Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO KINH tế CHÍNH TRỊ đề CƯƠNG ôn THI môn QUAN hệ KINH tế QUỐC tế, SAU đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.04 KB, 20 trang )

Câu 1.1: Cơ sở khách quan của quan hệ kinh tế quốc tế
*K/n: Quan hệ kinh tế quốc tế là mối quan hệ về kinh tế, khoa học, kỹ
thuật, công nghệ giữa hai hoặc nhiều nước với nhau, là tổng thể quan hệ kinh tế
của cộng đồng quốc tế được thực hiện dưới nhiều hình thức được hình thành và
phát triển trên cơ sở sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động
quốc tế.
*Cơ sở khách quan của quan hệ kinh tế quốc tế
Một là, quan hệ kinh tế quốc tế là một quá trình tất yếu được quyết định
bởi bản chất xã hội của lao động và phân công lao động quốc tế.
Phân công lao động quốc tế là sự chuyên môn hóa của một quốc gia vào
sản xuất sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ nào đó, dựa vào lợi thế tuyệt đối hoặc lợi
thế so sánh của nước mình để cung cấp cho các quốc gia thông qua trao đổi buôn
bán.
Các cá nhân muốn tồn tại và phát triển phải có quan hệ và liên kết với
nhau tạo thành cộng đồng. Từ đó phân công lao động phát triển vượt khỏi phạm vi
quốc gia, hình thành phân công lao động quốc tế tạo cơ sở cho quan hệ hàng hóa
tiền tệ phát triển và làm cho quan hệ kinh tế quốc tế trở thành xu thế lớn của thế giới.
Hai là, xuất phát từ tận dụng lợi thế trong phát triển kinh tế của các quốc
gia
Quan hệ kinh tế quốc tế cơ bản dựa trên lợi thế của mỗi quốc gia: tuỳ theo
điều kiện tự nhiên và đặc điểm riêng để mỗi quốc gia phát huy lợi thế của mình.
Lợi thế tuyệt đối - tập hợp những đặc tính riêng có của chủ thể mà đối thủ
của nó không có - được xem xét như trường hợp đặc biệt của học thuyết về lợi thế
so sánh nói chung. Quốc gia sẽ chỉ xuất khẩu những hàng hóa mà họ có lợi thế
tuyệt đối, nhập khẩu những hàng hóa mà họ không có lợi thế.
Lợi thế so sánh là tập hợp những đặc tính vượt trội (đặc tính hơn hẳn) của
chủ thể so với đối thủ cạnh tranh. Các quốc gia có thể chuyên môn hóa sản xuất và
xuất khẩu sản phẩm mà họ không có lợi thế tuyệt đối so với một nước khác, nhưng
lại có lợi thế tuyệt đối lớn hơn giữa hai sản phẩm trong nước (tức là có lợi thế tương
đối hay lợi thế so sánh) và nhập khẩu những sản phẩm mà lợi thế tuyệt đối nhỏ hơn
giữa hai sản phẩm trong nước.


Ba là, do yêu cầu phát triển kinh tế thị trường của mỗi quốc gia.
Kinh tế thị trường tạo ra động lực phát triển và mở rộng quan hệ giữa các
quốc gia, trước hết là các quan hệ kinh tế, sau đó tới các quan hệ khác như chính trị,
văn hóa, v.v. Toàn cầu hoá phản ánh một quá trình mà thông qua đó thị trường và
sản xuất ở nhiều nước khác nhau đang trở nên ngày càng phụ thuộc lẫn nhau. Như
vậy, phát triển kinh tế thị trường là động lực chủ yếu thúc đẩy, mở rộng quan hệ
kinh tế quốc tế.
Bốn là, do lợi ích của quan hệ kinh tế quốc tế mang lại mà mỗi quốc gia
có thể tận dụng được.
Sự lựa chọn tất yếu này còn được quyết định bởi rất nhiều lợi ích mà
quan hệ kinh tế quốc tế tạo ra cho các nước: 1) Giúp mở rộng thị trường để thúc đẩy
thương mại và các quan hệ kinh tế quốc tế khác, từ đó thúc đẩy tăng trưởng và phát
triển kinh tế-xã hội. 2) Tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện
môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế. Đồng thời, làm tăng khả năng thu hút đầu tư vào nền kinh tế. 3) Nâng cao
trình độ của nguồn nhân lực và nền khoa học công nghệ quốc gia; tạo điều kiện để
mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích hợp trong trật tự kinh tế quốc tế. 4) Tăng cơ
hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận thị trường quốc tế, nguồn tín dụng và


các đối tác quốc tế; tạo cơ hội để các cá nhân được thụ hưởng các sản phẩm hàng
hóa, dịch vụ đa dạng và chất lượng tiêu chuẩn quốc tế. 5) Tạo điều kiện để nắm bắt
tốt hơn tình hình và xu thế phát triển của thế giới để đề ra chính sách phát triển phù
hợp cho đất nước và không bị lệ thuộc; giúp bổ sung những giá trị và tiến bộ của
văn hóa, văn minh của thế giới, làm giàu văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
6) Giúp duy trì môi trường hòa bình và ổn định khu vực và quốc tế để các nước tập
trung cho phát triển; mở ra khả năng cho các nước phối hợp giải quyết những vấn
đề quan tâm chung của khu vực và thế giới.
Câu 1.2. Chủ trương và giải pháp hợp tác quốc tế về KHCN?
Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, hội

nhập quốc tế về khoa học và công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần
thiết lập vị thế mới của Việt Nam và được xác định là một động lực thúc đẩy các
hoạt động khoa học và công nghệ nước ta, nhằm khai thác có hiệu quả thành tựu
khoa học và công nghệ của thế giới, thu hút nguồn lực và công nghệ nước ngoài để
nâng cao và phát triển trình độ khoa học và công nghệ trong nước, góp phần phát
triển kinh tế - xã hội và từng bước hội nhập vào nền kinh tế tri thức của thế giớ
Trước yêu cầu của tình hình mới, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều
chủ trương quan trọng, đồng thời tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính sách nhằm
tăng cường hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ. Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội 2011 - 2020 chỉ rõ phát triển khoa học và công nghệ phải thực sự trở
thành động lực then chốt của quá trình phát triển. Quyết định số 418/QĐ-TTg, ngày
11-4-2012, của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển khoa học và
công nghệ giai đoạn 2011 - 2020 cũng khẳng định:
hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ là mục tiêu, đồng thời là giải
pháp quan trọng để góp phần đưa khoa học và công nghệ Việt Nam sớm đạt trình độ
quốc tế.
Hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ phải được thực hiện tích cực,
chủ động, sáng tạo, bảo đảm độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia, bình đẳng và
cùng có lợi.
Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 31-10-2012, của Hội nghị Trung ương 6
khóa XI về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế cũng xác định quan điểm phát triển và ứng dụng khoa học và công
nghệ là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng nhất để phát
triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, là một nội dung cần được ưu tiên tập trung
đầu tư trước một bước trong hoạt động của các ngành, các cấp. Sự lãnh đạo của
Đảng, năng lực quản lý của Nhà nước và tài năng, tâm huyết của đội ngũ cán bộ
khoa học và công nghệ đóng vai trò quyết định thành công của sự nghiệp phát triển
khoa học và công nghệ; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để cập nhật tri thức
khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới...

Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ về hợp tác khoa học và công nghệ với
gần 70 nước, tổ chức quốc tế và vùng lãnh thổ. Hơn 80 hiệp định hợp tác khoa học
và công nghệ cấp chính phủ và cấp bộ đã được ký kết và đang thực hiện. Việt Nam
đang là thành viên của gần 100 tổ chức quốc tế và khu vực về khoa học và công
nghệ. Từ năm 2000 đến nay, có hơn 540 thỏa thuận, hợp đồng hợp tác quốc tế được
thực hiện tại các cơ sở nghiên cứu triển khai các cấp; hơn 400 nhiệm vụ nghiên cứu
song phương giữa các tổ chức khoa học và công nghệ Việt Nam với các tổ chức
khoa học và công nghệ của các nước trên thế giới đã và đang được thực hiện.


Quá trình hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ của Việt Nam thời
gian qua đã bắt đầu gắn kết với yêu cầu thực tiễn của các ngành, địa phương, bước
đầu phục vụ có hiệu quả cho các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nội dung và hình thức hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ ngày càng đa
dạng và phong phú hơn (bao gồm hợp tác nghiên cứu chung, chuyển giao công
nghệ, trao đổi chuyên gia, tổ chức hội thảo, hội nghị, trình diễn công nghệ, hội chợ
triển lãm công nghệ,…). Các lĩnh vực hội nhập được mở rộng, từ nghiên cứu cơ bản
đến nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao công nghệ, khoa học xã hội - nhân văn, khoa
học tự nhiên, nghiên cứu liên ngành. Hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ
trong thời gian qua đã góp phần tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho các tổ chức
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, nâng cao trình độ cán bộ, thúc đẩy
quá trình đổi mới công nghệ trong nước.
Tuy nhiên, trên thực tế, nguồn nhân lực khoa học và công nghệ ở nước ta
hiện nay vẫn chưa đủ năng lực để tham gia hiệu quả vào các hoạt động khoa học và
công nghệ quốc tế và khu vực; hàm lượng khoa học và công nghệ đóng góp cho các
hoạt động khoa học và công nghệ quốc tế và khu vực còn thấp. Các tổ chức nghiên
cứu khoa học và phát triển công nghệ, các trường đại học chưa đủ năng lực và điều
kiện xúc tiến mở rộng các hoạt động hội nhập quốc tế do cơ sở vật chất, kỹ thuật
không đồng bộ, môi trường làm việc chưa chuyên nghiệp, cán bộ nghiên cứu đầu
đàn và nhân viên kỹ thuật có trình độ còn thiếu,... Phần lớn các hoạt động hợp tác

quốc tế về khoa học và công nghệ trong thời gian qua mới chỉ được thực hiện trong
khuôn khổ các hiệp định/thoả thuận hợp tác song phương hoặc đa phương. Mối
quan hệ hợp tác thường diễn ra “một chiều”, trong đó các đối tác của Việt Nam
thường là “bên nhận, bên được hỗ trợ”, các đối tác nước ngoài là “bên cho, bên hỗ
trợ”.
Giải pháp trong thời gian tới
Một là, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền trên các phương tiện
truyền thông để nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, các cá nhân, doanh
nghiệp và toàn xã hội về tầm quan trọng của hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế về
khoa học và công nghệ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời
kỳ mới.
Hai là, xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án, nhiệm vụ nghiên
cứu chung trong khuôn khổ các thỏa thuận song phương, đa phương. Khuyến khích
hợp tác nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ giữa doanh nghiệp, trường đại
học, viện nghiên cứu, cá nhân trong nước với các đối tác nước ngoài. Thu hút nguồn
kinh phí từ nước ngoài thông qua các dự án nghiên cứu tại Việt Nam. Tăng cường tổ
chức và chủ trì các hội nghị, hội thảo khoa học quốc tế tại Việt Nam và tham gia các
hội nghị, hội thảo khoa học ở nước ngoài. Tổ chức triển lãm giới thiệu các thành tựu
khoa học và công nghệ mới, tiên tiến của các nước và Việt Nam.
Ba là, phát huy hiệu quả hoạt động của mạng lưới đại diện khoa học và
công nghệ Việt Nam ở nước ngoài. Thu hút các chuyên gia, nhà khoa học là người
nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia các chương trình, dự án nghiên
cứu, đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ, hình thành các nhóm nghiên cứu
mạnh ở Việt Nam, trong đó chú trọng đến các nhóm nghiên cứu khoa học trẻ.
Bốn là, xây dựng và triển khai nội dung, kế hoạch hợp tác khoa học và
công nghệ tầm quốc gia với các nước mạnh về khoa học và công nghệ và là đối tác
chiến lược của Việt Nam. Hình thành các trung tâm nghiên cứu khoa học xuất sắc
trên cơ sở hợp tác dài hạn giữa các tổ chức nghiên cứu khoa học của Việt Nam và
của nước ngoài. Thí điểm hợp tác xây dựng một số viện khoa học và công nghệ tiên



tiến có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Năm là, xây dựng mạng lưới chuyên gia tìm kiếm công nghệ, tổ chức hội
nghị, hội thảo khoa học; sinh hoạt chuyên đề, giao lưu giữa các nhóm chuyên gia
tìm kiếm công nghệ với các doanh nghiệp, tổ chức cơ quan trong nước có nhu cầu
tìm kiếm công nghệ nước ngoài; Tiến hành thí điểm cử các nhà khoa học và công
nghệ trẻ Việt Nam vào làm việc trong các doanh nghiệp công nghệ của thế giới
Sáu là, xây dựng danh mục đặt hàng công nghệ cần tìm kiếm và tổ chức
tìm kiếm công nghệ. Xây dựng và hỗ trợ thực hiện các dự án chuyển giao công
nghệ. Hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách và thông tin dữ liệu về hội nhập quốc
tế về khoa học và công nghệ./.
Câu 2.1: Xu hướng phát triển thương mại quốc tế ngày nay
Các quốc gia trên thế giới hiện nay dù lớn hay nhỏ, sớm hay muộn đều đi
theo xu hướng tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác kinh tế khu vực và
thế giới, đa phương, đa chiều, đa lĩnh vực, trong đó thương mại là một trong những
lĩnh vực được coi là trọng tâm. Đặc điểm nổi bật về xu hướng phát triển thương mại
quốc tế ngày nay là:
1. Nội dung hoạt động thương mại rộng lớn mang tính quốc tế, chi phối
hầu hết các lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội. Do đó, thương mại ngày nay không
chỉ là những hoạt động mua bán sản phẩm hàng hóa vật thể mà còn bao gồm cả
những hành vi mua bán và dịch vụ phi vật thể, tất cả đều nhằm thu lợi nhuận.
2. Hình thành các loại hình công ty, tập đoàn lớn, công ty xuyên quốc gia,
đa quốc gia, với phạm vi hoạt động không biên giới và hình thành các tổ chức, hiệp
hội thương mại khu vực và toàn cầu. Phạm vi tác động của thương mại quốc tế ngày
nay mang ý nghĩa vô cùng sâu rộng, bao gồm nhiều thành phần thương mại, nhiều
thương nhân và hợp thành mạng lưới chằng chịt các loại hình kinh doanh và dịch
vụ; vừa liên doanh, liên kết, vừa tự do hoá, vừa độc quyền, vừa cạnh tranh, vừa hợp
tác, vừa bình đẳng và không bình đẳng trong kinh doanh, đều cùng nhau tham gia
hoạt động mua bán và dịch vụ trên thị trường, trên cơ sở hành lang pháp luật quốc
gia và luật lệ quốc tế.

3. Xu thế liên doanh liên kết thương mại song phương, đa phương, bình
đẳng ngày càng mở rộng và không ngừng phát triển. Đặc điểm kinh doanh thương
mại ngày nay gồm hai chiều hướng: Một là, kinh doanh chuyên ngành, theo một sản
phẩm hay một thương hiệu nhất định thành một hệ thống trên toàn cầu. Hai là, tổ
chức mô hình những công ty, tập đoàn kinh doanh tổng hợp với nhiều loại hình,
nhiều hàng hóa và dịch vụ khác nhau để nâng cao ưu thế cạnh tranh và chiếm lĩnh
thị trường khu vực và thị trường thế giới.
4. Tự động hóa, hiện đại hóa, áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý,
mua bán qua mạng, hoạt động kinh doanh và dịch vụ mang tính phổ biến và ngày
càng phát triển.
5. Do cạnh tranh trên thị trường ngày càng quyết liệt, thương mại không
ngừng cải tiến phương thức phục vụ hiện đại và luôn luôn đổi mới dịch vụ theo xu
hướng lấy người tiêu dùng làm trọng tâm và coi khách hàng như "thượng đế".
Một số vấn đề đặt ra Việt nam cần quan tâm
Từ những đặc điểm trên đây của thương mại trong thời đại ngày nay và
đặc biệt là khi Việt Nam đã là thành viên của tổ chức WTO, đặt ra cho nước ta một
số vấn đề phải đặc biệt quan tâm trong quá trình phát triển quan hệ thương mại quốc
tế:


Một là, phải có chính sách thương mại đúng đắn, phù hợp nhằm khai thác
triệt để lợi thế so sánh thông qua quan hệ buôn bán quốc tế để chiếm lĩnh và mở
rộng thị trường khu vực và thị trường thế giới cho mình.
Lý thuyết này chỉ rõ: Khi tham gia trao đổi mua bán thương mại quốc tế,
các quốc gia phải biết lựa chọn sản xuất và xuất khẩu những hàng hóa có lợi thế so
sánh tốt nhất và nhập khẩu những hàng hóa mà mình sản xuất bất lợi nhất. Đây
cũng là một bài học mà chúng ta đã rút ra qua 30 năm đổi mới nền kinh tế. Một số
sản phẩm của nước ta đang có lợi thế tuyệt đối trên thị trường quốc tế cần phải đẩy
mạnh xuất khẩu.
Hai là, lựa chọn mặt hàng và thị trường có lợi nhất cho mình để phát triển

và mở rộng quan hệ thương mại quốc tế.
Trong quan hệ thương mại thế giới, cần đa phương hóa, linh hoạt hoá thị
trường, mở rộng buôn bán với nhiều nước. Song ở giai đoạn trước mắt đối với nước
ta kinh tế chưa phát triển cao, các điều kiện về khoa học - kỹ thuật còn nhiều hạn
chế, khả năng cạnh tranh còn yếu, cần lựa chọn những mặt hàng có chất lượng cao
xây dựng thành thương hiệu quốc tế và những thị trường có khả năng và ưu thế
riêng đối với mình để khai thác và tham gia xuất, nhập khẩu buôn bán thương mại,
dịch vụ, trên cơ sở đó từng bước giành chỗ đứng trên thị trường thế giới.
Ba là, hoàn thiện khung pháp luật cho hoạt động thương mại cả ở thị
trường trong nước và thị trường ngoài nước. Đây là vấn đề hết sức cần thiết để phát
triển lành mạnh thị trường trong nước làm cơ sở hậu phương cho phát triển thị
trường ngoài nước. Thị trường trong nước phát triển vững chắc là điều kiện quan
trọng để mở rộng thị trường ra ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu và chủ động nhập
khẩu của nước ta, ngược lại thị trường ngoài nước được phát triển sẽ tạo điều kiện
thúc đẩy thị trường trong nước phát triển mạnh hơn, phục vụ tốt hơn cho sản xuất và
đời sống.
Bốn là, thực hiện tốt các cam kết với WTO, TPP và các cam kết song
phương khác về thương mại. Việc này chỉ có lợi cho ta, một mặt chứng tỏ với thế
giới rằng Việt Nam là nước làm ăn nghiêm chỉnh đúng luật, đúng cam kết; mặt khác
tranh thủ được sự ủng hộ của thế giới và đặc biệt là của tổ chức thương mại thế giới
WTO, khi chúng ta gặp phải những khó khăn, rào cản và tranh chấp về thương mại
quốc tế.
Năm là, phát huy tốt vai trò quản lý và điều tiết của Nhà nước về thương
mại.
Để phát huy đến mức cao nhất lợi thế so sánh thương mại, thì điều quan
trọng là phải có những con người quản lý có tri thức mới về thương mại, cùng với
những cơ chế, chính sách thương mại đúng đắn phù hợp điều kiện kinh tế - xã hội
của đất nước trong thời kỳ mới và phù hợp xu thế phát triển và hội nhập kinh tế thương mại khu vực và thế giới. Do vậy, vấn đề cốt lõi để thực hiện mục đích trên là
phải nhận thức đúng đắn vai trò quan trọng quản lý Nhà nước đối với thương mại
trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Nhà nước phải làm tốt chức năng quản lý

kinh tế vĩ mô nói chung và quản lý hoạt động thương mại quốc tế nói riêng.
Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước đóng vai trò là người định hướng
chiến lược, quy định khung pháp luật, đề ra những mục tiêu chung cho sự phát triển,
công bằng, thống nhất điều hoà các quyền lợi chung và cá nhân.
Nhìn chung các nước hiện nay, kể cả các nước đã phát triển và các nước
chậm và đang phát triển đều coi trọng việc kết hợp giữa cơ chế thị trường tự do và
sự điều tiết của Nhà nước trong quản lý kinh tế thị trường để nhằm đạt được hiệu
quả kinh tế cao nhất.


Đẩy mạnh phát triển thương mại và dịch vụ quốc tế là xu hướng tất yếu
của tất cả các nước trên thế giới, nhất là các nước đã phát triển; do năng lực sản xuất
ngày càng lớn, cho nên luôn luôn ở tình trạng thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm có
lợi nhất. Hoạt động thương mại quốc tế ngày càng mở rộng và cạnh tranh thị trường
thế giới ngày càng gay gắt là tất yếu. Trong tình hình đó, để có lợi thế trong quan hệ
thương mại thế giới, chen chân được vào thị trường thế giới và bảo đảm không thất
bại thì nước ta cần có những chính sách thương mại quốc tế khôn ngoan, linh hoạt,
mềm dẻo, vừa phù hợp với điều kiện của nước mình, vừa phù hợp thông lệ quốc tế,
vừa đảm bảo luật pháp quốc gia, vừa đảm bảo luật lệ của "sân chơi" thị trường quốc
tế.
Câu 2.2. Những hình thức quan hệ kinh tế quốc tế
Quan hệ kinh tế quốc tế là mối quan hệ về kinh tế, khoa học, kỹ thuật,
công nghệ giữa hai hoặc nhiều nước với nhau, là tổng thể quan hệ kinh tế của cộng
đồng quốc tế được thực hiện dưới nhiều hình thức được hình thành và phát triển
trên cơ sở sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế.
Những nguyên tắc trong quan hệ kinh tế quốc tế: Bình đẳng, Cùng có
lợi,Tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
* Những hình thức chủ yếu của quan hệ kinh tế quốc tế
- Thương mại quốc tế:Thương mại quốc tế là việc trao đổi hàng hóa và
dịch vụ giữa các quốc gia, tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang giá nhằm đưa lại lợi

ích cho các bên.
Hiện nay, do tác động của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và
xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, thương mại quốc tế có những đặc
điểm mới: Tốc độ tăng trưởng của thương mại quốc tế nhanh hơn tốc độ tăng
trưởng GDP, tốc độ tăng trưởng ngoại thương hàng hóa “vô hình” nhanh hơn ngoại
thương hàng hóa “hữu hình”. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu có sự biến đổi sâu sắc theo
hướng tăng tỷ trọng các hàng hóa, sản phẩm công nghiệp chế biến so với các sản
phẩm thô, sơ chế, nguyên liệu.Cạnh tranh trong thương mại quốc tế diễn ra gay gắt
và đa dạng, không chỉ về mặt chất lượng, giá cả mà còn về điều kiện giao hàng, bao
bì, mẫu mã, thời hạn thanh toán, các dịch vụ sau bán hàng. Cơ cấu thị trường quốc
tế ngày càng mở rộng không chỉ hàng hóa, dịch vụ thông thường mà còn chuyển
sang lĩnh vực tài chính, tiền tệ, công nghệ, dịch vụ văn hóa tinh thần.
Tuy nhiên, do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới
vừa qua, thương mại quốc tế đang đứng trước những thách thức đó là: 1) Quá trình
dịch chuyển trọng tâm quyền lực và ảnh hưởng kinh tế trong nền kinh tế toàn cầu
cũng như tác động của sự dịch chuyển này đối với sự hợp tác và lãnh đạo toàn cầu.
2) Công nghệ và chi phí vận tải được hậu thuẫn của các chính sách đầu tư và buôn
bán tự do đã làm thay đổi các cơ cấu sản xuất. Thị phần buôn bán quốc tế liên quan
đến dây chuyền cung ứng toàn cầu ngày càng tăng, trong đó các thành phần sản
phẩm được sản xuất xuyên biên giới ở nhiều địa chỉ khác nhau. 3) Sự bùng nổ của
chủ nghĩa khu vực và tác động của nó đến các thoả thuận thương mại đa phương
với hơn 300 hiệp định thương mại ưu đãi đã có hiệu lực trên thế giới.
-. Tài chính tiền tệ quốc tế
Đó là sự di chuyển các luồng tiền vốn giữa các quốc gia gắn liền với các
quan hệ quốc tế về kinh tế, chính trị, văn hóa, ngoại giao, quân sự…giữa các chủ thể
của các quốc gia và tổ chức quốc tế thông qua việc tạo lập, sử dụng các quỹ tiền tệ ở
mỗi chủ thể nhằm đáp ứng những nhu cầu khác nhau của các chủ thể đó trong quan
hệ quốc tế.



Các quốc gia, các chủ thể của các quốc gia có thể tham gia vào các tổ
chức tiền tệ, tài chính thế giới và khu vực như WB, IMF, ADB; tham gia vào các thị
trường tài chính, tiền tệ như bảo hiểm và chứng khoán; điều chỉnh các cơ chế, chính
sách, luật pháp theo các quy định của WTO để mở cửa thị trường tài chính.
-. Đầu tư quốc tế
Đầu tư quốc tế là hình thức cơ bản của quan hệ kinh tế đối ngoại. Nó là
hoạt động mà hai hay nhiều bên (có quốc tịch khác nhau) cùng góp vốn để xây
dựng và triển khai một dự án đầu tư nhằm mục đích sinh lợi. Đầu tư quốc tế có tác
động hai mặt đến nước nhận đầu tư.
Mặt tích cực, nó làm tăng thêm nguồn vốn, tăng công nghệ mới, nâng cao
trình độ quản lý tiên tiến, tạo thêm việc làm, nâng cao trình độ tay nghề, khai thác
tài nguyên, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
Mặt hạn chế, đầu tư quốc tế có khả năng làm tăng phân hóa giàu nghèo,
làm cạn kiệt tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường, tăng tính phụ thuộc với bên
ngoài,. Do đó, đối với nước nhận đầu tư, cần tính toán kỹ lưỡng trong việc xây
dựng, thẩm định, ký kết và triển khai dự án.
-. Du lịch quốc tế
Khi kinh tế phát triển, năng suất lao động càng cao, thu nhập của con
người tăng lên nhu cầu du lịch ngày càng tăng. Du lịch bao gồm các hoạt động như:
tổ chức, hướng dẫn du lịch, sản xuất cung ứng hàng hóa dịch vụ nhằm đáp ứng nhu
cầu đi lại, ăn uống, nghỉ ngơi, lưu trú, tham quan, giải trí, tìm hiểu, lưu niệm…của
du khách.
-. Xuất nhập khẩu lao động quốc tế
Xuất khẩu lao động là hình thức đưa người lao động và chuyên gia đi làm
thuê cho các nước có nhu cầu về lao động. Xuất khẩu lao động bao gồm xuất khẩu
lao động tại chỗ và ra nước ngoài. Trường hợp ngược lại là nhập khẩu lao động.
Xuất nhập khẩu lao động sẽ mang lại cho các quốc gia những lợi ích to
lớn như: Góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập ngoại tệ cho người lao động
và cho ngân sách nhà nước; góp phần đào tạo, rèn luyện tay nghề và kỷ luật, tác
phong lao động công nghiệp. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả của hoạt động này,

cần làm tốt công tác nghiên cứu thị trường, mở rộng thị trường lao động, đẩy mạnh
công tác đào tạo nghề theo nhu cầu của thị trường.
* Hợp tác quốc tế về khoa hcj và công nghệ
Liên hệ: Trong hội nhập quốc tế về kinh tế, Đảng ta xác định rõ 5 quan
điểm chỉ đạo, bao gồm:
Một là: Phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo
đảm độc lập, tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc; an ninh quốc gia,
giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường.
Hai là: Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, trong quá
trình hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của mọi thành phần kinh tế,
của toàn xã hội, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh và
cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội vừa không ít thách thức, do đó cần phải đề phòng tư
tưởng trì trệ, thụ động, vừa phải chống tư tưởng giản đơn, nôn nóng.
Bốn là: Nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế
hoạch và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp
ứng những quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia.
Năm là: Kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu
giữ vững an ninh, quốc phòng, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước, cảnh


giác với những âm mưu thông qua hội nhập để thực hiện ý đồ diễn biến hoà bình
đối với nước ta.
Câu3.1: Pt các lý thuyết TMQT
Thương mại quốc tế là hoạt động trao đổi mua bán hàng hoá và dịch vụ
giữa các nước với nhau, là sự phụ thuộc giữa các quốc gia vào phân công lao động
quốc tế trên cơ sở khai thác được các lợi thế của đất nước trong quan hệ kinh tế
quốc tế nhằm đạt được lợi ích kinh tế tối đa, phát triển kinh tế trong nước và tham
gia vào phân công lao động và chuyên môn hoá quốc tế.
* Lý thuyết Trọng thương

Tư tưởng chính: Một quốc gia muốn thịnh vượng phải gia tăng khối
lượng tiền tệ, vì vậy phải phát triển mạnh ngoại thương. Moncretien cho rằng:...Nội
thương là ống...
doanh nhân: phải chấp nhận sự lường gạt (dân tộc này làm giàu bằng
cách hy sinh lợi ích của dân tộc khác; phải hạ thấp lương của công nhân để giảm chi
phí nằm tăng khả năng cạnh tranh;
Nhà nước phải can thiệp sâu vào hoạt động kinh tế bằng các biện pháp:
thực hiện chính sách xuất siêu; lập hàng rào thuế quan để bảo hộ mậu dịch; thực
hiện nhiều biện pháp nâng đỡ xuất khẩu.
Hạn chế: chưa giải thích hết bản chất của thương mại quốc tế; nguồn gốc
của lợi nhuận thương nghiệp. Khi cho rằng lợi nhuận thương nghiệp là do lĩnh vực
lưu thông, do mua rẻ bán đắt mà có
* A. Smith
Theo Adam Smith, sức mạnh làm cho nền kinh tế tăng trưởng là do sự tự
do trao đổi giữa các quốc gia, do đó mỗi quốc gia cần chuyên môn vào những
ngành sản xuất có lợi thế tuyệt đối.
Một hàng hoá được coi là có lợi thế tuyệt đối khi chi phí sản xuất tính
theo giờ công lao động quy chuẩn để sản xuất ra một đơn vị hàng hoá đó phải thấp
hơn nước khác.
Như vậy điều then chốt trong lập luận về lợi thế tuyệt đối là sự so sánh
chi phí sản xuất của từng mặt hàng giữa các quốc gia.
Theo A.Smith, lợi thế tuyệt đối được quyết định bởi các điều kiện tự
nhiên về địa lý, khí hậu và kỹ năng tay nghề chỉ nước đó mới có mà thôi, về tay
nghề là nguyên nhân của mậu dịch quốc tế và quyết định cơ cấu của mậu dịch quốc
tế.
Tuy nhiên ông chưa giải thích được triệt để, liệu thương mại có đem lại
lợi ích nếu có quốc gia sản xuất tất cả các sản phẩm với hiệu quả cao hơn đối tác
thương mại của mình.
* D.Ricardo
Theo D.Ricardo giữa các nước không chỉ khác biệt về điều kiện tự nhiên

và tay nghề mà còn khác biệt về điều kiện sản xuất nói chung. trên thực tế lợi thế
tuyệt đối cuả mỗi quốc gia không có nhiều, do đó phần lớn các quốc gia tiến hành
buôn bán với nhau không chỉ ở những mặt hàng có lợi thế tuỵệt đối mà còn đối với
cả những mặt hàng dựa trên lợi thế tương đối.
Tuy nhiên, David Ricardo chưa đề cập đến chi phí vận tải và cơ cấu tiêu
dùng của mỗi quốc gia, nên không xác định được giá tương đối trong trao đổi sản
phẩm giữa các nước.
Như vậy, thương mại quốc tế dựa trên căn bản lợi thế so sánh của mỗi
quốc gia: tùy theo điều kiện tự nhiên và đặc điểm riêng, mỗi quốc gia có lợi thế mặt
nào, sẽ chú trọng đến các hình thức đối ngoại phù hợp với lợi thế đó.


* Lý thuyết lợi thế so sánh các nguồn lực sản xuất vốn có
Để khắc phục những hạn chế trong lý thuyết lợi thế so sanh của
D.Ricardo, hai nhà kinh tế học Thuỵ Điển: Eli Hecksher và B.Ohlin đã đưa ra mô
hình H-O để trình bày lý thuyết ưu đãi về các nguồn lực sản xuất vốn có. Lý thuyết
này đã giải thích hiện tượng TMQT là do trong một nền kinh tế mở cửa, mỗi nước
đều hướng tới chuyên môn hoá các ngành sản xuất mà cho phép sử dụng nhiều yếu
tố sản xuất đối với nước đó là thuận lợi nhất. Chính sự ưu đãi về các lợi thế tự nhiên
của các yếu tố sản xuất này (vốn, lao động, tài nguyên, đất đai, khí hậu...) đã khiến
cho một số nước có chi phí cơ hội thấp hơn (so với việc sản xuất các sản phẩm hàng
hoá khác) trong sản xuất những sản phẩm nhất định.
Như vậy cơ sở lý luận của lý thuyết H-O vẫn chính là dựa vào lý thuyết
lợi thế so sánh của Ricardo nhưng ở trình độ cao hơn là đã xác định được nguồn gốc
của lợi thế so sánh chính là sự ưu đãi về các yếu tố sản xuất (các nguồn lực sản
xuất ).
Tuy còn có những khiếm khuyết lý luận trước thực tiễn phát triển phức
tạp của TMQT ngày nay, song quy luật H-O vẫn là quy luật chi phối động thái phát
triển của TMQT và được nhiều quốc gia vận dụng trong hoạch định chính sách
TMQT.

* Thuyết chu kỳ sống sản phẩm
do K.Verum đề xướng năm 1966, sau đó được nhiều học giả phát triển và
ứng dụng trong nhiều lĩnh vực, trong đó lý thuyết TMQT.
Theo đó, có rất nhiều sản phẩm phải trải qua một chu kỳ sống bao gồm
bốn giai đoạn: giới thiệu; phát triển; chín muồi và suy thoái. Để kéo dài chu kỳ sống
của một sản phẩm, xét trên quy mô thị trường thế giới, các hãng thường hay thay
đổi địa điểm sản xuất, mở rộng sản xuất sang khu vực thị trường khác tuỳ thuộc vào
từng giai đoạn của chu kỳ sống. Kết quả là tạo nên quan hệ thương mại giữa các
quốc gia về sản phẩm đó và quan hệ này thay đổi tuỳ theo các giai đoạn của chu kỳ
* Thuyết bảo hộ hợp lý
Ngược lại với trào lưu của các học thuyết ủng hộ tự do hoá thương mại,
thuyết bảo hộ với nhiều biến tướng khác nhau được phát triển và vận dụng trong
chính sách TMQT của một số quốc gia trong đó có Mỹ, Đức (cuối thế kỷ XIX)
Tư tưởng cơ bản của thuyết này là nếu áp dụng chính sách tự do hoá
thương mại có nhiều ngành sản xuất được gọi là “ngành công nghiệp non trẻ” cần
thiết phải duy trì nhưng có nguy cơ bị tiêu diệt trước sự cạnh tranh của hàng hoá
nước ngoài, do đó cần phải có các biện pháp bảo vệ các ngành sản xuất này.
Như vậy, cho đến nay có khá nhiều học thuyết về TMQT đã được đề
xuất, phát triển và ứng dụng. Tuy nhiên chưa có một lý thuyết nào đủ mức hoàn
chỉnh để có thể dựa vào đó để hoạch định chiến lược và chính sách XNK của quốc
gia. Hơn nữa một số học thuyết hoặc chỉ đưa ra mô hình chính sách trong điều kiện
tĩnh, chưa khai thác các yếu tố động của bản thân hoạt động kinh tế, hoặc chỉ được
lý luận với những mô hình phức tạp. Tuy nhiên, tất cả các học thuyết dù ít hay nhiều
vẫn còn chỗ đứng trong điều kiện hiện đại và cần phải nghiên cứu vận chúng.
Ngày nay các lý luận gia hiện đại về TMQT trên cơ sở kế thừa và phát
triển các học thuyết TMQT đã đưa ra các quan điểm, các lý thuyết khác nhau về
TMQT với 3 trường phái chính: trường phái thứ nhất ủng hộ tự do mậu dịch và có
các tên gọi biến tướng như mở cửa, tự do hoá ngoại thương, hướng vào xuất khẩu.
Trường phái thứ hai ủng hộ bảo hộ mậu dịch và có tên gọi biến tướng như đóng cửa
thay thế nhập khẩu, mô hình đàn ngỗng trời. Trường phái thứ ba kết hợp 2 kiểu

chính sách trên với liều lượng khác nhau.


Câu 3.2: Đánh giá thực trạng, đề xuất vấn đề cần giải quyết trong
QHKT ở nước ta hiện nay
Phó thủ tướng Vũ Khoan
Với nhiều nỗ lực thay đổi tư duy, quan điểm và hành động, quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã và đang đạt được nhiều thành tựu đáng kể
trên nhiều lĩnh vực:
Một là, Việt Nam đã mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với các nước,
các tổ chức quốc tế
Chúng ta đã là thành viên chính thức của ASEAN, APEC, ASEM và
WTO cũng như nhiều định chế tài chính như WB, ADB, IMF... Ngoài ra, ta đã có
quan hệ thương mại với trên hai trăm quốc gia và vùng lãnh thổ ở khắp các châu
lục; trên một trăm quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư ở Việt Nam và doanh
nghiệp Việt Nam đã có dự án đầu tư ở trên bảy mươi quốc gia và vùng lãnh thổ
Hai là, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Nếu như tăng trưởng GDP bình quân thời kỳ 1986 - 1990 chỉ đạt
4,4%/năm thì bình quân thời kỳ 1991 - 2011 đạt 7,34%/năm. Đặc biệt, sau khi gia
nhập WTO, Việt Nam đã duy trì tốc độ tăng trưởng cao, trong năm 2007, tốc độ
tăng trưởng GDP đạt 8,46%. Do ảnh hưởng từ những biến động của nền kinh tế thế
giới, tăng trưởng GDP trong giai đoạn 2011 - 2013 giảm xuống còn 5,6%. đưa nước
ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và ra khỏi danh sách các nước kém phát
triển sau 30 năm đổi mới.
Đối với hoạt động xuất, nhập khẩu, từ năm 1986 đến nay, kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam tăng đều qua các năm. So với năm 1986 (kim ngạch xuất khẩu
đạt 789,1 triệu USD) thì kim ngạch xuất khẩu năm 2013 tăng gấp khoảng 167 lần
(132,2 tỷ USD). Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt trên thị trường 220
nước và vùng lãnh thổ, hầu hết các châu lục. Nước ta có vị thế ngày càng lớn trong
xuất khẩu hàng hóa toàn cầu và được xếp vào nhóm 30 nền kinh tế xuất khẩu hàng

hóa hàng đầu thế giới. Từ chỗ thường xuyên nhập siêu, Việt Nam đã chuyển sang
cân bằng xuất, nhập khẩu, thậm chí là có xuất siêu.
Ba là, thúc đẩy và thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Trong năm 2013, tổng vốn đầu tư FDI vào Việt Nam đã đạt 22,35 tỷ
USD. Khu vực doanh nghiệp FDI đã giải quyết việc làm cho khoảng hơn 2 triệu lao
động trực tiếp, và hàng chục triệu lao động gián tiếp, chiếm hơn 60% tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước, góp phần tăng vốn đầu tư phát triển xã hội, tăng kim
ngạch xuất khẩu, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và giải quyết các vấn đề
xã hội.
Bốn là, góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế, cải thiện tích cực môi trường
trong nước
Trong thời gian gần 10 năm trở lại đây, để thực hiện các cam kết gia nhập
WTO, hệ thống pháp luật của ta đã và đang tiếp tục được hoàn thiện theo hướng
ngày càng trở nên rõ ràng, minh bạch hơn, tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng
trong nước.
Một số hạn chế của quá trình gần 30 năm hội nhập kinh tế quốc tế\
Thứ nhất, trong một thời gian dài trước khi tham gia các (FTA) việc tham
gia các FTA chưa thực sự chủ động và mới chỉ tập trung vào các lợi ích mang tính
ngắn hạn như cắt giảm thuế quan, mà chưa chú trọng đúng mức đến các mục tiêu
dài hạn như nâng cao năng lực cạnh tranh, chất lượng tăng trưởng, cải cách môi
trường, thể chế trong nước


Thứ hai, việc triển khai hội nhập kinh tế quốc tế chưa thực sự gắn kết đầy
đủ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, các chiến lược phát triển ngành. Việc
tập trung các nỗ lực hội nhập kinh tế vào khu vực Đông Á đã làm tăng sự phụ thuộc
của nền kinh tế nước ta vào các nền kinh tế lớn trong khu vực về các nguồn nguyên
phụ liệu, máy móc thiết bị, đầu tư, công nghệ và tài chính.
Thứ ba, sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và sản phẩm của ta
mặc dù đã được cải thiện nhưng vẫn còn yếu so với các nước, kể cả các nước trong

khu vực
Thứ tư, chưa thiết kế được những biện pháp bảo hộ phù hợp với cam kết
quốc tế để bảo hộ sản xuất trong nước.
Thứ năm, chất lượng tăng trưởng vẫn chưa được cải thiện về căn bản.
Hiệu quả đầu tư chưa được cao như mong muốn. Tăng trưởng của ta thời gian qua
phần nhiều dựa vào các yếu tố như tín dụng, lao động rẻ mà thiếu sự đóng góp đáng
kể của việc gia tăng năng suất lao động hay hàm lượng tri thức.
Thứ sáu, công tác phối hợp về hội nhập giữa các bộ, ngành, giữa các cơ
quan Trung ương với các địa phương, doanh nghiệp chưa tốt.
Đề xuất vấn đề cần giải quyết
Để đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, trong thời gian tới, cần phối hợp
nhiều nhóm giải pháp nhằm khắc phục những vấn đề còn tồn đọng, đồng thời khai
thác tối đa những lợi ích mà hội nhập kinh tế quốc tế đem lại. Các giải pháp chính là:
Thứ nhất, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách để
thực hiện đầy đủ các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình đã đề ra.
Thứ hai, thường xuyên, kịp thời rà soát, sửa đổi, điều chỉnh, xóa bỏ quy
định không phù hợp với các cam kết quốc tế nhằm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ
trong các điều ước quốc tế song phương, khu vực và đa phương mà Việt Nam là
thành viên; đồng thời, xem xét nới lỏng các điều kiện đầu tư, kinh doanh trong một
số ngành, lĩnh vực
Thứ ba, nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành để tận dụng tối đa
những lợi ích của hội nhập kinh tế quốc tế. Cần tiến hành đánh giá mức độ cạnh
tranh của các ngành, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch nâng cao khả năng cạnh tranh
cho những ngành có lợi thế cạnh tranh và định hướng điều chỉnh sản xuất cho các
ngành, doanh nghiệp không có khả năng cạnh tranh.
Thứ tư, phát triển các ngành quan trọng đối với nền kinh tế. Cần có chính
sách phát triển các ngành công nghiệp chế biến mà Việt Nam có tiềm năng và lợi
thế, nhất là chế biến nông sản. Chú trọng phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ .
Thúc đẩy các ngành dịch vụ hỗ trợ kinh doanh như tài chính, tín dụng, khoa học,
công nghệ..

Thứ năm, tăng cường nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trong đó đặc
biệt coi trọng năng lực cán bộ, phân bổ hiệu quả nguồn nhân lực. Về phía doanh
nghiệp, nâng cao nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế, cụ thể là các quyền và
nghĩa vụ của Việt Nam khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, các nguyên tắc, quy
định cơ bản của WTO và diễn đàn thương mại khu vực nhằm giúp doanh nghiệp
hiểu và vận dụng tối đa lợi ích của hội nhập kinh tế quốc tế trong kinh doanh, tự bảo
vệ mình trong các tranh chấp thương mại quốc tế./.
Câu 4.1: Phân tích vai trò của đầu tư quốc tế
Đầu tư quốc tế là một quá trình trong đó có sự di chuyển vốn từ quốc gia
này sang quốc gia khác để thực hiện các dự án đầu tư nhằm đưa lại lợi ích cho các
bên tham gia.


Đầu tư quốc tế ngày càng cò vai trò to lớn đối với việc thúc đẩy quá trình
phát triển kinh tế và thương mại ở các nước đi đầu tư cũng như nước tiếp nhận vốn
đầu tư.
* Đối với nước đầu tư
- Giúp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thông qua việc sử dụng
những lợi thế sản xuất của nơi tiếp nhận đầu tư, giúp hạ giá thành sản phẩm và nâng
cao tỷ suất lợi nhuận của vốn đầu tư.
- Xây dựng thị trường cung cấp nguyên liệu ổn định với giá rẻ: ví dụ nhờ
có đầu tư nước ngoài mà Mỹ nhập khẩu ổn định toàn bộ phốt phát, đồng, thiếc, 3/4
quặng sắt, mangan v.v...
- Bành trướng sức mạnh về kinh tế và nâng cao uy tín chính trị trên
trường quốc tế: thông qua việc xây dựng nhà máy sản xuất và thị trường tiêu thụ ở
nước ngoài, các nước xuất khẩu vốn mở rộng được thị trường tiêu thụ, tránh được
hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước. Ngoài ra, nhiều nước tư bản phát triển,
thông qua hình thức viện trợ và cho vay vốn với quy mô lớn, lãi suất hạ, mà áp đặt
các điều kiện về chính trị và kinh tế, buộc các nước đang phát triển phụ thuộc vào
họ.

- Đầu tư vốn ra nước ngoài nhằm giúp cho chủ vốn đầu tư phân tán rủi ro
do tình hình kinh tế chính trị trong nước bất ổn định.
- Đầu tư ra nước ngoài giúp thay đổi cơ cấu kinh tế trong nước theo
hướng hiệu quả hơn, thích nghi hơn với sự phân công lao động trong xu hướng toàn
cầu hóa.
- Cơ chế quản lý hoạt động đầu tư ở các nước khác nhau, sự đầu tư vốn ở
nhiều nước giúp cho các công ty đầu tư quốc gia có thể thực hiện “chuyển giá” để
tránh mức thuế cao nhằm tối ưu hóa lợi nhuận đầu tư.
* Đối với các nước nhận đầu tư
Hiện nay dòng chảy vốn đầu tư đang diễn ra đối với cả các nước phát
triển và các nước đang phát triển. Đối với cả nước phát triển và các nước đang phát
triển đều có vai trò quan trọng.
- Giúp giải quyết những vấn đề khó khăn về kinh tế xã hội trong nước
như thất nghiệp, lạm phát.
- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp, tăng tỷ trọng của những ngành quan
trọng cho sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài góp phần làm thay đổi: Cơ cấu ngành kinh
tế của nước nhận đầu tư, từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp và dịch
vụ; Thay đổi cơ cấu bên trong một ngành sản xuất, từ năng suất thấp công nghệ lạc
hậu, sử dụng nhiều lao động sang năng suất cao, công nghệ hiện đại, ít lao động
nhưng chất lượng, trình độ cao; Thay đổi cơ cấu bên trong một lĩnh vực sản xuất, từ
sản xuất lĩnh vực có hàm lượng công nghệ thấp sang lĩnh vực
sản xuất áp dụng công nghệ tiên tiến, có hàm lượng khoa học kĩ thuật
cao. Từ đó năng lực sản xuất trong nền kinh tế được nâng cao, thể hiện rõ ràng nhất
trong sản xuất công nghiệp, những ngành quan trọng cần thiết để phát triển kinh tế
vì thế cũng được chú trọng đầu tư hiệu quả chất lượng hơn.
- Nguồn vốn nước ngoài giúp nước nhận đầu tư có thể quan tâm toàn
diện hơn tới các mục tiêu xã hội tạo nền tảng vững chắc để nền kinh tế tăng trưởng
và phát triển lâu dài.



giải quyết thêm một lượng lớn công ăn việc làm cho người lao động trên
quy mô toàn xã hội, tỉ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế được cải thiện, các vấn đề về
tệ nạn xã hội, nghèo đói vì thế giảm đáng kể.
hỗ trợ các nước đang và chậm phát triển thực hiện chiến lược xóa đói
giảm nghèo (ODA)
- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài góp phần thúc đẩy quá trình chuyển giao
công nghệ, nâng cao trình độ khoa học công nghệ của nước nhận đầu tư để từ đó,
tạo đà tăng trưởng phát triển kinh tế.
thông qua chuyển giao công nghệ, phổ biến công nghệ và phát minh công
nghệ. Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài luôn mang theo công nghệ sản xuất cao
vào nước tiếp nhận đầu tư, khi đó, nước sở tại sẽ có cơ hội được tiếp cận và học hỏi
các công nghệ cao này. Từ đó, năng lực sản xuất và năng suất lao động được cải
thiện và các sản phẩm sản suất trong nước sẽ nâng cao được tính cạnh trạnh trên thị
trường thế giới
- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài góp phần đào tạo nguồn nhân lực có
chất lượng cao, đảm bảo nhu cầu cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển.
Các dự án có vốn đầu tư nước ngoài phần lớn muốn tận dụng nguồn lao
động đông, giá rẻ ở nước nhận đầu tư. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu về trình độ
tay nghề, các doanh nghiệp FDI sẽ phải đào tạo để người lao động có trình độ
chuyên môn cao, tay nghề giỏi, có năng lực quản lí để sử dụng trong doanh nghiệp
của họ.
Mặt khác, trong sự vận hành của nền kinh tế luôn tồn tại dòng chuyển
dịch lao động từ khu vực này sang khu vực khác. Một số lượng không nhỏ lao động
trình độ cao từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển dịch sang
khu vực có vốn đầu tư trong nước. Nguồn lao động trong khu vực đầu tư trong nước
vì thế cũng được nâng cấp, cải thiện.
Câu 4.2: Giải pháp phát triển thương mại quốc tế của Việt Nam
Thương mại quốc tế là hoạt động trao đổi mua bán hàng hoá và dịch vụ

giữa các nước với nhau, là sự phụ thuộc giữa các quốc gia vào phân công lao động
quốc tế trên cơ sở khai thác được các lợi thế của đất nước trong quan hệ kinh tế
quốc tế nhằm đạt được lợi ích kinh tế tối đa, phát triển kinh tế trong nước và tham
gia vào phân công lao động và chuyên môn hoá quốc tế.
những năm qua, Việt Nam đã tận dụng khá tốt các cơ hội do tiến trình hội
nhập quốc tế và việc gia nhập WTO mang lại. Cụ thể:
+ Kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng trưởng, bằng khoảng 70% GDP của
cả nước, giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu
bình quân giai đoạn 2007 - 2012 đạt vào khoảng 20,4%. năm 2012 đạt 114,6 tỷ
USD, tăng 18,3% so với năm 2011.
+ Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam khá đa dạng và bước đầu
có sự chuyển dịch tích cực: tăng dần tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp chế biến từ
60% năm 2007 lên khoảng 65% năm 2012, giảm nhanh nhóm hàng nhiên liệu
khoáng sản từ 19,5% xuống còn khoảng 10,3%, tỷ trọng nhóm hàng nông sản, thủy
sản giữ ở mức khoảng 20%.
+ Thị trường xuất khẩu hàng hóa ngày càng trở nên đa dạng hơn. Hàng
hóa Việt Nam đã thâm nhập sâu hơn vào các thị trường trọng điểm, giá trị xuất khẩu
tăng trên hầu hết trên các thị trường và ít có biểu hiện chuyển hướng thương mại
dưới tác động của những hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đã tham
gia. Một số mặt hàng được hưởng lợi từ các thỏa thuận của FTA còn có bước tăng


trưởng xuất khẩu đột biến như xuất khẩu hàng dệt may sang Hàn Quốc tăng 84%
trong năm 2009 và khoảng 70% trong năm 2010.
+ Việt Nam đã và đang tiếp tục hội nhập thương mại khu vực sâu rộng
hơn trong khung khổ 6 FTA khu vực. Tỷ trọng giá trị thương mại hai chiều giữa
Việt Nam với 15 nước đối tác đã ký FTA chiếm 58% tổng giá trị thương mại quốc tế
của Việt Nam, trong đó, chiếm gần 44% kim ngạch xuất khẩu và 69% kim ngạch
nhập khẩu (năm 2010).
+ Xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam, bao gồm du lịch, cũng tăng trưởng

mạnh. Kể từ năm 2005, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ vận tải tăng bình quân
15%/năm và dịch vụ lữ hành tăng 7,5%/năm, phản ánh đúng thực tế lượng khách
nước ngoài đến Việt Nam đã tăng hơn 1,5 lần kể từ năm 2005 đến nay.
+ Số lượng doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng
tăng, đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân và khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) gia tăng góp phần
thúc đẩy sản xuất và phát triển xuất khẩu. Khoảng 55% tổng số dự án và trên 50%
tổng số vốn FDI đã được thu hút vào những ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
sản phẩm cho xuất khẩu. Số doanh nghiệp FDI trực tiếp tham gia xuất khẩu tăng
nhanh từ 3.272 doanh nghiệp trong năm 2007 và khoảng trên 4.000 doanh nghiệp
trong năm 2010, chiếm gần 20% tổng số doanh nghiệp xuất khẩu cả nước.
Một số khó khăn, thách thức
Thứ nhất, Việt Nam là một nước đang phát triển có trình độ phát triển
kinh tế chưa cao, công tác quản lý nhà nước còn chưa hoàn thiện, doanh nghiệp và
đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé, sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ nói riêng và
của toàn bộ nền kinh tế nói chung có nhiều hạn chế, hệ thống chính sách kinh tế,
thương mại chưa hoàn chỉnh..., nên sẽ gặp khó khăn lớn trong cạnh tranh cả ở trong
nước, ngoài nước.
Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều đối thủ hơn, trên bình diện
sâu, rộng hơn. Do thực hiện những cam kết của một thành viên WTO, TPP đặc biệt
là việc phải cắt giảm mạnh thuế nhập khẩu, mở cửa sâu rộng nền kinh tế, trong đó
có việc phải mở cửa các lĩnh vực thương mại hàng hóa và dịch vụ nhạy cảm cao
như: ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, năng lượng, vận tải, chuyển phát nhanh,
nông nghiệp... bởi vậy, nguy cơ rủi ro kinh tế, tình trạng phá sản doanh nghiệp luôn
hiện hữu.
Thứ hai, công nghiệp hỗ trợ trong nước còn chậm phát triển, tỷ lệ nhập
khẩu nguyên phụ liệu khá cao nên các doanh nghiệp thường gặp bất lợi mỗi khi giá
cả thế giới biến động tăng, làm tăng chi phí sản xuất trong nước, giảm khả năng
cạnh tranh của hàng hóa.
Thứ ba, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu chuyển dịch chậm và chưa thực sự

hợp lý. Đa số các mặt hàng nông sản, khoáng sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
được xuất khẩu dưới dạng thô hoặc sơ chế, có giá trị gia tăng thấp. Nhiều ngành
hàng xuất khẩu chủ lực mang nặng tính gia công và còn phụ thuộc vào nguyên liệu
nhập khẩu. Quá trình chuyển dịch cơ cấu mặt hàng theo hướng công nghiệp hoá
diễn ra chậm, chủ yếu vẫn là chuyển dịch theo chiều rộng mà chưa đi vào chiều sâu.
Thứ tư, cơ cấu thị trường vẫn còn nhiều bất cập; khả năng chủ động nắm
bắt những cơ hội thuận lợi và tận dụng triệt để những lợi thế từ các hiệp định thương
mại song phương, đa phương và khu vực để thâm nhập và khai thác các thị trường
xuất khẩu còn nhiều hạn chế.
Để khắc phục những khó khăn, vượt qua thách thức, tận dụng những
cơ hội mà hội nhập quốc tế đem lại, rõ ràng cần :


Một là, phải có chính sách thương mại đúng đắn, phù hợp nhằm khai thác
triệt để lợi thế so sánh thông qua quan hệ buôn bán quốc tế để chiếm lĩnh và mở
rộng thị trường khu vực và thị trường thế giới cho mình.
Việt Nam cần hạn chế khai thác ồ ạt các tài nguyên thiên nhiên cũng như
các hoạt động chế biến gây tác hại nặng lên môi trường. khuyến khích và tạo điều
kiện cho các mặt hàng xuất khẩu thân thiện với môi trường.
Hai là, lựa chọn mặt hàng và thị trường có lợi nhất cho mình để phát triển
và mở rộng quan hệ thương mại quốc tế.
cần lựa chọn những mặt hàng có chất lượng cao xây dựng thành thương
hiệu quốc tế và những thị trường có khả năng và ưu thế riêng đối với mình để khai
thác và tham gia xuất, nhập khẩu buôn bán thương mại, dịch vụ, trên cơ sở đó từng
bước giành chỗ đứng trên thị trường thế giới.
Về mặt nhập khẩu, cần phải tránh các công nghệ cũ đang bị các nước
khác loại bỏ và tìm cách bán tháo. Bên cạnh đó, cần khuyến khích nhập khẩu các
công nghệ phục vụ cho quá trình phát triển các ngành công nghiệp phù hợp với phát
triển bền vững, chẳng hạn như điện gió và năng lượng mặt trời.
Ba là, hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động thương mại cả ở thị

trường trong nước và thị trường ngoài nước.
Bốn là, thực hiện tốt các cam kết với WTO, APEC, TPP, AEC và các cam
kết song phương khác về thương mại. Việt Nam cũng cần sử dụng các biện pháp tự
vệ, chống bán phá giá, và chống bán trợ giá để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các
nhà sản xuất trong nước khi tình thế đòi hỏi. Theo đó, Chính phủ cần tạo điều kiện
thông tin tốt để các nhà sản xuất trong nước nắm rõ luật lệ nhằm tạo ra những áp lực
cần thiết khi họ phải gánh chịu những hậu quả nặng nề của nhập khẩu ồ ạt.
Năm là, phát huy tốt vai trò quản lý và điều tiết của Nhà nước về thương
mại.
Đẩy mạnh phát triển thương mại quốc tế là xu hướng tất yếu của tất cả
các nước trên thế giới; do năng lực sản xuất ngày càng lớn, cho nên luôn luôn ở tình
trạng thiếu thị trường thế giới tiêu thụ sản phẩm có lợi nhất. Hoạt động thương mại
quốc tế ngày càng mở rộng và cạnh tranh thị trường thế giới ngày càng gay gắt là tất
yếu. Để có lợi thế trong quan hệ thương mại thế giới, chen chân được vào thị trường
thế giới và bảo đảm không thất bại thì Nhà nước cần có những chính sách thương
mại quốc tế khôn khéo, linh hoạt, mềm dẻo, vừa phù hợp với điều kiện trong nước,
vừa phù hợp thông lệ quốc tế, vừa đảm bảo luật pháp quốc gia, vừa đảm bảo luật lệ
của “sân chơi” thị trường quốc tế.
Câu 5.1: Ưu, hạn chế của FDI
Đầu tư trực tiếp (FDI) là một loại hình đầu tư quốc tế, trong đó chủ đầu tư
của một nền kinh tế đóng góp một số vốn hoặc tài sản đủ lớn vào một nền kinh tế
khác để sở hữu hoặc điều hành, kiểm soát đối tượng họ bỏ vốn đầu tư nhằm mục
đích lợi nhuận hoặc các lợi ích kinh tế khác
Ưu điểm và hạn chế của đầu tư trực tiếp
* Ưu điểm
- Đối với nhà đầu tư nước ngoài:
+ Cho phép chủ đầu tư nước ngoài ở mức độ nhất định (phụ thuộc vào tỷ
lệ góp vốn) tham dự vào điều hành quá trình kinh doanh của xí nghiệp. Từ đó, họ
trực tiếp kiểm soát sự hoạt động và kịp thời đưa ra những quyết định có lợi nhất cho
vốn đầu tư mà họ bỏ ra.



+ Giúp cho các chủ đầu tư nước ngoài dễ chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ
và nguồn cung cấp nguyên liệu chủ yếu của nước chủ nhà, khai thác lợi thế so sánh
ở các nước này.
+ Lợi dụng cơ chế quản lý thuế đối với hoạt động đầu tư ở các nước khác
nhau, các nhà đầu tư mở các công ty con ở các nước khác nhau để thực hiện
“chuyển giá” nhằm tối đa hóa lợi nhuận.
+ Tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch vì thông qua đầu tư trực tiếp, họ
tạo được các xí nghiệp ở các nước thi hành chính sách bảo hộ mậu dịch.
- Đối với các nước tiếp nhận đầu tư:
+ Bổ sung nguồn vốn trong nước và là động lực thúc đẩy quá trình luân
chuyển ở nước sở tại. Vì khi bỏ vốn đầu tư, chủ đầu tư luôn tìm kiếm những giải
pháp mới về quản lý công nghệ sử dụng, đồng thời tận dụng tài nguyên của nước sở
tại. Từ đó, các doanh nghiệp trong nước có nhiều cơ hội tiếp nhận vốn và công nghệ
mới của nước ngoài.
+ Thúc đẩy quá trình sử dụng vốn nội địa linh hoạt và hiệu quả hơn. khi
tiếp nhận FDI, nước chủ nhà phải tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước
ngoài để họ sản xuất như ở trong nước. Từ đó, ngành vận tải nội địa mạnh hơn
nhằm đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
+ Tạo điều kiện để doanh nghiệp trong nước tiếp cận với thị trường thế
giới; giúp nước nhận đầu tư mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa và là cầu nối trung
gian giúp cho doanh nghiệp xuất, nhập khẩu vươn ra thị trường bên ngoài.
+ Giúp tiếp thu được công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý kinh
doanh của các chủ đầu tư nước ngoài; là nhân tố tác động mạnh đến quá trình quản
lý và đào tạo nhân lực
+ Đẩy nhanh tiến trình hội nhập của quốc gia với nền kinh tế thế giới vì
đầu tư trực tiếp là nhân tố tác động mạnh đến tiến trình hoàn thiện thể chế, chính
sách đến môi trường đầu tư.
+ Góp phần thay đổi cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp và dịch

vụ làm cho tính hiệu quả của sự phát triển kinh tế được nâng lên;
+ góp phần nâng cao mức sống của nước tiếp nhận đầu tư thông qua giải
quyết việc làm, tăng thu nhập, tạo đội ngũ lao động cố trình độ và tay nghề.
* Hạn chế:
- Nếu tổng vốn FDI lớn hơn 50% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, các công ty
nước ngoài sẽ chi phối hoạt động kinh tế, làm ảnh hưởng đến tính tự chủ của nước
nhận đầu tư.
- Những nước có nền kinh tế chưa đủ mạnh, sản xuất trong nước dễ bị lấn
át, đầu tư trong nước sụt giảm do môi trường cạnh tranh khốc liệt bởi các chủ đầu tư
nước ngoài tạo ra.
- Những nước chậm phát triển dễ rơi vào tình trạng nhập khẩu thiết bị lạc
hậu do chưa đủ trình độ kiểm tra, thẩm định phần giá trị sử dụng còn lại của thiết bị
đó.
- Nếu đầu tư vào môi trường bất ổn định về kinh tế và chính trị chủ đầu tư
nước ngoài dễ bị mất vốn…rice
- Nước chủ nhà không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học dẫn
tới sự đầu tư tràn lan kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị bóc lột quá mức và
nạn ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.


Câu 5.2: Quan điểm và giải pháp của nhà nước Việt Nam về thu hút
đầu tư nước ngoài
*. Quan điểm cơ bản của nhà nước khi xây dựng chính sách thu hút vốn
đầu tư
- Coi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như một bộ phận hữu cơ của
nền kinh tế; được đối sử bình đẳng
- Bảo đảm quyền lợi cho các nhà đầu tư:
- Bảo đảm quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh của chủ đầu tư.
- Bảo đảm lợi ích quốc gia trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, môi
trường và đời sống xã hội đồng thời cam kết thực hiện đầy đủ những cam kết quốc

tế trong quá trình hội nhập.
- Triệt để khai thác thế mạnh của các bên đầu tư về vốn, kỹ thuật vào việc
đào tạo tay nghề công nhân; nâng cao trình độ quản lý, kinh doanh và thương mại
cho đội ngũ các nhà quản trị kinh doanh Việt Nam
*. Mục đích thu hút đầu tư nước ngoài của Chính phủ Việt Nam
- Tận dụng vốn của nước ngoài, bổ sung cho nguồn vốn đầu tư trong nước
- Tiếp thu công nghệ mới và học tập kinh nghiệm của nước ngoài
- Sử dụng có hiệu quả tiềm năng của đất nước
*. Giải pháp tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài vào nước ta trong
thời gian tới
Để phát huy hơn nữa vai trò tích cực đồng thời khắc phục những hạn chế
của đầu tư nước ngoài, trên cơ sở những định hướng cho giai đoạn mới, thời gian
tới, chúng ta cần tập trung vào một số giải pháp chủ yếu sau đây:
- Hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư
+ Tổng rà soát toàn bộ hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư, đồng thời
kiến nghị phương án xử lý nhằm tạo dựng môi trường kinh doanh đồng bộ, rõ ràng
và đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước.
+ Nghiên cứu, ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng một số cam kết chưa
có cách hiểu thống nhất.
- Sửa đổi một cách căn bản chính sách ưu đãi và cơ quan xây dựng chính
sách ưu đãi đầu tư
Chính sách ưu đãi được xây dựng trên nguyên tắc hậu kiểm có điều kiện
và thời hạn, thay vì phương thức tiền kiểm như hiện nay với định hướng là tập trung
ưu tiên vào ngành, lĩnh vực cần phát triển, vào các dự án đầu tư trong KCN, KKT.
cần quy định thêm cơ chế ưu đãi thỏa thuận để áp dụng đối với các dự án
đặc thù.
- Đổi mới công tác xúc tiến đầu tư
+ Tăng cường thống nhất điều phối các hoạt động xúc tiến đầu tư ở trong
nước và nước ngoài.
+ Nội dung xúc tiến đầu tư phải đảm bảo nguyên tắc xúc tiến đầu tư theo

vùng và liên vùng, có trọng tâm, trọng điểm, mang tầm quốc gia, chuyên đề theo
lĩnh vực chuyên sâu bám theo chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu, phù hợp với định
hướng đầu tư nước ngoài, gắn với thị trường, đối tác cụ thể và đáp ứng sự quan tâm
của nhà đầu tư.
- Hoàn thiện quy trình cấp giấy chứng nhận đầu tư. Đối với các dự án đầu
tư nước ngoài khai thác nguồn tài nguyên, cần phải thận trọng trong việc chọn nhà
đầu tư gắn khai thác với chế biến sâu, tạo ra giá trị gia tăng cao bằng công nghệ,
thiết bị hiện đại và hệ thống xử lý môi trường để sử dụng nguồn tài nguyên có hiệu
quả.


- Tiếp tục hoàn thiện quy định nhằm kiểm soát công nghệ và môi trường
- Các cơ quan quản lý nhà nước định kỳ đánh giá hoạt động đầu tư
- Tăng cường năng lực cho cán bộ về đầu tư nước ngoài
Câu 6.1: Xu hướng phát triển khoa học và công nghệ hiện nay
Một là, liên kết, hợp tác và phân công lao động quốc tế trong nghiên
cứu khoa học và công nghệ ngày càng tăng
Hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học và công nghệ cho phép các
chủ thể, các quốc gia khai thác được các thành quả nghiên cứu mới về khoa học và
công nghệ của thế giới, tận dụng được vốn, công nghệ, nhân lực của đối tác và để
phát huy lợi thế so sánh của mình trong nghiên cứu khoa học và công nghệ. Mức độ
hợp tác quốc tế tùy thuộc vào tiềm lực và khả năng khoa học và công nghệ của mỗi
quốc gia.
Thông thường những nước đang phát triển tham gia tích cực hơn trong
hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ. Trên cơ sở ưu thế của mình về năng lực
khoa học và công nghệ, từng quốc gia, doanh nghiệp tham gia vào quá trình nghiên
cứu khoa học và công nghệ toàn cầu sẽ chuyên môn hoá vào các lĩnh vực nghiên
cứu chính và phối hợp với nhau trong việc triển khai các hoạt động nghiên cứu khoa
học và công nghệ nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trên phạm vi quốc tế.
Hai là, hướng phát triển vào những ngành tăng trưởng mới là công

nghệ môi trường, công nghệ sinh học, công nghệ nano... trong hoạt động khoa
học và công nghệ
Nghiên cứu trong công nghệ môi trường có thể giúp đạt được các mục
tiêu bảo vệ môi trường như giảm nhẹ biến đổi khí hậu, kiểm soát ô nhiễm không
khí và nước, nâng cao đa dạng sinh học và nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên
thiên nhiên. Công nghệ sinh học giúp đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế và xã
hội bền vững , Công nghệ nano giúp thu nhỏ các thiết bị công nghệ thông tin, phát
triển nghiên cứu bộ gen và góp phần sản sinh ra năng lượng tái tạo.
Ba là, gia tăng đầu tư cho khoa học và công nghệ
Đầu tư cho khoa học và công nghệ của các doanh nghiệp trên thế giới đã
tăng lên đáng kể từ những năm 80 của thế kỷ trước. Xu thế này được đẩy mạnh lên
trong những năm 1990 với sự gia tăng các giao dịch quốc tế về khoa học và công
nghệ.
Bốn là, tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và thống nhất theo
các quy định, tiêu chuẩn quốc tế trong các hoạt động khoa học và công nghệ
Khi tham gia vào quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, các
quốc gia, các doanh nghiệp đều phải thực hiện việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối
với hàng hoá khoa học và công nghệ theo các quy định quốc tế. nhằm hạn chế tối đa
hàng giả và sự sao chép không trả tiền hàng hoá khoa học và công nghệ ở các nước
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ yếu. Điều này buộc các nước và các chủ thể khi tham
gia vào quá trình nghiên cứu khoa học và công nghệ quốc tế phải tuân thủ những
quy định, khuôn khổ, chế độ và tiêu chuẩn quốc tế trong các hiệp định, điều ước
quốc tế đã ký kết.
Năm là, tự do hoá các hoạt động khoa học và công nghệ quốc tế
Theo xu hướng này, các nguồn lực và công nghệ của các quốc gia, chủ
thể, doanh nghiệp sẽ vượt ra khỏi biên giới của một quốc gia, lưu thông, dịch
chuyển trên quy mô quốc tế, góp phần thúc đẩy sự phát triển của các hoạt động
khoa học và công nghệ toàn cầu.Trong xu hướng tự do hóa các hoạt động khoa học
và công nghệ, các công ty xuyên quốc gia có vai trò quan trọng. (1) Xu hướng tập



trung vào các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ tiên tiến để khai thác nguồn nhân
lực chất lượng cao và đáp ứng nhu cầu thị trường nước sở tại. (2) Xu hướng đầu tư
của các công ty xuyên quốc gia vào các nước đang phát triển nhằm khai thác tài
nguyên và nguồn nhân lực có kỹ năng giản đơn và chi phí thấp.
Như vậy, xu hướng phát triển của khoa học và công nghệ thế giới hiện
nay tiếp tục khẳng định tài sản trí tuệ, khoa học và công nghệ có vai trò ngày càng
quan trọng, đặc biệt là việc sản xuất ra các sản phẩm khoa học và công nghệ tiên
tiến, hiện đại, có hàm lượng tri thức cao, mang lại giá trị lớn.
Câu 6.2: đánh giá ảnh hưởng của đầu tư nước ngoài đối với việt nam
Đầu tư quốc tế là một hình thức di chuyển quốc tế về vốn, tài sản, công
nghệ, tài sản bất kỳ từ nước đầu tư sang nước tiếp nhận đầu tư để thành lập hoặc
kiểm soát doanh nghiệp nhằm mục đích kinh doanh có lãi. Đầu tư trực tiếp nước
ngoài bao gồm cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Rõ ràng,đối với cả nước nhận
đầu tư lẫn nước đi đầu tư, nguồn vốn này đều có những ưu điểm cũng như hàm
chứa những mặt tiêu cực cửa nó. Đối với việt Nam, nguồn vốn này….
Về mặt tích cực:
- bổ sung nguồn vốn đầu tư quan trọng đáp ứng nhu cầu đầu tư phát
triển xã hội và tăng trưởng kinh tế:
Có thể nói, đầu tư nước ngoài đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tỷ trọng FDI trong tổng vốn đầu
tư toàn xã hội 1991 - 2000 là 30%, 2006 - 2011 là 28%. Các doanh nghiệp FDI
đóng góp vào GDP thời kỳ 2001 - 2005 là 14,5%, tăng lên 20% năm 2010;
Tính đến 15/12/2011, vốn đăng ký mới và tăng thêm tại Việt Nam đạt
14,7 tỷ USD, bằng 74% so với năm 2010, tập trung 76,4% vào lĩnh vực công
nghiệp và xây dựng, kinh doanh bất động sản …
Góp phần mở rộng thị trường
Đóng góp vào nguồn ngân sách nhà nước: nộp ngân sách nhà nước năm
2010 là 3,1 tỷ USD
- góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, nâng cao

năng lực sản xuất công nghiệp:
Đầu tư quốc tế đóng một vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng của nền
kinh tế nói chung và cho ngành công nghiệp nói riêng, trong đó từng bước trở thành
nguồn đầu tư quan trọng của quốc gia, góp phần phát triển các ngành công nghiệp
ĐTQTđã tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới và tăng cường năng lực của nhiều
ngành công nghiệp như dầu khí, công nghệ thông tin, hóa chất, ô tô, xe máy, thép,
điện tử và điện tử gia dụng, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, da giày, dệt
may. … Hiện ĐTNN đóng góp 100% sản lượng của một số sản phẩm công nghiệp
(dầu khí, thiết bị máy tính, máy giặt, điều hòa), 60% cán thép, 33% hàng điện tử,
76% dụng cụ y tế chính xác, 49% sản phẩm da giày, 55% sản lượng sợi, 25% hàng
may mặc.
- Đầu tư quốc tế thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt
Nam, phát triển một số ngành kinh tế quan trọng của đất nước như viễn thông, thăm
dò và khai thác dầu khí, hoá chất, cơ khí chế tạo điện tử, tin học, ô tô, xe máy... Nhất
là sau khi Tập đoàn Intel đầu tư 1 tỷ đô la Mỹ vào Việt Nam trong dự án sản xuất
linh kiện điện tử cao cấp, đã gia tăng số lượng các dự án đầu tư vào lĩnh vực công
nghệ cao của các tập đoàn đa quốc gia (Canon, Panasonic, Ritech.v.v)
- góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm, tăng năng suất lao
động, cải thiện nguồn nhân lực. Đến nay, khu vực có vốn ĐTNN đã tạo ra việc


làm cho trên 1,2 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp khác.
Thông qua đó, từng bước hình thành đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật có
trình độ cao, có tay nghề, từng bước tiếp cận được với khoa học, kỹ thuật, công
nghệ cao và có tác phong công nghiệp hiên đại, có kỷ luật lao động tốt, học hỏi
được các phương thức, kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
- ĐTQT góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập
kinh tế với khu vực và thế giới: Đến nay, Việt Nam là thành viên chính thức của
ASEAN, APEC, ASEM và WTO. Nước ta cũng đã ký kết 51 Hiệp định khuyến
khích và bảo hộ đầu tư, trong đó có Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ

(BTA), Hiệp định tự do hoá, khuyến khích và bảo hộ đầu tư với Nhật Bản. Thông
qua tiếng nói và sự ủng hộ của các nhà đầu tư nước ngoài, hình ảnh và vị thế của
Việt Nam không ngừng được cải thiện.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tich cực thi ĐTNN cũn còn những
mặt hạn chế, cụ thể là:
Thứ nhất, hiệu quả tổng thể nguồn vốn đầu tư chưa cao.cụ thể:
- Mất cân đối vùng, miền. Các nhà đt thường tập trung vào những nơi có
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thuận lợi, các thành phố lớn, những địa phương có
cảng biển, cảng hàng không, các tỉnh đồng bằng
- CN, DV tập trung chủ yếu tập trung vào lắp ráp, giá trị gia tăng thấp, tỷ
trọng đầu tư cho nông nghiệp rất thấp và có xu hướng giảm dần
- Các dự án bất động sản lớn chậm triển khai, gây thất thoát, lãng phí lớn
Thứ hai, mục tiêu thuhuts công nghệ, chuyển giao công nghệ chưa đạt
được như kỳ vọng.
một số trường hợp các nhà ĐTNN đã lợi dụng sơ hở của pháp luật Việt
Nam, cũng như sự yếu kém trong kiểm tra giám sát tại các cửa khẩu nên đã nhập
vào Việt Nam một số máy móc thiết bị có công nghệ lạc hậu thậm chí là những phế
thải của các nước khác.
khó có thể đánh giá chính xác giá trị thực của từng loại công nghệ trong
những ngành khác nhau, đặc biệt trong những ngành công nghệ cao. Do vậy,
thường phải thông qua thương lượng theo hình thức mặc cả đến khi hai bên có thể
chấp nhận được, thì ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ.
Thứ ba, số việc làm chưa tương xứng, đời sống người lao động chưa cao,
tranh chấp và đình công có xu hướng gia tăng
Thứ tư, Hiệu úng lan tỏa sang khu vực khác của nền kinh tế òn hạn chế
Thứ năm, Một số dự án chưa bảo đảm tính bền vững , gây ô nhiễm môi
trường, tiêu ton tài nguyên.
Thứ sáu, Có hiện tượng chuyển giá, trốn thuế: 2 mỏ vàng ở quảng nam,
cocacola…




×