BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
--------------------------------
NGUYỄN THỊ THANH HẢI
GIẢI PHÁP GÓP PHẦN ĐẨY MẠNH CHƯƠNG TRÌNH
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN KỲ SƠN, TỈNH HÒA BÌNH
Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp
Mã số: 60.62.01.15
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học:TS. Trần Thị Thu Hà
Hà Nội, 2014
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Nước ta là một nước nông nghiệp và trải qua lịch sử quá trình đấu tranh
lâu dài dựng nước và giữ nước, nên đã hình thành văn hóa người dân thường
sống quần tụ theo từng dòng họ và theo phạm vi làng, xã. Cùng với văn minh
lúa nước, làng (bản, thôn, xóm…) đã trở thành nét văn hóa riêng của người
Việt Nam từ muôn đời nay. Đến nay, tuy quá trình đô thị hóa đã diễn ra khá
mạnh mẽ nhưng vẫn còn hơn 70% dân số sinh sống và hơn 54% lao động làm
việc ở nông thôn.
Trong thời kỳ nào Đảng ta cũng chăm lo đến phát triển kinh tế xã hội ở
nông thôn. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), đất nước ta bước
vào công cuộc đổi mới, nền kinh tế được vận hành theo cơ chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và ngày càng mở rộng quan hệ, hội nhập
sâu hơn với kinh tế thế giới. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương,
giải pháp để hạn chế những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường và hội
nhập như triển khai thực hiện chương trình đầu tư cho các xã đặc biệt khó
khăn (Chương trình 135) và đầu tư cho các huyện nghèo theo Nghị quyết
30a/2008/NQ-CP, ngày 27/12/2008 của Chính phủ… Các địa phương cũng đã
có nhiều cố gắng để xây dựng nông thôn mới nhưng nông thôn nước ta có
phạm vi rất rộng lớn, kinh tế của nông thôn chủ yếu là sản xuất nông nghiệp
nên nhìn chung nông thôn nước ta còn rất nghèo. Cùng với đặc điểm địa hình
phức tạp, nhiều sông suối chia cắt và cách lập làng theo tập quán có từ lâu đời
nên nông thôn ta phát triển còn lộn xộn, mỗi nơi làm theo một cách, chưa theo
một chuẩn mực thống nhất nào.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về “Nông nghiệp, nông
dân và nông thôn”, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành “Bộ tiêu chí Quốc gia
về nông thôn mới” (Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009) và “Chương
2
trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới” tại Quyết định số 800/QĐTTg ngày 06/4/2010 nhằm thống nhất chỉ đạo việc xây dựng nông thôn mới
trên cả nước. Tuy thời gian triển khai thực hiện chương trình xây dựng nông
thôn mới chưa lâu nhưng các địa phương, nhất là cấp cơ sở đã bộc lộ nhiều
lúng túng, vướng mắc trong quá trình chỉ đạo thực hiện.
Kỳ Sơn là huyện miền núi của tỉnh Hòa Bình, cách thành phố Hà Nội
60 km về phía Tây Bắc. Trong những năm qua, huyện Kỳ Sơn đã đẩy mạnh
các chương trình phát triển kinh tế - xã hội nông thôn như chương trình bê
tông hóa kênh mương, làm đường nhựa, đường bê tông, xây dựng trường học,
trạm y tế và các thiết chế văn hóa, thể dục thể thao đạt chuẩn quốc gia, chuyển đổi
cơ cấu mùa vụ, cây trồng vật nuôi, phát triển làng nghề…theo hướng xây dựng
nông thôn mới. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng kết quả đạt được vẫn còn khiêm
tốn, cơ sở hạ tầng của huyện còn nhiều bất cập và xây dựng thiếu quy hoạch, Kỳ
Sơn vẫn là một huyện nghèo, kinh tế của huyện vẫn là thuần nông, sản xuất hàng
hóa chưa phát triển, đời sống của nhân dân còn hết sức khó khăn.
Triển khai thực hiện Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của
Thủ tướng Chính phủ về xây dựng nông thôn mới theo chuẩn nông thôn mới,
huyện Kỳ Sơn đang gặp nhiều khó khăn, vướng mắc cần giải quyết như xuất
phát điểm của huyện thấp, trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ còn hạn chế,
đời sống của nhân dân còn khó khăn. Để góp phần công sức vào quá trình
xây dựng nông thôn mới ở địa phương, tôi chọn đề tài nghiên cứu “Giải
pháp góp phần đẩy mạnh chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa
bàn huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình” làm luận văn tốt nghiệp cao học Kinh
tế nông nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Góp phần đề xuất các giải pháp đẩy mạnh quá trình xây dựng nông
3
thôn mới ở địa phương trong thời gian tới.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận, thực tiễn về nông thôn mới và xây dựng
nông thôn mới ở nước ta hiện nay;
- Đánh giá thực trạng dựng nông thôn mới ở huyện Kỳ Sơn thời gian qua
và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả xây dựng nông thôn mới ở địa
bàn nghiên cứu.
- Đề xuất định hướng và các giải pháp chủ yếu đẩy mạnh xây dựng nông
thôn mới ở địa phương trong những năm tới.
Nghiên cứu này nhằm trả lời các câu hỏi có liên quan đến thúc đẩy xây
dựng nông thôn mới ở huyện Kỳ Sơn tỉnh Hòa Bình gồm:
- Xây dựng mô hình nông thôn mới ở nước ta dựa trên cơ sở lý luận và
thực tiễn nào?
- Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình xây dựng mô hình nông
thôn mới ở huyện Ký Sơn là gì?
- Những kết quả đạt được và những hạn chế trong xây dựng nông thôn
mới ở huyện Kỳ Sơn?
- Giải pháp nào cần triển khai để đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới ở
huyện Kỳ Sơn thời gian tới?
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các giải pháp thúc đẩy xây dựng
nông thôn mới ở huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Phạm vi về không gian
Địa bàn huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình.
3.2.2. Phạm vi về thời gian
4
Nguồn số liệu và thông tin về quá trình và kết quả xây dựng nông thôn
mới được thu thập trong khoảng thời gian từ khi bắt đầu chương trình thí
điểm xây dựng nông thôn mới (2009) cho đến hết năm 2013.
4. Nội dung nghiên cứu
- Cơ sở lý luận, thực tiễn về xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay;
- Thực trạng xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Kỳ Sơn, tỉnh
Hoà Bình; Những khó khăn, hạn chế và các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình xây
dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hoà Bình.
- Các giải pháp nhằm đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới trên địa bàn
huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hoà Bình.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam.
Chương 2. Đặc điểm của địa bàn và phương pháp nghiên cứu.
Chương 3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận.
5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM
1.1. Cơ sở lý luận về xây dựng nông thôn mới
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của nông thôn
1.1.1.1. Khái niệm
Nông thôn là địa bàn có các cộng đồng dân cư sinh sống gắn bó, cùng
trực tiếp khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên vào sản xuất nông nghiệp
các hoạt động kinh tê khác.
Hiện nay còn có nhiều quan điểm khác nhau để phân biệt nông thôn với
thành thị. Khái niệm nông thôn chỉ có tính chất tương đối và luôn biến động
theo thời gian để phản ánh biến đổi về kinh tế xã hội của mỗi quốc gia trên
thế giới. Trong điều kiện Việt Nam có thể hiểu:
“Nông thôn là vùng sinh sống của tập hợp dân cư, trong đó chủ yếu là
lao động nông nghiệp, hoạt động kinh tế phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự
nhiên. Có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước
(nông thôn là nơi cung cấp lương thực, thực phẩm cho đời sống của người
dân, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu, cung cấp hàng hóa
cho xuất khẩu, cung cấp lao động cho công nghiệp và thành thị, là thị trường
rộng lớn để tiêu thụ những sản phẩm của công nghiệp và dịch vụ…)” nguồn..
1.1.1.2. Đặc điểm nông thôn
Nông thôn là vùng sinh sống và làm việc chung của cộng đồng dân cư,
hoạt động sản xuất nông nghiệp là chủ yếu.
Trình độ thị trường, sản xuất hàng hóa còn thấp so với thành thị (Do diện
tích rộng, mức đầu tư cho nông thôn không lớn).
Nông thôn trải dài trên địa bàn rộng lớn nên chịu nhiều ảnh hưởng của
điều kiện tự nhiên.
6
Lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất nông nghiệp và các ngành
công nghiệp địa phương thường thấp dẫn đến thu nhập của người dân nông
thôn thấp, tỷ lệ nghèo đói cao. Người nông dân sống chủ yếu bằng nghề nông
nghiệp nhưng thiếu đất để sản xuất. Đất sản xuất giảm do dân số tăng và quá
trình đô thị hóa.
Lực lượng lao động ở nông thôn rất lớn nhưng lại thiếu việc làm, thất
nghiệp và bán thất nghiệp vẫn thường xuyên xảy ra. Thiếu các điều kiện và
phương tiện thuận lợi cho giáo dục. Thiếu các cơ sở phương tiện và điều kiện
vui chơi, giải trí.
1.1.2. Khái niệm về nông thôn mới và xây dựng nông thôn mới
1.1.2.1 Khái niệm nông thôn mới
Theo tinh thần Nghị quyết 26-NQ/T.Ư của Trung ương, nông thôn mới
(NTM) là khu vực nông thôn có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước
hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông
nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn
với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc
văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ
vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao;
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với tinh thần đó, nông thôn mới có năm nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất là nông thôn có làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng hiện đại.
Hai là sản xuất bền vững, theo hướng hàng hóa.
Ba là đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao.
Bốn là bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát triển.
Năm là xã hội nông thôn được quản lý tốt và dân chủ.
NTM là một vùng nông thôn có những đặc điểm theo tiêu chí mới mà
Đảng và Nhà nước đưa ra về NTM. NTM là một vùng nông thôn có nền sản
7
xuất tiếp thu được những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại mà vẫn giữ
được nét đặc trưng, tinh hoa văn hóa của nông thôn truyền thống. Có thể quan
niệm: “Mô hình NTM là tổng thể những đặc điểm, cấu trúc tạo thành một
kiểu tổ chức nông thôn theo tiêu chí mới, đáp ứng yêu cầu mới đặt ra cho nông
thôn trong điều kiện hiện nay, là kiểu nông thôn được xây dựng trên cơ sở
nông thôn cũ (truyền thống, đã có) nhưng mang tính tiên tiến về mọi mặt”
NTM trước hết là một vùng nông thôn chứ không phải đô thị. Bởi nó vẫn
mang những nét đặc trưng vốn có của nông thôn truyền thống, cả về quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất, cả về hình thái bên trong và bên ngoài (về cơ sở
hạ tầng, về quy hoạch bố trí nhà ở, hình thức nhà ở, đường làng ngõ xóm… và về
quan hệ xóm giềng, về phong cách sống của người dân nông thôn). Tuy nhiên
NTM là vùng nông thôn có những nét hiện đại mà nông thôn truyền thống không
có được. Đó là việc canh tác theo kiểu hiện đại, sử dụng các công nghệ kĩ thuật
hiện đại vào trong sản xuất nông nghiệp. NTM ngoài sản xuất nông nghiệp còn
phải phát triển mạnh các ngành sản xuất CN-TTCN và các ngành thương mại,
dịch vụ, du lịch… Ngoài sự thay đổi về mặt kinh tế, ở vùng NTM đời sống văn
hóa tinh thần của người dân cũng được nâng cao. Quyền tự do dân chủ của người
dân được phát huy cao độ, người dân được tham gia vào quá trình lập và đề ra các
quy hoạch, được đóng góp ý kiến vào việc xây dựng và phát triển địa phương.
1.1.2.2. Đặc điểm của nông thôn mới
Có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại.
Cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông
nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; trong đó công nghiệp dịch
vụ chiếm tỷ trọng lớn.
Xã hội nông thôn ổn định, đời sống vật chất văn hóa tinh thần của
người dân được nâng cao, thu nhập tăng, tỷ lệ hộ nghèo thấp.
Vừa mang tính hiện đại nhưng cũng giữ được bản sắc văn hóa dân tộc.
8
Dân trí được nâng cao, trình độ lao động ngày càng tiến bộ.
Môi trường sinh thái được bảo vệ.
Hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường.
1.1.2.3. Phân biệt nông thôn và nông thôn mới
Về cơ bản nông thôn và NTM không khác nhau nhưng xét trên những
tiêu chí cụ thể thì 2 có điểm khác nhau. Cụ thể là: khác với nông thôn truyền
thống, NTM là một vùng nông thôn với cơ cấu kinh tế - xã hội mới, mang
những nét đặc trưng của một vùng nông thôn phát triển theo hướng đô thị hóa
mà biểu hiện cụ thể đó là sự phát triển nền kinh tế theo hướng CNH-HĐH sản
xuất. Ở đó nền sản xuất không chỉ đơn thuần là sản xuất các ngành nông
nghiệp mà có sự phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghiệp, thương mại,
dịch vụ, du lịch…
1.1.3. Chức năng của nông thôn mới
1.1.3.1. Chức năng sản xuất nông nghiệp hiện đại
Nông thôn là nơi diễn ra phần lớn các hoạt động sản xuất nông nghiệp
của các quốc gia. Có thể nói nông nghiệp là chức năng tự nhiên của nông
thôn. Chức năng cơ bản của nông thôn mới là sản xuất dồi dào các sản phẩm
nông nghiệp chất lượng cao. Khác với nông thôn truyền thống, sản xuất nông
nghiệp của nông thôn mới bao gồm cơ cấu các ngành nghề mới, các điều kiện
sản xuất nông nghiệp hiện đại hoá, ứng dụng phổ biến khoa học kỹ thuật tiên
tiến và xây dựng các tổ chức nông nghiệp hiện đại.
1.1.3.2. Chức năng giữ gìn văn hóa truyền thống
Trải qua hàng nghìn năm phát triển, làng xóm ở nông thôn được hình
thành dựa trên những cộng đồng có cùng phong tục, tập quán, huyết thống. Ở
đó quan hệ huyết thống là mối quan hệ quan trọng nhất. Chính các tập thể
nông dân cùng huyết thống đã giúp họ khắc phục được những nhược điểm
của kinh tế tiểu nông, giúp bà con nông dân chống chọi với thiên tai đại họa.
9
Các truyền thống văn hoá quý báu này đòi hỏi phải được giữ gìn và
phát triển trong một hoàn cảnh đặc thù. Môi trường thành thị là nơi có tính
mở cao, con người cũng có tính năng động cao, vì thế văn hoá quê hương ở
đây sẽ không còn tính kế tục. Do vậy, chỉ có nông thôn với đặc điểm sản xuất
nông nghiệp và tụ cư theo dân tộc, dòng tộc mới là môi trường thích hợp nhất
để giữ gìn và kế tục văn hoá quê hương.
1.1.3.3. Chức năng sinh thái
Trong nông thôn truyền thống, con người và tự nhiên sinh sống hài
hoà với nhau, chức năng người tôn trọng tự nhiện, bảo vệ tự nhiên và hình
thành nên thói quen làm việc theo quy luật tự nhiên. Quá trình mưu cầu cuộc
sống đầy đủ về vật chất đã khiến người thành thị càng ngày càng xa rời tự
nhiên. Nền văn minh công nghiệp đã phá vỡ mối quan hệ hài hoà vốn có giữa
con người với thiên nhiên, dẫn đến phá vỡ môi trường một cách nghiêm
trọng.
Các cảnh quan tự nhiên tươi đẹp cùng với môi trường sinh thái có thể
đáp ứng được nhu cầu trở về với tự nhiên của con người. Nông thôn có thể bù
đắp được những thiếu hụt sinh thái của thành thị. Môi trường tự nhiên yên
tĩnh có thể điều hoà cân bằng tâm lý con người. Môi trường sinh vật phong
phú khiến con người có thể cảm thụ được những điều tốt đẹp từ cuộc sống. Sự
chung sống hài hoà giữa con người với tự nhiên có tác dụng thanh lọc và làm
đẹp tâm hồn. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến cho các khu du lịch sinh
thái xung quanh các khu đô thị ngày càng phát triển rầm rộ. Do vậy, phải nên
xây dựng nông thôn mới với những đóng góp tích cực cho sinh thái.
1.1.4. Chủ thể xây dựng nông thôn mới
Trong công cuộc xây dựng nông thôn mới, người nông dân phải tham
gia từ khâu quy hoạch, đồng thời góp công, góp của và phần lớn trực tiếp lao
động sản xuất trong quá trình làm ra của cải vật chất, giữ gìn bản sắc văn hóa
10
dân tộc… đồng thời, cũng là người hưởng lợi từ thành quả của nông thôn
mới. Chính vì vậy, nông dân là chủ thể xây dựng nông thôn mới là yếu tố vừa
đảm bảo cho sự nghiệp xây dựng nông thôn mới thành công, vừa đảm bảo
phát huy được vai trò tích cực của nông dân.
1.2. Quan điểm của Đảng về xây dựng nông thôn mới
1.2.1. Các quan điểm của Đảng về xây dựng NTM trước Đại hội V
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định tầm quan trọng
của vấn đề Nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
Trong bối cảnh đất nước ta đang tạm bị chia cắt thành 2 miền, cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang ngày càng ác liệt, Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ III đã xác định đường lối chung của miền Bắc trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội là: Đưa miền Bắc từ nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở
hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, dựa trên
sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể... từ tình trạng kinh tế rời rạc và lạc hậu,
xây dựng thành một nền kinh tế cân đối và hiện đại. Chủ trương của Đảng là:
“...xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại, kết hợp
công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ...”1
Hội nghị Trung ương 5 khóa III (năm 1961) đã ra Nghị quyết về vấn
đề phát triển nông nghiệp, trong đó nêu lên phương hướng cải tiến công cụ và
cơ giới hóa nông nghiệp trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965).
Đại hội IV (năm 1976): Sau khi miền Nam hoàn toàn được giải phóng,
Đảng ta đã chủ trương: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, đưa
1
(Văn kiện Đại hội, Ban chấp hànhTrung ương Đảng Lao động Việt Nam, xuất bản tháng 9 – 1960, tr.182-183).
11
nền kinh tế nước ta từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa...
kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh
tế công – nông nghiệp”2. Đại hội đã xác định kế hoạch 5 năm 1976 – 1980 là:
“Tập trung cao độ lực lượng của cả nước, của các ngành, các cấp, tạo ra một
bước phát triển vượt bậc về nông nghiệp... nhằm giải quyết vững chắc nhu
cầu của cả nước về lương thực, thực phẩm và một phần hàng tiêu dùng thông
thường...”
Đại hội V đã chỉ rõ: “Trong 5 năm 1981 – 1985 và những năm 80 cần
tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng
đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy
mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp
nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công
nghiệp nặng trong một cơ cấu công – nông nghiệp hợp lý”.
Như vậy, từ Đại hội III đến Đại hội IV và Đại hội V của Đảng, chúng
ta có thể khẳng định rằng, tuy chưa đề cập đến cụm từ “Nông thôn mới”
nhưng Đảng ta luôn xác định nông nghiệp có một vị trí rất quan trọng, là mặt
trận hàng đầu, đồng thời đã đề ra nhiều chủ trương, đường lối để phát triển
nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại.
1.2.2. Các quan điểm của Đảng về xây dựng NTM từ Đại hội VI đến nay
Đại hội VI đã nêu 4 bài học kinh nghiệm lớn, trong đó có bài học
“Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy
luật khách quan”. Đại hội VI đã đề ra những quan điểm và chính sách đổi
mới, trước hết là đổi mới kinh tế; phấn đấu đưa nông nghiệp trở thành nền
nông nghiệp sản xuất hàng hóa xã hội chủ nghĩa; thừa nhận cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần; xác định cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên
2
(Báo cáo chính trị của BCH Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, tháng 12 năm 1976, tr 68).
12
liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xóa bỏ cơ chế kinh tế
tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách
quan và trình độ phát triển của nền kinh tế.
Đại hội VII đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
đến năm 2000. Đại hội VII đã chỉ rõ: “Phát triển nông, lâm, ngư nghiệp gắn
với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng
nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế xã hội”3 (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà
Nội, 1991, tr 67).
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII: Xem xét việc thực hiện Nghị
quyết Đại hội VII và quá trình 10 năm đổi mới, Đại hội VIII đã nhận định
rằng nước ta đã chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời khẳng định: “Mục tiêu của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở
vật chất – kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ,
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và
tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh” Tiếp theo, Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành trung
ương Đảng khóa VIII đã ra Nghị quyết về “Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi
mới, phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, cần kiện để công
nghiệp hoá, hiện đại hóa, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội
đến năm 2000”. Nghị quyết đã xác định những nội dung cần đẩy mạnh trong
phát triển nông nghiệp và nông thôn, đó là: Đẩy nhanh quá trình chuyển dịch
3
(Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 80).
13
cơ cấu kinh tế gắn với phân công lao động ở nông thôn; giải quyết vấn đề thị
trường tiêu thụ nông sản; phát triển mạnh các hình thức kinh tế hợp tác, đổi
mới các hoạt động của các cơ sở quốc doanh trong nông nghiệp và nông thôn,
phát triển các cơ sở quốc doanh ở vùng sâu, vùng xa.
Đại hội IX của Đảng đã chủ trương phải rút ngắn thời gian công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu đến năm 2020, nước ta trở thành một nước
công nghiệp. Nghị quyết Đại hội IX đã chỉ rõ phải ưu tiên phát triển lực lượng
sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, phát triển kinh tế đi đôi với phát triển vắn hóa – xã hội, tăng cường
các nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn.
Nghị quyết Đại hội X đã xác định: “ Phải luôn luôn coi trong đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn... Gắn phát triển kinh tế
với xây dựng nông thôn mới, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa nông thôn với
thành thị, giữa các vùng miền, góp phần giữ vững ổn định chính trị xã hội”.
Ngày 5 tháng 8 năm 2008, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã
ban hành Nghị quyết số 26 – NQ/TW về Nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Nghị quyết Trung ương 7 khóa X đã đề ra các giải pháp để đẩy mạnh
xây dựng nông thôn mới.
Đại hội XI đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), trong đó đã xác
định những định hướng lớn về phát triển kinh tế - văn hóa, xã hội, quốc
phòng, an ninh, đối ngoại là: “ Coi trọng phát triển các ngành công nghiệp
nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi
thế; phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ công nghệ cao,
chất lượng cao gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới”4
4
(Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 123).
14
(Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia.Sự
thật, Hà Nội,2011 tr. 75).
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 – 2020 đã xác định rõ định
hướng trong xây dựng nông thôn mới: Quy hoạch phát triển nông thôn gắn
với phát triển đô thị và bố trí các điểm dân cư. Phát triển mạnh công nghiệp,
dịch vụ và làng nghề gắn với bảo vệ môi trường. Triển khai chương trình
nông thôn mới phù hợp với đặc điểm từng vùng theo các bước đi cụ thể, vững
chắc trong từng giai đoạn; giữ gìn và phát huy những nét văn hóa đặc sắc của
nông thôn Việt Nam. Đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Tạo môi
trường thuận lợi để khai thác mọi khả năng đầu tư vào nông nghiệp và nông
thôn, nhất là đầu tư của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thu hút nhiều lao động.
Triển khai có hiệu quả Chương trình đào tạo nghề cho 1 triệu lao động nông
thôn mỗi năm. Thực hiện tốt các chương trình hỗ trợ nhà ở cho người nghèo
và các đối tượng chính sách, chương trình nhà ở cho đồng bào vùng bão, lũ;
bố trí hợp lý dân cư, bảo đảm an toàn ở những vùng ngập lũ, sạt lở núi, ven
sông, ven biển
1.2.3. Nội dung xây dựng nông thôn mới
1.2.3.1. Quy hoạch xây dựng nông thôn mới
Quy hoạch sử dụng đất và hạ tầng thiết yếu: Quy hoạch sử dụng đất và
hạ tầng thiết yếu cho phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa theo Thông tư
07/2010/TT-BNNPTNT, ngày 08/02/2010 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn; Quy hoạch sử dụng đất và hạ tầng thiết yếu cho phát triển công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ theo Thông tư số 31/2009/TT-BXD,
ngày 10/9/2009 của Bộ Xây dựng.
Quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội – môi trường; phát triển
các khu dân cư mới và chỉnh trang các khu dân cư hiện có trên địa bàn xã theo
Thông tư số 09/2010/TT-BXD, ngày 04/8/2010 và Sổ tay hướng dẫn lập quy
15
hoạch nông thôn mới của Bộ Xây dựng.
Yêu cầu: Đạt tiêu chí số 01 của Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới.
1.2.3.2. Phát triển hạ tầng kinh tế xã hội
Về giao thông: Hoàn thiện đường xã, liên xã, đường xã xuống thôn
bằng nhựa hóa hoặc bê tông hóa theo tiêu chuẩn đường ô tô cấp VI được quy
định trong TCVN 4054-2005; Hoàn thiện đường trục thôn, xóm được cứng
hóa theo tiêu chuẩn 22TCVN 210:1992; Xây dựng đường ngõ, xóm sạch và
không lầy lội vào mùa mưa, trong đó phần lớn được cứng hóa theo tiêu chuẩn
22TCVN 210:1992 (hoặc tiêu chuẩn thiết kế áo đường cứng 22 TCN 223-95);
Xây dựng đường trục chính nội đồng được cứng hóa, xe cơ giới đi lại thuận
tiện theo tiêu chuẩn kỹ thuật TCVN 4454/1987 của Bộ xây dựng; Xây dựng,
hoàn thiện nhà văn hóa và khu thể thao thôn; Hoàn thiện hệ thống các công
trình phục vụ việc chuẩn hóa về y tế trên địa bàn theo Quyết định 370/2002/QĐBYT, ngày 07/2/2002 của Bộ Y tế.
Hoàn thiện trường mầm non, nhà trẻ có cơ sở vật chất đạt chuẩn quốc
gia theo tiêu chuẩn xây dựng Việt Nam TCXDVN 262:2002 và đảm bảo quy
định theo Quyết định số 36/2008/QĐ-BGD&ĐT, ngày 16/7/2008 của Bộ Giáo
dục về ban hành Quy chế công nhận trường mầm non đạt chuẩn quốc gia;
Hoàn thiện trường tiểu học có cơ sở vật chất đạt chuẩn quốc gia theo tiêu
chuẩn xây dựng Việt Nam TCVN 3978-1984 và đảm bảo quy định theo
Quyết định số 32/2005/QĐ-BGD&ĐT, ngày 24/10/2005 của Bộ Giáo dục về
ban hành Quy chế chuẩn công nhận trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia;
Hoàn thiện trường trung học cơ sở có cơ sở vật chất đạt chuẩn quốc gia
theo tiêu chuẩn xây dựng Việt Nam TCVN 3978-1984 và đảm bảo quy định
theo Quyết định số 27/2001/QĐ-BGD&ĐT, ngày 05/7/2001 của Bộ Giáo dục
về ban hành Quy chế công nhận trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia.
Xây dựng, hoàn thiện chợ nông thôn đạt chuẩn TCXDVN 361:2000
16
của Bộ xây dựng.
Xây dựng điểm phục vụ bưu chính viễn thông (đại lý bưu điện hoặc ki
ốt, bưu cục hoặc điểm bưu điện – văn hóa, thùng thư công cộng, điểm truy
nhập dịch vụ bưu chính, viễn thông...) với diện tích tối thiểu 150m2;
Xây dựng điểm cung cấp dịch vụ truy nhập Internet ở thôn (đối với
Internet băng rộng (ADSL) theo tiêu chuẩn TCN 68-227:2006 ban hành tại
Quyết định định số 55/2006/QĐ-BBCVT ngày 25/12/2006 của Bộ Bưu chính
viễn thông) .
Xây dựng đê hoặc bờ bao chống lũ theo tiêu chuẩn hoàn chỉnh mặt cắt
thiết kế, cứng hóa mặt đê và đường hành lang chân đê, trồng cỏ mái đê, trồng
cây chân đê phía sông, phía biển; cống dưới đê vững chắc, đồng bộ với mặt
cắt đê; lử lý sạt lở đảm bảo ổn định; đảm bảo môi trường xanh sạch đẹp; có
ban chỉ huy phòng chống lụt bão xã, có đội quản lý đê nhân dân, đội tuần tra,
canh gác đê trong mùa mưa lũ theo quy định, hoạt động có hiệu quả;
Hoàn thiện các công trình tưới tiêu, cấp nước công nghiệp, cấp nước
sinh hoạt đảm bảo theo tiêu chuẩn thiết kế Việt Nam đối với từng loại, phát
huy trên 75% năng lực thiết kế, 100% công trình có chủ quản lý đích thực;
Kiên cố hóa kênh mương (kể cả mương nội đồng);
Hoàn chỉnh trụ sở xã: Trụ sở xã xây dựng ở nơi trung tâm, thuận tiện
đối nội, đối ngoại, diện tích khuôn viên tối thiểu 1000m2, diện tích sử dụng
của trụ sở đối với khu vực đồng bằng, trung du tối thiểu 500m2, khu vực miền núi
hải đảo tối thiểu 400m2; mật độ xây dựng dưới 50%, mật độ cây xanh trên 30%.
Nhà ở nông thôn: Chỉnh trang các khu dân cư hiện có; xóa nhà tạm, dột
nát, xây dựng, hoàn thành nhà ở nông thôn đạt tiêu chuẩn của Bộ xây dựng,
phù hợp với Quy hoạch theo Thông tư số 31/2009/TT-BXD, ngày 10/9/2009
của Bộ Xây dựng.
Yêu cầu: đạt các tiêu chí 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9 trong Bộ tiêu chí quốc gia
17
nông thôn mới.
1.2.3.3. Chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng
phát triển sản xuất hàng hóa, có hiệu quả kinh tế cao.
Tăng cường công tác khuyến nông; đẩy nhanh nghiên cứu, ứng dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông - lâm - nghiệp.
Cơ giới hóa nông nghiệp, giảm tổn thất sau thu hoạch trong sản xuất
nông - lâm - ngư nghiệp.
Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống theo phương châm “mỗi
làng một sản phẩm”, phát triển làng nghề theo thế mạnh của địa phương.
Đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động nông thôn, đưa công nghiệp vào
nông thôn, giải quyết việc làm và chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động nông thôn.
Yêu cầu: đạt tiêu chí 10, 12 trong Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới.
1.2.3.4. Giảm nghèo và an sinh xã hội
Thực hiện có hiệu quả Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững
theo Nghị quyết 30a của chính Phủ.
Tiếp tục triển khai Chương trình mục tiêu Quốc gia về giảm nghèo.
Thực hiện an sinh xã hội.
Yêu cầu: đạt tiêu chí 11 trong Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới.
1.2.3.5. Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả ở nông
thôn
Phát triển kinh tế hộ, trang trại, hợp tác xã.
Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thúc đẩy liên kết kinh tế giữa các loại hình kinh tế ở nông thôn.
Yêu cầu: đạt tiêu chí 13 trong Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới.
1.2.3.6. Phát triển giáo dục đào tạo
Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục và đào tạo:
18
Đạt và duy trì chuẩn quốc gia về phổ cập tiểu học, chống mù chữ. Đảm
bảo huy động trẻ 6 tuổi học lớp 1 đạt 90% (xã đặc biệt khó khăn đạt 80%) trở
lên. Ít nhất 80% (xã đặc biệt khó khăn đạt 70 %) số trẻ nhóm tuổi 11-14 tốt
nghiệp tiểu học, số còn lại đang học tiểu học.
Phổ cập giáo dục trung học. Đảm bảo tỷ lệ tốt nghiệp trung học cơ sở
hàng năm từ 90% (xã đặc biệt khó khăn đạt 70%) trở lên. Tỷ lệ thanh thiếu
niên 15-18 tuổi có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở từ 80% (xã đặc biệt khó
khăn đạt 70%) trở lên.
Nâng cao tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở được tiếp tục học
trung học phổ thông. Đẩy mạnh đào tạo nghề.
Yêu cầu: đạt tiêu chí 5, 14 trong Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới.
1.2.3.7. Phát triển y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân
Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về y tế (theo Quyết
định 108/2007/QĐ-Tg, ngày 17/7/2007 của Thủ Tướng Chính Phủ).
Nâng cao tỷ lệ người dân tham gia các hình thức bảo hiểm y tế.
Yêu cầu: đạt tiêu chí 5 và 15 trong Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới.
1.2.3.8. Xây dựng đời sống văn hóa, thông tin và truyền thông
Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về văn hóa. Phấn
đấu xã có trên 70% số thôn, bản đạt tiêu chuẩn “Làng văn hóa” theo Quyết
định 62/2006/QĐ-BVHTT ngày 23/6/2006 (nay là Bộ Văn hóa - Thể thao và
Du lịch).
Thực hiện thông tin và truyền thông nông thôn. Xã có Đài truyền thanh
xã hoạt động có hiệu quả.
Yêu cầu: đạt tiêu chí 6 và 16 trong Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới.
1.2.3.9. Cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn
Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi
trường nông thôn: Đảm bảo cung cấp đủ nước sinh hoat sạch và hợp vệ sinh
19
cho dân cư, trường học, trạm y tế, công sở và các khu dịch vụ công cộng; Chỉ
đạo nhân dân xây dựng hố xí đảm bảo vệ sinh;
Thực hiện các yêu cầu về bảo vệ và cải thiện môi trường trên địa bàn xã:
Xây dựng, cải tạo, nâng cấp hệ thống tiêu thoát nước trong thôn xóm. Các
thôn đều có tổ vệ sinh, phát quang, khơi thông cống rãnh; Xây dựng các điểm
thu gom, xử lý rác thải đạt yêu cầu chung theo TCVN 6696-2000. Bãi chôn
lấp chất thải rắn xây dựng mới theo tiêu chuẩn thiết kế TCXDXN 261-2001.
Chỉnh trang, cải tạo nghĩa trang: Nghĩa trang có khu hung táng, cát
táng, nơi trồng cây xanh, lối đi thuận lợi, có quy chế quản lý nghĩa trang, mộ
đặt theo hàng và xây dúng diện tích, chiều cao theo quy định... đảm bảo theo
tiêu chuẩn TCVN 7956:2008.
Cải tạo, xây dựng các hồ sinh thái trong khu dân cư; Trồng cây xanh ở
các công trình công cộng.
Mục tiêu: đạt tiêu chí 17 trong Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới.
1.2.3.10 . Nâng cao chất lượng tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị
- xã hội trên địa bàn
Thành lập, duy trì đủ các tổ chức trong hệ thống chính trị; đảm bảo
không có trình trạng “trắng” các tổ chức này ở các thôn bản.
Tổ chức đào tạo cán bộ đạt chuẩn theo quy định của Bộ Nội vụ. Thu
hút cán bộ trẻ về công tác tại xã.
Xây dựng ban hành các quy định về chức năng, nhiệm vụ và cơ chế
hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây
dựng nông thôn mới.
Nâng cao chất lượng của các tổ chức trong hệ thống chính trị, phấn đấu
hàng năm, tổ chức Đảng, Chính quyền đạt “trong sạch vững mạnh”, các tổ
chức khác đạt danh hiệu tiên tiến trở lên theo quy định của từng tổ chức.
Yêu cầu: đạt tiêu chí 18 trong Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới.
20
1.2.3.11. Giữ vững an ninh, trật tự xã hội ở nông thôn
Ban hành, thực hiện nội quy, quy ước làng xóm về trật tự, an ninh;
phòng chống các tệ nạn xã hội và các hủ tục lạc hậu.
Hàng năm Đảng ủy có nghị quyết, UBND có kế hoạch về công tác an
ninh, xã đạt đơn vị khá trở lên trong “Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc”, Công an xã đạt danh hiện “Đơn vị tiên tiến” trở lên.
Đảm bảo cho lực lượng an ninh xã, thôn, xóm hoàn thành nhiệm vụ đảm
bảo an ninh, trật tự xã hội trên địa bàn theo yêu cầu xây dựng nông thôn mới.
Không để xẩy ra các hoạt động chống đối; không để xẩy ra mâu thuẫn,
tranh chấp trong nhân dân, các loại tội phạm, tai nạn giao thông giảm.
Yêu cầu: đạt tiêu chí số 19 trong Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới.
1.3. Cơ sở thực tiễn về xây dựng nông thôn mới
1.3.1. Kinh nghiệm xây dựng nông thôn ở một số nước trên thế giới
1.3.1.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Hàn Quốc nằm trên bán đảo Triều Tiên, một nước từng bị đô hộ từ cuối
thế kỷ 19, xuất phát điểm là một trong những quốc gia nghèo đói. Cuối thập
kỷ 60 GDP bình quân đầu người chỉ có 85USD, phần lớn người dân không đủ
ăn, 80% người dân nông thôn vẫn không có điện thắp sáng và phải dùng đèn
dầu, ở trong những căn nhà lợp bằng lá. Lúc ấy, nền kinh tế của Hàn Quốc
phải dựa vào nông nghiệp trong khi khắp đất nước, lũ lụt và hạn hạn lại xảy
ra thường xuyên. Xã hội Hàn Quốc thời đó là một xã hội thờ ơ, hỗn độn và vô
vọng. Mối lo lớn nhất của Chính phủ là làm sao thoát khỏi đói nghèo.
Sau trận lụt năm 1969, người dân phải tu sửa lại nhà cửa và đường sá
mà không có sự trợ giúp của Chính phủ. Điều này làm Tổng thống suy nghĩ
rất nhiều và nhận ra rằng “viện trợ của Chính phủ cũng là vô nghĩa nếu người
dân không nghĩ cách tự giúp chính mình”. Hơn thế nữa, khuyến khích người
dân tự hợp tác và giúp đỡ nhau là điểm mấu chốt để phát triển nông thôn.
21
Những ý tưởng này chính là nền tảng của phong trào xây dựng nông thôn mới
(Saemaul Udong).
Từ đó đến nay, phong trào Saemaul Udong đã thu được những thành
tựu rất to lớn, sau 40 năm đưa đất nước Hàn quốc từ nghèo đói sang một nước
phát triển, nằm trong tốp G20 của thế giới với thu nhập bình quân đầu người
hơn 30.000 USD/năm.
1.3.1.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Thành công của chính sách Tam nông của Trung Quốc cho phép chúng ta
rút ra những bài học sau đây trong quá trình xây dựng NTM của Việt Nam:
Nguồn lực của Nhà nước tập trung cho kết cấu hạ tầng: Để thúc đẩy phát
triển kinh tế và cải thiện đời sống dân sinh ở nông thôn, Chính phủ Trung Quốc
đã huy động nhiều nguồn lực cho xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn. Ngân
sách nhà nước chủ yếu được sử dụng cho làm đường giao thông, xây dựng công
trình thủy lợi, trường học, cơ sở y tế... chỉ một phần nhỏ dùng để xây nhà cho
người dân.
Phát triển công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn để tạo việc làm tại chỗ, nâng
cao nhu nhập cho người dân: Song song với việc thúc đẩy ngành nông nghiệp
phát triển mạnh mẽ để đảm bảo an ninh lương thực, ổn định đời sống nhân dân,
Trung Quốc tìm cách để phát triển công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn để giải
quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân.
Có nhiều chính sách hỗ trợ nông dân, đảm bảo an sinh xã hội: Đến
năm 2009, thu nhập bình quân của cư dân nông thôn Trung Quốc đã đạt 5000
nhân dân tệ. Theo Giáo sư – Tiến sỹ Lý Ninh Huy là nhờ Trung Quốc đã áp
dụng nhiều chính sách hỗ trợ nông dân, đảm bảo an sinh xã hội.
Phát triển nền nông nghiệp hiệu quả cao: Trước năm 2000, ngành nông
nghiệp Trung Quốc chủ yếu làm sao cho đảm bảo ổn định đời sống nhân dân
nhưng sau ngày gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), ngành nông
22
nghiệp của Trung Quốc đã nhìn thấy bất lợi của nông dân. Vào thời điểm năm
2001, giá cả các mặt hàng lúa mì, đậu nành, ngô, vải sợi, dầu thực phẩm và
đường cao hơn mức giá thế giới từ 10 đến 70%, trong khi đó, thịt, rau quả, hải
sản lại thấp hơn mức giá thế giới 40-80%.
Trừng trị tham nhũng, xây dựng chính trị mạnh ở nông thôn: Để cho
nông thôn phát triển nhanh và lành mạnh, Trung Quốc quan tâm việc xây
dựng hệ thống trừng trị và phòng ngừa tham nhũng, đồng thời xây dựng đảng
liêm chính ở nông thôn.
1.3.2. Tình hình xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam
Thực hiện Nghị quyết trung ương 7 (khóa X), Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới tại Quyết định 491/QĐ-TTg,
ngày 16/4/2009 và Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn
mới giai đoạn 2010 – 2020 tại Quyết định 800/QĐ-TTg, ngày 04/6/2020.
Ngày 02 tháng 02 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định
193/QĐ-TTg Phê duyệt Chương trình rà soát quy hoạch xây dựng nông thôn mới.
Kết quả thực hiện đến nay trên các lĩnh vực như sau:
1.3.2.1. Thành lập bộ máy chỉ đạo từ Trung ương đến cơ sở
Ngày 01 tháng 7 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định
1013/QĐ-TTg Thành lập Ban chỉ đạo Trung ương Chương trình mục tiêu
quốc gia xây dựng nông thôn mới, giai đoạn 2010 – 2020. Ban Chỉ đạo Trung
ương có 24 thành viên, do đồng chí Nguyễn Sinh Hùng – Phó Thủ tướng
Thường trực Chính Phủ làm Trưởng ban, Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và phát
triển nông thôn Cao Đức Phát làm Phó trưởng ban thường trực.
Ban chỉ đạo Trung ương đã ban hành Quy chế hoạt động (tại quyết định
437/QĐ-BCĐXDNTM, ngày 20/9/2010) và Kế hoạch triển khai Chương trình
mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020 (tại quyết
định 435/QĐ-BCĐXDNTM, ngày 20/9/2010).
23
Để giúp việc cho Ban chỉ đạo, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
đã thành lập Văn phòng điều phối Chương trình với 24 cán bộ chuyên trách (4
chuyên trách, 9 kiêm nhiệm từ các Bộ, ngành, 11 kiêm nhiệm từ các đơn vị
trong Bộ).
Theo Kế hoạch của Ban chỉ đạo Trung ương, trong năm 2010, các cấp
chính quyền từ tỉnh đến huyện đều đã thành lập ban chỉ đạo Chương trình
mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.
Ở cấp xã: thành lập Ban quản lý Chương trình nông thôn mới (do Chủ
tịch UBND xã làm Trưởng ban, các ủy viên Ủy ban phụ trách các lĩnh vực
nông nghiệp, kinh tế, giao thông công chính, đại diện Mặt trận tổ quốc, các
đoàn thể quần chúng làm thành viên) và Ban giám sát công đồng (gồm đại
diện của Hội đồng nhân dân, Mặt trận tổ quốc, các tổ chức chính trị xã hội và
đại diện của cộng đồng dân cư).
Cấp thôn bản: Mỗi thôn, bản thành lập một Ban phát triển thôn làm
nòng cốt trong quá trình thực hiện nội dung xây dựng nông thôn mới trên địa
bàn. Nhiệm vụ của Ban phát triển thôn là động viên, khuyến khích nhân dân
tham gia xây dựng, thực hiện, giám sát các quá trình xây dựng các nội dung
về nông thôn mới ở xóm, bản.
1.3.2.2. Tổ chức quán triệt, tuyên truyền, chọn điểm chỉ đạo
Cũng trong năm 2010, Thủ tướng Chính phủ Chính phủ đã tổ chức Hội
nghị trực tuyến với lãnh đạo các Bộ, ngành Trung ương, lãnh đạo các địa
phương để triển khai Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới
giai đoạn 2010 – 2020 (ngày 06/8/2010). Nhiều hoạt động tuyên truyền như
họp báo, tổ chức Hội nghị với các tổ chức quốc tế... cũng đã được tiến hành.
Ban chỉ đạo Trung ương đã chọn 5 tỉnh là Phú Thọ, Thái Bình, Hà
Tĩnh, Bình Phước, An Giang và 05 huyện là Nam Đàn – Nghệ An, Hải Hậu –
Nam Định, Phước Long –Bạc Liêu, Phú Ninh –Quảng Nam, K’Bang –Gia Lai
24
làm điểm chỉ đạo.
Theo Cục kinh tế hợp tác Phát triển nông thôn (công bố tại hội nghị
ngày 15/2/2011), đến tháng 2 năm 2011, có 60 tỉnh chọn xã làm điểm chỉ đạo
trước khi nhân ra diện rộng (766 xã/119 huyện), trong đó đa số lựa chọn 4-10
xã (chiếm 3-4%). Một số tỉnh chọn số xã làm điểm lớn như Phú Yên 22%,
Đồng Tháp 25%, Hà Giang 23%, Lào Cai 31%... Có tỉnh đề ra kế hoạch hoàn
thành xây dựng nông thôn mới sớm hơn kế hoạch của Trung ương như Quảng
Ninh phấn đầu 70% xã đạt nông thôn mới vào năm 2015.
1.3.2.3. Ban hành các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo
Theo sự chỉ đạo của Chính Phủ, các Bộ, ngành trung ương đã ban hành
nhiều thông tư hướng dẫn quản lý, thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia
xây dựng nông thôn mới.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Thông tư số
54/2009/TT-BNNPTNT, ngày 21 tháng 8 năm 2009, về “Hướng dẫn thực
hiện Bộ tiêu chí Quốc gia về nông thôn mới” và Thông tư 07/2010/TTBNNPTNT, ngày 08/02/2010 về “Hướng dẫn quy hoạch phát triển sản xuất
nông nghiệp cấp xã”.
Bộ Xây dựng ban hành Thông tư 21/2009/TT-BXD, ngày 30/6/2009 về
“Quy định việc lập, thẩm định, phê duyệt và quản lý quy hoạch xây dựng
nông thôn”; Thông tư số 31/2009/TT-BXD ngày 10/9/2009 về “ Ban hành
tiêu chuẩn quy hoạch xây dựng nông thôn” và Thông tư số 32/2009/TT-BXD,
ngày 10/9/2009 về “Ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về quy hoạch xây
dựng nông thôn”; Thông tư 09/2010/TT-BXD ngày 4/8/2010 và Sổ tay
Hướng dẫn lập quy hoạch nông thôn mới.
Liên bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Kế hoạch và đầu tư,
Bộ Tài chính đã ban hành thông tư liên tịch số 26/2011/TTLT-BNNPTNTBKHDT-BTC, ngày 13 tháng 4 năm 2011 để hướng dẫn một số nội dung thực