Tải bản đầy đủ (.docx) (58 trang)

Nâng cao chất lượng công tác dân vận trong vùng dân tộc miền núi tỉnh Quảng Ninh, giai đoạn 20152020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.12 KB, 58 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

VI THỊ HÀ

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC
DÂN VẬN TRONG VÙNG DÂN TỘC NIỀM NÚI
TỈNH QUẢNG NINH GIAI ĐOẠN 2015-2020

ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI, THÁNG 10 NĂM 2015


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

ĐỀ ÁN
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC
DÂN VẬN TRONG VÙNG DÂN TỘC NIỀM NÚI
TỈNH QUẢNG NINH GIAI ĐOẠN 2015-2020

Người thực hiện
: VI THỊ HÀ
Lớp
: CCLLCT tỉnh Quảng Ninh
Chức vụ
: Phó Chánh văn phòng
Đơn vị công tác
: Ban Dân vận Tỉnh ủy Quảng Ninh
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lô Quốc Toản



HÀ NỘI, THÁNG 10 NĂM 2015


MỤC LỤC


4

MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết xây dựng đề án
Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn coi vấn đề dân tộc là một vấn đề
chiến lược trong chỉ đạo cách mạng và xác định giải quyết đúng đắn vấn đề
dân tộc là một trong những nhiệm vụ có tính chất chiến lược của cách mạng
Việt Nam. Trong mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng ta đều coi việc vận động các
dân tộc thiểu số là một trong những công tác quan trọng vào bậc nhất của
Đảng, Mặt trận Tổ quốc, Chính phủ, theo đó ban hành đường lối dân vận
đúng đắn để vận động đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) dần xóa bỏ những
phong tục tập quán lạc hậu, tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, giữ
gìn và bảo vệ an ninh của Tổ quốc.
Quảng Ninh là tỉnh miền núi, biên giới, biển đảo, có diện tích tự nhiên
6.110km2, trong đó: 87% là diện tích đất liền; địa hình trung du, miền núi ven
biển với diện tích rừng và đất liền chiếm trên 70%. Tỉnh có 14 đơn vị hành
chính gồm 4 thành phố, 01 thị xã và 09 huyện với 186 xã, phường, thị trấn.
Vùng dân tộc, miền núi của tỉnh gồm 112 xã (có 54 xã khó khăn, trong đó có
22 xã đặc biệt khó khăn và 04 xã vùng bãi ngang, ven biển). Tỉnh có đường
biên giới đất liền giáp Trung Quốc dài 118,825km; dọc tuyến biên giới có 10
xã (gồm 34 thôn, bản) và 07 phường giáp biên. Dân số tỉnh Quảng Ninh có
1.144.381 người với 22 thành phần dân tộc, trong đó dân tộc thiểu số (DTTS)
có 143.278 người (chiếm 12,52%), cư trú trên địa bàn rộng lớn (hơn 85% diện

tích của tỉnh), có vị trí trọng yếu về an ninh, quốc phòng. Thực hiện chủ
trương phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, hiện nay Quảng Ninh đang hướng tới
phát triển nhanh, bền vững, chuyển đổi từ mô hình “nâu” sang “xanh”;
chuyển dịch cơ cấu theo hướng “công nghiệp - du lịch - dịch vụ - nông
nghiệp” đã làm thay đổi bộ mặt đời sống xã hội nông thôn, miền núi.
Trong những năm qua, tỉnh Quảng Ninh đã ban hành chỉ thị, nghị


5

quyết nhằm lãnh đạo chỉ đạo đồng thời có nhiều cơ chế chính sách nhằm phát
triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc, miền núi, biên giới, biển đảo gắn với bảo
vệ vững chắc quốc phòng, an ninh và được cấp ủy, chính quyền các cấp cụ thể
hóa, triển khai thực hiện hiệu quả. Tuy nhiên, so với mặt bằng chung của tỉnh,
tình hình kinh tế xã hội vùng dân tộc, miền núi, biên giới, biển đảo, nhất là
các xã, thôn, bản ở vùng sâu, vùng xa, biên giới còn rất nhiều khó khăn: sự
chênh lệch về phát triển kinh tế - xã hội giữa các vùng miền trong tỉnh còn
khá cao. Sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp còn nhỏ lẻ, manh mún, chưa hình
thành được các vùng sản xuất hàng hóa tập trung; tập quán sản xuất, canh tác
lạc hậu, khó tiếp thu khoa học, kỹ thuật; các sản phẩm nông, lâm nghiệp của
đồng bào vùng dân tộc, miền núi chất lượng chưa cao, hầu như chưa có
thương hiệu hàng hóa; phần lớn người dân vùng miền núi có mức thu nhập
thấp, bình quân thu nhập thấp hơn so đồng bằng đô thị là 8,6 lần, gần 50%
dân số sống ở vùng nông thôn, miền núi nhưng chỉ đóng góp 5,1% GDP; tỷ lệ
hộ nghèo, hộ cận nghèo đồng bào dân tộc thiểu số còn cao 1, kết quả giảm
nghèo qua các năm có sự chuyển biến tích cực song thiếu bền vững, nguy cơ
tái nghèo cao, nhất là khi có thiên tai, mất mùa, dịch bệnh xảy ra, tốc độ giảm
nghèo không đồng đều giữa các vùng miền2.
Thực hiện 3 đột phá chiến lược theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của
Đảng, Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung

1 Số hộ nghèo người DTTS là 4.221 hộ, chiếm 53,4 % tổng số hộ nghèo của tỉnh; tỷ lệ hộ
nghèo ở các xã khu vực III năm 2013 là 22,46%, gấp 10 lần so với tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh, trong
đó xã có tỷ lệ nghèo cao nhất là Đồn Đạc huyện Ba Chẽ với 30,6% và 33% hộ cận nghèo.
2 Năm 2011: Thu nhập bình quân đầu người/năm của tỉnh là 2.264 USD, thì thu nhập bình
quân đầu người ở 112 xã vùng DTMN của tỉnh chỉ đạt 732 USD, bằng 32,33% thu nhập bình quân
đầu người chung của tỉnh. Từ năm 2011 - 2013 số hộ nghèo trên địa bàn toàn tỉnh giảm nhanh, với
7.407 hộ thoát nghèo, tuy nhiên trong TS trên chỉ có 535 hộ DTTS thoát nghèo, chiếm 7,2% ( Năm
2011 toàn tỉnh còn có 15.294 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 4.89%, trong đó số hộ nghèo người DTTS là
4.756 hộ, chiếm 31,1% tổng số hộ nghèo của tỉnh; năm 2013 toàn tỉnh còn có 7.887 hộ nghèo,
chiếm tỷ lệ 2.42%, trong đó số hộ nghèo người DTTS là 4.221 hộ, chiếm 53,4 % tổng số hộ nghèo
của tỉnh).


6

ương (khóa XI) về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác dân vận trong tình hình mới”. Mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần
thứ XIII và Kết luận số 108-KL/TW ngày 01/10/2012 của BCT (khoá XI) về
“xây dựng tỉnh Quảng Ninh trở thành tỉnh công nghiệp, dịch vụ theo hướng hiện
đại vào năm 2015, là tỉnh dịch vụ, công nghiệp hiện đại vào năm 2020”. Nhằm
thực hiện thắng lợi mục tiêu Nghị quyết đại hội, rút ngắn khoảng cách chênh
lệch giữa các vùng miền trong tỉnh, bảo vệ vững chắc quốc phòng, an ninh trong
tình hình mới; công tác dân vận của Đảng nói chung, công tác dân vận trong
vùng dân tộc miền núi của tỉnh (DTMN) cần phải được tăng cường hơn nữa. Do
vậy, việc xây dựng Đề án “Nâng cao chất lượng công tác dân vận trong vùng
dân tộc miền núi tỉnh Quảng Ninh, giai đoạn 2015-2020” là cần thiết.
2. Mục tiêu của đề án
2.1. Mục tiêu chung
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong vùng
dân tộc miền núi nhằm phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất

và tinh thần cho đồng bào DTTS; thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, miền
trong tỉnh.
Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của hệ thống chính trị về công tác dân
vận nói chung và công tác dân vận vùng DTMN nói riêng; tăng cường, củng
cố khối đại đoàn kết các dân tộc.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Phấn đấu hằng năm có từ 70% đến 80% cán bộ dân vận từ tỉnh đến cơ
sở được tham gia các khóa bồi dưỡng kiến thức về công tác dân vận các cấp
do các cấp ủy đảng tổ chức.
- Tổ chức định kỳ giao ban đội ngũ cán bộ cơ sở với cấp ủy các cấp
hằng tháng, hằng quý.
- Tham mưu ban hành các chủ trương đường lối lãnh đạo, chỉ đạo của
tỉnh về công tác dân tộc nhằm:


7

Phấn đấu tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân toàn vùng miền núi dân
tộc tăn từ 8-10%/năm; thu nhập bình quân đầu người tăng ít nhất gấp 4 lần so
với hiện nay; đảm bảo 100% các xã có đầy đủ các công trình hạ tầng thiết
yếu, đường ô tô đến được trung tâm xã và các thôn, bản; 100% số hộ có điện,
kết nối điện thoại, Internet đến hầu hết các thôn bản.
Giảm nghèo tỷ lệ hộ nghèo bình quân hàng năm từ 8-10%, xoá nhà ở
tạm, tỷ lệ nhà kiên cố đạt trên 80%; 100% trường học được kiên cố; 100% trẻ
trong độ tuổi được đến trường, đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học, tỷ lệ lao
động qua đào tạo đạt trên 60%; giảm tỷ lệ sinh bình quân ở các huyện miền
núi, biên giới, biển đảo hàng năm 0,02%/năm; giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh
dưỡng xuống dưới 10%; 100% các xã có bác sĩ.
Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; bảo tồn và giữ
gìn tiếng nói, chữ viết, phong tục tập quán tiến bộ của đồng bào DTTS. Quan

tâm công tác bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, thay đổi thói quen
sinh hoạt chưa hợp vệ sinh, loại bỏ những hủ tục lạc hậu…
Đảm bảo tỷ lệ cán bộ trong hệ thống chính trị các cấp, cán bộ chủ chốt
là người dân tộc thiểu số tương ứng với tỷ lệ dân tộc thiểu số trên địa bàn;
đảm bảo đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã 100% có trình độ từ cao đẳng, đại
học trở lên. Chỉ số phát triển con người đạt nhóm trung bình của cả nước.
3. Giới hạn của đề án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu công tác dân vận trong vùng dân tộc.
3.2. Phạm vi không gian
Vùng dân tộc, miền núi, biên giới, biển đảo của tỉnh.
3.3. Phạm vi thời gian
- Phạm vi nghiên cứu: Giai đoạn 2010 – 2015.
- Phạm vi tác động: Giai đoạn 2015 – 2020.


8

B. NỘI DUNG
1. Cơ sở xây dựng đề án
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm về công tác dân vận
Dân vận là tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục mọi người
dân thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước. Dân vận còn có nghĩa là làm gương trước dân. Nói theo nghĩa
thông thường thì, dân vận là công tác dân vận của các tổ chức dân vận của
Đảng, chính quyền, đoàn thể trong hệ thống chính trị nói chung và của cả hệ
thống xã hội nói riêng. Nói tóm lại, mục tiêu cao nhất của dân vận theo tư
tưởng Hồ Chí Minh chính là vì dân. Do đó, mọi hành động của chúng ta phải
vì dân và mang lại hiệu quả thiết thực cho dân.

Công tác dân vận được xem là công việc (hay còn gọi là nhiệm vụ
chính trị) của các tổ chức đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội
cần phải làm tròn trước Đảng và nhân dân. Ví dụ như, công tác tuyên truyền,
vận động nhân dân thực hiện tốt đạo đức, tác phong, lối sống văn hóa, văn
minh... theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 8 khóa VI cũng chỉ rõ: “Các cấp ủy từ Trung ương đến cơ sở phải nắm
vững và làm đúng chức năng lãnh đạo của mình bằng phương pháp dân chủ,
kiên quyết khắc phục tình trạng bao biện công việc của Nhà nước, của các
đoàn thể quần chúng”.


9

Công tác dân vận trong thời kỳ đổi mới là công tác tuyên truyền, giáo
dục, vận động, thuyết phục mọi người dân thực hiện các chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đáp ứng yêu cầu đổi mới
và hội nhập kinh tế quốc tế.
1.1.2. Quan điểm của Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về công
tác dân vận
- Quan điểm Mác - Lênin về công tác dân vận
Trong lời nói đầu viết vào năm 1895 cho tác phẩm “Đấu tranh giai cấp
ở Pháp”, Ăng ghen đã viết” Tất cả các giai cấp thống trị từ trước tới nay đều
chỉ là những nhóm thiểu số nhỏ bé so với quần chúng nhân dân bị thống trị”.
Cách mạng vô sản là cuộc cách mạng khác căn bản với các cuộc
cách mạng đã có trong lịch sử. Đó là cuộc cách mạng của nhân dân lao động,
do nhân dân lao động tiến hành, đưa lại lợi ích cho nhân dân lao động do đảng
của giai cấp công nhân lãnh đạo, là cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện và triệt
để nhất. Các Mác-Ăng ghen và Lênin đã chỉ ra rằng: Các Đảng cộng sản phải
làm công tác dân vận, đó là công tác lâu dài và phải kiên trì, đó là cuộc đấu
tranh giai cấp của giai cấp vô sản và vô sản để giành được sự đồng tình, giành

lấy sự ủng hộ của đa số nhân dân lao dộng. Mỗi thời kỳ cách mạng khác nhau
phải có những hình thức công tác quần chúng khác nhau. Các nhà sáng lập lý
luận chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra những luận điểm sau:
Quần chúng nhân dân là người làm lên lịch sử cách mạng là sự
nghiệp của chính bản thân quần chúng, Các Mác-Ăng ghen khẳng định: “
Những công việc và tư tưởng của lịch sử đều là tư tưởng và công việc của
quần chúng”, Lê - nin khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội sinh động và sáng tạo là
sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân”.


10

“Một nước mạnh là nhờ vào sự giác ngộ của quần chúng, nước mạnh
là khi quần chúng biết rõ tất cả mọi cái, quần chúng có thể phán đoán được về
mọi cái đi vào hoạt động một cách có ý thức”3
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận
Trong bài báo “Dân vận” viết ngày 15-10-1949 đăng trên báo Sự thật,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của
mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn
dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và
Đoàn thể đã giao cho.
Dân vận không thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mistinh, khẩu
hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ.
Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu
rõ ràng:Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm
cho kỳ được.
Điểm thứ hai là bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và
kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh
địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành.
Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân.

Khi thi hành xong, phải cùng với dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh
nghiệm, phê bình, khen thưởng”4.
Dân vận được hình dung không chỉ ở con người và tổ chức mà còn
được hình dung là một hoạt động, bao gồm cả tuyên truyền, giảng giải, thuyết
phục, vừa là phong trào xã hội, từ thi đua yêu nước, vận động đoàn kết, vừa là
công tác thực tế hàng ngày.
Mục đích của dân vận là làm cho dân trưởng thành cả ý thức dân chủ
và năng lực làm chủ, dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền nhà nước và
xây dựng các tổ chức, đoàn thể của mình.
3, V.I. Lênin (1978), Toàn tập, t. 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.456
4 Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, tr 698 -699.


11

Tầm quan trọng đặc biệt của " Dân vận" đòi hỏi hệ thống chính trị, nhà
nước là giường cột phải thực sự là hệ thống chính trị của dân, do dân, vì dân.
Trong khái niệm nêu trên, rõ ràng có chủ thể và đối tượng, có hoạt
động để thực hiện những quan hệ tương tác và chuyển hóa, có nhiệm vụ và
mục đích, có nội dung và phương pháp thực hiện, có điều kiện để đảm bảo đạt
được kết quả, hiệu quả. Tất cả những điều ấy hợp thành lý luận dân vận.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, công tác dân vận là một nhiệm vụ chính
trị quan trọng của Đảng, là một đặc trưng chủ yếu trong hoạt động lãnh đạo
của Đảng. Công tác dân vận không chỉ là vận động nhân dân thực hiện các
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, mà còn là phương thức thu hút
nhân dân tham gia vào việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách đó.
Công tác dân vận có vai trò quan trọng, tác động mạnh mẽ đến việc xây
dựng, củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị và là nhiệm vụ chiến
lược có ý nghĩa quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng và sự tồn vong
của Đảng ta. Bởi, suy cho cùng, công tác dân vận thực chất là tăng cường mối

quan hệ giữa Đảng với nhân dân, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc.
Trong những hoạt động này vấn đề cốt lõi là phải quan tâm đến lợi ích
chính đáng, thiết thực và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Người nhấn
mạnh dân vận không phải chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu
hay chỉ thị, truyền đơn là đủ mà trước hết tìm mọi cách để giải thích cho mỗi
người dân hiểu rõ rằng việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ là phải
hăng hái làm cho kỳ được. Bất cứ việc gì cũng phải bàn bạc với dân, hỏi ý
kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với
hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức thực hiện, trong lúc thực hiện
phải luôn theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc khuyến khích họ, khi hoàn thành phải
cùng dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, có khen, chê....
1.1.3. Quan điểm của Đảng ta về công tác dân vận


12

Quán triệt và vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác dân vận, Đảng ta đã hình thành hệ
thống quan điểm cơ bản về công tác dân vận trong các thời kỳ cách mạng,
nhất là trong tình hình hiện nay.
Công tác dân vận của Đảng là một bộ phận của công tác xây dựng
Đảng, nhằm tuyên truyền, thuyết phục, vận động nhân dân thực hiện thắng lợi
đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; tập hợp, tổ chức
phát huy quyền làm chủ và bảo đảm lợi ích chính đáng của nhân dân; củng cố,
tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mối quan hệ mật thiết giữa Đảng
với nhân dân; huy động mọi tiềm lực xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Công tác dân vận là công việc của toàn bộ hệ thống chính trị, của mọi
cán bộ, đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Các cấp ủy, tổ chức đảng có vai trò, nhiệm vụ lãnh đạo toàn diện, trực tiếp đối
với các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị thực hiện công tác dân vận

và trực tiếp thực hiện công tác dân vận.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác dân vận, Đảng ta đã ban
hành nhiều nghị quyết, chỉ thị về công tác dân vận, trong đó nêu rõ các quan
điểm, chủ trương, nhiệm vụ và giải pháp tăng cường công tác dân vận của
Đảng; trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng trong lãnh đạo công tác dân
vận và của cán bộ, đảng viên trong thực hiện công tác dân vận, đặc biệt là
Nghị quyết 8B, ngày 27/3/1990 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa VI) về
“Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa
Đảng với nhân dân”. Nghị quyết nêu bốn quan điểm chỉ đạo đổi mới công
tác quần chúng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, vì “cách
mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân”; động lực thúc đẩy phong trào
quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hòa các
lợi ích, thống nhất quyền lợi và nghĩa vụ công dân; các hình thức tập hợp


13

nhân dân phải đa dạng; công tác quần chúng là trách nhiệm của Đảng, Nhà
nước và các đoàn thể.
Từ Đại hội VII (1991) đến Đại hội lần thứ X(2006), các quan điểm chỉ
đạo về đổi mới công tác dân vận của Đảng ngày càng phát triển bổ sung sâu
sắc và toàn diện hơn, vai trò của nhân dân được xác định “Dân biết, dân bàn,
dân kiểm tra”. Đại hội lần thứ XI (2011), tiếp tục khẳng định sự nghiệp cách
mạng là của dân, do dân, vì dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi
lịch sử. Sức mạnh của Đảng là sự gắn bó mật thiết với nhân dân.
Ngày 03 -6 -2013, tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 25- NQ/TW về “Tăng cường và đổi
mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”.
Nghị quyết đã nêu rõ 5 quan điểm chỉ đạo công tác dân vận của Đảng.
Một là, cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân

dân; nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ.
Hai là, động lực thúc đẩy phong trào nhân dân là phát huy quyền làm
chủ, đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân, kết hợp hài hòa các lợi ích;
quyền lợi phải đi đôi với nghĩa vụ công dân; chú trong lợi ích trực tiếp của
người dân; huy động sức dân phải đi đôi với bồi dưỡng sức dân; những gì có
lợi cho dân thì hết sức làm, những gì có hại cho dân thì hết sức tránh.
Ba là, phương thức lãnh đạo công tác dân vận của Đảng phải gắn
liền với công tác xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Mọi quan
điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước phải phù hợp với lợi ích
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức phải gương mẫu để nhân dân tin tưởng, noi theo.
Bốn là, công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị,
của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể
nhân dân, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang. Trong đó, Đảng lãnh đạo, chính


14

quyền tổ chức thực hiện, Mặt trận, đoàn thể chính trị - xã hội làm tham mưu
và nòng cốt.
Năm là, Nhà nước tiếp tục thể chế hóa cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ" thành quy chế, quy định để các tổ chức
trong hệ thống chính trị; cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và cán bộ,
chiến sĩ lực lượng vũ trang thực hiện công tác dân vận; các hình thức tập hợp
nhân dân phải phong phú, đa dạng, khoa học, hiệu quả.
1.1.4. Khái niệm dân tộc
Hiện nay, khái niệm dân tộc được sử dụng trong các văn kiện chính trị,
văn bản pháp luật hoặc trên phương tiện thông tin đại chúng được hiểu theo hai
nghĩa khác nhau: Theo nghĩa thứ nhất, “dân tộc” được hiểu là “tộc người”. Với
nghĩa này, dân tộc là khái niệm dùng để chỉ cộng đồng người có các đặc trưng

cơ bản về ngôn ngữ, văn hoá và ý thức tự giác về cộng đồng có tính bền vững
qua sự phát triển lâu dài của lịch sử. Hiểu theo nghĩa này, kết cấu dân cư của
một quốc gia có thể bao gồm nhiều dân tộc (tộc người) khác nhau, trong đó có
những dân tộc chiếm đa số trong thành phần dân cư và có những dân tộc thiểu
số. Trong quá trình phát triển của mình, trong bản thân mỗi dân tộc có thể có sự
phân chia thành các nhóm người có những đặc điểm khác nhau về nơi cư trú,
văn hoá, lối sống, phong tục tập quán, nhưng đều được coi là cùng một dân tộc,
bởi có chung 3 điểm đặc trưng của một dân tộc như nói trên. Theo nghĩa thứ
hai, dân tộc được hiểu là quốc gia dân tộc. Ví dụ như: dân tộc Việt Nam, dân
tộc Trung Hoa, dân tộc Đức... Theo nghĩa này, dân tộc là khái niệm dùng để chỉ
cộng đồng chính trị - xã hội được hợp thành bởi những tộc người khác nhau
trên lãnh thổ của một quốc gia nhất định. Như vậy, khái niệm dân tộc ở đây
được hiểu đồng nghĩa với quốc gia đa tộc người, và cũng đồng nghĩa với nhà
nước thống nhất của các tộc người trên một lãnh thổ có chủ quyền quốc gia.
Theo nghĩa này, dân cư của dân tộc này được phân biệt với dân cư của dân tộc
khác bởi yếu tố quốc tịch. Do đó, một tộc người có thể có ở những quốc gia


15

dân tộc khác nhau theo sự di cư của tộc người đó. Trong Đề án này, khái niệm
dân tộc được sử dụng theo nghĩa thứ nhất, tức là “tộc người”. Đảng Cộng sản
Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo Chủ nghĩa
Mác - Lê nin trong điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đề ra ba nguyên tắc cơ bản đối với thực hiện các chính sách dân tộc là
đoàn kết, bình đẳng, tương trợ. Người cho rằng: Chính sách của Đảng và
Chính phủ đối với miền núi là rất đúng đắn. Trong chính sách đó có hai điều
quan trọng nhất là: đoàn kết dân tộc và nâng cao đời sống của đồng bào. Người
đánh giá cao vị trí của các dân tộc thiểu số và miền núi trong sự nghiệp cách
mạng chung của cả nước: “Miền núi nước ta chiếm một vị trí quan trọng đối

với quốc phòng, đối với kinh tế. Vì vậy, Trung ương Đảng và Chính phủ, mà
trực tiếp là các cấp ủy Đảng, các Ủy ban địa phương phải làm sao nâng cao đời
sống vật chất và văn hóa của đồng bào các dân tộc” 5.
1.2. Cơ sở pháp lý
Hội nghị Trung ương Đảng tháng 10 năm 1930 ra nghị quyết về nhiệm
vụ cách mạng nước ta trong đó có công tác dân vận, quyết định tổ chức các
ban chuyên môn về các giới vận động (công vận, nông vận, binh vận, phụ
vận) tiền thân của Ban Dân vận ngày nay.
Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa VI) đã
ra Nghị quyết 8B/NQ-HNTW về “Đổi mới công tác vận động quần chúng
của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”.
Đại hội IX, Đại hội X của Đảng xác định rõ nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu trong công tác dân vận hiện nay là đoàn kết, tập hợp nhân dân, phát huy
sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, coi đại đoàn kết toàn dân tộc là
đường lối chiến lược cơ bản, lâu dài, là nguồn sức mạnh và động lực để công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
5

Bài nói chuyện tại Hội nghị tuyên giáo miền núi, 31/8/1963.


16

kỳ quá lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) được Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng thông qua, đã rút ra năm bài học kinh
nghiệm của cách mạng, trong đó bài học thứ hai khẳng định: Sự nghiệp cách
mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người
làm lên những thắng lợi lịch sử.
Thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác dân vận, công
tác dân tộc, chính sách dân tộc của Nhà nước về Chỉ thị số 08-CT/TW về

“Tăng cường công tác dân vận trong tình hình mới; Nghị quyết Trung ương 7
(khoá IX) về công tác dân tộc; Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy BCH Trung
ương Đảng (khoá IX) Về công tác dân tộc (Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày
12/3/2003); Chỉ thị số 16/2003/CT-TTg ngày 18/6/2003 của Thủ tướng Chính
phủ về việc tăng cường quản lý, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chương trình phát
triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc miền
núi, biên giới vùng sâu, vùng xa; Chỉ thị 06/2008/CT-TTg ngày 01/02/2008
của Thủ tướng Chính phủ về phát huy vai trò người có uy tín trong đồng bào
dân tộc thiểu số trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; Kết luận số 57KL/TW ngày 03/11/2009 của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp tục thực
hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy BCH Trung ương Đảng (khóa IX) về
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh; về công tác dân tộc; về công tác tôn giáo; Chỉ thị số
1971/2010/CT-TTg ngày 27/10/2010 về tăng cường công tác dân tộc thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Quyết định số 290-QĐ/TW, ngày
25/02/2010 của Bộ Chính trị (khóa X) “Về ban hành Quy chế công tác dân
vận của hệ thống chính trị”; Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011
của Chính phủ Về công tác dân tộc; Nghị quyết 25-NQ/TW, ngày 03/6/2013
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về “Tăng cường và đổi mới sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”.
Tỉnh Quảng Ninh đã ban hành các chỉ thị, nghị quyết, quyết định của


17

Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh về công tác dân vận, công tác dân tộc như: Chỉ
thị số 08- CT/TU ngày 05/7/2001 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ “Tăng cường
công tác Dân vận trong tình hình mới”; Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày
29/11/2001 Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường đầu tư và phát triển kinh
tế - xã hội miền núi, hải đảo giai đoạn 2001-2005; Chương trình hành động
số 14 - CTr/TU ngày 08/5/2003 thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp

hành trung ương Đảng lần thứ bảy (khóa IX) Về công tác dân tộc; Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XIII (nhiệm kỳ 2010 - 2015). Nghị
quyết số 01-NQ/TU ngày 27/10/2010 của của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về
xây dựng nông thôn mới tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020; Quyết định số 40QĐ/TU ngày 05/11/2010 của Tỉnh uỷ "về ban hành Quy chế công tác dân vận
của hệ thống chính trị tỉnh Quảng Ninh”; Chỉ thị số 11-CT/TU ngày
06/3/2012 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ninh về tăng cường lãnh đạo
thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) về tiếp tục xây
dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ
vững chắc trong tình hình mới; Nghị quyết 07-NQ/TU ngày 29/5/2013 của
Ban Thường vụ Tỉnh ủy về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về công tác
dân tộc trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững gắn với
bảo vệ vững chắc quốc phòng - an ninh tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020, định
hướng đến năm 2030”.
1.3. Cơ sở thực tiễn
Trong những năm qua, công tác dân vận trong vùng dân tộc miền núi
luôn được các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận tổ quốc (MTTQ) và các
đoàn thể của tỉnh quan tâm, thực hiện nghiêm túc sự chỉ đạo của Trung ương,
chủ động triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước
về công tác dân vận vùng đồng bào DTTS; các cấp ủy, Hội đồng nhân dân
(HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND) cùng cấp cụ thể hóa các văn bản chỉ đạo
của Trung ương, của tỉnh bằng các chỉ thị, nghị quyết, chương trình, kế hoạch


18

phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc trên cơ sở phát huy hiệu quả các
nguồn lực vùng, miền của địa phương, đơn vị mình; tích cực tuyên truyền,
vận động nhân dân, đồng bào DTTS thực hiện các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hưởng ứng tham gia các phong
trào thi đua yêu nước, phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, xây dựng và

củng cố quốc phòng an ninh của tỉnh.
Tỉnh Quảng Ninh đã có nhiều chương trình, dự án, chính sách dân tộc
được triển khai hiệu quả, tạo sự chuyển biến tích cực và đồng bộ trên các lĩnh
vực: chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng, an ninh vùng dân tộc,
miền núi, biên giới, biển đảo. Hiện nay tỉnh đang phấn đấu mục tiêu đến hết
năm 2015 tỉnh cơ bản đạt tiêu chí tỉnh công nghiệp. Tuy nhiên, khoảng cách
chênh lệch về sự phát triển giữa các vùng, miền của tỉnh còn lớn. Vùng dân
tộc, miền núi luôn tiềm ẩn các nguy cơ bất ổn về an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội. Một số cơ chế, chính sách còn khó khăn trong việc thực hiện như
chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, chính sách định canh, định cư, chính
sách tạo việc làm tăng thu nhập cho các hộ nghèo... Đồng bào vùng dân tộc,
miền núi thoát nghèo chưa bền vững, nguy cơ tái nghèo cao, đặc biệt khi thực
hiện chuẩn nghèo mới thì số hộ nghèo tăng đáng kể. Tập quán sản xuất của
đồng bào vùng DTTS chưa được thay đổi căn bản; phát triển sản xuất và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất gắn với thị
trường còn chậm. Trình độ của đội ngũ cán bộ, nhất là ở cơ sở chưa đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ. Nhận thức về vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc và công
tác dân tộc của một bộ phận cán bộ, đảng viên ở các cấp, các ngành chưa sâu
sắc, toàn diện.
Để giải quyết tốt công tác dân vận trong vùng dân tộc miền núi của
tỉnh, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận, công tác
dân tộc trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội bền vững gắn với đảm bảo
vững chắc quốc phòng, an ninh.


19

2. Nội dung thực hiện của đề án
2.1. Bối cảnh thực hiện đề án
- Thuận lợi:

Các cấp ủy Đảng, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở đã luôn quan tâm, chú
trọng chỉ đạo, triển khai thực hiện các chính sách trọng tâm, trọng điểm; Ủy
ban MTTQ, các đoàn thể, tổ chức xã hội và lực lượng vũ trang nhân dân đã
phối hợp chặt chẽ trong việc triển khai thực hiện các chính sách phát triển
kinh tế - xã hội vùng DTMN nhằm hướng tới phát triển bền vững, góp phần
từng bước tạo sự công bằng, bình đẳng giữa các dân tộc, giữa các vùng miền
trong tỉnh.
Các chính sách dân tộc được thực hiện đầy đủ, tỉnh còn có một số chính
sách đặc thù riêng cho một số đối tượng ở vùng DTMN.
Tình hình vùng DTMN tỉnh Quảng Ninh ổn định, không có điểm nóng,
an ninh trật tự được giữ vững, quốc phòng được đảm bảo. Đời sống người dân
vùng dân tộc miền núi có nhiều chuyển biến tích cực, nhiều chương trình mục
tiêu được quan tâm triển khai đạt hiệu quả như chương trình giảm nghèo,
chương trình 135, chương trình xây dựng NTM và các chương trình đầu tư
khác thông qua các nhiệm vụ: Tín dụng, giáo dục & đào tạo, y tế, văn hóa,
dạy nghề ... Nhân dân các dân tộc trong tỉnh nói chung, trong đó có nhân dân
các DTTS trên địa bàn tỉnh đã nêu cao tinh thần đoàn kết, giữ vững niềm tin
với Đảng, hăng hái thi đua lao động sản xuất, phát triển kinh tế, vươn lên
thoát nghèo, chung tay xây dựng nông thôn mới, đóng góp nhiều công sức, trí
tuệ góp phần phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh trên địa
bàn tỉnh.
- Khó khăn:
Vùng dân tộc miền núi có điều kiện tự nhiên ít thuận lợi, địa hình chia
cắt, độ dốc cao, thổ nhưỡng không ưu đãi cho sản xuất nông nghiệp; xuất phát
điểm về nhận thức của người dân vùng DTMN ở mức thấp; một số tộc người


20

còn nhiều hủ tục,... do vậy, khó khăn cho việc xóa nhanh khoảng cách chênh

lệch về trình độ phát triển giữa vùng DTMN với vùng đồng bằng, đô thị.
Nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên về tầm quan trọng của
công tác dân tộc cũng như việc thực hiện các chính sách dân tộc còn có những
hạn chế, thiếu tâm huyết; năng lực cán bộ cấp xã còn hạn chế, dẫn đến việc
triển khai thực hiện một số chính sách dân tộc trên địa bàn một số xã hiệu quả
chưa cao, chậm tiến độ; một bộ phận người dân và cán bộ vùng DTMN còn tư
tưởng trông chờ, ỷ lại, thiếu ý chí phấn đấu vượt khó vươn lên.
Phong tục tập quán ở một số vùng còn lạc hậu dẫn đến hiệu quả công
tác dân vận trong vùng DTMN khó khăn. Vùng DTMN, biên giới tiềm ẩn yếu
tố gây mất ổn định về trật tự an toàn xã hội, về an ninh chính trị; các thế lực
thù địch vẫn rình rập âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá
sự nghiệp cách mạng của Đảng ta.
2.2. Thực trạng công tác dân vận trong vùng Dân tộc miền núi tỉnh
Quảng Ninh 5 năm qua (2010 - 2015)
2.2.1. Công tác lãnh đạo triển khai thực hiện các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước đối với công tác dân vận ở vùng đồng bào DTMN
Trong những năm qua, công tác dân vận luôn được các cấp ủy đảng,
chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể của tỉnh quan tâm, thực hiện
nghiêm túc sự chỉ đạo của Trung ương, chủ động triển khai thực hiện các chỉ
thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước về công tác dân vận vùng đồng bào


21

DTTS 6; các cấp ủy, Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND)
cùng cấp cụ thể hóa các văn bản chỉ đạo của Trung ương, của tỉnh bằng các
chỉ thị, nghị quyết, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng dân
tộc trên cơ sở phát huy hiệu quả các nguồn lực vùng, miền của địa phương,
đơn vị mình; tích cực tuyên truyền vận động nhân dân, đồng bào DTTS thực
hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,

hưởng ứng tham gia các phong trào thi đua yêu nước, phát triển kinh tế, xóa
đói giảm nghèo, xây dựng và củng cố quốc phòng an ninh tỉnh Quảng Ninh.
Công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức trong đội ngũ cán bộ, đảng
viên về vai trò của công tác dân vận luôn được quan tâm nhằm thống nhất và
nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận; các cấp ủy tổ
chức quán triệt, tuyên truyền phổ biến các chỉ thị, nghị quyết về công tác dân
vận, dân tộc đến các đồng chí lãnh đạo chủ chốt, cán bộ, đảng viên, chỉ đạo
các chi, đảng bộ. 14/14 huyện, thị, thành ủy đã ban hành quy chế công tác dân
vận của hệ thống chính trị; UBND tỉnh, MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội
6 Tập trung triển khai thực hiện Nghị quyết 08B-NQ/HNTW ngày 07/3/1990 của Hội nghị
BCH Trung ương Đảng (khóa VI) về "Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối
quan hệ giữa Đảng và nhân dân ở cơ sở"; Chỉ thị số 62-CT/TW, ngày 25/6/1990 của Ban Bí thư về
việc thực hiện Nghị quyết lần thứ tám BCHTW "về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng
cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân ở cơ sở"; Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 29/6/1992 của
Hội nghị lần thứ ba BCHTW Đảng (khóa VII) về “đổi mới và tăng cường công tác vận động nhân
dân củng cố mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”; Chỉ thị số 62-CT/TW ngày 08/11/1995 của Ban
Bí thư về tăng cường công tác người Hoa trong tình hình mới; Chỉ thị số 18/2000/CT-TTg ngày
21/9/2000 của Thủ tướng Chính phủ về “Tăng cường công tác dân vận”; Nghị quyết Hội nghị lần
thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc; về công tác dân tộc; về công tác tôn giáo”; Quyết định số 290-QĐ/TW ngày 25/02/2010 của
Bộ Chính trị về việc ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị; Nghị quyết số 25NQ/TW ngày 03/6/2013 Hội nghị Trung ương 7 (khóa XI) “về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”... gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội, xây dựng hệ thống chính trị của tỉnh. Quyết định số 07/2006/QĐ-TTg ngày
10/01/2006 của Thủ tướng Chính phủ "Phê duyệt chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc
biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc giai đoạn 2006- 2010"; Quyết định số 164/2006/QĐ-TTg,
ngày 11/7/2006 của Thủ tướng Chính phủ "phê duyệt danh sách các xã chương trình 135 giai đoạn
2006- 2010", Quyết định số 102/2009/QĐ-TTg ngày 07/8/2009; Quyết định số1592/QĐ -TTg (QĐ
134); Thực hiện chương trình 135; Chính sách đối với người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu
số theo Quyết định số 18/2011/QĐ-TTg ngày 18/3/2011; Chính sách cấp phát báo theo Quyết định
số 2472/QĐ-TTg ngày 28/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ.



22

và 14/14 huyện, thị, thành ủy đã ban hành chương trình, kế hoạch thực hiện
Nghị quyết 07-NQ/TU, ngày 29/5/2013 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về “Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng về công tác dân tộc trong sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội nhanh, bền vững gắn với bảo vệ vững chắc quốc phòng - an
ninh tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020, định hướng đến năm 2030”; … Hằng
năm, Thường trực Tỉnh ủy chỉ đạo Ban Dân vận Tỉnh ủy triển khai xây dựng
các chuyên đề, đề án về công tác dân vận 7.
2.2.2. Công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết
Công tác sơ, tổng kết các chỉ thị, nghị quyết về công tác dân vận vùng
MNDT được thực hiện kịp thời, đúng hướng dẫn của Trung ương như: tổng
kết 15 năm thực hiện Chỉ thị 62-CT/TW ngày 08/11/1995 của Ban Bí Thư
Trung ương Đảng (khoá VII) về “Tăng cường công tác người Hoa trong tình
hình mới”; Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày
29/11/2001 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về “Tăng cường đầu tư và phát
triển kinh tế xã hội miền núi, hải đảo”; đánh giá 01 năm thực hiện Nghị quyết
07-NQ/TU, ngày 29/5/2013 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về “Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng về công tác dân tộc trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội nhanh, bền vững gắn với bảo vệ vững chắc quốc phòng - an ninh tỉnh
Quảng Ninh đến năm 2020, định hướng đến năm 2030”;...
Chú trọng công tác kiểm tra, sơ, tổng kết đánh giá tình hình và kết quả
thực hiện nghị quyết và các chủ trương, chính sách dân tộc như: Giám sát kết
quả thực hiện chương trình 135 giai đoạn II (2006 - 2010); kiểm tra kết quả
triển khai và tiến độ giải ngân nguồn vốn thuộc chương trình 135 cấp xây
dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và các mô hình phát triển sản xuất; kiểm
7 Đề án “Chiến lược tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh đối
với công tác dân vận đến năm 2020, tầm nhìn 2030”; đề án “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về

công tác dân tộc miền núi, biên giới, biển đảo và công tác tôn giáo trong sự nghiệp phát triển kinh
tế xã hội nhanh, bền vững gắn với bảo vệ vững chắc quốc phòng, an ninh tỉnh Quảng Ninh đến năm
2020, định hướng đén năm 2030”,


23

tra về công tác chuẩn bị đầu tư các dự án và kế hoạch giải ngân vốn trong
chương trình 135, chương trình 167. Định kỳ hằng năm, tổ chức đánh giá kết
quả hoạt động của hệ thống chính trị, việc thực hiện các chủ trương, chính
sách, hiệu quả các dự án, chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội vùng dân tộc.
Qua việc kiểm tra, sơ, tổng kết cấp ủy các cấp đã đánh giá được những
kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế và đề ra các nhiệm vụ giải pháp thực
hiện trong thời gian tiếp theo, kịp thời khen thưởng, động viên những cá nhân,
tập thể có thành tích xuất sắc trong công tác dân vận đặc biệt là công tác dân
vận ở vùng DTMN.
2.2.3. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đối với hoạt động của
Mặt trận tổ quốc (MTTQ), các tổ chức chính trị - xã hội, các hội đặc thù ở
vùng dân tộc miền núi (DTMN)
Quán triệt và cụ thể hóa tinh thần chỉ đạo của Trung ương, Ban Thường
vụ, Ban Chấp hành (BCH) Đảng bộ tỉnh đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị
quyết, kết luận, chương trình hành động cụ thể, phù hợp với yêu cầu thực tiễn
đã phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận ở vùng đồng
bào DTMN. Hoạt động của MTTQ và các đoàn thể đã góp phần nâng cao
hiệu quả trong tập hợp quần chúng tham gia phát triển kinh tế, văn hoá, xã


24


hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh của tỉnh 8. Các cấp ủy đã có nhiều đổi mới
trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động của MTTQ và các đoàn thể, đưa
nội dung lãnh đạo xây dựng MTTQ, đoàn thể chính trị - xã hội vững mạnh
thành một trong những tiêu chuẩn đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của
tổ chức đảng các cấp hàng năm; quan tâm chỉ đạo xây dựng các mô hình hoạt
động rõ nội dung, quy trình, cách làm, kiểm đếm kết quả cụ thể nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động của MTTQ và các đoàn thể nhân dân cũng như hiệu
quả trong công tác lãnh, chỉ đạo của các cấp ủy đảng. Hướng hoạt động của
các tổ chức vào thực hiện quyền làm chủ của nhân dân; tăng cường phối hợp
với các ngành có liên quan thực hiện công tác giám sát hoạt động đối với các
cơ quan Đảng, chính quyền, đánh giá thái độ phục vụ, tinh thần trách nhiệm
và đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức trên địa bàn; đổi mới công
tác tuyên truyền, thuyết phục, tập hợp, vận động nhân dân thông qua các hình
thức tuyên truyền vận động phù hợp với từng tổ chức và các phương tiện
thông tin đại chúng để tuyên truyền, vận động, thuyết phục đến đoàn viên, hội
viên và nhân dân trong thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và Nhà nước,

8 Ban hành Chỉ thị 05-CT/TU ngày 09/8/2007, Kết luận số 18-KL/TU ngày 27/6/2012 để
triển khai thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; Chỉ thị số 20-CT/TU ngày 23/7/2013 về thực hiện
Kết luận số 55-KL/TW của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 11-NQ/TW. Chương trình
hành động số 19-CTr/TU ngày 09/10/2008 thực hiện Nghị quyết 25-NQ/TW Hội nghị lần thứ bảy
BCHTW Đảng khoá X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chương trình hành động số 22-CTr/TU ngày 15/10/2008
thực hiện Nghị quyết 26-NQ/TW Hội nghị lần thứ bảy BCHTW Đảng khóa X về nông nghiệp,
nông dân, nông thôn. Kế hoạch 02-KH/TU ngày 20/6/2001 triển khai thực hiện Chỉ thị 59-CT/TW
của BCT về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Hội Nông dân Việt Nam thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Kết luận số 24 -KL/TU ngày 01/11/2012
về kết quả 12 năm thực hiện Chỉ thị 59-CT/TW của BCT. Chương trình hành động số 16-CTr/TU
ngày 16/4/2008 và KL số 12-KL/TU ngày 10/8/2011 thực hiện Nghị quyết 20-NQ/TW Hội nghị lần

thứ 6 BCHTW khoá X về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công văn 631-CV/BDV ngày 23/6/2010 của Ban Dân vận Tỉnh
ủy chỉ đạo thực hiện Kết luận 66-KL/TW ngày của BBT về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 09NQ/TW của BCT (khoá IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác CCB Việt Nam
trong giai đoạn cách mạng mới. Chỉ thị 34-CT/TU thực hiện Chỉ thị số 17-CT/TW của BCT về
“Tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức hội quần chúng…


25

phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và địa phương 9.
Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ MTTQ, các đoàn thể nhân dân luôn
được các cấp ủy đảng quan tâm chỉ đạo sát sao từ khâu xây dựng quy hoạch
đến việc sắp xếp, bố trí cán bộ có năng lực, trình độ, nhiệt tình, uy tín để làm
công tác mặt trận, đoàn thể. Gắn công tác mặt trận, đoàn thể với công tác xây
dựng Đảng; chỉ đạo quy hoạch nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ làm
công tác mặt trận và các đoàn thể 10; coi trọng chất lượng đội ngũ cán bộ diện
quy hoạch, quan tâm bố trí cán bộ chủ chốt là những người trưởng thành từ
phong trào quần chúng, đặc biệt đội ngũ cán bộ ở vùng sâu, vùng xa, vùng
DTMN. Đồng thời giải quyết chính sách đối với cán bộ làm công tác mặt trận
và đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở. Trong 5 năm qua, công tác tổ chức cán bộ của
MTTQ và các đoàn thể có nhiều chuyển biến tích cực, nhất là việc kiện toàn
Đảng đoàn MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội và Ban Thường vụ Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh các cấp 11. Cấp ủy các cấp cử cán bộ lãnh đạo chủ chốt
trong cấp uỷ phụ trách khối.
Có thể khẳng định nhận thức, trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính
quyền đối với công tác lãnh đạo, xây dựng MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã
hội vùng đồng bào DTMN ngày càng được nâng cao; đội ngũ cán bộ được
kiện toàn, lực lượng hội viên ngày càng lớn mạnh; MTTQ và các đoàn thể
luôn giữ vai trò nòng cốt trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và
9 Vận động nhân dân tích cực tham gia giải phóng mặt bằng Quốc lộ 18A đoạn Uông Bí Hạ Long, vận động nhân dân di dời nhà bè trên Vịnh Hạ Long; vận động thanh niên, nhân dân ra đảo

Trần sinh sống để thành lập đơn vị hành chính trực thuộc huyện Cô Tô, vận động quyên góp, ủng hộ
kinh phí đưa điện lưới Quốc gia ra đảo Cô Tô, vận động nhân dân tích cực tham gia xây dựng nông
thôn mới, xây dựng xã hội học tập, đô thị văn minh… được nhân dân đồng tình hưởng ứng và đạt kết
quả cao.

10 Thường trực Tỉnh ủy bổ sung thêm 01 Phó Chủ tịch Hội LHPN tỉnh để dự nguồn đào tạo cán
bộ nữ cho tỉnh.
11 Đến hết năm 2013, có 1573 trưởng ban công tác mặt trận ở thôn, bản, khu phố được
hưởng phụ cấp, có 7455 chi hội trưởng các hội và 7644 chi hội phó các hội được hưởng phụ cấp.


×