Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO KINH tế CHÍNH TRỊ QUẢN lý vốn NHÀ nước tại DOANH NGHIỆP NHÀ nước HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.48 KB, 26 trang )

MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, thành phần kinh tế nhà nước (mà
trong đó doanh nghiệp nhà nước là nòng cốt) giữ vai trò chủ đạo. Nhà nước
thực hiện giao vốn cho doanh nghiệp nhà nước để doanh nghiệp nhà nước
hoàn thành nhiệm vụ nhà nước giao. Việc Nhà nước giao vốn cho doanh
nghiệp nhà nước đặt ra yêu cầu phải quản lý số vốn đó. Đồng thời, việc thay
đổi phương thức quản lý hiện vật sang phương thức quản lý bằng giá trị là chủ
yếu đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa vai trò của nhà nước trong công tác quản
lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Song thực tế cho thấy, công tác quản lý đối
với phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước còn có những bất cập trong
chế độ chính sách quản lý, trong tổ chức bộ máy quản lý và trong tổ chức
thực hiện. Điều đó khiến vốn nhà nước tại nhiều doanh nghiệp đang bị ăn
mòn và việc thực hiện vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước bị hạn
chế. Do vậy, việc hoàn thiện công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp
nhà nước trở thành yêu cầu cấp bách hiện nay. Trong điều kiện ngân sách nhà
nước còn hạn hẹp, công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
càng cần được thực hiện tốt hơn. Qua học tập nghiên cứu môn quản lý kinh
tế, bản thân nhận thấy công tác quản lý nhà nước về kinh tế trong thời gian
qua đã đạt được những thành tựu nhưng cũng còn nhiều bất cập, nhất là quản
lý vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay. Do đó, tôi xin chọn chủ đề:
“Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước hiện nay” làm tiểu
luận, với mục đích nghiên cứu phát hiện những hạn chế trong công tác quản
lý vốn của Nhà nước trong các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay, từ đó đưa ra
những đề xuất những giải pháp hoàn thiện công tác quản lý vốn Nhà nước tại
các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay.

1


NỘI DUNG
1. lý luận chung về quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước.


1.1. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
Trên thế giới hiện có rất nhiều quan niệm khác nhau về doanh nghiệp
nhà nước. Có người cho rằng doanh nghiệp nhà nước là các xí nghiệp công
làm nhiệm vụ sự nghiệp (cảnh sát, cứu hoả, y tế, giáo dục...). Khi giảng về
doanh nghiệp nhà nước, giáo sư Michel Rambolt đã đưa ra ba tiêu chí xác
định doanh nghiệp nhà nước: doanh nghiệp nhà nước trực tiếp chịu sự kiểm
soát của ai? Sản xuất ra sản phẩm đem bán hay không đem bán? Hoạt động
gắn với lợi ích chung hay lợi ích cá nhân? Từ đó, ông quan niệm rằng: Doanh
nghiệp nhà nước là doanh nghiệp chịu sự kiểm soát trực tiếp của nhà nước,
được phân làm hai loại: Loại một là các xí nghiệp, tổ chức sản xuất những sản
phẩm không dùng để đi bán, nó làm việc vì lợi ích chung và được gọi là các
cơ quan hành chính; Loại hai là các xí nghiệp công cộng, loại này lại được
chia thành hai nhóm: Nhóm thứ nhất là các doanh nghiệp sản xuất mặt hàng
để bán, trao đổi, hoạt động vì lợi ích chung, sản phẩm của nó thường là các
dịch vụ công cộng. Nhóm hai là các doanh nghiệp hoạt động trong môi trường
phải cạnh tranh, thường hoạt động vì lợi ích riêng nào đó.
Ở nước ta, theo Luật doanh nghiệp nhà nước được Quốc hội thông qua
ngày 20/4/1995: doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước thành
lập, đầu tư vốn và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công
ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. Doanh
nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu
trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh
nghiệp quản lý. Doanh nghiệp nhà nước có tên gọi, con dấu riêng và có trụ sở
chính trên lãnh thổ Việt Nam. Doanh nghiệp nhà nước mang các đặc điểm
chung với các loại hình doanh nghiệp khác như:

2


Thứ nhất, chức năng kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước bao gồm:

sản xuất-cung ứng trao đổi, hợp tác và tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá dịch
vụ.
Hai là, doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân. Tư cách pháp
nhân của doanh nghiệp nhà nước là điều kiện cơ bản quyết định sự tồn tại của
doanh nghiệp nhà nước trong hệ thống kinh tế quốc dân. Tư cách pháp nhân
của doanh nghiệp nhà nước đòi hỏi doanh nghiệp nhà nước phải tự chịu trách
nhiệm về quản lý, về nghĩa vụ tài chính trong việc thanh toán những khoản
công nợ khi doanh nghiệp phá sản hay giải thể. Với tư cách là một pháp nhân
độc lập, doanh nghiệp nhà nước có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu
trách nhiệm về toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh. Tư cách này tạo cho
doanh nghiệp nhà nước địa vị pháp lý để đảm bảo độc lập tự chủ.
Ba là, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước cũng
chịu sự chi phối và tác động của môi trường kinh tế. Bên cạnh đó, doanh
nghiệp nhà nước có thể được phân biệt với các loại hình doanh nghiệp khác
bởi các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, doanh nghiệp nhà nước do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
trực tiếp ra quyết định thành lập nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội
do nhà nước giao. Như vậy doanh nghiệp nhà nước không chỉ được thành lập
để thực hiện các hoạt động kinh doanh (nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế)
mà còn để thực hiện các hoạt động công ích (nhằm thực hiện các mục tiêu xã
hội). Các loại hình doanh nghiệp khác không phải do nhà nước thành lập mà
chỉ được nhà nước cho phép thành lập trên cơ sở đơn xin thành lập của các
chủ thể kinh doanh.
Thứ hai, doanh nghiệp nhà nước do nhà nước tổ chức quản lý. Nhà
nước tổ chức bộ máy quản lý các doanh nghiệp nói chung và từng doanh
nghiệp nói riêng; nhà nước bổ nhiệm các cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp,

3



phê duyệt chiến lược, quy hoạch, kế hoạch dài hạn hay trung hạn của doanh
nghiệp...
Thứ ba, tài sản của doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận tài sản của
nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước do nhà nước đầu tư vốn thành lập nên nó
thuộc sở hữu nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước là một chủ thể kinh doanh
không có quyền sở hữu đối với tài sản mà chỉ là chủ quản lý và tiến hành hoạt
động kinh doanh trên số tài sản của nhà nước. Trong khi đó, các chủ thể kinh
doanh khác đều là chủ sở hữu với tài sản kinh doanh của họ. Có thể phân loại
doanh nghiệp nhà nước thành hai loại căn cứ vào chức năng hoạt động của
doanh nghiệp là: doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh (hoạt động
chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận) và doanh nghiệp nhà nước hoạt động công
ích (hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng theo các chính sách của
Nhà nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh...)
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phát triển trong mối
quan hệ kinh tế đa dạng về hình thức sở hữu, về vốn và tài sản, về cơ chế tổ
chức quản lý. Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường không chỉ tồn tại đơn
nhất trong khu vực kinh tế quốc doanh (doanh nghiệp nhà nước) như trong
nền kinh tế kế hoạch hoá mà còn tồn tại dưới nhiều hình thức sở hữu bao gồm
các loại hình tổ chức doanh nghiệp khác nhau như: Doanh nghiệp tư nhân,
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty liên doanh... Nhưng
doanh nghiệp nhà nước có vị trí đặc biệt quan trọng, nó là bộ phận nòng cốt
của thành phần kinh tế nhà nước, thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước được thể hiện qua những chức
năng cụ thể sau:
Chức năng định hướng sự phát triển của nền kinh tế. Chức năng này
thể hiện ở chỗ doanh nghiệp nhà nước phải đi tiên phong trong các lĩnh vực
chiến lược theo đường lối phát triển của nhà nước tạo điều kiện cho các thành

4



phần kinh tế khác tham gia; doanh nghiệp nhà nước phải là mẫu mực về trình
độ quản lý, về hiệu quả kinh doanh để các doanh nghiệp khác noi theo;
Chức năng hỗ trợ và phục vụ. Sự khác biệt giữa doanh nghiệp nhà nước
và các loại hình doanh nghiệp khác là sự phát triển của doanh nghiệp nhà
nước không phải đơn thuần vì bản thân nó mà quan trọng hơn cả là tạo điều
kiện cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Bởi vậy, doanh
nghiệp nhà nước được bố trí xây dựng ở những khu vực ngành nghề cần thiết
tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển đồng đều giữa các vùng của đất nước;
Chức năng đảm bảo sức mạnh vật chất để nhà nước điều tiết và hướng
dẫn nền kinh tế thị trường. Chức năng này được hiểu là các doanh nghiệp nhà
nước phải có đóng góp thích đáng cho sự phát triển kinh tế bằng việc kinh
doanh có hiệu quả; doanh nghiệp nhà nước phải bảo đảm vai trò quyết định
này để Chính phủ có đủ nguồn lực chỉ đạo và hướng dẫn nền kinh tế phát
triển theo mục tiêu đề ra.
1.2. Tính tất yếu của việc quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà
nước
Thứ nhất, doanh nghiệp nhà nước thuộc sở hữu nhà nước nhưng nhà
nước giao cho một số cá nhân, đơn vị sử dụng. Như vậy có sự tách biệt giữa
người sở hữu vốn và người sử dụng vốn, hai đối tượng này có thể có mục tiêu
không phù hợp nhau. Các doanh nghiệp nhà nước không phải đương đầu với
nguy cơ bị đối thủ cạnh tranh mua lại như các doanh nghiệp trong khu vực tư
nhân. Do đó người sử dụng vốn có thể sử dụng vào những động cơ cá nhân,
những động cơ có thể làm cho những nhà lãnh đạo các doanh nghiệp nhà
nước hành động không nhất quán với các mục tiêu của doanh nghiệp. Khi
những người này không nắm quyền sở hữu vốn của doanh nghiệp và cũng
không thể tăng thêm sự giàu có cho bản thân bằng cách tăng hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp thì chẳng có gì kích thích họ phải nhìn xa khi quyết

5



định phương án sản xuất kinh doanh. Vì thế đòi hỏi phải có sự quản lý chặt
chẽ của nhà nước nhằm đảm bảo vốn và tài sản của nhà nước không bị xâm
phạm trong quá trình kinh doanh cũng như doanh nghiệp hoạt động theo đúng
mục tiêu nhà nước đề ra.
Thứ hai, nhà nước quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước
cũng là thực hiện vai trò quản lý nhà nước của mình. Nhà nước ban hành các
chế độ tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước, theo dõi và kiểm tra việc
chấp hành các chế độ đó. Việc theo dõi, kiểm tra tình hình sử dụng vốn tại các
doanh nghiệp nhà nước giúp cơ quan quản lý nắm bắt được tình hình thực tế
tại các doanh nghiệp, theo dõi tiến trình thực hiện các văn bản. Từ đó thu thập
thông tin để chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện các chính sách cho kịp thời, phù
hợp với thực tế. Đồng thời thông qua công tác quản lý vốn, nhà nước mới có
những thông tin chính xác để đánh giá đúng chất lượng kinh doanh ở các
doanh nghiệp nhà nước. Trên cơ sở các thông tin đánh giá này, nhà nước có
kế hoạch sắp xếp, bố trí lại các doanh nghiệp, vốn và lao động, hoàn thiện các
khâu quản lý nhằm đạt hiệu quả kinh doanh và thực
hiện các mục tiêu xã hội.
Thứ ba, đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh, phần
lợi nhuận sau thuế thuộc về nhà nước. Nhà nước sử dụng lợi nhuận đó để duy
trì và tái sản xuất mở rộng doanh nghiệp hoặc đáp ứng một lợi ích nào đó của
nhà nước. Do đó, để lợi nhuận sau thuế được tối đa hoá, nhà nước phải quản
lý phần vốn đầu tư của mình để nó được sử dụng một cách có hiệu quả, trên
cở sở đó tăng lợi ích nhà nước.
Tóm lại, việc nhà nước quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà
nước là một đòi hỏi khách quan để bảo vệ lợi ích của chủ sở hữu trong việc
bảo toàn vốn và tài sản cũng như để thực hiện vai trò quản lý của mình.
1.3. Nội dung công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước


6


Thiết lập căn cứ về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước là
việc làm cần thiết nhằm tạo cơ sở giúp các đơn vị được giao vốn thực hiện
quản lý vốn được giao và giúp các cơ quan kiểm tra, giám sát thực hiện nhiệm
vụ giám sát của mình. Hình thức biểu hiện cụ thể của nội dung công tác này là
việc xây dựng hệ thống văn bản pháp luật về quản lý vốn nhà nước tại doanh
nghiệp. Khác với cách thức quản lý doanh nghiệp trong cơ chế kế hoạch hoá
tập trung, trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết, Nhà nước quản lý doanh
nghiệp một cách gián tiếp theo nguyên tắc: Nhà nước điều chỉnh thị trường,
thị trường điều chỉnh doanh nghiệp. Nhà nước ban hành chính sách nhằm
định hướng sự phát triển theo mục tiêu của Nhà nước và giúp doanh nghiệp tự
chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh; Nhà nước tạo hành lang pháp lý
thông thoáng, bình đẳng và môi trường kinh doanh vừa thuận lợi, vừa đòi hỏi
hiệu quả kinh tế cao để các doanh nghiệp hoạt động. Chính sách quản lý vốn
được ban hành hướng vào việc khai thác, động viên và sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực tài chính của doanh nghiệp nhằm khuyến khích phát triển kinh
doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, góp phần phát triển kinh tế xã hội của
đất nước và nâng cao hiệu quả của nền tài chính quốc gia. Chính sách quản lý
vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận quan trọng trong
chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nói riêng và hệ thống các chính
sách tài chính nói chung. Chính sách quản lý vốn đúng đắn sẽ kích thích sự
chuyển dịch các luồng giá trị trong nền kinh tế quốc dân theo hướng duy động
mọi nguồn vốn vào đầu tư phát triển sản xuất, tăng khả năng tích tụ và tập
trung vốn ở doanh nghiệp, nhờ đó tăng quy mô và tốc độ phát triển sản xuất
kinh doanh, tăng nguồn thu vào ngân sách nhà nước. Nguồn thu vào ngân
sách nhà nước càng nhiều thì Chính phủ càng có khả năng tài chính để tăng
quy mô đầu tư vốn, phát triển các quỹ tài trợ cho sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp; kế đó, quy mô đầu tư và tài trợ từ ngân sách đối với doanh


7


nghiệp càng lớn thì nó sẽ kích thích mạnh mẽ hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế,
và qua đó Chính phủ còn thực hiện được yêu cầu điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế
theo định hướng đã đề ra. Các Chính phủ thường ban hành chính sách quản lý
vốn và tài sản theo hướng:
Một là, tăng cường quyền tự chủ về mặt tài chính của các doanh nghiệp
nhà nước trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong lĩnh
vực quản lý vốn và tài sản.
Hai là, nâng cao trách nhiệm của các doanh nghiệp trong việc quản lý
và sửdụng các nguồn lực nhà nước giao. Thiết lập các cơ chế thích hợp để
hướng sự quan tâm và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo toàn và phát
triển vốn như: cơ chế trích lập dự phòng, cơ chế bù lỗ.
Ba là, quy định các chính sách ưu đãi về mặt tài chính đối với các
doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích như: hỗ trợ vốn, bù chênh lệch khi
thực hiện các nhiệm vụ nhà nước giao, bảo đảm thoả đáng lợi ích vật chất cho
người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước này...Đồng thời thiết lập cơ
chế quản lý hợp lý đối với doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý và sử dụng
các nguồn lực nhà nước giao. Chính sách quản lý vốn nhà nước tại các doanh
nghiệp nhà nước bao trùm các nội dung sau.
Quản lý việc hình thành vốn của doanh nghiệp nhà nước.
Doanh nghiệp nhà nước có thể được đầu tư vốn khi mới thành lập hoặc
đầu tư bổ sung trong quá trình hoạt động. Ngoại trừ các doanh nghiệp hình
thành do kết quả quốc hữu hoá, các doanh nghiệp nhà nước đều được hình
thành trên cơ sở nguồn vốn cấp phát ban đầu của nhà nước. Tuy nhiên căn cứ
vào tình hình thực tế mà nhà nước quyết định cấp dưới hình thức trực tiếp
(cấp thẳng từ ngân sách nhà nước) hay gián tiếp (qua các hình thức ghi thughi chi như: chuyển vốn từ doanh nghiệp nhà nước này sang doanh nghiệp
nhà nước khác hoặc cho doanh nghiệp nhà nước nhận trực tiếp các khoản viện


8


trợ để đầu tư...). Đối với vốn lưu động, nhà nước có thể cấp theo định mức
một phần, phần còn lại doanh nghiệp phải huy động trên thị trường vốn và
chịu lãi suất thị trường. Đồng thời, tuỳ thuộc vào khả năng của ngân sách nhà
nước của mỗi nước mà chính sách đầu tư vốn cho doanh nghiệp nhà nước ở
các nước là khác nhau. Ở Pháp, những doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo
yêu cầu của nhà nước thì cấp vốn 100%, các doanh nghiệp do nhà nước quản
lý nhưng tự chọn chính sách phát triển, phải cạnh tranh với doanhnghiệp khác
thì nhà nước không cấp vốn. Ở Nhật, mức vốn đầu tư cho doanh nghiệp tăng
nhưng mức độ kiểm soát cũng chặt chẽ hơn. Ở Malaysia, nguồn vốn của các
doanh nghiệp nhà nước được hình thành như sau: Vốn cố định ban đầu được
nhà nước cấp 100% và hàng năm, doanh nghiệp phải trả lãi (theo lãi suất ưu
đãi) trên tổng số vốn đầu tư của nhà nước; vốn lưu động thì các công ty phải
vay theo lãi suất thị trường. Còn ở nước ta, việc quản lý, sử dụng vốn và tài
sản trong doanh nghiệp nhà nước được hướng dẫn cụ thể trong Thông tư số
62/1999/TTBTC ngày7/6/1999, Nhà nước đầu tư vốn cho các doanh nghiệp
nhà nước mới thành lập ở những ngành, những lĩnh vực quan trọng. Các cơ
quan có thẩm quyền khi quyết định thành lập doanh nghiệp mới phải đảm bảo
đủ vốn thực có tại thời điểm thành lập không thấp hơn mức vốn pháp định
nhà nước quy định cho mỗi ngành nghề. Trong quá trình kinh doanh, căn cứ
vào hiệu quả sản xuất dinh doanh, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội mà nhà
nước giao cho doanh nghiệp và khả năng của ngân sách nhà nước, nhà nước
xem xét đầu tư bổ sung cho cácdoanh nghiệp trong những trường hợp cần
thiết. Doanh nghiệp nhà nước được nhà nước giao vốn thuộc sở hữu nhà nước
hiện có tại doanh nghiệp sau khi đã được kiểm tra, thẩm định theo quy định
hiện hành của nhà nước. Số vốn giao cho doanh nghiệp được xác định như
sau:


9


Đối với doanh nghiệp thành lập mới là số vốn nhà nước ghi trong
quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản bàn giao sang sản xuất kinh doanh,
vốn điều lệ được nhà nước bổ sung và vốn khác thuộc sở hữu nhà nước (nếu
có).
Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động và thành lập lại (sáp nhập,
chia tách) là số vốn sở hữu hiện có tại doanh nghiệp hoặc các doanh nghiệp
thành viên, sau khi đã được kiểm tra, thẩm định theo quy định hiện hành của
nhà nước. Trong khi khu vực kinh tế tư nhân có thể được huy động một cách
tự chủ và linh động trong môi trường kinh doanh, khu vực kinh tế nhà nước
thường chỉ được phép huy động vốn dưới một số hình thức nhất định, các
kênh huy động vốn đó là:
Thứ nhất, huy động vốn từ Ngân sách nhà nước: Các doanh nghiệp khi
có nhu cầu về vốn có thể đề nghị nhà nước xét duyệt cấp vốn cho doanh
nghiệp mình.
Đây là nguồn vốn đặc biệt , chỉ các doanh nghiệp nhà nước mới có đặc quyền
được yêu cầu và đây cũng là nguồn vốn chủ lực của các doanh nghiệp nhà
nước.
Thứ hai, huy động vốn thông qua hoạt động liên doanh, liên kết: Đây là
việc góp tiền hoặc tài sản với các doanh nghiệp khác để mở rộng sản xuất
kinh doanh. Doanh nghiệp có thể liên doanh liên kết với các doanh nghiệp, tổ
chức khác để huy động vốn.
Thứ ba, huy động vốn bằng cách đi vay: Doanh nghiệp có thể đáp ứng
nhu cầu vốn của mình bằng cách đi vay những khoản tín dụng dài hạn, ngắn
hạn, hoặc trung hạn từ các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng
khác, các doanh nghiệp khác, các cá nhân (kể cả các cán bộ công nhân viên
trong doanh nghiệp), được phát hành trái phiếu huy động vốn để đầu tư phát

triển.

10


Thứ tư, huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu, cổ phiếu thường
mới để bán cho công nhân viên chức trong doanh nghiệp và ngoài xã
hội.Ngoài ra, doanh nghiệp có thể huy động vốn cho sản xuất kinh doanh từ
chính các quỹ của doanh nghiệp. Nhà nước có quy định cụ thể về việc sử
dụng các quỹ này.
Quản lý việc sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước
Quản lý sử dụng vốn và tài sản trong phạm vi doanh nghiệp, trong nền
kinh tế thị trường, doanh nghiệp nhà nước là một đơn vị sản xuất kinh doanh
độc lập, được tự chủ trong hoạt động kinh tế và tự chịu trách nhiệm về kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước thực hiện việc giao quyền sử dụng
vốn và tài sản cho doanh nghiệp nhằm tạo ra sự độc lập tương đối trong việc
tổ chức sản xuất kinh doanh. Mục tiêu cuối cùng của chính sách quản lý sử
dụng vốn và tài sản là bảo toàn và phát triển vốn tại doanh nghiệp. Vì thế,
doanh nghiệp có nghĩa vụ theo dõi chặt chẽ sự biến động của vốn và tài sản,
đảm bảo theo đúng các nguyên tắc kế toán hiện hành, tránh thất thoát tài sản,
mất vốn của nhà nước. Đồng thời doanh nghiệp cũng phải được trao quyền
lựa chọn cơ cấu tài sản và các loại vốn cho hợp lý nhằm phát triển kinh doanh
có hiệu quả. Doanh nghiệp có trách nhiệm mở sổ và ghi sổ kế toán theo dõi
chính xác toàn bộ tài sản và vốn hiện có theo đúng chế độ hạch toán kế toán,
thống kê hiện hành; phản ánh trung thực, kịp thời tình hình sử dụng, biến
động của tài sản và vốn trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh
nghiệp được quyền sử dụng vốn và qũy để kinh doanh theo nguyên tắc có
hiệu qủa, bảo toàn và phát triển vốn. Trường hợp sử dụng các loại vốn và qũy
khác với mục đích sử dụng đã quy định cho các loại vốn và qũy đó thì phải
theo nguyên tắc hoàn trả, như: dùng các qũy dự phòng, qũy khen thưởng, qũy

phúc lợi...để kinh doanh thì phải hoàn trả qũy đó khi có nhu cầu sử dụng.
Doanh nghiệp được quyền thay đổi cơ cấu tài sản và các loại vốn cho việc

11


phát triển kinh doanh có hiệu qủa, bảo toàn và phát triển vốn Doanh nghiệp
Nhà nước phải xây dựng quy chế quản lý, bảo quản, sử dụng tài sản của
doanh nghiệp; quy định rõ trách nhiệm của từng bộ phận, cá nhân đối với
các trường hợp làm hư hỏng, mất mát tài sản. Định kỳ và khi kết thúc năm tài
chính doanh nghiệp phải tiến hành kiểm kê toàn bộ tài sản và vốn hiện có.
Xác định chính xác số tài sản thừa, thiếu, tài sản ứ đọng, mất phẩm chất,
nguyên nhân và xử lý trách nhiệm; đồng thời để có căn cứ lập báo cáo tài
chính của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải mở sổ theo dõi chi tiết tất cả các
khoản công nợ phải thu trong và ngoài doanh nghiệp. Định kỳ (tháng, qúy)
doanh nghiệp phải đối chiếu, tổng hợp, phân tích tình hình công nợ phải thu;
đặc biệt là các khoản nợ đến hạn, qúa hạn và các khoản nợ khó đòi. Các
khoản nợ không thu hồi được, cần xác định rõ mức độ, nguyên nhân, trách
nhiệm và biện pháp xử lý. Doanh nghiệp được quyền cho thuê hoạt động các
tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của mình, để nâng cao hiệu suất sử
dụng, tăng thu nhập nhưng phải theo dõi, thu hồi tài sản khi hết hạn cho thuê.
Đối với tài sản cho thuê hoạt động, doanh nghiệp vẫn phải trích khấu hao theo
chế độ quy định. Doanh nghiệp được đem tài sản thuộc quyền quản lý và sử
dụng của mình để cầm cố, thế chấp vay vốn hoặc bảo lãnh tại các tổ chức tín
dụng theo đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật. Doanh nghiệp không
đợc đem cầm cố, thế chấp, cho thuê các tài sản đi mượn, đi thuê, nhận giữ hộ,
nhận cầm cố, nhận thế chấp ... của doanh nghiệp khác nếu không được sự
đồng ý của chủ sở hữu tài sản đó. Doanh nghiệp được nhượng bán các tài sản
không cần dùng, lạc hậu về kỹ thuật để thu hồi vốn sử dụng cho mục đích
kinh doanh có hiệu qủa hơn. Chênh lệch giữa số tiền thu được do thanh lý,

nhượng bán tài sản với giá trị còn lại trên sổ kế toán và chi phí nhượng bán,
thanh lý (nếu có) được hạch toán vào kết qủa kinh doanh của doanh nghiệp.
Mọi tổn thất tài sản của doanh nghiệp phải lập biên bản xác định mức độ,

12


nguyên nhân và trách nhiệm đưa ra biện pháp xử lý. Doanh nghiệp được đánh
giá lại tài sản và hạch toán tăng giảm vốn khoản chênh lệch do đánh giá lại tài
sản trong các trường hợp sau: Kiểm kê đánh giá lại tài sản theo quyết định của
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; Thực hiện cổ phần hóa, đa dạng hóa hình
thức sở hữu, chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp; Dùng tài sản để liên doanh,
góp vốn cổ phần (khi đem tài sản đi góp vốn và khi nhận tài sản về).
Quản lý vốn đầu tư ra ngoài doanh nghiệp, doanh nghiệp được sử dụng
vốn, tài sản để đầu tư ra ngoài doanh nghiệp theo nguyên tắc có hiệu quả, bảo
toàn và phát triển vốn, tăng thu nhập và đảm bảo nhiệm vụ thu nộp Ngân sách
nhà nnớc; việc đầu tư phải tuân theo các quy định hiện hành của pháp luật..
Các hình thức đầu tư ra ngoài doanh nghiệp gồm: muacổ phiếu, góp vốn liên
doanh, góp cổ phần và các hình thức đầu tư khác ...Doanh nghiệp Nhà nước
được phép đưa vốn và tài sản đầu tư trực tiếp ra nước ngoài theo quy định của
pháp luật.
Bảo toàn và phát triển vốn, bảo toàn vốn và phát triển vốn là nghĩa vụ
của doanh nghiệp để bảo vệ lợi ích của Nhà nước về vốn đã đầu tư vào doanh
nghiệp Nhà nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp ổn định và phát triển kinh
doanh có hiệu quả, tăng thu nhập cho người lao động và làm nghĩa vụ với
Ngân sách Nhà nước. Các biện pháp bảo toàn vốn thường được áp dụng là:
Thứ nhất, thực hiện đúng chế độ quản lý, sử dụng vốn, tài sản theo các
qui định của Nhà nước.
Thứ hai, thực hiện việc mua bảo hiểm tài sản thuộc quyền quản lý và sử
dụng của doanh nghiệp. Tiền mua bảo hiểm được hạch toán vào chi phí sản

xuất kinh doanh.
Thứ ba, doanh nghiệp Nhà nước được hạch toán vào chi phí kinh
doanh, chi phí hoạt động khác một số khoản dự phòng theo quy định như: Dự
phòng giảm gián hàng tồn kho, dự phòng các khoản nợ thu khó đòi, dự phòng

13


giảm giá các loại chứng khoán trong hoạt động tài chính...Việc lập và sử dụng
các khoản dự phòng nói trên thực hiện theo quy định hiện hành. Ngoài các
biện pháp trên, doanh nghiệp được dùng lãi năm sau (trước thuế hoặc sau
thuế) để bù lỗ các năm trước, được hạch toán một số thiệt hại (thiên tai,
dịch bệnh ...) vào chi phí hoặc kết qủa kinh doanh theo qui định của Nhà
nước.
Thống nhất quản lý nhà nước về tài chính doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế trong cả nước
Tổ chức nghiên cứu chiến lược và đề xuất các vấn đề có liên quan đến
tài chính doanh nghiệp; dự báo khả năng động viên tài chính từ doanh nghiệp,
qua đó xây dựng các chính sách, chế độ quản lý tài chính doanh nghiệp, chế
độ quản lý, bảo toàn và phát triển vốn tại doanh nghiệp, chế độ hỗ trợ tài
chính cho doanh nghiệp và các chế độ khác có liên quan đến quản lý tài chính
doanh nghiệp theo quy định của Bộ trưởng Bộ tài chính.
Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện chính sách, chế độ quản lý tài
chính; chế độ quản lý vốn nhà nước; chế độ kế toán, kiểm toán doanh nghiệp
thống nhất trong cả nước;
Tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp trong cả
nước, đồng thời tổ chức thông tin tài chính doanh nghiệp nhằm cung cấp cho
các cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp và khách hàng những thông
tin cập nhật, chính xác đầy đủ về tình hình tài chính doanh nghiệp; hướng
dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý tài chính doanh nghiệp.

Quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp do Thủ tướng chính
phủ, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
thành lập hoặc góp vốn trong đó.
Hướng dẫn doanh nghiệp kiểm kê đánh giá tài sản, xác định số vốn nhà

14


nước; tổ chức giao vốn cho các doanh nghiệp theo uỷ quyền của Bộ trưởng
Bộ tài chính.Tổ chức đánh giá, xác định giá trị doanh nghiệp, giá trị vốn nhà
nước tại doanh nghiệp nhà nước trong các trường hợp giải thể, phá sản hoặc
chuyển đổi quyền sở hữu; giám sát việc xử lý vốn, tài sản nhà nước trong các
trường hợp chia tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể, phá sản và chuyển đổi
quyền sở hữu doanh nghiệp nhà nước; giám sát việc phân phối lợi nhuận sau
thuế, việc sử dụng các quỹ tại doanh nghiệp.
Thẩm định nhu cầu hỗ trợ tài chính hàng năm và cấp phát các khoản
chi hỗ trợ cho doanh nghiệp. Tham gia ý kiến về chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển kinh doanh của các doanh nghiệp trọng điểm, các tổng công
ty nhà nước; tham gia xây dựng và thông báo chỉ tiêu nộp ngân sách nhà nước
hàng năm của doanh nghiệp theo uỷ quyền của Bộ trưởng Bộ tài chính; tham
gia các phương án giá sản phẩm và dịch vụ do nhà nước quy định giá; tham
gia việc xây dựng đơn giá, quỹ tiền lương và xếp hạng doanh nghiệp theo quy
định của nhà nước; Kiểm tra việc thực hiện chính sách, chế độ quản lý tài
chính, kế toán, kiểm toán của doanh nghiệp; kiểm tra báo cáo tài chính, xác
định khả năng hoàn trả nợ, mức độ bảo toàn và phát triển vốn hàng năm của
doanh nghiệp. Tổng hợp, phân tích tình hình quản lý, sử dụng vốn, việc bảo
toàn và phát triển vốn thuộc sở hữu nhà nước tại các loại hình doanh nghiệp
trong cả nước và theo ngành kinh tế.
Quản lý các quỹ tài chính hỗ trợ doanh nghiệp do Bộ trưởng Bộ tài
chính uỷ quyền; Hướng dẫn các Sở tài chính-vật giá thống nhất quản lý nhà

nước về tài chính đối với doanh nghiệp do tỉnh thành phố thành lập hoặc góp
vốn, tổng hợp phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp trên địa bàn; Thực
hiện các nhiệm vụ khác do Bộ trưởng Bộ tài chính giao.
Dưới Cục tài chính doanh nghiệp, ở mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương có các Chi cục tài chính doanh nghiệp thuộc Sở tài chính vật giá.

15


Cục tài chính doanh nghiệp quản lý trực tiêp các doanh nghiệp nhà nước trung
ương. Các doanh nghiệp nhà nước địa phương chịu sự quản lý trực tiếp của
các Chi cục tài chính doanh nghiệp thuộc Sở tài chính-vật giá tỉnh, thành phố.
Hình thức phân công mới này có ưu điểm ở chỗ do doanh nghiệp nhà
nước vẫn được tổ chức theo hai hình thức, đó là doanh nghiệp trung ương và
doanh nghiệpmđịa phương, đồng thời việc tổ chức cán bộ ở địa phương do
UBND tỉnh quyết định, ở trung ương do Bộ ngành quyết định. Mặt khác các
doanh nghiệp trung ương lớn thường có các chi nhánh ở các địa phương khác
nhau nên việc quản lý theo vùng sẽ hạn chế, đặc biệt là các Tổng công ty
thường tập trung ở các địa bàn thành phố lớn như: Hà Nội, Hải Phòng, Thành
phố Hồ Chí Minh... sẽ khiến cho việc quản lý ở các địa phương rất phức tạp.
Sơ đồ quản lý như sau: Có thể nói rằng, sự ra đời và đi vào hoạt động theo hệ
thống dọc từ Trung ương tới các tỉnh, thành phố đã giải quyết được những vấn
đề có tính nguyên tắc trong quản lý doanh nghiệp nhà nước, đó là thu gọn đầu
mối, thực hiện nguyên tắc một đầu mối cho từng chức năng quản lý nhà nước
đối với doanh nghiệp, từng bước xoá bỏ cơ chế chủ quản, sự phân biệt giữa
doanh nghiệp trung ương và doanh nghiệp địa phương.
Quản lý việc hình thành vốn của doanh nghiệp nhà nước là một việc
không dễ song không thể thiếu trong hoạt động quản lý là phải xác định được
nhu cầu vốn của doanh nghiệp, trên cơ sở đó đánh giá và xét duyệt các trường
hợp để đầu tư, giao vốn cho doanh nghiệp một cách hợp lý. Nhu cầu vốn của

doanh nghiệp trong bất cứ thời điểm nào cũng chính bằng tổng giá trị tài sản
mà doanh nghiệp cần phải có để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh. Trong
nền kinh tế thị trường, nhu cầu vốn của doanh nghiệp thường xuyên biến
động tuỳ thuộc vào xu hướng biến động của thị trường. Đồng thời các doanh
nghiệp khác nhau với những đặc điểm kinh tế kỹ thuật khác nhau thì nhu cầu
về vốn cũng khác nhau. Do vậy, xác định nhu cầu vốn của doanh nghiệp là

16


việc làm cần thiết của các nhà quản lý. Các nhà quản lý thường dùng hai
phương pháp sau:
Thứ nhất, phương pháp tỷ lệ phần trăm trên doanh thu, đây là phương
pháp dự tính ngắn hạn, đơn giản nhưng đòi hỏi phải hiểu rõ quy trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời phải hiểu rõ tính quy luật của mối
quan hệ giữa doanh thu tiêu thụ sản phẩm với tài sản, vốn và phân phối lợi
nhuận của doanh nghiệp. Đây có thể là phương pháp ước tính nhu cầu vốn
của doanh nghiệp trong thời gian ngắn, vì cơ bản nó dựa trên giả thiết cho
rằng tất cả các chi phí thành phẩm sẽ chiếm một tỷ lệ ổn định trong doanh thu
bán hàng tương lai, không thay đổi so với tỷ lệ của chúng trong quá khứ. Tỷ
lệ phần trăm trên doanh thu này là tỷ lệ chi phí trung bình trong hai năm gần
đây và mỗi khoản mục của báo cáo nhu cầu vốn dự kiến được tính theo tỷ lệ
phần trăm trung bình của doanh thu. Khi tìm được tỷ lệ phần trăm trung bình
của doanh thu thì việc xây dựng báo cáo nhu cầu sử dụng vốn cho năm kế tiếp
theo phương pháp phần trăm trên doanh thu khá đơn giản.
Thứ hai, phương pháp hồi quy, đây là phương pháp dự tính dài hạn, bản
chất của phương pháp này dựa trên lý thuyết tương quan trong toán học. Khi
sử dụng phương pháp này, nhà quản lý vốn cũng cần xuất phát từ doanh thu
tiêu thụ. Phương pháp hay được sử dụng để xem xét khả năng nguồn đối với
các khoản có liên quan trực tiếp tới tăng giảm doanh thu. Sau khi đã xác định

nhu cầu vốn của doanh nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành
đầu tư, giao vốn cho doanh nghiệp, công việc này được thực hiện căn cứ vào
các quy định đã được nêu ra trong các văn bản pháp luật liên quan.
Ở nước ta, cấp vốn đã trở thành hình thức đắc lực nhất đối với doanh
nghiệp nhà nước trong suốt thời kỳ bao cấp. Đến nay tuy đã giảm nhiều song
các doanh nghiệp nhà nước vẫn được bao cấp nhiều qua giá và qua cấp vốn từ
ngân sách nhà nước. Trước đây và hiện nay, Nhà nước cấp toàn bộ vốn cố

17


định và một phần vốn lưu động cho các doanh nghiệp nhà nước căn cứ vào
nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp, thường là 30%. Nhu cầu vốn lưu
động của doanh nghiệp nhà nước
Nhà nước đã chú ý đầu tư cho các doanh nghiệp nhà nước một cách có
trọng điểm hơn chứ không dàn trải như trước. Vốn được cấp cho doanh
nghiệp nhà nước một cách hợp lý hơn. Các doanh nghiệp được nhà nước đầu
tư vốn phải nằm trong chiến lược phát triển của Nhà nước và phải thoả mãn
một số yêu cầu nhất định. Đồng thời, mức hỗ trợ tối đa cũng được quy định
rõ. Các doanh nghiệp đã biết kết hợp vốn ngân sách với các nguồn vốn tự có
của doanh nghiệp. Số vốn tự bổ sung của một số ngành chiếm tỷ trọng rất lớn
trong nguồn vốn chủ sở hữu và cũng tăng về số tuyệt đối liên tục qua các
năm, ví dụ: ngành Hàng hải, Bưu điện, Hàng không. Kết quả thống kê của
Cục tài chính doanh nghiệp cho biết: Quy mô vốn nhà nước tại doanh nghiệp
nhà nước trong những năm qua tăng. Tuy nhiên, việc cấp vốn của nhà nước
vẫn còn những hạn chế. Hiện tượng thiếu vốn trầm trọng tại số đông các
doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay là một minh chứng cho sự chưa
hợp lý trong việc cấp vốn cho doanh nghiệp nhà nước. Tình trạng chung của
các doanh nghiệp nhà nước ta hiện nay là tình trạng thiếu vốn sản xuất kinh
doanh. Doanh nghiệp nhà nước do nhà nước đầu tư thành lập nhưng vốn nhà

nước không đủ mức tối thiểu cho sản xuất kinh doanh. Có tới 60% doanh
nghiệp nhà nước không đủ vốn pháp định theo Nghị định 50/CP. Trên 50%
các doanh nghiệp nhà nước chưa đủ vốn lưu động tương ứng với quy mô hoạt
động kinh doanh. Tổng công ty nhà nước được ưu tiên các điều kiện vật chất,
nguồn lực để phát triển song hiện vẫn có tới gần 80% số Tổng công ty có mức
vốn nhà nước dưới mức vốn bình quân của các Tổng công ty, trong đó 35%
Tổng công ty có mức vốn nhà nước dưới 1000 tỷ đồng. Con số này chứng tỏ
có tình trạng chênh lệch về vốn khá lớn giữa các Tổng công ty và số Tổng

18


công ty thiếu vốn, ít vốn là chiếm đa số. Bên cạnh nguồn vốn nhà nước giao
cho doanh nghiệp quản lý, sử dụng, nguồn vốn huy động được bằng việc sử
dụng các khoản nợ, đặc biệt là các khoản vay cũng được quản lý khá chặt chẽ
do nó ảnh hưởng đến cơ cấu vốn, cơ cấu tài sản của doanh nghiệp, từ đó ảnh
hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu. Ở nước ta, các khoản nợ phải trả
cũng chiếm tỷ lệ lớn trong tổng nguồn vốn của các doanh nghiệp nhà nước.
Theo kết quả kiểm kê nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước thời điểm 0 giờ
ngày 1/1/2000, tổng nguồn vốn của các doanh nghiệp nhà nước là 527.267 tỷ
đồng trong đó vốn chủ sở hữu là 173.857 tỷ đồng (chiếm 32,9%), còn tổng
vốn huy động qua các khoản nợ phải trả là 353.410 tỷ đồng (chiếm tới 67%
tổng nguồn vốn). Việc huy động vốn qua các khoản nợ cũng ngày một tăng.
Nợ của các doanh nghiệp nhà nước ngày càng tăng về quy mô cũng như về tỷ
trọng trong cơ cấu vốn đối với một số doanh nghiệp nhà nước. Điều này phản
ánh khả năng huy động vốn của các doanh nghiệp có tăng lên.
2. Thực trạng và giải pháp về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà
nước.
2.1 Thực trạng về quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước.
Hiện nay vấn đề quản lý vốn nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp nhà

nước đang trong tình trạng đầu tư dàn trải, thiếu tập trung, quy mô nhỏ, hiệu
quả kinh doanh thấp. Cơ chế quản lý nhà nước đối với các DN chưa đồng bộ,
chưa phù hợp với kinh tế thị trường, chưa có sự tách biệt rỏ ràng giữa chức
năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng điều hành hoạt động kinh
doanh của các DN, việc quyết định đầu tư, quản lý vốn nhà nước tại DN được
thực hiện bởi nhiều cấp; Cơ chế quản lý phần vốn nhà nước tại DN đã chuyển
đổi sở hữu nhưng vẫn chậm thay đổi và chưa theo kịp với quy định của Luật
Doanh nghiệp; Chưa có tổ chức đầu tư tài chính chuyên nghiệp để thống nhất
quản lý vốn nhà nước đầu tư vào các loại hình DN nhà nước.

19


Hoạt động quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước phụ thuộc
vào tổ chức bộ máy quản lý, vốn nhà nước sẽ không thể được quản lý tốt nếu
tổ chức bộ máy quản lý không hợp lý. Hiện nay ở nhiều nước, cơ quan trực
tiếp tiến hành công tác quản lý tài chính nói chung và quản lý vốn nhà nước
nói riêng đối với doanh nghiệp cũng là cơ quan trực tiếp hoặc gián tiếp ban
hành các chính sách, chế độ quản lý vốn tại doanh nghiệp (thông qua việc dự
thảo các chính sách trình cơ quan có thẩm quyền ký ban hành). Bộ máy quản
lý gồm cơ quan trung ương và các cơ quan địa phương. Với mô hình này, việc
giám sát doanh nghiệp được thực hiện theo phương thức từ xa, định kỳ theo
quy định, tiến hành từ cấp địa phương đến trung ương. Công tác giám sát từ
xa nếu được thực hiện đầy đủ, kịp thời sẽ tạo điều kiện cho cơ quan quản lý
có được cái nhìn tổng thể về toàn bộ hệ thống doanh nghiệp nhà nước trong
nền kinh tế. Tuy nhiên, việc quản vốn nhà nước không chỉ là nhiệm vụ của
một cơ quan duy nhất, nó đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ của các cơ quan quản lý
khác như đơn vị chủ quản, cơ quan thuế...Các cơ quan này cũng thực hiện
việc giám sát tại chỗ đối với các doanh nghiệp. Doanh nghiệp rất nhạy cảm
đối với hoạt động giám sát tại chỗ này. Việc giám sát tại chỗ có thực sự phát

huy hiệu quả, nghĩa là thấy và phản ánh được kịp thời những khó khăn mà
doanh nghệp đang gặp phải để tìm cách tháo gỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho
các dự án đầu tư doanh nghiệp đang thực hiện...Đồng thời các cơ quan quản
lý phải tổ chức việc giám sát tại chỗ cho phù hợp, không gây cản trở đối với
hoạt động của doanh nghiệp và không để cho một số cán bộ lợi dụng việc
giám sát ngay tại doanh nghiệp để làm lợi cho riêng mình.
Ở nước ta, việc tổ chức phân cấp quản lý các doanh nghiệp nhà nước
vẫn còn những vướng mắc. Cơ chế quản lý Bộ chủ quản và cấp hành chính
chủ quản vẫn còn gây nhiều khó khăn cho hoạt động quản lý vốn nhà nước tại
doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay, Cục tài chính doanh nghiệp chịu trách

20


nhiệm quản lý các doanh nghiệp nhà nước trong cả nước, song thực sự thì
Cục chỉ quản lý và trực tiếp giải quyết những vấn đề về vốn liên quan đến
những doanh nghiệp nhà nước trung ương, những doanh nghiệp nhà nước địa
phương thì do Sở tài chính vật giá tỉnh, thành phố quản lý. Việc phân cấp
quản lý này tạo ra một sự phát triển không cân đối giữa các doanh nghiệp nhà
nước trung ương và các doanh nghiệp nhà nước địa phương, đồng thời cũng
chưa triệt để trong việc thực hiện mục đích hình thành Cục tài chính doanh
nghiệp là quản lý thống nhất các doanh nghiệp nhà nước. Quy mô của các
doanh nghiệp nhà nước trung ương lớn hơn các doanh nghiệp nhà nước địa
phương, các doanh nghiệp nhà nước trung ương cũng mau đổi mới máy móc
thiết bị hơn doanh nghiệp nhà nước địa phương do có nhiều nguồn vốn đầu
tư. Các doanh nghiệp nhà nước trung ương làm ăn cũng hiệu quả hơn các
doanh nghiệp nhà nước địa phương. Từ đây có thể thấy, việc quản lý các
doanh nghiệp nhà nước tuy đã tập trung gọn lại về một đầu mối là Cục tài
chính doanh nghiệp nhưng trên thực tế thì việc quản lý các doanh nghiệp vẫn
chưa thực sự được tập trung và đó là một trong các nguyên nhân gây ra sự

phát triển không đồng đều giữa các doanh nghiệp nhà nước. Sở dĩ việc quản
lý vẫn cần phải phân cấp như vậy vì hiện nay khối lượng công việc cho cán
bộ quản lý tại Cục tài chính doanh nghiệp là quá lớn. Bởi vậy, việc xây dựng
và hoàn thiện hơn nữa bộ máy quản lý các doanh nghiệp nhà nước trong thời
gian tới là một vấn đền không kém phần không kém phần quan trọng được đặt
ra cùng với việc đổi mới công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà
nước ở nước ta.
Sự can thiệp của nhà nước thể hiện qua những chính sách quản lý vĩ mô
đối với nền kinh tế, qua hệ thống pháp luật...Các chính sách quản lý của nhà
nước vừa trực tiếp, vừa gián tiếp tác động tới hoạt động quản lý vốn nhà nước
tại doanh nghiệp nhà nước, sự tác động trực tiếp thể hiện qua những chính

21


sách trực tiếp liên quan tới hoạt động quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp
nhà nước. Đó là những chính sách quy định về nội dung quản lý vốn, phương
pháp quản lý vốn, bộ máy quản lý vốn. Các chính sách này được thực hiện
bởi cơ quan quản lý nhà nước cũng như hệ thống các doanh nghiệp nhà nước.
Một hệ thống chính sách quản lý đúng đắn, đầy đủ sẽ đem lại hiệu quả quản
lý cao và ngược lại, một hệ thống chính sách quản lý chưa đầy đủ, không
đồng bộ, còn thiếu sót sẽ làm giảm hiệu quả của công tác quản lý. Sự tác động
gián tiếp của chính sách quản lý của nhà nước tới hoạt động quản lý vốn nhà
nước thể hiện ở chỗ: các chính sách quản lý của nhà nước có tạo ra được một
môi trường thuận lợi cho công tác quản lý vốn nhà nước hay không, hay tạo
khó khăn cho công tác quản lý? Ví dụ như: chính sách về sắp xếp lại doanh
nghiệp nhà nước có tạo điều kiện cho công tác quản lý vốn nhà nước hay
không?...Ở nước ta, tác động của yếu tố này tới hoạt động quản lý vốn nhà
nước tại doanh nghiệp nhà nước thể hiện rất rõ. Cùng với việc không ngừng
hoàn thiện hệ thống văn bản chính sách về quản lý vốn nhà nước tại doanh

nghiệp nhà nước (căn cứ để quản lý), việc tổ chức thực hiện đã cho thấy
những dấu hiệu tích cực rõ rệt. Tuy vậy vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế trong hệ
thống chính sách đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện để quản lý vốn nhà nước tại
doanh nghiệp nhà nước tốt hơn.
Trình độ, năng lực của cán bộ quản lý trực tiếp tác động tới hoạt động
quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước. Bộ máy quản lý các doanh
nghiệp nhà nước là cơ quan trực tiếp tiến hành hoạt động quản lý tài chính nói
chung và quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước nói riêng. Không
những thế ở nhiều nước đây còn là cơ quan trực tiếp hay gián tiếp ban hành
các chính sách, chế độ về quản lý vốn tại các doanh nghiệp. Bởi vậy, sự am
hiểu của cán bộ quản lý về ngành nghề lĩnh vực mình quản lý sẽ ảnh hưởng
trực tiếp tới khả năng nắm bắt tình hình của họ với lĩnh vực đó, do đó sẽ ảnh

22


hưởng trực tiếp tới việc cán bộ quản lý đó có phân tích và đưa ra được những
kết luận đúng đắn hay không, có dự thảo ra được những chính sách quản lý
đúng đắn hay không? phẩm chất đạo đức của cán bộ quản lý sẽ quyết định
việc họ có thực hiện quản lý đúng theo lương tâm trách nhiệm hay không?
Một thực tế về công tác quản lý vốn nhà nước ở các doanh nghiệp nhà nước
như Vinashin, tập đoàn dầu khí Việt Nam... là một minh chứng cho công tác
quản lý vốn nhà nước ở nước ta hiện nay.
2.2. Những giải pháp cơ bản mang tính định hướng về quản lý vốn nhà nước
trong các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay.
Để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, đòi
hỏi phải tạo sân chơi bình đẳng giữa các DN thuộc mọi thành phần kinh tế,
nâng cao sức cạnh tranh, xóa bỏ mọi hình thức bao cấp của Nhà nước, đảm
bảo việc ra quyết định kinh doanh dựa trên hiệu quả kinh tế; Đảm bảo việc
tuân thủ với các đạo luật mới ban hành, trong đó thể hiện tư tưởng cải cách

triệt để, tạo điều kiện cho sự phát triển của các DN như Luật Doanh nghiệp,
Luật Đầu tư… nhằm mục tiêu thúc đẩy cải cách doanh nghiệp nhà nước và
chương trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; thúc đẩy thị trường vốn và
thị trường chứng khoán phát triển. Làm đầu mối hỗ trợ các doanh nghiệp
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng
và đầu tư vốn và tài sản Nhà nước, chuyển từ cơ chế bao cấp về vốn (cấp vốn
không hoàn lại) sang hình thức đầu tư tài chính vào doanh nghiệp. Để nâng
cao năng lực quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước cần thực
hiện tốt một số giải pháp sau.
Một là:Tiếp tục sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp trên thị trường. Cần xác định chủ sở hữu
đích thực đối với những tài sản thuộc doanh nghiệp nhà nước, để việc sử dụng
chúng có hiệu quả và tránh lãng phí. Cần tiếp tục đẩy nhanh việc chuyển đổi

23


một số doanh nghiệp nhà nước không thiết yếu sang hình thức đa sở hữu hoặc
sang các hình thức kinh tế khác như: công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ
phần,….Nhà nước cần tạo môi trường pháp luật và thể chế thuận lợi cho cổ
phần hoá doanh nghiệp nhà nước và coi đây là một trong những giải pháp cơ
bản để tạo vốn cũng như quản lý vốn trong các doanh nghiệp nhà nước hiện
nay.
Hai là, đơn giản hoá và đẩy nhanh việc xử lý những doanh nghiệp kinh
doanh yếu kém, thua lỗ kéo dài, tập trung vốn cho các doanh nghiệp làm ăn
có hiệu quả nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà
nước.
Ba là, chính sách, cơ chế quản lý vốn trong giai đoạn tới phải tạo dựng
được môi trường tài chính bình đẳng, lành mạnh, thông thoáng, ổn định cho
doanh nghiệp, thúc đẩy sự cạnh tranh và phát triển của doanh nghiệp ngang

tầm doanh nghiệp các nước trong khu vực, tạo cơ sở vững chắc cho nền tài
chính quốc gia. Cơ chế tài chính tạo điều kiện cho doanh nghiệp đánh giá
đúng tình hình thực trạng tài chính của doanh nghiệp theo thông lệ quốc tế,
tạo điều kiện cho doanh nghiệp khắc phục những khó khăn về tài chính nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Trong quá trình vận dụng các chính
sách, chế độ phát hiện những điểm bất cập, các doanh nghiệp nhà nước cần
kiến nghị lên cấp trên điều chỉnh cho phù hợp, chẳng hạn như những quy định
về giới hạn số dư tiền gửi, về mức tín dụng thương mại tối đa trong Quy chế
tài chính. Các cơ quan quản lý cấp trên cũng cần hoàn thiện chế độ, chính
sách quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước theo hướng mở rộng
hơn nữa quyền tự chủ về quản lý vốn cho doanh nghiệp, giảm thiểu sự can
thiệp của các đơn vị quản lý cấp trên vào hoạt động kinh doanh, công tác quản
lý vốn tại doanh nghiệp. Đồng thời phải quy định đầy đủ rõ ràng trách nhiệm
của người quản lý doanh nghiệp (mở rộng quyền tự chủ của doanh nghiệp

24


phải đi đôi với xác định cụ thể trách nhiệm của người quản lý doanh nghiệp),
cần có chế tài nghiêm khắc đối với trường hợp người quản lý doanh nghiệp có
quyết định đầu tư không hiệu quả, quản lý và sử dụng tài sản không đúng quy
định gây thất thoát vốn. Bên cạnh đó, một số nội dung giữa các điều trong
Luật và Nghị định, Nghị định và Thông tư hướng dẫn còn chưa nhất quán
cũng cần được điều chỉnh. Không quy định các khoản chi sai về tiền lương,
hội họp, tiếp khách phải thu hồi nộp ngân sách. Quy định phải thu hồi nộp
ngân sách các khoản chi sai này. Nguồn chi sai phải bồi thường
Bốn là, thực hiện cơ chế kiểm toán đối với các doanh nghiệp. Thực
hiện triệt để cơ chế công khai hoá tài chính doanh nghiệp và vấn đề dân chủ
hoá trong doanh nghiệp nhà nước. Qua đó xác định xem doanh nghiệp có
nghiêm túc thực hiện các quy định quản lý hay không, kịp thời phát hiện sai

phạm để có biện pháp xử lý.
Năm là, đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lý của cán bộ quản
lý các cấp để cho họ có thêm điều kiện hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình
trong công tác quản lý. Nhất là đối với những cán bộ chủ chốt, những người
tham gia trực tiếp quản lý vốn nhà nước trong các doanh nghiệp nhà nước
hiên nay.
Sáu là, nghiên cứu tổ chức hệ thống thông tin về hoạt động kinh doanh,
tình hình tài chính của doanh nghiệp nhằm nắm bắt, phát hiện kịp thời những
khó khăn về công tác quản lý vốn của doanh nghiệp, dự báo đúng đắn khả
năng phát triển của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
Đồng thời tăng cường biện pháp và công cụ kiểm tra giám sát hoạt động kinh
doanh, tình hình quản lý vốn tại các doanh nghiệp nhằm hướng các doanh
nghiệp phát triển đúng đắn, ngăn chặn các hoạt động tiêu cực

25


×