Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở tỉnh hòa bình trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 122 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
--------------------------------

HOÀNG MINH TUÂN

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO NGHỀ CHO
LAO ĐỘNG NÔNG THÔN Ở TỈNH HÒA BÌNH TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp
Mã số: 60.62.01.15

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Đình Hợi

Hà Nội, 2014


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Việt Nam là một nước đang trên đà phát triển và hội nhập kinh tế quốc
tế. Trong những năm đổi mới vừa qua nền kinh tế nói chung và nông nghiệp,
nông thôn Việt Nam nói riêng đã đạt được nhiều thành quả to lớn. Đảng và
Nhà nước luôn xác định sự phát triển của đất nước luôn gắn chặt với sự phát


triển của nền kinh tế nông thôn.
Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại
thế giới WTO, nền kinh tế nói chung và sản xuất nông nghiệp nói riêng đang
phải đương đầu với một cuộc cạnh tranh quyết liệt, trong đó có nhiều cơ hội
để phát triển nhưng những thách thức mà Việt Nam phải đối mặt cũng không
nhỏ. Chất lượng của nguồn nhân lực vốn được xem là khâu then chốt để nâng
cao tính bền vững của nền kinh tế, của phát triển xã hội thì vẫn còn nhiều hạn
chế hay nói đúng hơn là vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền
kinh tế trong thời kỳ hội nhập. Chính vì vậy, Chính phủ đã phê duyệt Chiến
lược phát triển nguồn nhân lực đến năm 2020, đặc biệt là phát triển nguồn
nhân lực nông thôn nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam, với
chỉ số ước đạt 55% LĐ có tay nghề cao, nhằm đáp ứng được thách thức của
nền kinh tế thị trường trong hiện tại và tương lai. Thông qua chiến lược này,
Chính phủ kỳ vọng người LĐ có đủ trình độ, độ nhạy cảm đối mặt với một
thách thức rất lớn là môi trường làm việc mang tính cạnh tranh. Cạnh tranh
với LĐ trong nước và cạnh tranh với LĐ nước ngoài, khi tham gia vào quá
trình xuất khẩu LĐ hay khi LĐ nước ngoài trực tiếp vào làm việc tại Việt
Nam.
Việt Nam có gần 70% dân số sống ở nông thôn, lực lượng LĐ từ 15
tuổi trở lên năm 2012 là 52,58 triệu người, trong đó LĐ nam chiếm 51,3%;
LĐ nữ chiếm 48,7%. LĐ từ 15 tuổi trở lên đang làm việc năm 2012 là 51,69


2

triệu người (Báo cáo tình hình phát triển kinh tế xã hội Việt Nam năm 2012của Tổng cục thống kê). Ngoài ra hằng năm lại có thêm gần 1 triệu người đến
tuổi LĐ bổ sung vào đội ngũ lực lượng LĐ. Trong khi đó, vấn đề đào tạo
nghề và sử dụng LĐ đã được đào tạo đang còn nhiều bất cập như: Các trường
Đại học, Cao đẳng ồ ạt mở rộng đào tạo đến cả bậc trung cấp nghề, nhưng hầu
hết trang thiết bị của các Trường nghề đều rơi vào tình trạng lạc hậu. Đội ngũ

giáo viên chưa thực sự đủ mạnh để có thể truyền nghề cho học sinh. Từ thực
tiễn công tác đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói riêng, chúng ta có thể
nhận thấy một nghịch lý tồn tại hiện nay là "thừa thầy thiếu thợ", chưa kể tâm
lý học trung cấp rất khó tìm được việc làm, nếu có thì thu nhập cũng ở mức
rất thấp.
Công tác đào tạo nghề cho LĐNT là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước,
của các cấp, các ngành và xã hội nhằm nâng cao chất lượng LĐ nói chung và
LĐNT nói riêng để đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Đào tạo nghề cho LĐNT nhằm giải quyết 3 vấn đề lớn:
1. Nâng cao tỉ lệ LĐ qua đào tạo, trong đó đặc biệt quan tâm đến lực
lượng LĐNT.
2. Nâng cao chất lượng đào tạo nói chung và đào tạo nghề cho LĐNT
nói riêng .
3. Chuyển dịch dần lực lượng LĐ nông nghiệp sang lực lượng phi nông
nghiệp.
Hiện nay với một số lượng LĐ lớn tập trung chủ yếu ở khu vực nông
thôn và tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp, để giải quyết tốt 3 vấn đề trên thì
các giải pháp hữu hiệu nhất vẫn là nâng cao chất lượng đào tạo nghề, mở rộng
các hình thức đào tạo nghề cho LĐNT, đặc biệt cần phải có các chính sách để
thu hút LĐNT tham gia các lớp đào tạo về nghề.


3

Hoà Bình là tỉnh miền núi nên việc phát triển các ngành nghề thuộc
lĩnh vực nông nghiệp vẫn là lĩnh vực sản xuất quan trọng của tỉnh, thu hút
nhiều LĐNT. Tuy nhiên, một bộ phận lớn LĐNT có xu hướng dôi dư do quy
hoạch các khu, cụm công nghiệp nhưng lại rất khó để có thể bố trí việc làm
cho họ, do số LĐ này chưa được định hướng về nghề cũng như đào tạo nghề
khi tham gia vào LĐ sản xuất phi nông nghiệp, số ít đã được đào tạo nghề thì

trình độ nghề chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của DN và xã hội.
Trong những năm qua công tác đào tạo nghề của tỉnh Hòa Bình đã đạt
được những kết quả nhất định. Bước đầu đáp ứng được phần nào nhu cầu học
nghề của người LĐ và nhu cầu sử dụng LĐ của các cơ sở sản xuất kinh
doanh, dịch vụ, doanh nghiêp trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, bên cạnh những
mặt tích cực đó thì công tác đào tạo nghề của tỉnh cũng gặp phải những khó
khăn, hạn chế; đó là chưa đào tạo được nguồn nhân lực đáp ứng được nhu cầu
của DN và xã hội, cả về số lượng và chất lượng, ngành nghề đào tạo. Các cơ
sở đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh đã triển khai nhiều giải pháp cụ thể nhằm
khắc phục những hạn chế về chất lượng đào tạo nghề như: Liên kết đào tạo
nghề với các DN trong và ngoài tỉnh; xây dựng mô hình dạy nghề mới; nghề
truyền thống tại phương kết hợp với những hướng dẫn kiến thức phát triển
kinh doanh cho các hộ gia đình hội viên có khả năng phát triển nghề theo quy
mô tổ hợp, DN nhỏ; tổ chức dạy nghề lưu động tại các cơ sở và dạy nghề tại
Trung tâm dạy nghề các huyện cũng như các Trung tâm dạy nghề của Tỉnh.
Trong thực tế việc triển khai các hoạt động đào tạo nghề trong thời gian qua
diễn ra như thế nào? Có những yếu tố nào ảnh hưởng chính đến chất lượng
đào tạo nghề? Để nâng cao chất lượng đào tạo nghề, trong thời gian tới cần
phải có những giải pháp chủ yếu nào?
Từ thực tiễn đó việc chọn nghiên cứu đề tài: “Giải pháp nâng cao chất
lượng đào tạo nghề cho LĐNT ở tỉnh Hòa Bình trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa” vẫn là vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và
thực tiễn.


4

2. Mục tiêu.
2.1. Mục tiêu tổng quát.
Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho

LĐNT ở tỉnh Hòa Bình trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2.2. Mục tiêu cụ thể.
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về đào tạo nghề và nâng cao chất
lượng đào tạo nghề cho LĐNT trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Đánh giá thực trạng công tác đào tạo nghề và nâng cao chất lượng đào
tạo nghề cho LĐNT của tỉnh Hòa Bình thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng đào tạo
nghề cho LĐNT ở tỉnh Hòa Bình trong những năm tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Nâng cao chất lượng đào tạo nghề
cho LĐNT.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
+ Phạm vi về nội dung: Nâng cao chất lượng công tác đào tạo nghề cho
LĐNT.
+ Phạm vi về không gian: Tại tỉnh Hòa Bình.
+ Phạm vi thời gian: Từ năm 2010 đến năm 2012
4. Nội dung nghiên cứu.
- Cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo nghề và nâng cao chất lượng đào
tạo nghề cho LĐNT ở tỉnh Hòa Bình trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
- Thực trạng công tác đào tạo nghề và nâng cao chất lượng đào tạo
nghề cho LĐNT tỉnh Hòa Bình trong những năm qua.
- Một số giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho LĐNT tỉnh
Hòa Bình.


5

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ

CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
1.1. Cơ sở lý luận về đào tạo nghề và chất lượng đào tạo nghề cho LĐNT
1.1.1. Đào tạo nghề cho LĐNT
1.1.1.1. Khái niệm đào tạo nghề.
a. Khái niệm về nghề.
Nghề là thuật ngữ để chỉ một hình thức LĐ sản xuất nào đó trong xã hội.
Tác giả E.A.Klimov viết: “Nghề nghiệp là một lĩnh vực sử dụng sức LĐ
vật chất và tinh thần của con người một cách có giới hạn, cần thiết cho xã hội
(do sự phân công LĐ xã hội mà có). Nó tạo cho con người khả năng sử dụng
LĐ của mình để thu lấy những phương tiện cần thiết cho việc tồn tại và phát
triển”.
Theo tác giả Nguyễn Hùng thì:“Những chuyên môn có những đặc điểm
chung, gần giống nhau được xếp thành một nhóm chuyên môn và được gọi là
nghề. Nghề là tập hợp của một nhóm chuyên môn cùng loại, gần giống nhau.
Chuyên môn là một dạng LĐ đặc biệt, mà qua đó con người dùng sức mạnh
vật chất và sức mạnh tinh thần của mình để tác động vào những đối tượng cụ
thể nhằm biến đổi những đối tượng đó theo hướng phục vụ mục đích, yêu cầu
và lợi ích của con người ” [5].
Từ các khái niệm trên chúng ta có thể hiểu nghề nghiệp như một dạng
LĐ vừa mang tính xã hội (sự phân công xã hội) vừa mang tính cá nhân (nhu
cầu bản thân) trong đó con người với tư cách là chủ thể hoạt động đòi hỏi để
thoả mãn những yêu cầu nhất định của xã hội và cá nhân.
Ở một khía cạnh khác: Nghề là một lĩnh vực hoạt động LĐ mà trong
đó, nhờ được đào tạo, con người có được những tri thức, những kỹ năng để
làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được những
nhu cầu của xã hội.


6


Ở Việt Nam, nhiều định nghĩa nghề được đưa ra xong chưa được thống
nhất, chẳng hạn có định nghĩa nêu: Nghề là một tập hợp LĐ do sự phân công
LĐ xã hội quy định mà giá trị của nó trao đổi được. Nghề mang tính tương
đối, nó phát sinh, phát triển hay mất đi do trình độ của nền sản xuất hay do
nhu cầu xã hội. Mặc dù khái niệm nghề được hiểu dưới nhiều góc độ khác
nhau song chúng ta có thể thấy một số nét đặc trưng nhất định; Nghề là hoạt
động, là công việc LĐ của con người được lặp đi lặp lại; Nghề là sự phân công
là động xã hội, phù hợp với yêu cầu xã hội; Nghề là phương tiện để sinh sống;
Nghề là LĐ kỹ năng, kỹ xảo chuyên biệt có giá trị trao đổi trong xã hội, đòi
hỏi phải có quá trình đào tạo nhất định.
Nghề trong giai đoạn hiện nay biến đổi một cách mạnh mẽ và nó được
gắn chặt với xu hướng phát triển kinh tế xã hội của địa phương, đất nước.
Như vậy, nghề là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử phổ biến, gắn chặt với
sự phân công LĐ, với tiến bộ khoa học kỹ thuật và văn minh nhân loại.
b. Khái niệm đào tạo nghề.
Hiện nay, đang tồn tại nhiều định nghĩa về đào tạo nghề. Một số nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước đã đưa ra một số khái niệm:
Đào tạo là một lĩnh vực bao gồm toàn bộ các hoạt động của nhà trường
nhằm cung cấp kiến thức và giáo dục cho học sinh, sinh viên. Đây là công
việc kết nối giữa mục tiêu đào tạo, nội dung chương trình đào tạo, tổ chức
thực hiện chương trình và các vấn đề liên quan đến tuyển sinh, đào tạo, giám
sát, đánh giá, kiểm tra, tổ chức thực tập, thi tốt nghiệp cùng các quy trình
đánh giá khác, các chính sách liên quan đến chuẩn mực và cấp bằng ở lĩnh
vực đào tạo chuyên nghiệp ở các cơ sở đào tạo nghề nghiệp.
Đào tạo được thực hiện bởi các loại hình tổ chức chuyên ngành nhằm
thay đổi hành vi và thái độ làm việc của con người, tạo cho họ khả năng đáp
ứng tiêu chuẩn và hiệu quả của công việc chuyên môn.



7

Đào tạo nghề là quá trình trang bị kiến thức nhất định về trình độ
chuyên môn nghiệp vụ cho người LĐ để họ có thể đảm nhận một công việc
nhất định. Hay nói cách khác đó là quá trình truyền đạt, lĩnh hội những kiến
thức và kỹ năng cần thiết để người LĐ có thể thực hiện một công việc nào đó
trong tương lai.
Đào tạo nghề là những hoạt động giúp cho người học có được các kiến
thức về lý thuyết và kỹ năng thực hành một số nghề nào đó sau một thời gian
nhất định người học có thể đạt được một trình độ để tự hành nghề, tìm việc
làm hoặc tiếp tục học tập nâng cao tay nghề theo những chuẩn mực mới.
Theo Luật dạy nghề số 76/2006/QH11 ngày 29/11/2006 được Quốc hội
thông qua thì định nghĩa: [6]“Dạy nghề là hoạt động dạy và học nhằm trang
bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để
có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học”.
Tổ chức LĐ quốc tế (ILO) định nghĩa:” Dạy nghề là cung cấp cho
người học những kỹ năng cần thiết để thực hiện tất cả các nhiệm vụ liên quan
tới công việc nghề nghiệp được giao”.
Đào tạo nghề phục vụ cho mục tiêu kinh tế-xã hội, trước hết là phương
hướng phân công LĐ mới, tạo cơ hội cho mọi người đều được học tập nghề
nghiệp để dễ dàng tìm kiếm việc làm hoặc học lên trình độ cao hơn.
Qua các khái niệm về đào tạo nghề và dạy nghề ở trên ta có thể thấy, về
cơ bản khái niệm ĐTN và dạy nghề không có sự khác biệt nhiều về nội dung.
1.1.1.2. Các hình thức đào tạo nghề lao đông nông thôn.
Theo quyết định 1956/QĐ-TTg thì các hình thức đào tạo không được
quy định cụ thể về hình thức tổ chức đào tạo nghề cho LĐNT, chỉ có thời gian
dạy nghề được quy định trong chương trình dạy nghề như; địa điểm, tiến độ
đào tạo. Nhưng trên thực tế có thể thực hiện linh hoạt cho phù hợp với nghề
đào tạo, đặc điểm của của nghề, tránh ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ của LĐNT theo đặc điểm của từng địa bàn, từng lĩnh vực.

Trong thực tế đào tạo nghề cho LĐNT được tiến hành linh hoạt dưới


8

nhiều hình thức khác nhau, như dạy nghề tại các cơ sở dạy nghề, dạy nghề
theo đơn đặt hàng của các DN, dạy nghề lưu động tại địa phương, dạy nghề
tại DN… trong đó dạy nghề nông nghiệp, phi nông nghiệp cho LĐNT được
tiến hành theo hai hình thức chủ yếu sau:
* Đào tạo nghề ngắn hạn (Dạy nghề thường xuyên).
+ Thời gian: Dưới 3 tháng
+ Đối tượng: LĐNT trong độ tuổi LĐ có nhu cầu học
nghề, có trình độ học vấn, sức khoẻ phù hợp với nghề cần học.
+ Nội dung: Gồm cả lý thuyết và thực hành, trong đó thực hành là chủ
yếu ( Phương châm cầm tay chỉ việc)
* Tập huấn kỹ thuật:
+ Đối tượng: LĐNT đang trực tiếp tham gia sản xuất nông
nghiệp, thiếu kiến thức KHKT, thiếu kiến thức quản lý, kinh doanh;
+ Nội dung: Tập huấn quy trình trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ
hải sản, tập huấn quy trình phòng trừ dịch bệnh, kinh nghiệm hay trong
quá trình sản xuất…
+ Thời gian: Linh hoạt theo mùa vụ, từ 1-2 ngày.
* Toạ đàm trao đổi kiến thức:
+ Đối tượng: Những lao đông ở nông thôn có nhu cầu cùng nói chuyện
với nhau về một vấn đề gì đó, thường là để nhằm truyền bá một tư tưởng nào đó.
+ Nội dung: Trao đổi về kiến thức khoa học kỹ thuật trồng trọt, chăn
nuôi, hay kiến thức về phát triển kinh tế xã hội…
Thời gian: Lúc nông nhàn. Từ 1-5 ngày.
1.1.1.3. Nội dung đào tạo nghề cho LĐNT.
Trong “Luật Dạy nghề số 76/2006/QH11” được Quốc hội nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ 10 ngày 29 tháng 11
năm 2006, đã chỉ rõ đào tạo nghề là “ hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến


9

thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có
thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khoá học”
[6]. Trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam, đào tạo nghề bao hàm hệ
thống các trường, các cơ sở dạy nghề và các Trường trung học chuyên
nghiệp, cụ thể hơn, với hoạt động đào tạo nghề xem là một thiết chế gồm
nhiều bộ phận cấu thành, vận hành dựa trên sự phối hợp của các bộ phận ấy
vì một mục tiêu đào tạo chung.
Nội dung của đào tạo nghề là những yêu cầu đặt ra để mang lại cho
người học có được những kiến thức, kỹ năng, thái độ nghề nghiệp cần thiết.
Về yêu cầu của nội dung đào tạo nghề, Luật giáo dục năm 2005, tại
điều 34, khoản 1 có ghi: ‟‟ Nội dung giáo dục nghề nghiệp phải tập trung đào
tạo năng lực thực hành nghề nghiệp, coi trọng giáo dục đạo đức, rèn luyện sức
khoẻ, rèn luyện kỹ năng theo yêu cầu đào tạo của từng nghề, nâng cao trình
độ học vấn theo yêu cầu đào tạo‟‟. [7]
Nội dung phải phù hợp với mục tiêu đào tạo, phải đảm bảo tính cân đối,
toàn diện giữa các mặt kiến thức, kỹ năng, thái độ, đạo đức và lương tâm nghề
nghiệp cần thiết. Bên cạnh đó, nội dung phải gắn liền với thực tế sản xuất,
phải đảm bảo tính khoa học, cơ bản, hiện đại, tính liên thông phù hợp với
trình độ của người học.
Để thực hiện được những nội dụng đặt ra đối với đào tạo nghề cần tuân
thủ các nội dung chủ yếu trọng hoạt động dạy nghề cho LĐNT. Cụ thể bao
gồm các nội dung chủ yếu sau:
- Tuyên truyển, tư vấn học nghề và việc làm đối với LĐNT;
- Điều tra, khảo sát và dự báo nhu cầu dạy nghề cho LĐNT;

- Thí điểm các mô hình dạy nghề cho LĐNT;
- Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề đối với các cơ sở
dạy nghề công lập;


10

- Phát triển chương trình, giáo trình, học liệu và xây dựng danh mục
thiết bị dạy nghề;
- Phát triển đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý dạy nghề;
- Hỗ trợ LĐNT học nghề.
1.1.1.4. Đặc điểm của đào tạo nghề cho LĐNT.
Là LĐ sống ở nông thôn, chủ yếu tham gia sản xuất trong các ngành
nông, lâm, ngư nghiệp và do tính chất đặc thù của ngành nông nghiệp nên
hoạt động đào tạo nghề cho LĐNT có những đặc điểm riêng biệt khác với các
lĩnh vực khác. Đó là:
Một là: Đối tượng đào tạo.
Đối tượng đào tạo là những người LĐ sống ở nông thôn, chủ yếu là sản
xuất nông nghiệp và các ngành nghề phi nông nghiệp gắn với sản xuất nông
nghiệp và kinh tế nông thôn nên ngoài những ưu điểm như cần cù, chịu khó,
ham học hỏi, có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất thì đại đa số nông dân
trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật cũng như trình quản lý kinh doanh và khả
năng tiếp cận thì trường thấp; Phần đông nông dân nước ta còn mang nặng tư
tưởng và tâm lý tiểu nông, sản xuất nhỏ, ngại thay đổi nên thường bảo thủ và
thiếu năng động.
Đối với các vùng nông thôn ở nước ta hiện nay phần lớn nông dân còn
nghèo nên khả năng đầu tư cho việc học hành rất khó khăn, hạn chế. Với đối
tượng đào tạo là LĐNT như vậy nên đòi hỏi các cơ sở đào tạo phải tìm ra các
hình thức đào tạo thích hợp và nhà nước phải ban hành và thực hiện nhiều
chính sách ưu đãi đối với người học

Hai là: Ngành nghề đào tạo đa dạng.
Ngoài 164 nghề đã được các cơ quan quản lý Nhà nước về ĐTN, hiện
trong dân còn hàng trăm nghề khác chưa được đưa chính thức vào hệ thống
chương trình ĐTN; số nghề này giúp cho người học có thể tìm cho mình cơ


11

hội mưu sinh. Tuy nhiên, với hoạt động ĐTN đối với LĐNT có thể chia làm
2 nhóm nghề chính: nhóm nghề nông nghiệp và nghề phi nông nghiệp.
Ba là: Cơ sở vật chất phục vụ đào tạo nghề.
Trong quá trình ĐTN đối với LĐNT, ngoài đào tạo những nghề nông
nghiệp còn đào tạo cả nhóm nghề phi nông nghiệp. Chính điều kiện sẵn có tại
địa phương là tiền đề thuận lợi cho việc nâng cao chất lượng ĐTN đối với
LĐNT khi triển khai những nhóm nghề nông nghiệp như các phần dạy thực
hành, trải nghiệm thực tế để nâng cao kỹ năng nghề.
Nhưng đối với việc triển khai đào tạo những nghề phi nông nghiệp sẽ
gặp rất khó khăn do thiếu thốn về cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhà xưởng,
máy móc... Vì vậy, để hoạt động ĐTN cho LĐNT đảm bảo chất lượng nhà
nước cần có chính sách đầu tư các cơ sở dạy nghề phù hợp với từng vùng
nông thôn, đảm bảo kết hợp đào tạo nghề tại địa phương với thực tập, kiến
tập tại các cơ sở đào tạo, DN có đủ cơ sở vật chất cần thiết.
Đối với hoạt động đào tạo nghề nông nghiệp cần kết hợp giảng dạy lý
thuyết tại các cơ sở đào tạo với thực hành tại cơ sở sản xuất của nông dân,
gắn với sản xuất trên đồng ruộng, tại các trang trại chăn nuôi.v.v.
Bốn là, hình thức đào tạo.
Do tính đặc thù của sản xuất nông nghiệp nên hình thức đào tạo phải
hết sức đa dạng vừa phù hợp với thời gian đi học của nông dân, vừa phụ hợp
với thời vụ sản xuất của từng loại cây trồng, vật nuôi. Có những nghề đòi hỏi
phải học tập trung ở các cơ sở đào tạo nhưng cũng có những nghề có thể thực

hiện tại cơ sở sản xuất, như tập huấn tại đồng ruộng (tập huấn đầu bờ), tại
chuồng trại chăn nuôi, ao ruông nuôi trồng thủy sản.v.v.
Năm là, về sử dụng LĐ sau đào tạo.
LĐ sau ĐTN ở nông thôn chủ yếu phục vụ cho sản xuất, kinh doanh
của chính bản thân họ và gia đình họ. Vì vậy, việc lựa chọn nghề cần đào tạo


12

và phương thức đào tạo phải thích hợp với nhu cầu người học ở từng địa
phương, tránh tình trạng các địa phương khác nhau về ngành nghề sản xuất,
nhưng ngành nghề đạo tạo lại giống nhau gây lãng phí cho người học.
1.1.2. Chất lượng đào tạo nghề LĐNT.
1.1.2.1. Khái niệm chất lượng đào tạo nghề và chất lượng đào tạo nghề.
- Khái niệm chất lượng đào tạo nghề:
Chất lượng đào tạo nghề đối với LĐNT chính là sự phù hợp với mục
tiêu đề ra qua sự đánh giá của các đối tượng tham gia vào quá trình đào tạo
nghề đối với LĐNT. Bao gồm: Chính những cơ sở đào tạo đánh giá, thị trường
LĐ, cơ sở sử dụng LĐ đánh giá, hoặc vận dụng kiến thức vào thực tế để tăng
năng suất LĐ của người nông thôn được đào tạo.
Việc có đạt được mục tiêu hay không thể hiện khả năng tập hợp kiến
thức nghề nghiệp, kỹ năng nghề nghiệp và thái độ nghề nghiệp của người
nông thôn sau quá trình học nghề. Quá trình ĐTN đối với LĐNT có chất
lượng sẽ bảo đảm cho những nông thôn tích lũy và hình thành nên phẩm chất
và năng lực mới để hoàn thành công việc hiện tại một cách tốt hơn hoặc thích
ứng và làm được những công việc mới có hiệu quả.
Do đó, chất lượng ĐTN đối với LĐNT cũng có thể được nhìn nhận
như là sự tổng hòa những phẩm chất và năng lực tạo nên trong quá trình đào
tạo bồi dưỡng cho người học so với thang chuẩn giá trị của Nhà nước hoặc xã
hội quy định.

Mục tiêu đào tạo có thể coi là cơ sở quan trọng nhất để đo lường chất
lượng ĐTN đối với LĐNT. Để đánh giá sát về chất lượng ĐTN đối với
LĐNT; cần phải công khai mục tiêu đào tạo. Đồng thời, mục tiêu phải được
đảm bảo bằng những quy trình, thủ tục, nội dung, phương pháp thông qua các
hoạt động chủ yếu của cơ sở đào tạo.


13

1.1.2.2. Các tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo nghề.
* Khái niệm chất lượng đào tạo nghề.
Chất lượng luôn là vấn đề quan trọng nhất của tất cả các cơ sở đào tạo,
việc phấn đấu nâng cao chất lượng đào tạo bao giờ cũng được xem là nhiệm
vụ quan trọng nhất của bất kỳ cơ sở đào tạo nào. Mặc dù có tầm quan trọng
như vậy nhưng chất lượng vẫn là một khái niệm khó định nghĩa, khó xác
định, khó đo lường và cách hiểu của người này cũng khác với cách hiểu của
người kia. Chất lượng có một loạt định nghĩa trái ngược nhau và rất nhiều
cuộc tranh luận xung quanh vấn đề này đã diễn ra tại các diễn đàn khác nhau
mà nguyên nhân của nó là thiếu một cách hiểu thống nhất về bản chất của vấn đề.
Khái niệm “chất lượng” đã trừu tượng và phức tạp thì khái niệm về
“chất lượng đào tạo nghề” càng phức tạp hơn bởi liên quan đến sản phẩm là
giá trị của con người, một sự vật, sự việc. Như vậy có thể hiểu chất lượng là
để chỉ sự hoàn hảo, phù hợp, tốt đẹp.
Chất lượng đào tạo nghề phản ánh trạng thái đào tạo nghề nhất định và
trạng thái đó thay đổi phụ thuộc vào các yếu tố tác động đến nó. Sẽ không thể
biết được chất lượng đào tạo nếu chúng ta không đánh giá thông qua một hệ
thống các chỉ tiêu và các yếu tố ảnh hưởng.
Khái niệm chất lượng đào tạo nghề là để chỉ chất lượng của người LĐ
được đào tạo trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp, theo mục tiêu và chương
trình đào tạo xác định trong các lĩnh vực ngành nghề khác nhau, biểu hiện

một cách tổng hợp nhất ở mức độ chấp nhận của thị trường LĐ, của xã hội đối
với kết quả đào tạo. Đồng thời chất lượng đào tạo nghề còn phản ánh cả kết
quả đào tạo của các cơ sở đào tạo nghề và hệ thống đào tạo nghề.
* Các tiêu chí đánh giá chất lượng.


14

Một số quan điểm cho rằng “Chất lượng một cơ sờ đào tạo phụ thuộc
vào chất lượng hay số lượng đầu vào của cơ sở đó”. Quan điểm này được gọi
là “quan điểm nguồn lực” có nghĩa là:
Nguồn lực = chất lượng.
Theo quan điểm này, một cơ sở đào tạo tuyển được người học giỏi, có
đội ngũ cán bộ giảng dạy uy tín, có nguồn tài chính cần thiết để trang bị các
phòng thí nghiệm, giảng đường, các thiết bị tốt nhất được xem là trường có
chất lượng cao. Thực tế, theo cách đánh giá này, quá trình đào tạo được xem
là một “hộp đen”, chỉ dựa vào sự đánh giá “đầu vào” và phỏng đoán chất
lượng “đầu ra”.
Một quan điểm khác về chất lượng lại cho rằng “đầu ra” có tầm quan
trọng hơn nhiều so với “đầu vào” của quá trình đào tạo. “Đầu ra” chính là sản
phẩm của cơ sở đào tạo nó thể hiện bằng mức độ hoàn thành công việc của
người học tốt nghiệp hay khả năng cung cấp các hoạt động đào tạo của trường
đó. Có 2 vấn đề cơ bản có liên quan đến cách tiếp cận chất lượng của cơ sở
đào tạo. Một là, mối liên hệ giữa “đầu vào” và “đầu ra” không được xem xét
đúng mức. Trong thực tế mối liên hệ này là có thực, cho dù đó không phải là
quan hệ nhân quả. Một cơ sở có khả năng tiếp nhận những học viên xuất sắc,
không có nghĩa là học viên của họ sẽ tốt nghiệp loại xuất sắc. Hai là, cách
đánh giá “đầu ra” của các trường rất khác nhau.
Đánh giá chất lượng đào tạo là vấn đề phức tạp, không chỉ phụ thuộc
vào việc đánh giá đầu vào hay đầu ra đơn thuần, mà phải thấy được mục tiêu

đào tạo mà mỗi có sở đào tạo, mỗi lĩnh vực đào tạo hay mỗi quốc gia đang
theo đuổi. Từ nhiều năm nay Đảng ta đã chủ trương đổi mới giáo dục đào tạo
theo hướng gắn với nhu cầu xã hội. Đây là một trong những vấn đề bức xúc
hiện nay đang được cả xã hội quan tâm.


15

Ở Việt Nam trong nhiều năm trở lại đây các trường trong hệ thống giáo
dục đào tạo đang có xu hướng chạy theo số lượng tuyển sinh (đầu vào) còn
đầu ra ít quan tâm nên tỷ lệ khá động những người LĐ sau đào tạo không tìm
được việc làm hoặc tìm được việc làm nhưng không phù hợp với ngành nghề
đào đào tạo (làm trái ngành).
Vì vậy, chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá chất lượng đào tạo là tỷ lệ
LĐ sau đào tạo đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế đát nước theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đáp ứng yêu cầu của các nhà tuyển dụng, người LĐ
có việc làm ổn định phù hợp với ngành nghề đào tạo, có khả năng phát triển
trong chính lĩnh vực mình làm việc và nâng cao thu nhập, đảm bảo cuộc sống
bản thân và gia đình.
1.1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo nghề cho LĐNT.
Theo một số nghiên cứu, quá trình đào tạo bao gồm 10 yếu tố chủ yếu sau:
1-

Mục tiêu đào tạo;

2-

Nội dung đào tạo;

3-


Phương pháp đào tạo;

4-

Lực lượng đào tạo (người dạy);

5-

Đối tượng đào tạo (người học);

6-

Tổ chức đào tạo;

7-

Điều kiện đào tạo;

8-

Môi trường đào tạo;

9-

Quy chế đào tạo;

10.

Bộ máy đào tạo.


Từ 10 yếu tố trên, người ta có thể rút ra sáu yếu tố cốt lõi bao gồm:
1-

Mục tiêu đào tạo;

2-

Nội dung đào tạo;

3-

Phương pháp đào tạo;


16

4-

Đối tượng đào tạo;

5-

Thiết bị dạy học;

6-

Lực lượng đào tạo.
Sáu yếu tố cốt lõi giữ vai trò chính, cùng với 4 yếu tố còn lại sẽ


quyết định đến chất lượng hoạt động đào tạo.
Hoạt động đào tạo

Pháp luật, chính
sách
Cơ chế quản lý

Chất lượng đội
ngũ CBQL,
CBGD
Mục tiêu đào tạo

Các

Các

yếu

Mội trường tự
nhiên, xã hội

tố
bên
ngoài

Phát triển khoa
học, công nghệ

Nhu cầu của nền
kinh tế


Chương trình
đào tạo
Cơ chế điều
hành, quản lý
đào tạo
Tổ chức đào tạo

yếu
tố
bên
trong

Cơ sở vật chất

Hình 1.1: Sơ đồ các yếu tố tác động đến hoạt động đào tạo
Qua sơ đồ trên cho thấy, các yếu tố tác động đến hoạt động đào tạo có
thê chia ra 2 nhóm. Nhóm các yếu tố bên trong và nhóm các yếu tố bên
ngoài.
Để nâng cao chất lượng hoạt động ĐTN cho LĐNT cần xem xét hai
nhóm yếu tố trên.


17

* Các yếu tố bên trong:
Các yếu tố bên trọng tác động đến chất lượng đào tạo nghề bao gốm:
Một là: Mục tiêu đào tạo.
Mục tiêu đào tạo nghề là đích hướng tới của quá trình ĐTN. Mục tiêu
chung của ĐTN là: “Đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất,

dịch vụ có năng lực thực hành nghề tương xứng với trình độ đào tạo, có
đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có
sức khỏe nhằm tạo điều kiện cho người học nghề sau khi tốt nghiệp có khả
năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc học lên trình độ cao hơn, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Mục tiêu đào tạo nghề cũng được xác định cụ thể với từng trình độ đào
tạo: Cao đẳng nghề, Trung cấp nghề và Sơ cấp nghề.
“Hệ thống mục tiêu đào tạo bao gồm: các mục tiêu ngành, quốc gia;
mục tiêu trường (ngắn hạn, trung hạn, dài hạn); mục tiêu đáp ứng yêu cầu
thực tiễn của thị trường chung; mục tiêu đáp ứng yêu cầu của DN hợp tác đào
tạo”.
Để nâng cao hoạt động đào tạo nghề đối với LĐNT cần phải đề ra các
mục tiêu sát với thực tế về yêu cầu và khả năng thực hiện. Do đó, khi xây
dựng mục tiêu đào tạo cần phải có sự khảo sát, nghiên cứu kỹ lưỡng đối với
từng yếu tố.
Hai là: Nội dung đào tạo.
Nội dung đào tạo kết hợp với mục tiêu đào tạo sẽ là cơ sở quan trọng
xây dựng lên chương trình đào tạo.
Chương trình đào tạo nghề là một bảng thiết kế tổng thể cho một hoạt
động đào tạo, đó có thể là một khóa hoc kéo dài vài giờ, một ngày, một tuần
hoặc vài năm. Bảng thiết kế tổng thể đó cho biết toàn bộ nội dung cần đào
tạo, chỉ rõ ra những gì có thể trông đợi ở người học sau khóa học, nó phác hoạ


18

ra quy trình cần thiết để thực hiện nội dung đào tạo, nó cũng cho biết các
phương pháp đào tạo và các cách thức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập và
tất cả các cái đó được sắp xếp theo môt thời gian biểu chặt chẽ.
Chương trình đào tao nghề bao gồm 5 yếu tố cơ bản: Mục tiêu dạy học

của chương trình; Nội dung dạy học; Hình thức tổ chức và phương pháp dạy
học; Quy trình, kế hoạch triển khai; Đánh giá kết quả.
Chương trình đào tạo gắn với từng nghề đào tạo, không có chương
trình đào tạo chung cho các nghề mà mỗi loại nghề đều có chương trình riêng
theo chuẩn quy định chung. Chương trình đào tạo bao gồm phần lý thuyết và
phần thực hành, tương ứng với mỗi cấp độ đào tạo, mỗi nghề thì tỷ lệ phân
chia giữa hai phần này là khác nhau về lượng nội dung cũng như thời gian học.
Việc nghiên cứu, xây dựng các chương trình, giáo trình sao cho hợp lý
và sát với nhu cầu đào tạo cũng như sát với nghề đào tạo để học viên có thể
nắm vũng được nghề sau khi tốt nghiệp là vấn đề rất quan trọng và ảnh hưởng
trực tiếp tới chất lượng đào tạo nghề.
Đối với đào tạo nghề chương trình đào tạo nghề là một trong những yếu
tố cơ bản, quyết định đến chất lượng đào tạo nghề. Để chất lượng đào tạo
nghề đáp ứng được yêu cầu của thị trường LĐ thì chương trình đào tạo nghề
phải được xây dựng sát với yêu cầu của thị trường LĐ, đáp ứng được sự thay
đổi của khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới được ứng dụng trong sản xuất,
kinh doanh; chương trình đào tạo nghề phải được xây dựng theo một phương
pháp khoa học, đồng thời phải được thường xuyên cập nhật, bổ sung, sửa đổi.
Mặt khác chương trình khung đào tạo nghề phải được xây dựng và quản lý
thống nhất góp phần đảm bảo chất lượng đào tạo nghề giữa các cơ sở dạy
nghề trên phạm vi toàn quốc.
Theo ba cấp trình độ ĐTN, sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng
nghề; nội dung đào tạo nghề được xác định cụ thể như sau:


19

- Nội dung dạy nghề trình độ sơ cấp phải phù hợp với mục tiêu dạy
nghề trình độ sơ cấp, tập trung vào năng lực thực hành nghề, phù hợp với
thực tiễn và sự phát triển của khoa học, công nghệ.

- Nội dung dạy nghề trình độ trung cấp phải phù hợp với mục tiêu
dạy nghề trình độ trung cấp, tập trung vào năng lực thực hành các công
việc của một nghề, nâng cao trình độ học vấn theo yêu cầu đào tạo, bảo
đảm tính hệ thống, cơ bản, phù hợp với thực tiễn và sự phát triển của khoa
học, công nghệ.
- Nội dung dạy nghề trình độ cao đẳng phải phù hợp với mục tiêu
dạy nghề trình độ cao đẳng, tập trung vào năng lực thực hành các công việc
của một nghề, nâng cao kiến thức chuyên môn theo yêu cầu đào tạo của nghề,
bảo đảm tính hệ thống, cơ bản, hiện đại, phù hợp với thực tiễn và đáp ứng sự
phát triển của khoa học, công nghệ.
Ba là: Phương pháp đào tạo.
Phương pháp ĐTN đối với LĐNT trước hết phải gắn với mục tiêu và
nội dung đào tạo; đồng thời phải phù hợp với đối tượng đào tạo là nông thôn
có trình độ không cao.
Theo ba cấp trình độ ĐTN, sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng
nghề; phương pháp đào tạo nghề được xác định cụ thể như sau:
- Phương pháp dạy nghề trình độ sơ cấp phải chú trọng rèn luyện kỹ
năng thực hành nghề và phát huy tính tích cực, tự giác của người học nghề.
- Phương pháp dạy nghề trình độ trung cấp phải kết hợp rèn luyện năng
lực thực hành nghề với trang bị kiến thức chuyên môn và phát huy tính tích
cực, tự giác, khả năng làm việc độc lập của người học nghề.
- Phương pháp dạy nghề trình độ cao đẳng phải kết hợp rèn luyện năng
lực thực hành nghề với trang bị kiến thức chuyên môn và phát huy tính tích
cực, tự giác, năng động, khả năng tổ chức làm việc theo nhóm.


20

Bốn là: Đối tượng đào tạo (Học viên học nghề).
Nếu coi hoạt động đào tạo như một quá trình sản xuất đặc biệt, sản

phẩm sau quá trình sản xuất là người học sau khi tốt nghiệp có trình độ, kiến
thức và khả năng nghề nghiệp; thì người bắt đầu đi học chính là yếu tố đầu
vào cho quá trình sản xuất đó. Do đó, chất lượng đầu vào nói chung hay trình
độ cơ bản của đối tượng đào tạo trước khi đăng ký học nghề sẽ tác động nhất
định đến chất lượng đào tạo.
Nhìn chung, nông thôn có trình độ tương đối thấp. Do điều kiện kinh tế
và sinh hoạt, thường xuyên phải vừa học vừa làm từ nhỏ nên những kiến thức
cơ bản rất hạn chế. Mặc dù nhà nước có những chính sách khuyến khích học
tập, phổ cập giáo dục nhưng tỷ lệ không học hết THPT thậm chí là THCS vẫn
chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn. Vì vậy, khi đi học nghề sẽ hạn chế rất
nhiều khả năng tiếp cận kiến thức chuyên môn để hình thành lên kỹ năng
nghề nghiệp.
Việc đảm bảo chất lượng đào tạo nghề khi tiến hành ĐTN đối với
LĐNT chắc chắn sẽ khó khăn hơn những đối tượng khác, chẳng hạn như LĐ
ngoài thành thị.
Năm là: Cơ sở vật chất và tài chính (thiết bị dạy học)
Nói đến điều kiện đào tạo là nói đến phòng học, máy móc, vật tư và
trang thiết bị phục vụ giảng dạy. Tuy nhiên, đối với hoạt động ĐTN mục tiêu
đạt được kiến thức phải đi đôi với mục tiêu rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp; do
đó khối lượng thực hành, thực tập chiếm một thời gian lớn trong chương trình
đào tạo và sẽ tiêu tốn lượng nguồn lực nhất định để hoàn thành quá trình đào
tạo. Vì vậy, điều kiện đào tạo trở thành một trong những yếu tố quan trọng
nhất quyết định chất lượng ĐTN nói chung và ĐTN đối với LĐNT nói riêng.
Sáu là: Giáo viên và cán bộ quản lý đào tạo.
- Giáo viên dạy nghề:


21

Đội ngũ giáo viên là yếu tố cơ bản có tình chất quyết định, tác động

trực tiếp lên chất lượng đào tạo: là người giữ trọng trách truyền đạt kiến thức
kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm cho các học viên trên cơ sở thiết bị dạy học.
Bất cứ hình thức đào tạo nào và ở cấp bậc đào tạo nào đội ngũ giáo
viên vẫn là nhân tố có ý nghĩa quyết định đến chất lượng đào tạo. Vì vậy, mỗi
cơ sở đào tạo cần hết sức quan tâm đến tuyển dụng và đào tạo đội ngũ giáo
viên đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lương đào tạo. Đố với dạy nghề chất
lượng đội ngũ giáo viên không chỉ giỏi về lý thuyết mà điều hết sức quan trọng
là phải có khả năng thực hành (dạy nghề dòi hỏi rất cao học đi đôi với hành).
- Cán bộ quản lý đào tạo:
C.Mác đã từng cho rằng: “Quản lý là một trong những hoạt động khó
khăn phức tạp nhất của con người liên quan đến sự phân công và hợp tác
LĐ”. “Khó khăn, phức tạp” bởi vì đó “là quá trình hoàn thành công việc
thông qua con người và làm việc với con người”
Chức năng của những cán bộ quản lý đào tạo là lập kế hoạch, tổ chức,
lãnh đạo (điều hành) và kiểm tra. Trong hoạt động đào tạo nói chung và đào tạo
nghề đối với nông thôn nói riêng thì cán bộ quản lý đào tạo có vai trò hết sức
quan trọng; tác động gián tiếp trên phạm vi rộng, nhiều khía cạnh đến chất lượng
đào tạo. Với đặc điểm LĐ của những nhà quản lý là sản phẩm từ quá trình LĐ
của họ là những quyết định, tính đúng đắn, khả thi và hiệu quả của quyết định sẽ
phụ thuộc vào khả năng sáng tạo của nhà quản lý. Do đó, để nâng cao chất lượng
đào tạo nghề đối với LĐNT cần hết sức quan tâm đến chất lượng cán bộ quản lý
đào tạo nghề và kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo cán bộ quản lý đào tạo
* Các yếu tố bên ngoài:
Các yếu tố bên ngoài tuy không tác động trực tiếp vào hoạt động đào
tạo nhưng thiếu nó quá trình đào tạo sẽ gặp rất nhiều khó khăn và nhiều hoạt


22

động sẽ không thực hiện được hoặc thực hiện được nhưng hiệu quả sẽ thấp.

Các yếu tố bên ngoài có ảnh hưởng đến chất lượng ĐTN cho LĐNT bao gốm:
1. Chủ trương chính sách của Nhà nước liên quan đến đào tạo nghề
cho LĐNT
Chủ trương và chính sách của Nhà nước trong quá trình phát triển đào
tạo nghề là một trong những yếu tố quan trọng tác động đến việc khai thác
nguồn tài chính đầu tư cho đào tạo nghề. Chính sách dạy nghề được hiểu là
một hệ thống các quan điểm, chủ trương, biện pháp nhằm mở rộng và nâng
cao hiệu quả của dạy nghề, đáp ứng yêu cầu phát triển của thị trường LĐ và
phát triển sản xuất. Các quan điểm, chủ trương, biện pháp được thể hiện bằng
một hệ thống chính sách, cơ chế cụ thể nhằm hướng việc dạy nghề theo một
mục tiêu và định hướng đã được xác định.
Chính sách dạy nghề xét về nội dung được chia thành 3 nhóm:
Thứ nhất: Các chính sách, cơ chế có tính chất vĩ mô, tác động đến dạy
nghề như chính sách tiền lương, tiền công; chính sách thu hút LĐ và các
ngành nghề ưu tiên; chính sách tạo mở việc làm.
Thứ hai: Các chính sách, cơ chế trực tiếp khuyến khích học nghề,
dạy nghề, như chính sách tuyển sinh; chính sách đầu tư cho dạy nghề;
chính sách sử dụng LĐ qua đào tạo; chính sách khuyến khích các thành
phần kinh tế tham gia dạy nghề, trong đó có chính sách dạy nghề theo
vùng, theo ngành nghề.
Thứ ba: Các chính sách, cơ chế khuyến khích dạy nghề, học nghề
đối với nhóm LĐ đặc thù như người tàn tật, dân tộc thiểu số, các hộ dân
cư mất đất sản xuất để xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất…LĐ
trong độ tuổi thanh niên, LĐ nghèo khó diện chính sách xã hội, trẻ em
dưới 16 tuổi.
Chính sách dạy nghề có vai trò định hướng quan trọng cho hoạt động


23


dạy nghề trên phạm vi toàn quốc, chính sách đúng đắn sẽ tạo môi trường
thuận lợi cho sự phát triển dạy nghề, tạo việc làm, đáp ứng nhu cầu thị trường
LĐ và ngược lại.
Chủ trương và chính sách về đào tạo nghề có tác động rất lớn đến chất
lượng đào tạo nghề như chính sách đầu tư xây dựng các cơ sở đào tạo nghề
của nhà nước (bao gồm đầu tư xây dựng trường lớp, xây dựng chương trình,
biện soạn giáo trình, tài liệu phục vụ đào tạo, đầu tư đào tạo đội ngũ giáo
viên.v.v, chính sách đối với người đi học, nhất là với các đối tượng ưu tiên,
chính sách sử dụng LĐ sau đào tạo tập trung theo hướng đào tạo nghề gắn với
giải quyết việc làm tại chỗ là những nội dung quan trọng trong phát triển đào
tạo nghề hiện nay.
* Các nhân tố về phía học viên và xã hội.
Học viên học nghề là nhân tố có tính chất quyết định đối với công tác đào
tạo nghề, nó ảnh hưởng toàn diện tới công tác đào tạo nghề. Trình độ văn hóa, sự
hiểu biết, tâm lý, cá tính, khả năng tài chính, quỹ thời gian,… của bản thân người
học viên đều có ảnh hưởng sâu sắc tới quy mô và chất lượng đào tạo nghề.
Xã hội có tác động mạnh đến công tác đào tạo nghề, ảnh hưởng rõ rệt
nhất của nó là tới lượng học viên đầu vào cho các cơ sở dạy nghề. Trên thực
tế công tác đào tạo nghề nói chung và đào tạo nghề cho LĐNT nói riêng hiện
nay chưa được xã hội nhận thức đầy đủ và đúng đắn. Vì những hạn chế,
những rào cản của đào tạo nghề, tâm lý ưa chuộng bằng cấp của gia đình và
của người học nghề, coi việc vào các Trường đại học, cao đẳng như là con
đường duy nhất để kiếm được việc làm và để tiến thân.
Nếu mọi người trong xã hội có được cái nhìn khách quan hơn, nhìn
nhận và đánh giá đúng đắn hơn tầm quan trọng của việc học nghề, thì số
lượng LĐ tham gia học nghề, sẽ chiếm một tỷ lệ lớn hơn so với thực tế hiện
nay và sẽ có cơ cấu độ tuổi LĐ trẻ hơn, đa dạng hơn. Người LĐ nếu nhận thức


24


được rằng giỏi nghề cũng là một bằng cấp quý giá của mình thì công tác đào tạo
nghề sẽ nhận được thêm nhiều nguồn lực hỗ trợ từ xã hội.
* Nhân tố về tài chính đầu tư cho công tác đào tạo nghề.
Nguồn tài chính đầu tư công tác đào tạo nghề có vị trí hết sức quan
trọng, có tính chất quyết định đến sự tồn tại và phát triển của các cơ sở đào
tạo nghề. Tài chính bao gồm các khoản chi cho việc đầu tư xây dựng cơ sở
vật chất, mua sắm trang thiết bị, chi phí công tác quản lý, tiền lương và các
hoạt động khác của các cơ sở dạy nghề. Có thể thấy được đào tạo nghề là hình
thức đào tạo tốn kém nên rất cần sự đầu tư đúng mức của chính phủ và hỗ trợ
kinh phí từ các nguồn khác.
* Các nhân tố về vai trò của Nhà nước.
Nhận thức rõ được vai trò của đào tạo nghề đối với việc nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, Nhà nước cần phải có các chính sách đầu tư, phát triển
mạng lưới cơ sở dạy nghề nói chung, TTDN nói riêng cũng như định hướng
đến năm 2020 phù hợp, đồng bộ với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế- xã hội của cả nước, của từng ngành, vùng, địa phương và phát
huy hiệu quả của các TTDN hiện có; đa dạng hoá các hình thức dạy nghề, tạo
điều kiện cho người LĐ, thanh niên, nông dân, người dân tộc thiểu số học
nghề; đồng thời phải ban hành hệ thống văn bản tạo hành lang pháp lý, tạo
môi trường thuận lợi để khuyến khích đào tạo nghề phát triển.
Nhà nước xậy dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật như: quy
định về thành lập, đăng ký hoạt động dạy nghề, quy chế hoạt động của trường
dạy nghề; chương trình khung; mã nghề; quy định liên thông các trình độ tay
nghề; kiểm định chất lượng đào tạo nghề. Đó là những chính sách quan trọng
giúp phát triển đào tạo nghề.


×