi xảy ra mâu thuẫn”4.
Về yêu cầu khởi tố vụ án của người bị hại có thể bằng văn bản hoặc bằng lời
trình bày tại Cơ quan điều tra. Khi đó, người có thẩm quyền phải ghi lại và yêu
cầu người bị hại kí vào văn bản đó. Về thời hạn giải quyết các yêu cầu khởi tố
cụ án hình sự của người bị hại thì theo Thông tư liên tịch 05/2005/TTLTVKSTC-BCA-BQP ngày 7/9/2005 thì thời hạn giải quyết là 20 ngày, trường hợp
có nhiều tình tiết phức tạp thì thời hạn tối đa không quá 2 tháng.
2.1.8.Quyền rút yêu cầu khởi tố
Khoản 2 Điều 105 quy định “trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố
rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ” tuy
nhiên cũng có giới hạn đó là chỉ khi người bị hại rút yêu cầu trước ngày mở
phiên tòa sơ thẩm vụ án mới bị đình chỉ; còn người bị hại mà rút yêu cầu khởi tố

vụ án trong giai đoạn điều tra thì Cơ quan điều tra quyết định đình chỉ điều tra
(Điều 164 BLTTHS), trong giai đoạn truy tố thì quyết định đình chỉ vụ án (Điều
169 BLTTHS) nhằm đảm bảo trật tự pháp luật.
Quy định rút yêu cầu khởi tố vụ án theo khoản 2 Điều 105 BLTTHS năm
2003 có nhiều điểm hợp lý và chặt chẽ hơn quy định tại Khoản 2 Điều 88
BLTTHS năm 1988. Cụm từ “trường hợp cần thiết” rất chung chung dẫn tới
nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau gây khó khăn trong tố tụng. Khắc phục
4 Trịnh Tiến Việt, Từ vụ án Lã Văn Ba – Bàn thêm về điểm k khoản 1 Điều 104 và Điều 257 Bộ luật Hình sự
năm 1999, khoa Luật ĐHQG Hà Nội.

9


điều trên BLTTHS năm 2003 quy định một trường hợp duy nhất “khi có căn cứ
xác định người có yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do
bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ
án”.
2.1.9. Quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ khi tham gia tố tụng
Điều 135, Điều 137, Điều 201 BLTTHS đều quy định trách nhiệm của
Điều tra viên, Chủ toạ phiên toà phải giải thích quyền và nghĩa vụ cho những
người tham gia tố tụng và việc này phải được ghi vào biên bản ghi lời khai, biên
bản phiên toà. Tuy nhiên, Chương IV (Người tham gia tố tụng) của BLTTHS chỉ
quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được giải thích về quyền và nghĩa vụ
còn trong các điều luật về những người tham gia tố tụng khác như người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người
làm chứng đều không xác định đây là một trong những quyền của người tham
gia tố tụng. Điều này có nghĩa là pháp luật không quy định quyền cho người
tham gia tố tụng nhưng lại ràng buộc các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng phải có trách nhiệm đảm bảo thực hiện quyền.

2.1.10. Quyền được bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, các quyền và lợi ích hợp pháp
khi tham gia tố tụng
Thực tiễn giải quyết vụ án hình sự cho thấy không ít trường hợp người bị
hại hoặc người thân thích của họ bị người phạm tội, người thân của người phạm
tội đe doạ, khống chế, mua chuộc để ngăn chặn việc người bị hại khai báo phục
vụ việc xác định sự thật vụ án. Để khắc phục tình trạng này, đảm bảo cho người
bị hại thực hiện nghĩa vụ khai báo theo quy định pháp luật, BLTTHS nên bổ
sung các quy định về bảo vệ người bị hại khi người bị hại yêu cầu và cơ quan
tiến hành tố tụng có cơ sở cho rằng người bị hại bị đe dọa.
2.1.11. Quyền đối với kết luận giám định
Đây là một quyền mới của người bị hại. Kết luận giám định là một trong
những chứng cứ giúp cơ quan tiến hành tố tụng xác minh sự thật khách quan của
10


vụ án. Được quy định tại khoản 1 Điều 158 BLTTHS: “Bị can, những người
tham gia tố tụng khác được trình bày những ý kiến của mình về kết luận giám
định, yêu cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại..” Theo đó, người bị hại có
quyền trình bày ý kiến của mình về kết luận giám định, yêu cầu giám định bổ
sung hoặc giám định lại. Nếu các kết quả giám định không chính xác sẽ ảnh
hưởng đến giải quyết vụ án quyền và lợi ích của người bị hại.
2.1.12. Quyền nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác bảo vệ
quyền lợi cho mình
Đây là một trong những quyền năng quan trọng nhất của người bị hại
được quy định tại khoản 1 Điều 59 BLTTHS: “Người bị hại, nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự có
quyền nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác được Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Toà án chấp nhận bảo vệ quyền lợi cho mình”.
Pháp luật quy định cho người bị hại quyền tự mình bảo vệ quyền và lợi
ích hoặc có thể nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác nhưng phải

được cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận. Việc quy định này thể hiện được ý
nghĩa của việc đảm bảo nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền cơ bản của công
dân được quy định trong Hiến pháp cũng như BLTTHS.
2.1.13. Quyền trình bày lời buộc tội tại phiên tòa
Tại Khoản 3 Điều 51 BLTTHS “Trong trường hợp vụ án được khởi tố
theo yêu cầu của người bị hại quy định tại Điều 105 Bộ luật này thì người bị hại
hoặc đại diện hợp pháp của họ được trình bày lời buộc tội tại phiên tòa” song
chưa có quy định về nội dung và hình thức buộc tội nên người bị hại chưa thực
hiện tốt được quyền này. Cần quy định cụ thể và đảm bảo cho quyền đó thành
hiện thực: bổ sung quyền của người bị hại trong giai đoạn xét xử theo hướng cho
người bị hại có quyền được thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến vụ án
mà không thuộc bí mật quốc gia; bổ sung quyền tham gia xét hỏi của người bị
hại; quy định cụ thể về người bị hại được trình bày lời buộc tội tại phiên tòa…

11


2.2. Nghĩa vụ của người bị hại
2.2.1. Nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án
Theo quy định tại khoản 4, điều 51 BLTTHS: “Người bị hại phải có mặt
theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án”.Trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự sự có mặt của người bị hại là rất cần thiết. Sự tham gia
tố tụng của người bị hại vừa là quyền đồng thời vừa là nghĩa vụ không những
đảm bảo được quyền lợi của họ mà còn góp phần giải quyết vụ án một cách
nhanh chóng và chính xác. Theo quy định của BLTTHS thì khi nhận được giấy
triệu tập của cơ quan THTT thì người bị hại phải có mặt để trình bày những vấn
đề liên quan đến vụ án. Tại đây người bị hại phải khai báo những tình tiết của vụ
án mà họ biết để biết được cơ quan THTT hoàn thiện thêm hồ sơ vụ án.
Sự có mặt của người bị hại có vai trò rất quan trọng nhất là đối với những

vụ án khổi tố theo yêu cầu của người bị hại nếu người bị hại và người đại diện
hợp pháp của họ vắng mặt thì tòa án sơ thẩm phải hoãn phiên tòa. Trong phiên
tòa phúc thẩm nếu người bị hại kháng cáo hoặc có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan đến việc kháng cáo kháng nghị thì được triệu tập. Nếu vắng mặt không có
lý do chính đáng thì HĐXX có thể vẫn tiến hành xét xử bình thường nhưng
không được ra những quyết định không có lợi cho người bị hại, trong những
trường hợp nhất định thì phải hoãn phiên tòa. 5 Có thể thấy đây là nghĩa vụ bắt
buộc đối với người bị hại vì chỉ khi họ có mặt tại phiên tòa thì họ mới có thể
thực hiện quyền của mình và bảo vệ những lợi ích hợp pháp của mình. Đồng
thời khi người bị hại có mặt sẽ giúp cho cơ quan THTT trong việc xác minh các
tài liệu còn nghi ngờ hoặc mâu thuẫn để từ đó có các kết luận chính xác về sự
thật khách quan của vụ án. Đảm bảo được việc xét xử đúng người đúng tội tránh
làm oan người vô tội.

5 Địa vị pháp lý của người bị hại theo Luật TTHS Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Hoàng Thị Ngọc, Hà Nội,
2011.

12


2.2.2. Nghĩa vụ khai báo, cung cấp những thông tin cần thiết giúp cho làm sáng
tỏ sự thật vụ án
Người bị hại là người bị thiệt hại do chính hành vi của người phạm tội gây
ra vì thế hơn ai hết họ là người hiểu hành vi của người phạm tội tác động đến họ.
Để làm rõ sự thật khách quan của vụ án và bảo đảm tính nghiêm minh của pháp
luật cũng như bảo vệ quyền lợi cho công dân thì người bị hai phải có nghĩa vụ
khai báo. Nghĩa vụ khai báo trung thực được đặt ra với tất cả những người tham
gia tố tụng khác nhưng đối với người bị hại thì nó có một ý nghĩa đặc biệt , xuất
phát từ thái độ và tình cảm cảu người bị hại với tội phạm thông thường làm cho
lời khai của họ theo hướng chính xác hơn. Người bị hại là một “nhân chứng”

quan trọng của vụ án vì vậy việc bảo đảm để người bị hại khai báo trung thực
cũng là bảo đảm để họ thực hiện quyền lợi của họ.
III. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI BỊ HẠI
1. Ưu điểm, nhược điểm
1.1. Ưu điểm
Pháp luật TTHS về quyền và lợi ích của người bị hại qua quá trình tồn tại
và phát triển ngày càng được bổ sung, sửa đổi đầy đủ và hoàn thiện hơn. Nhìn
chung, nội dung các quyền và nghĩa vụ của người bị hại về cơ bản là phù hợp và
được các cơ quan có thẩm quyền nghiêm chỉnh chấp hành, góp phần quan trọng
trong việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại. Các cơ quan có
thẩm quyền THTT có sự vận dụng các quy định của BLTTHS về người thiệt hại
do tội phạm gây ra khi giải quyết vụ án hình sự. Phạm vi kháng cáo của người bị
hại không chỉ giới hạn trong phạm vi tăng nặng hình phạt mà còn cho phép
người bị hại kháng cáo theo hướng giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo; hoặc chế
định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại lần đầu tiên được quy định
trong Bộ luật TTHS năm 1988 và chế định này ngày càng được mở rộng... Nội
dung các quyền và nghĩa vụ của người bị hại về cơ bản là phù hợp và được các
13


cơ quan có thẩm quyền nghiêm chỉnh chấp hành, góp phần quan trọng trong việc
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại.
1.2. Nhược điểm
Bên cạnh những ưu điểm trên còn không ít những nhược điểm bộc lộ một
số điểm bất cập trong quy định của pháp luật cũng như khó để áp dụng trong
thực tiễn:
Thứ nhất, vấn đề liên quan đến đại diện hợp pháp của người bị hại:
- Tại khoản 5 Điều 51 Bộ luật TTHS quy định: “Trong trường hợp người
bị hại chết thì người đại diện hợp pháp của họ có những quyền được quy định tại

điều này”. Như vậy trường hợp người bị hại là người chưa thành niên, người có
nhược điểm về tâm thần, thể chất khi tham gia tố tụng thì đại diện hợp pháp của
họ có được tham gia tố tụng và có được hưởng các quyền của người bị hại
không? Theo tinh thần nội dung Điều 51 Bộ luật TTHS thì người đại diện hợp
pháp của người bị hại trong trường hợp này được tham gia tố tụng nhưng không
được thực hiện các quyền của người bị hại. Tuy nhiên, theo tinh thần của quy
định tại Điều 59 Bộ luật TTHS thì người bảo vệ quyền lợi cho người bị hại được
tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại. Nội dung các
quyền của người này không khác nhiều so với nội dung các quyền quy định cho
người bị hại.
- Bộ luật TTHS chỉ quy định trường hợp người bị hại chết mà chưa quy
định trường hợp người bị hại mất tích. Vậy trường hợp người bị hại được xác
định là mất tích thì vấn đề người đại diện hợp pháp của họ được quy định và giải
quyết như thế nào? Họ có được phép tham gia tố tụng và được thực hiện các
quyền của người bị hại không? Thực tiễn giải quyết vụ án cho thấy cơ quan tiến
hành tố tụng giải quyết không thống nhất với nhau. Vì vậy, theo chúng tôi Bộ
luật TTHS cần bổ sung trường hợp trên theo hướng thừa nhận người đại diện
hợp pháp của người bị hại mất tích được tham gia tố tụng và được thực hiện các
quyền của người bị hại.

14


Thứ hai, là về vấn đề liên quan đến việc quy định và thực hiện các quyền
của người bị hại:
Tại điểm e khoản 2 Điều 51 Bộ luật TTHS quy định: người bị hại có
quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về phần bồi thường cũng như về
phần hình phạt đối với bị cáo. Như vậy, quy định này chỉ cho phép người bị hại
kháng cáo trong phạm vi phần bồi thường và phần hình phạt, những phần khác
trong bản án như: phần dân sự cũng như vấn đề liên quan đến tội danh, đến

khung hình phạt... nếu không đồng tình với bản án và quyết định của Tòa án thì
người bị hại không có quyền kháng cáo.Trong khi đó tại Điều 231 Bộ luật TTHS
lại quy định: Người bị hại và người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng
cáo bản án và quyết định của Tòa án.
Thứ ba, vấn đề liên quan đến chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của
người bị hại: Theo quy định tại khoản 3 Điều 51 Bộ luật TTHS, trong trường
hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại quy định tại Điều 105 Bộ
luật này thì người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc
tội tại phiên tòa. Tuy nhiên, hiện nay chưa có hướng dẫn của cơ quan có thẩm
quyền về việc người bị hại trình bày lời buộc tội bị cáo tại phiên tòa như thế nào.
Trường hợp nếu người bị hại trình bày lời buộc tội thì kiểm sát viên tham gia
phiên tòa có trình bày lời buộc tội nữa không? Lời buộc tội của người bị hại có
giá trị như thế nào? Sự có mặt của người bị hại trong trường hợp này có bắt
buộc như đối với kiểm sát viên không? Thực tiễn xét xử cho thấy mọi việc đều
do kiểm sát viên thực hiện, còn người bị hại trong trường hợp này cũng không
có gì đặc biệt so với người bị hại trong các vụ án khác.
Thứ tư, trong thực tiễn áp dụng:
- Sai sót trong hoạt động lấy lời khai cũng làm ảnh hưởng đến việc thực
hiện nghĩa vụ khai báo của người bị hại. Thực tiễn tố tụng còn cho thấy nhiều
trường hợp cơ quan THTT làm thiệt hại thêm cho người bị hại bằng thái độ thiếu
tôn trọng, đưa ra câu hỏi thiếu tế nhị, áp đặt làm cho người bị hại bị tổn thương.

15


- Công tác bảo vệ sự an toàn tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm,
tài sản cho người bị hại và nguyên đơn dân sự chưa tốt.
-Do hạn chế về ý thức pháp luật của người bị hại và nguyên đơn dân sự
nên việc thực hiện quyền, nghĩa vụ chưa đầy đủ trong khi cơ quan THTT không
có những biện pháp để đảm bảo.

2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo quyền và nghĩa vụ
của người bị hại
2.1. Giải pháp về hoàn thiện hệ thống pháp luật
Hoàn thiện khái niệm “người bị hại” cần phải được hiểu một cách đầy đủ:
“Người bị hại là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài
sản do tội phạm gây ra”. Khái niệm này bao hàm các đặc điểm của người bị hại
như sau:
- Thứ nhất, về chủ thể, người bị hại là cá nhân, pháp nhân, cơ quan nhà
nước hoặc tổ chức khác;
- Thứ hai, thiệt hại do tội phạm gây ra có thể là thiệt hại về thể chất, thiệt
hại về tinh thần, thiệt hại về vật chất. Tuy nhiên, cần lưu ý là hậu quả của sự
thiệt hại không phải là điều kiện bắt buộc trong tất cả các trường hợp.
- Thứ ba, thiệt hại của người bị hại phải là đối tượng tác động của tội
phạm, tức là phải có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả
gây ra cho người bị hại. Đây là điều kiện quan trọng để phân biệt giữa người bị
hại và nguyên đơn dân sự hay các đương sự khác trong vụ án hình sự.
- Thứ tư, người bị thiệt hại chỉ được tham gia tố tụng với tư cách là người
bị hại khi và chỉ khi được cơ quan tiến hành tố tụng công nhận.
2.2. Giải pháp về vấn đề liên quan đến đại diện hợp pháp của người bị hại
- Bổ sung nội dung trường hợp người bị hại là người chưa thành niên,
người có nhược điểm về tâm thần, thể chất khi tham gia tố tụng thì đại diện hợp
pháp của họ có được tham gia tố tụng và có được hưởng các quyền của người bị
hại không? vào Điều 51 Bộ luật TTHS.

16


- Bộ luật TTHS chỉ quy định trường hợp người bị hại chết mà chưa quy
định trường hợp người bị hại mất tích. Vậy trường hợp người bị hại được xác
định là mất tích thì vấn đề người đại diện hợp pháp của họ được quy định và giải

quyết như thế nào? Vì vậy, Bộ luật TTHS cần bổ sung trường hợp trên theo
hướng thừa nhận người đại diện hợp pháp của người bị hại mất tích được tham
gia tố tụng và được thực hiện các quyền của người bị hại.
- Về vấn đề xác định người đại diện hợp pháp, người thân của người bị
hại thì chúng ta cần thấy rằng đây là vấn đề cần được nghiên cứu bổ sung vào
Bộ luật để đảm bảo sự thống nhất trong quá trình áp dụng cũng như đảm bảo các
quyền của người bị hại.Trường hợp người bị hại không còn ai là người thân thì
cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử
người bảo vệ quyền lợi cho họ.
- Trong trường hợp người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền và
nghĩa vụ mâu thuẫn với nhau. Trong trường hợp này mặc dù vẫn có ý kiến khác
nhau nhưng theo chúng tôi cần xác định họ đều là những người đại diện hợp
pháp của người bị hại và họ có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng như nhau.
Tuy nhiên, khi tham tố tụng Tòa án cần yêu cầu những người có cùng quyền lợi
cử một người tham gia, nhưng Tòa án cần quyết định riêng đối với từng người,
những người không tham gia tố tụng phải làm thủ tục ủy quyền cho người tham
gia tố tụng.
2.3. Kiến nghị bổ sung, sửa đổi Điều 51 và Điều 52 BLTTHS về một số quyền,
nghĩa vụ cơ bản của người bị hại cần sửa đổi
- Bổ sung vào khoản 2 Điều 51 BLTTHS quyền của người bị hại “buộc tội
đối với bị can, bị cáo”. Đồng thời sửa đổi, bổ sung điểm đ khoản 2 Điều 51:
người bị hại có quyền “tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên
tòa về việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình”.6
“Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận án tiến sỹ, Lê
Nguyên Thanh,TP. Hồ Chí Minh, 2012, Trang 20.
6

17



- Để khắc phục tình trạng hợp người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp
của họ bị kẻ phạm tội hoặc những người thân của người này khống chế, đe dọa,
mua chuộc, lừa dối hoặc có những thủ đoạn khác... làm cho người bị hại hoặc
người đại diện hợp pháp của họ không thể tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và
lợi ích của mình, không thể có mặt để thực hiện việc khai báo theo yêu cầu của
cơ quan tiến hành tố tụng và vô hình chung họ lại phạm vào tội từ chối khai báo
theo Điều 308 BLHS, bên cạnh quy định về bảo vệ người làm chứng, cũng cần
bổ sung quy định về bảo vệ người bị hại khi người bị hại yêu cầu và cơ quan
tiến hành tố tụng có cơ sở cho rằng người bị hại bị đe dọa.
- Sửa đổi, bổ sung điểm e khoản 2 Điều 51 về phạm vi kháng cáo phần
trách nhiệm hình sự trong bản án. Nội dung đề nghị sửa đổi, bổ sung điểm e
khoản 2 Điều 51 như sau:…“kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về phần
bồi thường cũng như tội phạm bị xét xử và hình phạt được tuyên đối với bị cáo”.
- Sửa lại Điều 191 Bộ luật TTHS theo hướng khẳng định: trường hợp tại
phiên tòa người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ vắng mặt thì phải
hoãn phiên tòa, trừ trường hợp những người này yêu cầu hoặc đồng ý để Tòa án
xét xử vắng mặt họ. Sự tham gia phiên tòa của người bị hại có mục đích hoàn
toàn khác với nguyên đơn và bị đơn dân sự vì vậy không thể đồng nhất sự tham
gia phiên tòa của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự với người bị hại như tinh
thần của Điều luật này.
2.4. Bổ sung quy định về nghĩa vụ có mặt của người đại diện hợp pháp của
người bị hại theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng
Theo quy định tại khoản 5, điều 51 BLTTHS thì “trong trường hợp người
bị hại chết thì người đại diện hợp pháp của họ có quyền theo quy định tại điều
này”. Nếu hiểu như vậy thì người đại diện hợp pháp chỉ có quyền làm không
phải gánh vác nghĩa vụ và chính vì vậy đây là điều không hợp lý , quyền luôn đi
liền với nghĩa vụ.Người đại diện hợp pháp của người bị hại TGTT là để bảo đảm
quyền lợi cho người bị hại vì vậy họ thay mặt người bị hại hưởng quyền cũng
18



như gánh vác các nghĩa vụ. Nghĩa vụ khai báo không được đặt ra đối với người
đại diện hợp pháp của người bị hại vì họ có thể biết hay không biết những tình
tiết liên quan đến vụ án.
3. Một số giải pháp nhằm áp dụng có hiệu quả quy định của bộ luật trong
thực tiễn
Thứ nhất, nâng cao trình độ pháp luật nghiệp vụ phẩm chất và đạo đức
của người THTT cũng là vấn đề cần quan tâm. Cùng với việc nâng cao trình độ
nghiệp vụ chuyên môn thì việc rèn luyện phảm chất đạo đức của người THTT là
rất quan trọng, hiện nay một số cán bộ tha hóa bản chất dung túng và bao che tội
phạm làm cho pháp luật không nghiêm minh và làm cho nhân dân giảm niềm tin
vào Nhà nước và pháp luật. chính vì vậy vấn đề này cần được quan tâm hơn nữa
đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh và củng cố niềm tin của
nhân dân vào nhà nước và pháp luật.
Thứ hai, nâng cao ý thức pháp luật của người dân.Để đảm bảo quyền và
nghĩa vụ người bị hại trong TTHS thì bản thân người bị hại phải biết họ có
những quyền và nghĩa vụ gì? Sự không hiểu biết pháp luật của người dân đã làm
cho quyền lợi của họ không được bảo đảm và thậm chí còn bị xâm hại. Để nâng
cao trình độ hiểu biết pháp luật của người dân thì cần tích cực tuyên truyền, giáo
dục pháp luật làm cho pháp luật đi vào đời sống của người dân. Khi người dân ý
thức được quyền lợi và trách nhiệm của mình thì thì họ có thể bảo vệ quyền lợi
cho mình và góp phần giải quyết vụ án nhanh chóng thuận lợi

KẾT LUẬN
Người bị hại là một trong những người tham gia tố tụng theo quy định của
Bộluật tố tụng hình sự.Việc xác định đúng tư cách người bị hại, đảm bảo các
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại trong quá trình tiến hành tố tụng là
một trong những đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hình sự được chính xác,
khách quan, toàn diện.


19


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt nam, Trường Đại học luật Hà Nội, Nxb
Tư pháp, Hà Nội, 2006.
2. “Một số vấn đề về giải quyết dân sự trong vụ án hình sự”, Tạp chí Khoa học
pháp lý, số 1/2010, trang 25 – 32.
3. Địa vị pháp lý của người bị hại theo Luật TTHS Việt Nam, Khóa luận tốt
nghiệp, Hoàng Thị Ngọc, Hà Nội, 2011.
4. Bộ Luật Tố Tụng hình sự năm 2003.
5. “Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận
án tiến sỹ, Lê Nguyên Thanh,TP. Hồ Chí Minh, 2012.
6. “Quyền của người bị hại và vấn đề bảo vệ người bị hại trong tố tụng hình sự”,
Tạp chí Khoa học pháp lý, số 6/2010, trang 41 – 48.
7. “Bàn về khái niệm người bị hại trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Khoa học
pháp lý, số 5/2012, trang 18 – 26.
8. Từ điển Luật học, NXB TĐBK - NXB TP.
9. Trần Hữu Tráng, Nạn nhân học trong Tội phạm học- một số vấn đề lý luận và
thực tiễn, Luận văn Thạc sỹ Luật học 2000, trang 18.
10. Trịnh Tiến Việt, Từ vụ án Lã Văn Ba – Bàn thêm về điểm k khoản 1 Điều
104 và Điều 257 Bộ luật Hình sự năm 1999, khoa Luật ĐHQG Hà Nội.
11. Trần Văn Độ (2004), Bản chất của tranh tụng tại phiên tòa, Tạp chí khoa học
pháp lý.

20


21




×