Tải bản đầy đủ (.ppt) (25 trang)

KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.09 KB, 25 trang )

KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM
SAU 1975


I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ, XÃ HỘI, VĂN HÓA
VIỆT NAM SAU 1975
 Kỷ nguyên hòa bình, thống nhất và sự trở lại của cuộc sống đời

thường, những khát vọng hạnh phúc, tự do muôn thuở của con người
cá nhân.
 Cơ chế thị trường và quá trình hội nhập kinh tế - văn hóa:
-

Sự chấm dứt của nền văn hóa bao cấp và sự trở lại của đời sống văn
học dân chủ, mang tính cạnh tranh.

-

Sự du nhập ồ ạt của những luồng tư tưởng, văn hóa hiện đại trên thế
giới.

-

Sự hình thành của một công chúng đọc đa dạng, với thị hiếu thẩm mỹ
phức tạp.







II. QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG CỦA NỀN
VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975
1. 1975 – 1985: Giai đoạn chuyển tiếp từ nền văn học cách mạng trong chiến tranh sang nền
văn học thời hậu chiến.
 Sau ngày đất nước thống nhất, lịch sử VN chuyển qua một thời đại mới, nhưng văn học

nghệ thuật vẫn vận động theo quán tính của văn học thời chiến, với khuynh hướng sử thi
và cảm hứng lãng mạn.
 Diễn ra sự vận động ngầm của đời sống văn học, với những trăn trở vật vã, tìm tòi thầm

lặng ở một số nhà văn mẫn cảm với đòi hỏi của cuộc sống và có ý thức trách nhiệm cao
về ngòi bút của mình. Đó là những người đi tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học.
 Tác phẩm tiêu biểu: kịch Rừng trúc (1978) và Nguyễn Trãi ở Đông Quan (1979) của

Nguyễn Đình Thi, tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê
(1985) của Nguyễn Minh Châu, tiểu thuyết Gặp gỡ cuối năm (1981) của Nguyễn Khải, kịch
Hồn Trương Ba da hàng thịt (1984), Tôi và chúng ta (1985) của Lưu Quang Vũ, tập thơ
Ánh trăng (1984) của Nguyễn Duy, tập thơ Tự hát (1984) của Xuân Quỳnh, tập thơ Hoa
trên đá (1984) của Chế Lan Viên, tập thơ Người đàn bà ngồi đan (1985) của Ý Nhi…


Ánh trăng
(Nguyễn Duy)
Hồi nhỏ sống với đồng 
với sông rồi với biển 
hồi chiến tranh ở rừng 
vầng trăng thành tri kỷ 

Thình lình đèn điện tắt 
phòng buyn-đinh tối om 

vội bật tung cửa sổ 
đột ngột vầng trăng tròn 

Trần trụi với thiên nhiên 
hồn nhiên như cây cỏ 
ngỡ không bao giờ quên 
cái vầng trăng tình nghĩa 

Ngửa mặt lên nhìn mặt 
có cái gì rưng rưng 
như là đồng là bể 
như là sông là rừng 

Từ hồi về thành phố 
quen ánh điện cửa gương 
vầng trăng đi qua ngõ 
như người dưng qua đường 

Trăng cứ tròn vành vạnh 
kể chi người vô tình 
ánh trăng im phăng phắc 
đủ cho ta giật mình
1978 


Tự hát
(Xuân Quỳnh)
Chả dại gì em ước nó bằng vàng 
Trái tim em, anh đã từng biết đấy 
Anh là người coi thường của cải 

Nên nếu cần anh bán nó đi ngay 
Em cũng không mong nó giống mặt trời 
Vì sẽ tắt khi bóng chiều đổ xuống 
Lại mình anh với đêm dài câm lặng 
Mà lòng anh xa cách với lòng em 
Em trở về đúng nghĩa trái tim 
Biết làm sống những hồng cầu đã chết 
Biết lấy lại những gì đã mất 
Biết rút gần khoảng cách của yêu tin 
Em trở về đúng nghĩa trái-tim-em 
Biết khao khát những điều anh mơ ước 
Biết xúc động qua nhiều nhận thức 
Biết yêu anh và biết được anh yêu 

Mùa thu nay sao bão giông nhiều 
Những cửa sổ con tàu chẳng đóng 
Dải đồng hoang và đại ngàn tối sẫm 
Em lạc loài giữa sâu thẳm rừng anh 
Em lo âu trước xa tắp đường mình 
Trái tim đập những điều không thể nói 
Trái tim đập cồn cào cơn đói 
Ngọn lửa nào le lói giữa cô đơn 
Em trở về đúng nghĩa trái-tim-em 
Là máu thịt, đời thường ai chẳng có 
Cũng ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa 
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi.
1984


II. QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG CỦA NỀN

VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975
2. 1986 – 1991: Đổi mới toàn diện và sôi nổi trên tất cả mọi lĩnh vực của văn học nghệ
thuật.
 Từ năm 86 trở đi, những cuộc tranh luận về văn học diễn ra sôi nổi nhờ bầu không

khí tương đối dân chủ, lành mạnh, tạo nên sự khởi sắc và đổi mới mạnh mẽ, quyết
liệt trong sáng tác văn học cũng như mọi lĩnh vực nghệ thuật khác.
 Một loạt phóng sự về những thực trạng nhức nhối trong xã hội, đặc biệt là tình hình ở

nông thôn: Lời khai của bị can (1987) của Trần Huy Quang, Tiếng kêu cứu của một
vùng văn hóa (1988) của Võ Văn Trực, Cái đêm hôm ấy đêm gì... (1987) của Phùng Gia
Lộc…
 Truyện ngắn và tiểu thuyết nở rộ, tập trung phản ánh những xung đột, khủng hoảng

dữ dội của xã hội và tâm hồn con người: tiểu thuyết Thời xa vắng (1986) của Lê Lựu,
tập truyện ngắn Tướng về hưu (1988) của Nguyễn Huy Thiệp, tiểu thuyết Bến không
chồng (1990) của Dương Hướng, tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma (1990) của
Nguyễn Khắc Trường, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (1990) của Bảo Ninh…


II. QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG CỦA NỀN
VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975
3. Từ 1992 đến nay: Quá trình đổi mới chậm và trầm lắng lại, đi vào chiều sâu.
 Cao trào đổi mới của văn học Việt Nam dần chậm lại, chuyển sang những tìm tòi về

hình thức nghệ thuật.
 Vẫn xuất hiện những tác phẩm đáng chú ý như tập truyện ngắn Khi người ta trẻ

(1993) của Phan Thị Vàng Anh, tiểu thuyết Hồ Quý Ly (2001) của Nguyễn Xuân
Khánh, tiểu thuyết Cơ hội của Chúa (1999) của Nguyễn Việt Hà, truyện ngắn Cánh

đồng bất tận (2003) của Nguyễn Ngọc Tư, tập truyện Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ
(2000) của Nguyễn Ngọc Thuần, tiểu thuyết Mười lẻ một đêm (2006) của Hồ Anh
Thái, hồi ký Thượng đế thì cười (2003) của Nguyễn Khải…
 Cuộc “nổi loạn” trong văn học của một số cây bút rất trẻ như Vi Thuỳ Linh, Phan

Huyền Thư, Nguyễn Hữu Hồng Minh... khuấy động đời sống văn học.


Người dệt tầm gai
(Vi Thùy Linh)
Chúng mình ở hai miền 
Ngày nào em cũng khóc.... 
Anh yêu của em 
Em yêu anh cuồng điên 
Yêu đến tan cả em ra 
Ào tung ký ức 
Ngày dài hơn mùa 
Em mong mỏi 
Em (có lúc) như một tội đồ nông nổi 
...
Em là người dệt tầm gai... 
Em nhẫn nại chắt chiu từng niềm vui 
Nhưng lại gặp rất nhiều nỗi khổ 
Truân chuyên đè lên thanh thản 
Ôi sự trái ngược - những sợi tầm gai ! 
Không kỳ vọng những điều lớn lao 
Em lặng lẽ dệt hạnh phúc từ những nỗi buồn những sợi tầm gai - không ai nhìn thấy 

Gai tầm gai đâm em đau đớn 
Em chờ anh mãi... 

Tưởng chừng không thể vượt qua nổi cái lạnh,
em đã khóc trên hai bàn tay trầy xước 
Những giọt tâm hồn thấm xót mười ngón tay
rớm máu 
Ngay cả khi anh làm em buồn thảng thốt 
Em vẫn hướng về anh bằng tình yêu trọn vẹn
của mình 
Dệt tầm gai đến bao giờ? 
Mỗi ngày dài hơn một mùa 
Dệt tầm gai đến bao giờ? 
Về đi anh! 
Cài then những ngón tay trầy xước của em
bằng Anh!


III. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA
VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975
1. Văn học vận động theo hướng dân chủ hóa
 Về quan niệm nghệ thuật: Văn học là phương tiện biểu hiện tư tưởng, quan niệm,

chính kiến riêng của nghệ sĩ, không còn tuyên truyền cho một tư tưởng có sẵn mà
còn ý thức về chân lý của các quan niệm khác.
 Về đề tài: Văn học không chỉ tập trung vào hiện thực cách mạng, các biến cố lịch

sử, mà còn tập trung vào hiện thực của đời sống hằng ngày với các quan hệ thế sự
phức tạp, hiện thực của đời sống cá nhân với những vấn đề riêng tư, số phận,
nhân cách, khát vọng…
 Về bút pháp: Văn học mạnh dạn từ bỏ lối viết hoa mỹ, tô hồng một thời để đáp ứng

nhu cầu hiện đại của công chúng, chấp nhận ngôn ngữ đời thường, thông tục, táo

bạo.


VIỆT NAM ƠI
Lưu Quang Vũ

Những áo quần rách rưới
Những hàng cây đắm mình vào bóng tối
Chiều mờ sương leo lắt đèn dầu
Lũ trẻ ngồi quanh mâm gỗ
Lèo tèo mì luộc canh rau
 

Mấy mươi năm vẫn mái tranh này
Dòng sông đen nước cạn
Tiếng loa đầu dốc lạnh
Tin chiến trận miền xa
 

Những người đi chưa về
Những quả bom hầm hào sụt lở
Những tên tướng những lời hăm dọa
Người ta định làm gì Người nữa
Việt Nam ơi?
 

Mấy mươi năm đã mấy lớp người
Chia lìa gục ngã
Đã tận cùng nỗi khổ
Người ta còn muốn gì Người nữa

Việt Nam ơi?
Người đau thương, tôi gắng gượng mỉm cười
Gắng tin tưởng nhưng lòng tôi có hạn
Chiều nay lạnh, tôi nghẹn ngào muốn khóc
Xin Người tha thứ, Việt Nam ơi

Tổ quốc là nơi tỏa bóng yên vui
Nơi nghĩ đến lòng ta yên tĩnh nhất
Nhưng nghĩ đến Người lòng tôi rách nát
Xin Người đừng trách giận, Việt Nam ơi
 

Tôi làm sao sống được nếu xa Người
Như giọt nước bậu vào bụi cỏ
Như châu chấu ôm ghì bông lúa
Người đẩy ra tôi lại bám lấy Người
Không vì thế mà Người khinh tôi chứ
Việt Nam ơi
 

Không vì tôi đau khổ rã rời
Mà Người ghét bỏ?
Xin Người đừng nhìn tôi như kẻ lạ
Xin Người đừng ghẻ lạnh, Việt Nam ơi
Người có triệu chúng tôi, tôi chỉ có một Người
Tất cả sẽ ra sao
Mảnh đất nghèo máu ứa?
Người sẽ đi đến đâu
Hả Việt Nam khốn khổ?
Đến bao giờ bông lúa

Là tình yêu của Người?
 

Đến bao giờ ngày vui
Như chim về bên cửa?
Đến bao giờ Người mới được nghỉ ngơi
Trong nắng ấm và tiếng cười trẻ nhỏ?
Đến bao giờ đến bao giờ nữa
Việt Nam ơi?


Người đàn bà ngồi đan
(Ý Nhi)
Giữa chiều lạnh 
Một người đàn bà ngồi đan bên cửa
sổ 
Vẻ vừa nhẫn nại vừa vội vã 
Nhẫn nại như thể đó là việc phải làm
suốt đời 
Vội vã như thể đó là lần sau chót
Không thở dài 
không mỉm cười 
Chị đang giữ kín đau thương 
Hay là hạnh phúc 
Lòng chị đang tràn đầy niềm tin 
Hay là ngờ vực 

Không một lần nào chị ngẩng nhìn lên 
Chị đang qua những phút giây trước lần gặp
mặt 

Hay sau buổi chia ly 
Trong mũi đan kia ẩn giấu niềm hân hoan hay
nỗi lo âu 
Trong đôi mắt kia là chán chường hay hy vọng 
Giữa chiều lạnh 
Một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ 
Dưới chân chị 
Cuộn len như quả cầu xanh 
Đang lăn những vòng chậm rãi
(1-1984) 


Thị Mầu
(Anh Ngọc)
Người mấy trăm năm làm rung chuyển
những sân đình
Làm điên đảo những phông màn khép mở
Người táo bạo
Người không hề biết sợ
Người chưa từng lùi bước trước tình yêu

Người đi qua nghiêng ngả những trận cười
Chấp tất cả lời ong ve mai mỉa
Người chịu hết mọi thói đời độc địa
Chiếc quạt màu khép mở vẫn ung dung
Trên môi người câu hát cứ trẻ trung
Từng sợi tóc cũng rung theo nhịp phách
Mùi táo chín, mùi hương, mùi da thịt
Người đi qua sân khấu tới đời thường


Người sống trong hơi thở của nhân dân
Mấy trăm năm ai để thương để giận
Người phá tung khuôn khổ những điệu chèo
Câu sa lệch cũng hò reo nổi loạn
Để cuộc sống ùa lên đầu cửa miệng
Người trung thực đến không cần giấu giếm Nhịp trống gầm lên những khát vọng không lời
Cặp môi hồng con mắt ướt đong đưa
Người cả gan sàm sỡ cả cửa chùa
Chọn sắc áo cà sa mà chọc ghẹo
Thừa sinh lực nên người luôn túng thiếu
Nên hương trầm tiếng mõ khéo trêu ngươi

Những khát vọng nằm sâu trong mỗi trái tim người
Được sống đúng với lòng mình thực chất
Những xiềng xích phết màu sơn đạo đức
Mấy trăm năm không khóa nổi Thị Màu
Những cánh màn đã khép lại đằng sau
Táo vẫn rụng sân đình không ai nhặt
Bao Thị Màu đã trở về đời thực
Vị táo còn chua mãi ở đầu môi . 


III. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA
VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975
2. Sự thức tỉnh ý thức cá nhân trên tinh thần nhân bản, dẫn đến sự nổi trội của
khuynh hướng thế sự - đời tư


Sự phê phán, hoài nghi và mỉa mai đối với những giá trị cũ, sự sụp đổ của các
thần tượng cũ.




Nỗi buồn, sự ưu tư gắn với một thực tại rối ren phức tạp, với những bi kịch nhân
sinh trong hiện thực đời sống.



Xuất hiện quan niệm mới về con người như một thực thể phức tạp, đa chiều, đa
diện; khuynh hướng tự vấn ngày càng nổi trội.


ĐƯỜNG TỚI THÀNH PHỐ
Hữu Thỉnh

… Chị đợi chờ quay mặt vào đêm
Hai mươi năm mong trời chóng tối
Hai mươi năm cơm phần để nguội
Thôi tết đừng về nữa chị tôi buồn
Thôi đừng ai mừng tuổi chị tôi
Chị tôi không trẻ nữa, xóm làng thương ý tứ vẫn
kêu cô
Xóm làng thương không khoe con trước mặt
Hai mươi năm chị tôi đi đò đầy
Cứ sợ đắm vì mình còn nhan sắc
Vẫn được tiếng là người đứng vậy
Nhưng anh tôi vẫn còn
Anh tôi che cho ngọn đèn khỏi tắt
Hai mươi năm áo gấm đi đêm
Chị màu mỡ mà anh tôi chẳng biết

Nhưng chị tôi không thể làm như con rắn que cời
Lột cái xác già nua dưới gốc cây cậm quẫy
Chị thiếu anh nên chị bị thừa ra
Trong giỗ tết họ hàng nội ngoại
Bao nhiêu tiếng cười vẫn côi cui một mình

Những đêm trở trời trái gió
Tay nọ ấp tay kia
Súng thon thót ngoài đồn dân vệ
Một mình một mâm cơm
Ngồi bên nào cũng lệch
Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền
Chị vẫn nhớ anh và mong anh như thế
Và chị buồn như bông điệp xé đôi
Rằng tuổi trẻ không bao giờ trở lại
Anh đã nghe và cây cỏ cũng nghe
Cây thương anh làm vành lá ngụy trang
Dù vẫn biết không mát bằng bóng chị
Dù vẫn biết không ấm bằng tóc chị
Cỏ mùa khô một buổi vẫn tưng bừng
Chị thổi ù dằng dặc suốt đời anh
Chiếc khăn tay muốn làm buồm náo nức
Chiếc khăn tay của một thời nước mắt
Sẽ tung cờ hạnh phúc trước hàng hiên
Nhưng đêm nay chị vẫn còn buồn
Nhẫn vẫn lỏng ngón tay khô héo



GIỮA HAI CHIỀU QUÊN NHỚ

                                       Bùi Sim Sim
Chưa đủ nhớ để gọi là yêu
Chưa đủ quên mà thành xa lạ
Anh ám ảnh em hai chiều nghiệt ngã
Nghiêng bên này lại chống chếnh bên kia.
Ngôi sao nào thổn thức giữa trời khuya
Dịu dàng quá lời thì thầm của gió!
Ngủ ngoan thôi, ngọn cỏ mềm bé nhỏ
Biết đâu chừng thiên sứ đến vây quanh...
Trái tim đa mang chở tình yêu chòng chành
Yêu với nhớ lắc lư nhịp sóng.
Anh là gì giữa bốn bề vang vọng
Em giật mình khi thốt gọi thành tên.


BÙA LÁ
                       Nguyễn Thị Đạo Tĩnh
I.
     Lá vàng tôi thả bùa mê
Cho ai nhặt về làm chút duyên chơi
     Lỡ làng mười tám đôi mươi
Tôi đi chợ muộn kiếm cơi trầu già
Tơ vương tóc rối chân gà
Ai mua tôi bán - để mà cầu duyên…
II.
     Đợi người như đợi trăng lên
Người như chàng Cuội - người quên lối về.
    Đêm dài - đêm thả bùa mê
Cho con đom đóm bờ đê lạc đường!
III.

     Buồn tình ngồi ngắm trăng suông
Chẳng ai thương đến thì thương lấy mình.
     Lá rơi lạc xuống sân đình
Bùa yêu tôi thả cho mình tôi… yêu!


CHỒNG CHỊ CHỒNG EM
Đoàn Thị Lam Luyến
Lá bùa từ thuở Mỵ Châu
Xưa thì chị. Nay thì em

Lá bài Trọng Thuỷ còn đau đến giờ!

Phải duyên chồng vợ, nối thêm cho dài…

Tình yêu một mất, nghìn ngờ

Ngỡ ngàng nặng cả đôi vai

Khiến cho biển cứ khuất bờ trong nhau.

Những cao như núi, những dài như sông

 

Được lúa, lúa đã gặt bông

Cái phận trước, cái duyên sau

Được cải, cải đã chặt ngồng muối dưa


Nào ai tính được dài lâu với trời ?

Mặn mà cũng khác ngày xưa

Khi vui, muốn có một người

Bâng khuâng… như chửa bao giờ bén duyên

Khi buồn muốn cả đất trời sẻ chung.

 

Đã từ hai mảnh tay không

Gần được ấm, xa được êm

Kể chi mẹ ghẻ, con chung, chồng người?

Dẫm vào ruộng hóa, vụt nên mùa màng

Dở dang suốt nửa cuộc đời

Cái giần vục phải cái sàng

Bỗng dưng mọc một mặt trời trong nhau!

Xui cho hai đứa nhỡ nhàng gặp nhau .

 

Chị thản nhiên mối tình đầu
Thản nhiên em nhặt bã trầu về têm.


III. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA
VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1975
3. Văn học phát triển phong phú, đa dạng, hướng tới tính hiện đại nhưng không kém
phần phức tạp
 Nới lỏng và phá vỡ các thể thơ truyền thống, tăng cường tính chất “điệu nói” và

vắt dòng. Bùng nổ mạnh mẽ các hình thức thơ tự do, cả về khuôn khổ lẫn số
lượng.


Sự phục hồi và phát triển của các thể loại văn xuôi trước 45 (tiểu thuyết tâm lý,
phóng sự…) cùng với sự hình thành của một số thể loại mới (truyện cực ngắn).

 Sự đa dạng và phong phú được thể hiện trên nhiều bình diện: đề tài, thể loại, thủ

pháp, phong cách, khuynh hướng thẩm mỹ…
 Thái độ của công chúng đối với văn học cũng thay đổi rất nhanh: từ phản bác, có

khi quyết liệt, gay gắt đến dần dần chấp nhận và cuối cùng là có cả sự cổ vũ tuy
còn dè dặt, thăm dò.


DƯƠNG CẦM LẠNH
 
Dương Tường


Chờ em đường dương cầm khuya
ôi cái im đêm thơm mộng

Chờ em đường dương cầm xanh

 

dậy thì nõn dương cầm phố

Chờ em đường dương cầm trăng

 

ứa nhụy, lạnh dương cầm xuân

Chờ em đường dương cầm sương

 

chúm chím nụ dương cầm biếc

Chờ em đường dương cầm mưa

 

giọt giọt lá buồn dạ khúc

Chờ em đường dương cầm sim

 


vằng vặc nụ dương cầm trinh

... Xào xạc lòng tay khuya

 

Anh về lối dương cầm lạnh


VỢ ỐM
Nguyễn Duy
Kính tặng vợ nhân đầu xuân con Tuất – 1994

Vừa một xuân, lại một xuân
Vợ ơi đại hạn đã gần một năm
Một nhà là sáu miệng ăn
Một thi nhân hoá phăm phăm ngựa thồ
 
Cái lưng em, sụn bất ngờ
Tứ chi anh lõng thõng quơ rụng rời
Thông thường thượng giới rong chơi
Trần gian choang choác sự đời tuỳ em
 
Nghìn tay nghìn việc không tên
Mình em làm cõi bình yên nhẹ nhàng
Thình lình em ngã bệnh ngang
Phang anh xất bất xang bang sao đành
 
Cha con Chúa Chổm loanh quanh

Anh như nguyên thủ tanh bành quốc gia
Việc thiên, việc địa, việc nhà
Một mình anh vãi cả ba linh hồn (!)


NGƯỜI ĐẸP
Lò Ngân Sủn
Người đẹp trông như tuyết
Chạm vào lại thấy nóng
Người đẹp trông như lửa
Sờ vào lại thấy mát
Người không khát - nhìn thấy người đẹp cũng khát
Người không đói - nhìn thấy người đẹp cũng đói
Người muốn chết - gặp người đẹp lại không muốn
chết nữa
 
Ơ!
Người đẹp là ước mơ
Treo trước mắt mọi người!


×