Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế (việt nam giai đoạn 2011 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.1 KB, 23 trang )

Mục lục
Lời mở đầu........................................................................................................................................................1
A. Khung nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu theo ngành....................................................................................2
I. Khái niệm và nội dung cơ cấu ngành kinh tế............................................................................................2
II. Chuyển dịch cơ cấu theo ngành...............................................................................................................3
III, Những nhân tố ảnh hưởng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế..............................................................5
B. Thực trang chuyển dịch cơ cấu ngành của VN từ 2011 – 2015...................................................................6
I. Các yếu tố tác động ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu ngành Kinh tế.................................................6
II. Thực trạng chuyển dịch............................................................................................................................9
C. Giải pháp về chuyển dịch cơ cấu ngành giai đoạn 2016-2020..................................................................20
I. Quan điểm định hướng và mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành:..........................................................20
II. Giải pháp:................................................................................................................................................21
Kêt luận...........................................................................................................................................................23

Lời mở đầu
Trong quá trình tăng trưởng của mỗi quốc gia, chuyển dịch cơ cấu ngành linh hoạt
và phù hợp với những điều kiện bên trong, bên ngoài có vai trò vô cùng quan trọng
trong việc tạo nên tính chất bền vững, hiệu quả của quá trình tăng trưởng. Nó có

1


tác dụng củng cố thành quả của công nghiệp hóa và tiếp theo là tác dụng đến các
mục tiêu khác của công nghiệp hóa như mục tiêu về xã hội, môi trường.
Thêm vào đó, trong nền kinh tế hội nhập quốc tế và khu vực ngày càng phát triển
thì việc lựa chọn dạng và chuyển dịch cơ cấu ngành thể hiện được các lợi thế tương
đối và khả năng cạnh tranh của một quốc gia trong nền kinh tế toàn cầu, là cơ sở
cho sự chủ động tham gia và thực hiện hội nhập thắng lợi, giành được vị trí xứng
đáng và có hiệu quả cao trong việc tham gia vào chuỗi dây chuyền giá trị toàn cầu.
Vì những lý do trên, việc đánh giá thực trạng cơ cấu ngành kinh tế, phân tích
những yếu tố tác động đến quá trình chuyển dịch của nó để đưa ra những giải pháp


để có một cơ cấu ngành hợp lý cũng như những giải pháp về sự chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế để đạt cơ cấu hợp lý đó là vẫn đề rất cần thiết.
Nhận thức được vấn đề trên, nhóm chúng em xin trình bày đề tài “Cơ cấu ngành
và chuyển dịch cơ cấu ngành. Thực trạng và giải pháp khắc phục ở Việt
Nam”.

A. Khung nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu theo ngành
I. Khái niệm và nội dung cơ cấu ngành kinh tế
1, Khái niệm
Là tương quan giữa các ngành trong tổng thể nền kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu
cơ và sự tác động qua lại cả về số lượng và chất lượng giữa các ngành với nhau.
2. Nội dung

2


Trước hết, đó là số lượng các ngành kinh tế được hình thành. Số lượng ngành kinh
tế không cố định, nó luôn được hoàn thiện theo sự phát triển của phân công lao
động xã hội.
Tiếp đến, Cơ cấu ngành kinh tế thể hiện mối quan hệ tương hỗ giữa các ngành với
nhau. Mối quan hệ này bao gồm cả mặt số lượng và chất lượng.số lượng là mối
quan hệ về định lượng phản ánh theo chiều rộng bằng thước đo đóng góp GDP
trong nhóm ngành kinh tế.

Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam

Xét về con số tuyệt đối, GDP của Việt Nam đạt 808.883 tỷ đồng tính theo giá
thực tế, trong đó ngành dịch vụ đóng góp nhiều nhất, chiếm 42,23% GDP,
tiếp đến là ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 34,8%, còn ngành nông
lâm thủy sản đóng góp 12,35% GDP.

Tính theo nhóm ngành nhỏ hơn, ngành chế biến chế tạo đóng góp nhiều nhất
cho nền kinh tế, chiếm tỷ trọng 14,76% GDP, và ghi nhận mức tăng trưởng
mạnh 9,51% so với cùng kỳ năm trước.
II. Chuyển dịch cơ cấu theo ngành
1. Khái niệm
Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là quá trình sự thay đổi của cơ cấu ngành từ
trạng thái này sang trạng thái khác ngàng càng hoàn thiện hơn, phù hợp với môi
trường và điều kiện phát triển.
3


2. Xu thế chuyển dịch cơ cấu ngành
Cần phải xét đến sự thay đổi về :

Tỷ trọng

Số lượng lao động

Vai trò
Tỷ trọng và số lượng phản ánh theo chiều rộng còn vai trò phản ánh theo chiều sâu.
Về bản chất, đây là sự chuyển dịch từ khu vực có năng suất lao động thấp sang khu
vực có năng suất lao động cao hơn để tái cơ cấu lại nền kinh tế, ngành kinh tế
nhằm khai thác có hiệu quả các nguồn lực và lợi thế so sáng của đất nước trong xu
thế toàn cầu hóa để tạo ra tốc độ phát triển nhanh và bền vững.
Quy luật chung của sự chuyển dịch cơ cấu theo ngành kinh tế là chuyển dịch theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tức là phát triển theo chiều sâu,
nhấn mạnh vai trò của các ngành kinh tế, đồng thời giảm tỷ trọng và số lao động
trong ngành nông- lâm- ngư nghiệp, tăng tỷ trọng và số lượng lao động trong
ngành công nghiệp và dịch vụ.
3. Các tiêu chí đánh giá chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

a) Cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
Trong đánh giá chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu GDP giữa các ngành kinh
tế là một trong những tiêu chí quan trọng nhất pản ánh xu hướng vận động và mức
độ thành công của công nghiệp hóa.
Để đánh giá thiết thực hơn ngành kinh tế, việc phân tích cơ cấu các phân ngành
phản ánh sát thực hơn khía cạnh chất lượng và mức dộ hiện đại hóa của nền kinh
tế.
b) Cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế
Trong quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa, sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh
tế còn được đánh giá qua cơ cấu lao động đang làm việc được phân bổ như thế nào
vào các lĩnh vực sản xuất khác nhau.
So với cơ cấu GDP, cơ cấu lao động được đánh giá cao vì tiêu chí này không chỉ
phản ánh sát thực hơn mức độ chuyển biến sang xã hội công nghiệp của một đất
nước mà còn bị ảnh hưởng bởi nhân tố ngoại lai hơn.
c) Cơ cấu hàng xuất khẩu
Trong điều kiện một nền kinh tế đang phát triển theo hướng CNH, HĐH nhất là
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, thì cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu cũng được
xem như một trong những tiêu chí cơ bản đánh giá mức độ thành công của quá
trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong nông nghiệp. Quy luật phổ biến của
4


quá trình CNH (đối với phần lớn các nước đang phát triển hiện nay) xuất phát từ
một nền kinh tế nông nghiệp, thì tỷ trọng trong cơ cấu GDP và lao động nông
nghiệp chiếm phần lớn lao động xã hội, và giá trị xuất khẩu ít ỏi, phần rất lớn là
sản phẩm nông nghiệp hoặc sản phẩm của công nghiệp khai thác ở dạng nguyên
liệu thô (chưa qua chế biến). Trong khi đó, nhu cầu nhập khẩu máy móc, thiết bị,
công nghệ, nguyên vật liệu phục vụ quá trình phát triển công nghiệp lại rất lớn nên
tình trạng khan hiếm và thiếu hụt ngoại tệ luôn là một điểm yếu mang tính kinh
niên.

III, Những nhân tố ảnh hưởng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
1. Nhóm nhân tố đầu vào của sản xuất
Nhón này bao gồm toàm bộ các nguồn lực mà xã hội có thể huy động vào quá trình
sản suất, bao gồm các nhân tố chính là nguồn lực tự nhiên, nguồn lực con người,
nguồn vốn và tiềm lực khoa học công nghệ.
2. Nhóm các nhân tố đầu ra của sản phẩm (yếu tố thị trường
Nhóm các nhân tố đầu ra của sản phẩm quyết định xu hướng vận động của thị
trường, nơi phát ra tín hiệu quan trọng bậc nhất dẫn dắt các nguồn vốn đầu tư cũng
như các nguồn lực sản xuất khác quyết định phân bổ vào lĩnh vực nào, quy mô bao
nhiêu. Những nhân tố này bao gồm: dung lượng của thị trường và thị hiếu người
tiêu dùng.
- Dung lượng của thị trường: độ lớn của thị trường có ý nghĩa đối với sự di chuyển
các nguồn lực được phân bổ vào các lĩnh vực sản xuất khác nhau. Dung lượng thị
trường được quy định bởi dân số và thu nhập.
Khi thu nhập thấp, chủ yếu dùng chi tiêu mặt hàng thiết yếu, khi thu nhập tăng, chi
cho mặt hàng cao cấp tăng lên. Rõ ràng những dấu hiệu dịch chuyển cơ cấu có khả
năng thanh toán có tác động dẫn dắt đường đầu tư kinh doanh của các nhà đầu tư,
vì thế tác động không nhỏ đến hình thành và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
- Thị hiếu của người tiêu dùng
Tính ưa thích theo thói quen người tiêu dùng một số loại sản phẩm nào đó đòi hỏi
các nhà đầu tư phải nghiên cứu để tìm cách đáp ứng, vì thế tình trạng thỏa dụng
của người tiêu dùng đã trở thành một trong các chỉ tiêu tác động vào sự hình thành
cơ cấu ngành kinh tế.
3. Nhóm nhân tố thuộc về cơ chế chính sách.
Cơ cấu chính sách thực sự có tác động rất mạnh đến xu hướng vận động tổng quát
của sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, kể cả cơ cấu ngành, cơ cấu thành
phần và cơ cấu vùng lãnh thổ của nền kinh tế. Trong điều kiện phát tiển nền kinh tế
5



hành hoá, kinh tế thị trường, việc nghiên cứu các tác động của các yếu tố thị trường
là nội dung không thể bỏ qua đối với các chính sách về cơ cấu kinh tế. Sở dĩ như
vậy là vì mức độ ảnh hưởng của chúng đối với xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh
tế cũng mạnh mẽ không kém các nhân tố đầu vào của sản xuất.

B. Thực trang chuyển dịch cơ cấu ngành của VN từ 2011 – 2015
I. Các yếu tố tác động ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu ngành Kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là sự biến đổi tất yếu và có ý nghĩa quan trọng
đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Nhưng quá trình chuyển dịch đó theo quy
luật của nền kinh tế đặc biệt có sự tác động của nhiều nhân tố. Ở Việt Nam, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ngành phụ thuộc vào những nhân tố sau:
1. Chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia
Chiến lược mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia có ảnh
hưởng quyết định đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Về bản chất, cơ cấu kinh
tế là sự biểu hiện tập trung chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.
Các chủ thể của quốc gia đó mà đại diện là Nhà nước là người đề xướng, xây dựng
và hoàn thiện chiến lược phát triển kinh tế- xã hội. Mục tiêu, nội dung, định hướng
của chiến lược phát triển kinh tế xã hội rõ ràng, có chất lượng cao càng tạo điều
kiện để xây dựng, hoàn thiện cơ cấu kinh tế hợp lý. Khi đó, cơ cấu kinh tế hợp lý
sẽ góp phần thực hiện tốt chiến lược phát triển mỗi quốc gia.
Như vậy nhà nước đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế- xã
hội thông qua việc định hướng, chi phối chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
tiến bộ ở tất cả các ngành, các lĩnh vực, bộ phận của nền kinh tế.
VD: Đảng và nhà nước ta đã xác định mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại ⇒ chuyển dịch cơ cấu theo
hướng giảm tỷ trọng khu vực nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ.
2. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và đặc điểm của các nguồn
lực trong phát triển kinh tế
Khi lực lượng sản xuất phát triển, việc cải tiến, phát minh thiết bị, công nghệ mới
hiện đại sẽ làm biến đổi căn bản qui mô cơ cấu, cách thức sản xuất; là gia tăng

năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh của tất cả các ngành, linh
vực bộ phận cơ cấu kinh tế. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất đã phá vỡ
cân đối cũ, hình thành cơ cấu kinh tế mới với vị trí, tỷ trọng các ngành, lĩnh vực,
6


bộ phận phù hợp và thích ứng với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất, thỏa
mãn nhu cầu tiêu dung của xã hội. Quá trình thay đổi hay chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế một cách khách quan, được nhà nước định hướng và dẫn dắt hình
thành cơ cấu ngành kinh tế mới.
Đặc điểm của nguồn lực phục vụ hát triển kinh tế ảnh hưởng tới hình thành cơ cấu
kinh tế. Bất cứ một quốc gia nào xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội nói
chung, cơ cấu ngành kinh tế nói riêng cũng phải dựa vào nguồn lực hiện có. Các
nguồn lực vật chất và phi vật chất mỗi quốc gia chính là lợi thế, là tiềm năng để
hình thành cơ cấu và chuyển dịch kinh tế. Quốc gia có nguồn lực càng lớn thì việc
chuyển dịch nhanh và hợp lý. Không thể xây dựng cơ cấu ngành kinh tế hợp lý mà
không dựa vào nguồn lực.
VD: Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lời để phát triển thủy sản như: Biển Đông
của Việt Nam có diện tích 3.447 ngàn km2, độ sâu trung bình 1.140m, đường bờ
biển dài trên 3.260 km, nguồn lợi sinh vật biển dồi dào khoảng 11.000 loài động
vật và thực vật biển,…, người dân có kinh nghiệm đánh bắt lâu đời… ⇒ trong nội
bộ ngành nông-lâm-ngư nghiệp chuyển dịch theo hướng giảm nông nghiệp, tăng
ngư nghiệp, khai thác tối đa các nguồn lực.
3. Yêu cầu của thị trường và khả năng tiêu dùng của xã hội.
Đây là nhân tố quyết định tới việc hình thành cơ cấu kinh tế và xu hướng chuyển
dịch cơ cấu kinh tế.
Thị trường là khả năng hay năng lực tiêu dùng của xã hội chính là đơn đặt hàng
cho tất cả các chủ thế sản xuất- kinh tế. Vì vậy yêu cầu của thị trường và khả năng
tiêu dùng của xã hội định hướng, dẫn dắt quá trình hình thành cơ cấu kinh tế và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cụ thể hơn, nó tác động trực tiếp đến việc hình thành

qui mô, tỷ trọng, vị trí, vai trò chức năng cũng như quyết định chất lượng hình
thành và phát triển ngành, lĩnh vực, và bộ phận của nền kinh tế.
VD: Hiện nay, khi nhu cầu lương thực của người dân đã được đáp ứng, mức sống
được nâng cao, người dân không còn phải lo về vấn đề cơm ăn áo mặc nữa thì họ
bắt đầu quan tâm đến việc đáp ứng nhu cầu về tinh thần, vui chơi giải trí…. ⇒
nông nghiệp không còn là “trụ đỡ” của nền kinh tế nữa, dịch vụ bắt đầu phát triển
nhanh chóng.Theo số liệu của tổng cục Thống kê cho thấy tỷ trọng đóng góp giá trị
gia tăng của nhóm ngành nông nghiệp giảm mạnh mẽ trong 15 năm nay, năm 2000
tỷ trọng giá trị gia tăng nhóm ngành nông nghiệp giảm từ 25% xuống còn 17,7%

7


trong năm 2014. Sự dịch chuyển cơ cấu này cơ bản từ nông nghiệp sang khu vực
dịch vụ.
4. Môi trường, thể chế kinh tế có ảnh hưởng gián tiếp, song vô cùng quan
trọng trong việc hình thành cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng hiện đại.
Môi trường phát triển dưới góc độ kinh tế, chuyển dịch kinh tế bào gồm: môi
trường kinh tế, môi trường chính trị- xã hội và môi trường pháp lý.
Môi trường kinh tế tốt, nguồn lực được khai thác sử dụng hiệu quả, nhất là nguồn
lực về tài chính sẽ tạo điều kiện vật chất thuận lợi cho xây dựng và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng hiện đại, phát huy được sức mạnh của tất cả các ngành, lĩnh
vực, bộ phận của nền kinh tế quốc dân.
Môi tường chính trị xã hội ổn định, phát triển, nguồn lực con người với tinh hoa
văn hóa, truyền thống… được phát huy sẽ có tác tác động tích cực tới hình thành
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu
quả.
Môi trường pháp lý mạnh, hành lang pháp lý thông thoáng sẽ thúc đẩy vừa ngăn
chặn và đẩy lùi tiêu cực có thể xảy ra trong quá trình xây dựng cơ cấu kinh tế hợp

lý và chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách hiệu quả. Một khi môi trường kinh tế
hạn chế, môi trường chính trị- xã hội bất ổn, môi trường pháp lý không thuận lợi sẽ
ảnh hưởng tiêu cực tới việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và chuyển dịch hiệu
quả cơ cấu kinh tế.
Thể chế kinh tế do nhà nước tác động đến việc điều tiết vĩ mô các bộ phận, các
ngành, lĩnh vực kinh tế, tác động xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế hiệu quả.
5. Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế chi phối sự hình thành
cơ cấu kinh tế và xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Trong thời đại xu thế hội nhập quốc tế ngày nay, bất cứ quốc gia nào muốn tồn tai
và phát triển phải tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đây là xu hướng tất yếu khách
quan, do đó mỗi quốc gia cần phải xác định thế mạnh của mình, tìm ra khâu đột
phá, tận dụng thời cơ để phát huy lợi thế các nguồn lực do toàn cầu hóa mang lại;
đồng thời nhận thức rõ điểm yếu để hạn chế những tác động tiêu cực do toàn cầu
hóa tạo ra. Như vậy, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế có tác động mạnh
đến việc hình thành cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện
đại.
8


VD: Tỷ lệ xuất khẩu/GDP (XK/GDP) ngày càng tăng, nghĩa là hệ số mở cửa ngày
càng lớn, từ 34,7% năm 1992 lên 47% năm 2001, đến năm 2013 đã đạt 77%, càng
ngày càng có nhiều doanh nghiệp nước ngoài đến Việt Nam ⇒ công nghiệp có xu
hướng chuyển đổi cơ cấu ngành sản xuất và đa dạng hóa các sản phẩm, nâng cao
chất lượng, khả năng cạnh tranh để cạnh tranh được với các doanh nghiệp trong và
ngoài nước và xuất khâu ra nước ngoài.
II. Thực trạng chuyển dịch
1, Xu hướng chuyển dịch đang đi theo đúng hướng
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH,HĐH)
đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là con đường tất yếu để Việt Nam nhanh

thoát khỏi tình trạng lạc hậu, chậm phát triển trở thành một quốc gia văn minh,
hiện đại.
 Về cơ cấu ngành kinh tế:
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
Giai đoạn 2007-2015 (%)
Năm
Ngành
Tổng số

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

8,48

6,23


5,32

6,78

5,89

5,03

5,42

5,98

6,68

3,79

1,83

2,78

4,0

2,72

2,67

3,49

2,41


6,33

5,52

7,7

5,53

4,52

5,43

7,14

9,64

7,2

6,63

7,52

6,99

6,42

6,56

5,96


6,33

Nông, lâm nghiệp
3,41
và thuỷ sản
Công nghiệp và
10,6
xây dựng
Dịch vụ

8,68

(Nguồn: />
NX:

 Từ năm 2007 đến năm 2015, GDP của Việt Nam tăng liên tục qua các năm
với tốc độ không đồng đều, giai đoạn 2011-2015, tốc độ tăng trưởng GDP
năm sau cao hơn năm trước (năm 2014 là 5, 98% đến năm 2015 là 6,68%).
 Ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản có tốc độ tăng trưởng thấp nhất, ≤ 4%,
năm cao nhất là 2011 đạt 4%.
 Công nghiệp và xây dựng có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất. (9,64% năm
2015)
 Dịch vụ có tốc độ tăng trưởng khá cao. (6,33% năm 2015)
⇒ Công nghiệp và xây dựng, dịch vụ đang phát triển nhanh chóng với tốc độ cao,
nông nghiệp đang có dấu hiệu chậm lại đã chứng tỏ nước ta đang có sự chuyển
9


dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, giảm tỷ trọng nông nghiệp,tăng tỷ trọng

công nghiệp và dịch vụ.
 Về cơ cấu lao động
Cơ cấu lao động theo nhóm ngành năm 2005 và 2012 (%):

Cơ cấu lao động theo nhóm ngành năm 2015 (%)

(Nguồn: o/su-chuyen-dich-co-cau-lao-dong-nam-2012-nhu-the-nao.html)

NX:
 Tỷ trọng lao động trong nông nghiệp giảm. (Từ 56% năm 2005 xuống
42,4% năm 2015)
 Tỷ trọng lao động trong ngành dịch vụ tăng nhanh nhất (Từ 26% năm 2005
lên 35,8% năm 2015, tăng 9,8%)
 Tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp tăng. (Từ 18% năm 2005 lên
21,8% năm 2015, tăng 3,8%)
⇒ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã làm thay đổi cơ cấu lao động nước ta theo
xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
 Về vốn đầu tư
Trong 5 năm 2011-2015, tổng số vốn đầu tư toàn xã hội theo giá hiện hành của khu
vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt 304,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 5,4% tổng số;
khu vực công nghiệp và xây dựng 2572,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 45,8%; khu vực
10


dịch vụ 2740,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 48,8%. Nếu so với tỷ trọng vốn đầu tư toàn
xã hội của 3 khu vực trong những năm 2006-2010 lần lượt là 6,4%; 41,9% và
51,7% thì việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo khu vực kinh tế chưa có sự đổi mới
đáng kể.
Nếu tính theo giá so sánh 2010 thì trong 5 năm 2011-2015 vừa qua, khu vực nông,
lâm nghiệp và thủy sản vẫn là khu vực tăng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thấp

nhất với tốc độ tăng 1,1%/năm, thấp hơn tốc độ tăng bình quân 10,5%/năm giai
đoạn 2006-2010; tiếp đến là khu vực dịch vụ với tốc độ tăng 2,4%/năm, thấp hơn
tốc độ tăng 14,1%/năm giai đoạn 2006-2010; khu vực công nghiệp và xây dựng đạt
cao nhất với tốc độ tăng 7,7%/năm, nhưng vẫn thấp hơn so với tốc độ tăng
12,6%/năm trong những năm 2006-2010.
2, Đánh giá hoàn thành mục tiêu kế hoạch.
Kế hoạch 5 năm 2011-2015:
 GDP bình quân 5 năm 2011-2015 tăng 6,5%-7%/năm

GDP năm 2015
o Nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt 19%
o Công nghiệp và xây dựng khoảng 40,7%
o Dịch vụ 40,3%.

⇒ Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đạt được kết quả
bước đầu. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ
trong GDP tăng, đạt trên 83% vào năm 2015. Tỉ trọng lao động nông nghiệp trong
tổng lao động xã hội giảm, còn khoảng 46,5%.
3, So sánh tốc độ chuyển dịch của Việt Nam
a, Với các nước khác
So với các nước trong khu vực, sự thay đổi cơ cấu kinh tế của Việt Nam còn khá
chậm. Trừ những nước có khu vực kinh tế công nghiệp phát triển mạnh như Xinga-po và Hàn Quốc, các nước có cùng xuất phát điểm là sản xuất nông nghiệp
giống Việt Nam như Thái Lan, Phi-li-pin, In-đô-nê-xi-a, Ấn Độ đã có cơ cấu kinh
Nước
Nông nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ
Việt Nam
17,70
33.21

49,09
Thái Lan
11,7
42,0
46,3
Phi-li-pin
11,3
31,3
57,4
Nguồn: Tổng cục thống kê

Như vậy, so với các nước trong khu vực, tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và
thủy sản trong GDP của Việt Nam vẫn còn cao. Tỷ trọng khu vực này năm 2014
của Ma-lai-xi-a là 9,1%; Phi-li-pin 11,3%; Thái Lan 11,7%; In-đô-nê-xi-a 13,7%;
11


Trung Quốc 9,2%; Hàn Quốc 2,3%. Trong khi đó, các ngành công nghiệp, xây
dựng và dịch vụ, nhất là các ngành dịch vụ mang tính chất “động lực” hay “huyết
mạch” của nền kinh tế như tài chính, tín dụng còn chiếm tỷ trọng thấp.
b, Với các năm trước

Tốc độ chuyển dịch giai đoạn 2011-2015:

cosφ=

=0,9979

⇒ Tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của Việt Nam giai đoạn
2011-2015 còn rất chậm.

III. Đánh giá chuyển dịch cơ cấu ngành KT 2011-2015
1. Kết quả đạt được trong giai đoạn 2011- 2015
Bảng 1: Tăng trưởng và cơ cấu kinh tế thời kỳ 2011-2015
Năm
I. Tỷ lệ tăng GDP (%)

2011

2012

2013

2014

2015

5,9

5,25

5,42

5,98

6,68

12


1. Nông -lâm -ngư nghiệp


5,2

2,68

2.64

3,49

2,41

2. Công nghiệp - XD

6,8

5,75

5,43

7,14

9,64

3. Dịch vụ

6,4

5,90

6,57


5,96

6,33

II. Cơ cấu ngành (%)

100

100

100

100

100

1. Nông -lâm -ngư nghiệp

22,02

21,65 18,38 18,12

17

2. Công nghiệp - XD

40,25

40,65 38,31 38,35


33,25

3. Dịch vụ

37,73

37,70 43,31 43,38 49,75
Nguồn: Tổng cục thống kê
- Bình quân giai đoạn 2011-2015, tốc độ tăng trưởng kinh tế ước đạt khoảng
5,91%, mặc dù thấp hơn so với giai đoạn 2006-2010, nhưng đặt trong bối
cảnh nền kinh tế phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức và kinh tế thế
giới thường xuyên xuất hiện nhiều nhân tố bất lợi thì đây vẫn là mức tăng
tương đối tốt. đặc biệt là năm 2012 với nhiều biến động kinh tế-xã hội nước
ta tiếp tục bị ảnh hưởng bởi sự bất ổn của kinh tế thế giới do khủng hoảng tài
chính và khủng hoảng nợ công ở Châu Âu chưa được giải quyết. Suy thoái
trong khu vực đồng euro cùng với khủng hoảng tín dụng và tình trạng thất
nghiệp gia tăng tại các nước thuộc khu vực này vẫn đang tiếp diễn. Hoạt
động sản xuất và thương mại toàn cầu bị tác động mạnh, giá cả hàng hóa
diễn biến phức tạp. Tăng trưởng của các nền kinh tế đầu tàu suy giảm kéo
theo sự sụt giảm của các nền kinh tế khác. Một số nước và khối nước lớn có
vị trí quan trọng trong quan hệ thương mại với nước ta như: Mỹ, Trung
Quốc, Nhật bản và EU đối mặt với nhiều thách thức nên tăng trưởng chậm.
Những bất lợi từ sự sụt giảm của kinh tế thế giới ảnh hưởng xấu đến hoạt
động sản xuất kinh doanh và đời sống dân cư trong nước. Thị trường tiêu thụ
hàng hóa bị thu hẹp, hàng tồn kho ở mức cao, sức mua trong dân giảm. Tỷ lệ
nợ xấu ngân hàng ở mức đáng lo ngại. Nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh
nghiệp nhỏ và vừa phải thu hẹp sản xuất, dừng hoạt động hoặc giải thể.tuy
vậy, xu hướng phục hồi kinh tế ngày càng rõ nét kể từ năm 2013, tốc độ tăng
trưởng năm sau cao hơn năm trước. Tăng trưởng năm 2015 đạt 6,68%, vượt

mục tiêu đề ra là 6,2% và là mức cao nhất trong cả giai đoạn 2011-2015;
trong đó, công nghiệp và xây dựng với tốc độ tăng 9,64% là ngành đóng góp
nhiều nhất vào tăng trưởng năm 2015.
13


- Nông nghiệp : Xét trong từng ngành kinh tế, chuyển dịch ngành kinh tế
nông nghiệp có sự chuyển dịch tương đối, đi đúng hướng, đã khai thác được
lợi thế của nông nghiệp góp phần thúc đẩy phát triển và xuất khẩu. Trong khi
giá trị tuyệt đối của sản xuất tiếp tục tăng nhưng tỷ trọng ngành nông nghiệp
theo GDP ngày càng giảm từ 22,02% ( năm 2011) xuống 17% (năm 2015).
Bảng 2: Tỷ trọng các nhóm ngành trong kinh tế nông nghiệp(%)
Năm

2011

2012

2013

2014

2015

Nông nghiệp

79.06

77,37


76,44

72,96

74,88

Lâm nghiệp

3,08

3,23

3,65

3,86

4,35

Thủy sản

17,86

19,40

19,91

23,18

20,77


Nguồn: Tổng cục thống kê

Qua đây cho ta thấy được kinh tế nông nghiệp đang chuyển dần từ nông
nghiệp sang lâm nghiệp và thủy sản. Trong đó cơ cấu nhóm ngành nông
nghiệp giảm từ 79,06% ( năm 2011) xuống còn 72,96%( năm 2014) và có sự
tăng nhẹ ở năm 2015, ngành thủy sản tăng từ 17,86% ( năm 2011) lên
23,18% ( năm 2014) và có sự sụt giảm trong tỷ trọng trong năm 2015 chỉ
chiếm 20,77%và có mức tăng trưởng thấp nhất trong 5 năm qua[2] do đối
mặt với nhiều khó khăn về thời tiết, dịch bệnh, giá cả và thị trường tiêu thụ
sản phẩm.. Trong khi đó, ngành lâm nghiệp là ngành có tỷ trọng luôn tăng từ
3,08% (năm 2011) lên 4,35%(năm 2015).
Trong ngành nông nghiệp chăn nuôi dần chiếm vị trí cao, giảm tỉ trọng trồng
trọt. Trong trồng trọt diện tích trồng lúa giảm dần thay vào đó thì tăng diện
tích trồng các cây có kinh tế cao hơn như cây công nghiệp lâu năm ( chè, cà
phê, ca cao, điều,….), các cây công nghiệp ngắn ngày ( bông, mía, đậu
tương,…) và cây ăn quả song vẫn đảm bảo được an ninh lương thực quốc
gia và giữ ổn định mức xuất khẩu ở mức cao trong khu vực và trên toàn thế
giới. Qua đó đã cho thấy được sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng trong nông
nghiệp ngày càng đáp ứng đúng nhu cầu của thị trường và ngày càng có hiệu
quả hơn.
Hơn thế nữa thì cũng có sự chuyển dịch dần sang chăn nuôi.Chăn nuôi gia
súc, gia cầm chuyển dịch theo hướng tích cực, từ chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán
sang chăn nuôi tập trung theo mô hình trang trại, gia trại, ứng dụng công
nghệ khoa học kỹ thuật, tăng hiệu quả kinh tế.
14


Đặc biệt, diện tích trồng lúa có năng suất và hiệu quả thấp đã được chuyển
sang nuôi trồng thủy sản, tập trung nhiều ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long
và Duyên hải Nam Trung Bộ, nhờ vậy đã tích cực chuyển dịch cơ cấu nông

nghiệp, nâng cao đời sống cho người nông dân.
- Công nghiệp và xây dựng:
Bảng 3 :Tỷ trọng các nhóm ngành trong công
nghiệp ( %)
Năm
2011
2012
2013
2014
2015
1. Khai khoáng
2. Công nghiệp chế biến,
chế tạo
3. Công nghiệp điện, ga,
cung cấp nước

32,64

36,51

34,86

34,10

34.56

57,33

53,66


53,06

52,64

49,23

10.03

9,83

12,08

13,26

16,21

Nguồn: Tổng cục thống kê

Qua 5 năm , từ năm 2011 đến năm 2015, công nghiệpxây dựng là ngành có tỉ lệ tăng trưởng cao nhất trong 3
ngành dù có tỉ trọng giảm hơn. Đặc biệt trong năm
2015 có sự tăng rất cao so với các năm trước (9,64%).
Tỉ trọng ngành công nghiệp khai khoáng tăng từ
32,64%( năm 2011) lên 34,56% ( năm 2012), cùng với
đó là sự tăng mạnh của ngành công nghiệp điện, ga,
cung cấp nước tăng 6,19% trong cơ cấu các ngành
công nghiệp từ 2011-2015. Nếu xét theo tiêu thức công
nghệ thì càng cho thấy được sự chuyển dịch cơ cấu
trong ngành công nghiệp trong giai đoạn này ngày
càng tích cực, theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và phù hợp với một nước đang phát triển như nước

ta. Các ngành công nghiệp truyền thống như chế biến
thực phẩm, đồ uống, dệt may và da giày,… vẫn duy trì
tốt với tỉ trọng tương đối ổn định qua các năm. Nhìn
chung các ngành sản xuất thiết yếu tăng nhanh nhằm
đảm bảo yêu cầu cải thiện và nâng cao mức tiêu dung
của dân cư và đẩy mạnh xuất khẩu.
15


Công nghiệp khai thác phát triển mạnh, chủ yếu là khai thác dầu khí, với gia
tăng trữ lượng 40-41 triệu tấn/năm, sản lượng khai thác dầu thô đạt 84,5 triệu tấn
tăng 4,4%, khai thác khí đạt 48,6 tỷ m3, tăng 2,5% trong giai đoạn này.
Công nghiệp chế biến chế tạo có tỷ trọng cao nhất trong ngành công nghiệp.
Công nghệ từng bước đổi mới nhằm năng cao khả năng cạnh tranh và hướng xuất
khẩu. Thực hiện chuyển dịch từ ngành thu hút lao động với công nghệ thấp sang
ngành thu hút lao động với công nghệ cao, hiện đại. Đó là những ngành công
nghiệp điện tử, công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo về động cơ, đóng tàu thủy lớn,

Xây dựng thì có sự giảm xuống trong tỷ trọng trong ngành kinh tế từ 6,41%
(năm 2011) xuống còn 5,44%( năm 2012). Tuy nhiên thì sự đóng góp của xây
dựng rất lớn,năm 2015 ngành xây dựng tăng 10,82%, đây là mức tăng cao nhất kể
từ năm 2010. Sự phát triển của công nghiệp xây dựng giúp ích rất nhiều trong
ngành công nghiệp, là chỗ dựa vững chắc cho các ngành trong công nghiệp- xây
dựng, Nó quyết định quy mô và trình độ kỹ thuật của xã hội của đất nước nói
chung và sự nghiêp công nghiệp hoá hiện đại hoá trong giai đoạn hiện nay nói
riêng. Và cũng có thể kết luận rằng ngành công nghiệp xây dựng là một công cụ
điều chỉnh của nền kinh tế.
- Dịch vụ :
Trong giai đoạn này, dịch vụ tăng mạnh về tỉ trọng trong kinh tế với 37,73%
( nam 2011) lên 49,75% ( năm 2015), tỉ lệ tăng trưởng tương đối ổn định.

Hoạt động bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng ngày càng sôi động,. Mạng lưới
phân phối hàng hóa được tăng cường và mở rộng về số lượng và đa dạng về
ngành nghề kinh doanh với hệ thống các siêu thị, cửa hàng chuyên doanh, cửa
hàng tự chọn… tại nhiều địa phương. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp chủ
động khai thác nguồn hàng, đồng thời tích cực nghiên cứu tìm hiểu thị hiếu của
người tiêu dùng để bảo đảm phục vụ nhu cầu tiêu thụ về số lượng và chất lượng
sản phẩm. Công tác quản lý và thực hiện chính sách về thị trường thương mại
được các cấp, các ngành tập trung chỉ đạo kịp thời, hiệu quả, thị trường giá cả
các mặt hàng thiết yếu ổn định, cùng với sản xuất tăng trưởng nhanh đã góp
phần đẩy mạnh hoạt động thương mại trong nước, kích thích tiêu dùng trong
dân cư.
Vận tải hành khách, hàng hóa ngày càng được cải thiện về chất lượng và phục
vụ. Dịch vụ viễn thông ngày càng đa dạng với nhiều hình thức : truyền hình
cáp, truyền hình số,…. Cùng với đó là những chế độ đãi ngộ khách hàng rất hấp
dẫn.
16


Lĩnh vực giáo dục,- đào tạo, phục vụ cá nhân, cộng đồng ngày càng cao với
nhiều nguồn vốn từ tư nhân và ngân sách nhà nước
Các lĩnh vực liên quan đến du lịch ngày càng được đầu tư nhiều cả về chất và
lượng để nâng cao phục vụ, đem lại sự thoải mái nhất cho khách du lịch trong
và ngoài nước.
2. Tồn tại, hạn chế
Trong giai đoạn 2011-2015 có rất nhiều sự thay đổi và biến động, tuy nhiên thì
vẫn còn nhiều tồn tại và hạn chế.Tốc độ chuyển dịch cơ cấu còn chậm và chất
lượng chưa cao: cơ cấu kinh tế Việt Nam vẫn còn một khoảng cách khá xa so
với yêu cầu của một nước công nghiệp.. Xét về xu hướng tổng thể, sau một thời
gian có sự thay đổi nhanh, cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam có thể xem là
không thay đổi, trong một số năm chỉ là sự hoán đổi về tỷ trọng giữa hai ngành

công nghiệp - xây dựng và ngành dịch vụ.
Ngành công nghiệp tuy có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong ba ngành nhưng
yếu tố hiện đại trong toàn ngành chưa được quan tâm đúng mức, trình độ công
nghệ nhìn chung vẫn còn chưa cao. Công nghệ chế biến vẫn chưa có sự đầu tư ,
chưa phát triển nhiều. Các ngành dịch vụ thâm dụng tri thức, khoa học và công
nghệ (KH&CN)phát triển còn chậm, tỷ trọng trong GDP của các ngành dịch vụ
mang tính chất “động lực” hay “huyết mạch” của nền kinh tế như tài chính - tín
dụng còn thấp.Tình trạng độc quyền, dẫn tới giá cả cao trong khi chất lượng
dịch vụ thấp như ngành điện lực, giao thông. Một số ngành có tính chất “động
lực” như giáo dục, đào tạo, khoa học – công nghệ,….tính chất xã hội hóa còn
thấp, chủ yếu dựa vào vốn nhà nước.Tỉ trọng của ngành nông- lâm – nghiệp vẫn
còn tương đối cao.Tỷ trọng ngành chăn nuôi vẫn còn thấp.
Ngành công nghiệp chế tạo vẫn chưa có sự phát triển mạnh về công nghệ. Sự
đóng góp của một số ngành công nghiệp chế tạo là do phát triển các ngành công
nghệ lắp ráp, gia công như lắp ráp ô tô, xe máy,…giày dép, dệt may là những
ngành “lấy công làm lãi”. Tỷ trọng công nghiệp chế biến của nước ta còn chưa
cao nên dẫn đến tỷ trọng hàng xuất khẩu đã qua chế biến sâu vẫn còn thấp, chủ
yếu xuất khẩu là hàng thô, sơ chế, làm hạn chế giá trị gia tăng của sản phẩm và
kim ngạch xuất khẩu.
3. Nguyên nhân
- Hiệu quả sử dụng các nguồn lực chậm cải thiện
Cách thức và phương thức phân bổ, sử dụng nguồn lực vẫn còn thiên về phát
triển chiều rộng.Đầu tư để khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh của địa
phương, của từng ngành chưa thật sự được chú trọng. Đến nay nhìn chung vẫn
17


chưa hình thành được các tiêu chí cụ thể trong việc xác định “tính ưu tiên”
trong các dự án đầu tư công. Nguồn lực tài chính nhà nước chưa phát huy có
hiệu quả vai trò “tạo môi trường” để thu hút sự tham gia đầu tư của các thành

phần kinh tế khác.
Cơ chế khuyến khích thu hút đầu tư tư nhân còn chưa có sự đột phá mạnh nên
sự tham gia của khu vực tư nhân vào đầu tư, phát triển hạ tầng còn hạn chế. Cơ
chế xã hội hóa cũng chủ yếu được thực hiện ở một số thành phố lớn. Việc
thuhút các nguồn lực bên ngoài còn theo mục tiêu số lượng hơn là chất lượng,
chưa chú trọng thu hút vốn đầu tư vào các ngành có hàm lượng công nghệ cao
và hiện đại.
- Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN trên nhiều mặt vẫn chưa
đáp ứng được yêu cầu
So với nhiều nước trong khu vực, hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách đảm
bảo cho sự vận hành của một nền kinh tế thị trường của Việt Nam chưa đầy đủ
và còn có khoảng cách trên một số mặt.
Thể chế phát triển các chủ thể trong nền kinh tế
Nhà nước vẫn giữ nhiều chức năng mà thị trường đảm nhiệm hiệu quả hơn.Bên
cạnh đó, nhận thức về chế độ sở hữu, thành phần kinh tế, sự phát triển các loại
hình doanh nghiệp hiện còn có những vấn đề chưa phù hợp với lý luận và thực
tiễn phát triển của nền kinh tế thị trường.
Thể chế phân phối
Việc điều tiết, định hướng phân bổ nguồn lực phát triển bị hạn chế, trong khi
mức độ, phạm vi can thiệp của Nhà nước còn lớn đã dẫn đến phân bổ, sử dụng
các nguồn lực chưa đạt hiệu quả cao, cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, đầu tư dàn
trải, thậm chí gây ra sự lãng phí các nguồn lực. Vấn đề phân phối thu nhập,
nhất là tiền lương, không chỉ bất cập trên phương diện tổng thể mà còn có sự
bất hợp lý lớn giữa các khu vực, lĩnh vực.
Thể chế giá cả và quản lý giá
Cơ chế giá thị trường chưa đầy đủ, vẫn còn đan xen giữa giá thị trường và một
số giá hàng hóa dịch vụ chưa theo thị trường. Chính sách bao cấp qua giá đối
với một số hàng hóa dịch vụ đã khiến cho giá của những hàng hóa dịch vụ đó
chưa được tính đúng, tính đủ chi phí sản xuất của doanh nghiệp và xã hội.Tính
minh bạch trong cơ chế hình thành giá cả ở các loại thị trường còn chưa cao.

Phát triển đồng bộ các loại thị trường
Thị trường lao động chưa linh hoạt để đảm bảo việc phân bổ lực lượng lao
động gắn với các tín hiệu của thị trường, nhất là trong việc xử lý tiền lương của
18


người lao động của những ngành hoạt động có tính chất độc quyền. Thị trường
công nghệ vẫn còn nhiều khiếm khuyết, phát triển manh nha, quy mô nhỏ;
quyền sở hữu trí tuệ chưa được coi trọng đúng mức và còn bị xâm phạm.Thị
trường tài chính phát triển mạnh, song chưa vững chắc, tính đồng bộ giữa các
thị trường chưa cao.
- Tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng
còn chậm, tái cơ cấu khu vực DNNNchưa đạt tiến độ
Trong tái cơ cấu đầu tư công, thời gian qua chủ yếu mới tập trung vào việc cắt
giảm, giãn, hoãn tiến độ các dự án. Trong khi đó, nguồn thu ngân sách hạn hẹp
và nhu cầu chi thường xuyên và chi trả nợ tăng nhanh, dẫn đến tỷ trọng chi đầu
tư phát triển trong tổng chi NSNN năm 2011 - 2014 giảm mạnh so với trước,
nguồn vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng vẫn chủ yếu là nguồn lực đầu tư công
Nguồn lực để tái cơ cấu ngân hàng chủ yếu từ nguồn trích dự phòng rủi ro của
các TCTD và thông qua hoạt động của Công ty Quản lý tài sản của các TCTD
Việt Nam (VAMC).Tuy nhiên, hoạt động của VAMC còn gặp một số vướng
mắc.Trong khi đó, thị trường tín dụng chưa thực hiện được đầy đủ chức năng
trung gian tài chính trong việc phân bổ hợp lý và sử dụng hiệu quả nguồn vốn
tín dụng của nền kinh tế.
Tái cơ cấu đối với các DNNN nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra.
Tái cơ cấu quản trị doanh nghiệp mới ở trên giác độ sắp xếp, cơ cấu lại nội bộ
doanh nghiệp mà chưa thực sự chú trọng vào nâng cao năng lực, chất lượng
đội ngũ cán bộ quản lý, nâng cao chất lượng quản trị nội bộ. Bên cạnh đó, tình
hình tài chính và hiệu quả sản xuất - kinh doanh của các tập đoàn, tổng công ty
chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ (quy mô vốn, tài sản).

- Năng lực cạnh tranh thấp, khả năng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu
còn hạn chế
Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) của Diễn đàn Kinh tế Thế giới cho
thấy, vị trí xếp hạng của Việt Nam tuy có được cải thiện qua các năm nhưng
đến năm 2012 lại gần như trở về mức của năm 2008. Hai năm gần đây, do thực
hiện chính sách ổn định kinh tế vĩ mô và tái cơ cấu nên tình hình kinh tế diễn
biến khả quan hơn nhưng về cơ bản, GCI của Việt Nam vẫn luôn nằm trong
nhóm gần thuộc nửa cuối của bảng xếp hạng, thấp hơn nhiều so với các nước
ASEAN và còn một khoảng cách rất xa so với khu vực Đông Á.
Đến nay, mức độ tham gia của các doanh nghiệp trong nước vào các chuỗi giá
trị toàn cầu còn rất thấp.Xuất khẩu vẫn đang dựa vào lợi thế về giá nhân công;
chủ yếu gia công cho các tập đoàn, công ty nước ngoài, hàm lượng giá trị gia
19


tăng của xuất khẩu còn thấp.Nhập khẩu cũng đang bộc lộ nhiều vấn đề, nhập
khẩu lớn nhưng đóng góp của nhập khẩu trong việc thúc đẩy năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế còn ở mức thấp.Tỷ trọng nhập khẩu từ các nước có trình
độ công nghệ thấp có xu hướng tăng.

C. Giải pháp về chuyển dịch cơ cấu ngành giai đoạn 2016-2020
I. Quan điểm định hướng và mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành:
Tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội Khóa XIII, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số
142/2016/QH13 về Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2016-2020.Trong
nghị quyết có nhắc tới quan điểm định hướng và mục tiêu chuyển dịch cơ cấu giai
đoạn 5 năm 2016-2020.
1. Quan điểm định hướng:
-Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng Đề án Kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn
2016 – 2020 gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất
lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

-Mục tiêu tổng quát của tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016 - 2020 là tập trung
thay đổi cấu trúc và trình độ của nền kinh tế, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn
lực xã hội, hiện đại hóa từng bước các ngành kinh tế, nâng cao năng suất lao động,
năng suất các yếu tố tổng hợp và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; trên cơ sở
đó, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý và năng động hơn, có năng lực cạnh tranh cao
hơn và có tiềm năng tăng trưởng lớn hơn; thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng
trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu.
-Lựa chọn các ngành tập trung ưu tiên; thúc đẩy phát triển ngành dịch vụ; tăng dần
tỷ trọng đầu tư khu vực tư nhân, giảm tỷ trọng đầu tư nhà nước; ưu đãi thu hút FDI
với các công ty đa quốc gia và các ngành ưu tiên; phát triển công nghiệp hỗ trợ; và
đổi mới công nghệ.
- Cơ cấu kinh tế ngành chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nhóm ngành nông,
lâm, thủy sản, tăng tỷ trọng nhóm ngành công nghiệp, xây dựng và nhóm ngành
dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
- Theo NCIF(Trung tâm Thông tin và dự báo kinh tế xã hội quốc gia) , trong giai
đoạn 2016-2020, tăng trưởng trong các lĩnh vực và cơ cấu ngành kinh tế tiếp tục
được chuyển dịch nhanh hơn do quá trình tái cơ cấu và thực hiện chuyển đổi mô
hình tăng trưởng.Theo đó, tỷ trọng ngành nông lâm thủy sản tiếp tục giảm trong
20


tổng GDP, ở mức 16,85% trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nhằm đạt mục tiêu chiến lược 2011-2020, tuy nhiên tốc độ tăng vẫn duy trì ở mức
ổn định, từ 3-4%. Tỷ trọng ngành công nghiệp xây dựng và dịch vụ tiếp tục tăng
trong tổng GDP, trong đó dịch vụ chiếm tỷ trọng chủ yếu, có thể đạt 45%.
2. Mục tiêu:
Theo Nghị quyết số 142/2016/QH13 về Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm
2016-2020:
 Chỉ tiêu về kinh tế
 Tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 5 năm 6,5 - 7%/năm.

 GDP bình quân đầu người năm 2020 khoảng 3.200 - 3.500 USD.
 Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP năm 2020 khoảng 85%.
 Tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm khoảng 32-34% GDP.
 Bội chi ngân sách nhà nước năm 2020 dưới 4% GDP.
 Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng khoảng 30
- 35%.
 Năng suất lao động xã hội bình quân tăng khoảng 5%/năm.
 Tiêu hao năng lượng tính trên GDP bình quân giảm 1 - 1,5%/năm.
 Tỷ lệ đô thị hóa đến năm 2020 đạt 38 - 40%.
 Chỉ tiêu xã hội:
 Tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội năm 2020 khoảng
40%.
 Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2020 đạt khoảng 65 - 70%, trong đó có
bằng cấp, chứng chỉ đạt 25%.
 Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị năm 2020 dưới 4%.
 Đến năm 2020 có 9 - 10 bác sĩ và trên 26,5 giường bệnh trên 1 vạn dân.
 Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế năm 2020 đạt trên 80% dân số.
 Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1,0 - 1,5%/năm.
 Đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại
hóa.
II. Giải pháp:
 Tập trung hoàn thiện thể chế; thực hiện chuyển đổi mô hình tăng trưởng với
một lộ trình và bước đi phù hợp: cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế
21













kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến
của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế.
Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng,
nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế: Xây dựng
cơ chế quản lý đối với mô hình liên kết, hợp tác phát triển vùng. Tập trung
cho các vùng kinh tế trọng Điểm. Lựa chọn một số khu có lợi thế đặc biệt
để xây dựng đặc khu kinh tế với cơ chế đặc thù, hiệu lực, hiệu quả, có sức
lan tỏa lớn đến chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, cơ cấu lao động và
cả nền kinh tế. Phát triển các hành lang, vành đai kinh tế, kết nối hiệu quả
với các nước trong khu vực. Bố trí hợp lý các khu kinh tế, khu công nghiệp
gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng. Phát triển mạnh các ngành kinh tế
biển gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và nâng cao đời sống
nhân dân vùng biển, đảo.
Phát triển có chọn lọc một số ngành, lĩnh vực công nghiệp hiện đại và phát
huy tác động lan tỏa trong nền kinh tế. Tiếp tục xây dựng và phát triển các
ngành công nghiệp theo hướng hiện đại, tăng hàm lượng khoa học - công
nghệ và tỷ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm, tập trung vào những ngành
có tính nền tảng, có lợi thế so sánh và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát
triển nhanh, bền vững; nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế, có khả
năng tham gia sâu, có hiệu quả vào mạng sản xuất và phân phối toàn cầu.
Tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức
và công nghệ cao, như: du lịch, hàng hải, hàng không, viễn thông, công nghệ
thông tin.Hiện đại hóa và mở rộng các dịch vụ có giá trị gia tăng cao, như:
tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, logistics và các dịch vụ hỗ trợ sản xuất, kinh

doanh khác.
Tập trung tái cơ cấu nông nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp,
xây dựng nông thôn mới gắn với nâng cao đời sống nông dân. Cải thiện rõ
rệt khả năng cạnh tranh sản phẩm, hàng hóa nông nghiệp, có chính sách phù
hợp để tích tụ, tập trung ruộng đất, phát triển các vùng sản xuất quy mô lớn
với hình thức đa dạng, phù hợp với điều kiện của từng vùng; tiếp tục tổ chức
lại sản xuất, phát triển nhanh mô hình quản lý, sản xuất theo chuỗi giá trị
từng loại cây, con, sản phẩm cụ thể; sản xuất sản phẩm gắn với công nghiệp
chế biến, thị trường tiêu thụ.
Sử dụng hiệu quả công cụ chính sách kinh tế - tài chính để thúc đẩy quá
trình thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tái cấu trúc nội bộ các ngành
22


kinh tế: Sự đổi mới quyết liệt các chính sách về thuế, phí, đất đai, đầu tư
công, cung ứng dịch vụ công sẽ khuyến khích có điều kiện, thúc đẩy mạnh
mẽ hơn nữa các DN tăng tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm và hình thành những
''cụm liên kết sản xuất”, góp phần giúp chuyển nền công nghiệp từ gia công
sang sản xuất. Đồng thời, đẩy nhanh việc tái cơ cấu và cổ phần hóa các DN
nhà nước để tập trung nguồn vốn vào các ngành nghề có lợi thế, nhất là 9
nhóm ngành dịch vụ thế mạnh và 4 nhóm ngành công nghiệp trọng yếu.
 Cần đổi mới tư duy về chức năng quản lý kinh tế của nhà nước thông qua
việc sử dụng công cụ kế hoạch hóa phù hợp với sự vận hành của cơ chế thị
trường.

Kêt luận
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế có mối liên hệ chặt chẽ với tăng trưởng và phát triển kinh tế,
vừa là kết quả của quá trình phát triển kinh tế xã hội trong một giai đoạn nhất định vừa là
yếu tố cực kì quan trọng thúc đẩy phát triển nền kinh tế xã hội quốc gia lên một trình độ
mới. Để phục vụ cho việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn

hiện tại và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quôc gia trong một giai đoạn dài, cơ
cấu kinh tế và sự chuyển dịch của nó cần phải được xem xét tổng quát để rút ra các ưu
nhược điểm, phát hiện các điểm mạnh, xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh hơn.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý hiệu quả của nhà nước nện kinh tế của nước ta
đã có những chuyển biến mạnh mẽ. Nếu trước đây Nông nghiệp đóng vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế quốc dân và chiếm một tỷ lệ lao động vào nông nghiệp rất lớn, thì nay
nền kinh tế của ta đã có sự phát triển đồng đều hơn, tỷ trọng Công nghiệp và Dịch vụ
trong tổng sản phẩm kinh tế quốc dan đã chiếm một khối lượng đáng kể và đóng góp lớn
vào sự phát triển kinh tế chung của đất nước. Tuy nhiên sự chuyển dịch kinh tế cần phải
có những chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa, theo hướng : Chuyển dịch cơ cấu nghành kinh
tế, chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế, chuyển dịch cơ cấu vùng lãnh thổ, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế gắn liền với nâng cao năng suất, năng lực cạnh tranh.

23



×