Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Nghiên cứu cơ sở khoa học để phát triển một số loài cây lâm sản ngoài gỗ có giá trị ở tỉnh cao bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.29 MB, 127 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Lâm sản ngoài gỗ (LSNG) là một thành phần quan trọng của hệ sinh thái rừng
Việt Nam nói riêng, và của hệ sinh thái rừng nhiệt đới nói chung, là nguồn thu nhập
đáng kể của người dân. Nhiều địa phương ở miền núi, nguồn thu từ LSNG chiếm 10 –
20% trong tổng thu nhập kinh tế hộ gia đình, chủ yếu là nguồn lương thực, thực phẩm
và thuốc chữa bệnh đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày (Bộ NN&PTNT, 2006).
LSNG không những góp phần cung cấp nguyên liệu cho các ngành công
nghiệp, thủ công nghiệp, chế biến lâm sản mà còn đóng góp tích cực cho nền kinh
tế quốc dân thông qua các mặt hàng xuất khẩu. Hàng năm, kim ngạch xuất khẩu 8
mặt hàng LSNG chủ yếu ngày một tăng: năm 2002 đạt 108 triệu USD, năm 2003
đạt 154 triệu USD, năm 2004 đạt 198 triệu USD, năm 2007 đạt 219 triệu USD, năm
2008 đạt 250 triệu USD, năm 2010 đạt 255 triệu USD, năm 2011 đạt hơn 380 triệu
USD. Ngoài ra, LSNG còn có vai trò quan trọng trong bảo vệ môi trường, bảo vệ
rừng, làm tăng giá trị kinh tế của rừng góp phần khôi phục, nâng cao giá trị của các
khu rừng nghèo. Hơn nữa, việc khai thác LSNG ít ảnh hưởng đến cấu trúc tầng cây
gỗ, vẫn giữ được vai trò bảo vệ môi trường và đa dạng sinh học của rừng.
Để quản lý, sử dụng và phát triển tài nguyên rừng một cách bền vững, đồng
thời vừa nâng cao thu nhập cho người dân từ chính diện tích rừng của mình thì việc
gây trồng, phát triển LSNG là một trong những giải pháp hữu hiệu đã được thực tế
chứng minh. Một số năm gần đây, Bộ NN và PTNT cũng như Chính phủ đã ban
hành một số chính sách khuyến khích việc gây trồng và phát triển LSNG, cụ thể
như đề án bảo tồn và phát triển LSNG giai đoạn 2006-2020, kế hoạch hành động
bảo tồn và phát triển LSNG giai đoạn 2007-2010. Đặc biệt, ngày 09/01/2012, Thủ
tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 57/QĐ-TTg về phê duyệt Kế hoạch bảo
vệ và phát triển rừng giai đoạn 2011-2020. Theo quyết định này, việc chú trọng gây
trồng và phát triển LSNG ở tất cả các loại rừng là một trong những nhiệm vụ ưu
tiên, đây là một hướng đi giúp người dân sống được bằng nghề rừng, gắn bó với
rừng hơn.



2

Chính vì vậy, ở địa phương cần xác định được những loài cây LSNG có giá
trị, có tiềm năng làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch gây trồng, phát triển LSNG
một cách hợp lý và bền vững. Do đó, việc thực hiện đề tài “Nghiên cứu cơ sở khoa
học để phát triển một số loài cây Lâm sản ngoài gỗ có giá trị ở tỉnh Cao Bằng” là
cần thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Đề tài luận văn là một phần nội dung
quan trọng của đề tài cấp tỉnh (Cao Bằng) do ThS. Lê Văn Thành làm chủ nhiệm,
thực hiện tại Trung tâm nghiên cứu Lâm đặc sản giai đoạn 2009-2012 mà tác giả là
cộng tác viên của đề tài. Được sự đồng ý của chủ nhiệm đề tài, tác giả đã kế thừa
một phần số liệu để hoàn thành luận văn Thạc sỹ theo chương trình đào tạo của
trường Đại học Lâm nghiệp 2010-2012.


3

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trên thế giới
1.1.1. Khái niệm Lâm sản ngoài gỗ
Trước đây những loài cây trong rừng không cung cấp gỗ thường được gọi là
lâm sản phụ, một số loài có giá trị đặc biệt gọi là lâm đặc sản. Ngày nay thống nhất
gọi các sản phẩm không phải là gỗ có ở trong rừng là lâm sản ngoài gỗ. Khái niệm
về Lâm sản ngoài gỗ là một khái niệm tương đối mới so với gỗ. Đến nay, nhiều khái
niệm về Lâm sản ngoài gỗ đã được đề xuất, điển hình là các khái niệm sau đây:
Tháng 11/1991, hội thảo chuyên gia vùng về Lâm sản ngoài gỗ Châu Á Thái
Bình Dương tổ chức ở Bangkok - Thái Lan đã đưa ra khái niệm về Lâm sản ngoài gỗ:
“Lâm sản ngoài gỗ bao gồm tất cả các sản phẩm có thể tái sinh được của
sinh vật, trừ gỗ, củi và than củi, được thu hái từ rừng, đất rừng hoặc từ thực vật

thân gỗ. Như vậy, các sản phẩm như cát, đá, nước và du lịch sinh thái không phải
là Lâm sản ngoài gỗ”
Nhóm chuyên gia này nhấn mạnh rằng du lịch sinh thái không phải là một
trong những sản phẩm Lâm sản ngoài gỗ. Quan điểm này khác với quan điểm của
Chandrasekhan (1995) cho rằng Lâm sản ngoài gỗ bao gồm cả những dịch vụ do
rừng đem lại như câu cá, cắm trại, quan sát chim thú và thưởng ngoạn.
Năm 1992, FAO thì cho rằng “Lâm sản ngoài gỗ được xác định là tất cả các
sản phẩm không phải là gỗ phục vụ thương mại, công nghiệp và sinh kế, được cung
cấp từ rừng và sinh khối của rừng, chúng được khai thác ổn định, nghĩa là khai
thác từ một hệ sinh thái rừng với một khối lượng không ảnh hưởng tới chiức năng
tái sản xuất cơ bản của rừng.”
Năm 1995, hội thảo chuyên gia được tổ chức ở Tanzania (Châu Phi), đã đưa
ra khái niệm:
“Tất cả các sản phẩm động vật, thực vật (ngoài gỗ) được cung cấp từ rừng,
đất rừng và các cây rừng ở ngoài rừng; không kể gỗ tròn công nghiệp, gỗ dùng làm
năng lượng, sản phẩm từ vườn và chăn nuôi.


4

Năm 1995, FAO lại đưa ra một khái niệm khác tổng quát hơn về Lâm sản
ngoài gỗ, đó là: “Lâm sản ngoài gỗ bao gồm các sản phẩm có nguồn gốc từ sinh vật
cũng như các dịch vụ được cung cấp từ rừng hoặc các loại đất được sử dụng dưới
dạng tương tự, không kể gỗ và các dạng gỗ”
Các khái niệm chủ yếu do FAO đưa ra ở trên đều chưa hoàn thiện, năm 1999, hội
nghị của FAO lại đưa ra một khái niệm ngắn gọn về Lâm sản ngoài gỗ [11]:
“Lâm sản ngoài gỗ (non timber forest product - NTFP, hoặc Non wood
forest products - NWFP) bao gồm các sản phẩm có nguồn gốc sinh vật, khác gỗ,
được khai thác từ rừng, và từ cây gỗ ở ngoài rừng”.
Khái niệm này được để ngỏ và trưng cầu ý kiến đóng góp của các nhà khoa

học để hoàn thiện khái niệm về Lâm sản ngoài gỗ.
Năm 2000, J.H. De Beer, một chuyên gia về Lâm sản ngoài gỗ đã đưa ra
khái niệm sau:
“Lâm sản ngoài gỗ là các nguyên liệu thô có nguồn gốc từ sinh vật không
phải là gỗ, được thu hoạch từ rừng cho mục đích sử dụng của con người. Chúng có
thể bao gồm thực phẩm, thuốc, gia vị, tinh dầu, nhựa béo, nhựa mủ, ta nanh, thuốc
nhuộm, cây cảnh, động vật hoang dã (động vật sống hoặc sản phẩm của chúng), gỗ
nhiên liệu và các nguyên liệu thô khác như tre nứa, song mây và thực vật gỗ nhỏ
hoặc gỗ sợi”.
Như vậy, quan niệm về Lâm sản ngoài gỗ là một vấn đề khó và phức tạp.
Trong số các khái niệm đưa ra trên, khái niệm của FAO (1999) tương đối đầy đủ và
được nhiều người ủng hộ hơn.
1.1.2. Phân loại Lâm sản ngoài gỗ
Lâm sản ngoài gỗ rất đa dạng và phong phú và được sử dụng vào nhiều mục
đích khác nhau. Do vậy, việc phân loại có nhiều quan điểm khác nhau. Theo quan
điểm hiện nay, Lâm sản ngoài gỗ được phân làm hai dạng chủ yếu sau:
- Phương pháp phân loại theo hệ thống sinh:
Theo phương pháp phân loại này thì các loại LSNG được phân theo hệ thống
tiến hóa của sinh giới bao gồm hai nhóm chính: động vật và thực vật. Giới động vật và


5

giới thực vật tuy rất phong phú và đa dạng nhưng đều có thể xắp xếp một cách khách
quan vào hệ thống các bậc phân loại từ lớn đến nhỏ: Giới/Ngành/Lớp/Bộ/Họ/Loài. Có
thể thấy phân loại theo phương pháp này đòi hỏi phải chú ý nhiều đến đặc điểm sinh
học của loài và người sử dụng phải có hiểu biết nhất định về phân loại động thực vật.
- Phương pháp phân loại Lâm sản ngoài gỗ theo nhóm giá trị sử dụng:
Theo phương pháp này nhiều loài Lâm sản ngoài gỗ khác nhau không kể
nguồn gốc trong hệ thống sinh, nơi phân bố có cùng giá trị sử dụng được phân vào

cùng một nhóm.
Hội nghị Quốc tế tháng 11/1991 tại Bangkok đã chia LSNG làm 6 nhóm [11]:
+ Nhóm 1. Các sản phẩm có sợi: bao gồm tre nứa, song mây, lá và thân có
sợi và các loại cỏ.
+ Nhóm 2. Sản phẩm làm thực phẩm: gồm các sản phẩm có nguồn gốc thực
vật như : thân, chồi, rễ, củ, lá, hoa,… Các sản phẩm có nguồn gốc động vật như :
Mật ong, thịt động vật rừng, trứng và côn trùng,…
+ Nhóm 3. Thuốc và mỹ phẩm có nguồn gốc thực vật
+ Nhóm 4. Các sản phẩm chiết xuất : Nhựa, nhựa dầu, nhựa mủ, ta nanh, dầu
béo, tinh dầu
+ Nhóm 5. Động vật và các sản phẩm từ động vật không làm thực phẩm : tơ,
động vật sống, chim, sừng, ngà, xương và nhựa cánh kiến đỏ.
+ Nhóm 6. Các sản phẩm khác.
Năm 1992, Meldelson đã đưa ra 2 cách phân loại Lâm sản ngoài gỗ căn cứ
vào mục đích khác nhau của con người về Lâm sản ngoài gỗ:
Căn cứ vào giá trị sử dụng ông chia làm 5 nhóm:
+ Các sản phẩm thực vật ăn được;
+ Các sản phẩm keo và nhựa;
+ Các sản phẩm thuốc nhuộm và tanin;
+ Nhóm cây có sợi;
+ Nhóm cây làm thuốc
Căn cứ vào thị trường tiêu thụ để chia làm 3 nhóm:


6

+ Nhóm bán trên thị trường rộng;
+ Nhóm bán tại địa phương;
+ Nhóm được sử dụng trực tiếp bởi người thu hoạch.
Ông cho rằng, nhóm thứ 3 là nhóm chiếm đa số, vì vậy giá trị đích thực của

Lâm sản ngoài gỗ thường chưa được biết đến và tính toán cho phù hợp.
Theo FAO phân loại các sản phẩm này vào danh mục như là một bước đầu
tiên quan trọng của sự hiểu biết ngành kinh doanh Lâm sản ngoài gỗ. Lâm sản ngoài
gỗ có thể được phân loại chung vào nhóm ăn được và không ăn được. Nhóm ăn
được bao gồm cây ăn được và động vật, mật ong, dầu, cá, gia vị, vv… trong khi các
sản phẩm không ăn được bao gồm các loại cỏ, cây cảnh, dầu để sử dụng mỹ phẩm,
dược phẩm, vv… [23].
Năm 1995, C. Chandrasekaran, một chuyên gia về Lâm sản ngoài gỗ của
FAO đã đưa ra một khung phân loại về Lâm sản ngoài gỗ như sau:
- Thực vật sống và các bộ phận của chúng.
- Động vật và các sản phẩm từ động vật.
- Các sản phẩm được chế biến: như gia vị, dầu và nhựa thực vật.
- Các dịch vụ từ rừng
1.1.3. Các nghiên cứu về vai trò và tiềm năng của Lâm sản ngoài gỗ
- Về công dụng và tiềm năng của Lâm sản ngoài gỗ:
Lâm sản ngoài gỗ một trong những nguồn tài nguyên thiên nhiên chủ yếu
của rừng, từ lâu đã giữ một vai trò to lớn và quan trọng trong sự tồn tại và phát triển
của các cộng đồng dân tộc sống ở vùng rừng núi, là một nguồn nguyên liệu chính
không thể thiếu đối với nhiều ngành công nghiệp, thủ công mỹ nghệ, hoá mỹ phẩm,
dược phẩm,... Ngày nay, nhiều loại LSNG đã trở thành những mặt hàng xuất khẩu
có giá trị. Đã từ lâu nhiều nước trên thế giới, đặc biệt các nước nhiệt đới đã đầu tư
nghiên cứu về LSNG nhằm định hướng quy hoạch phát triển.
Số lượng các sản phẩm từ Lâm sản ngoài gỗ được coi là đáng kinh ngạc. Theo
báo cáo của tổ chức Liên Hiệp Quốc và FAO (1998) cho thấy ít nhất 150 sản phẩm Lâm
sản ngoài gỗ được tìm thấy trong các thị trường quốc tế. Chẳng hạn chỉ riêng về năng
lượng được biết tới 138 sản phẩm từ 80 loài trong rừng trên bán đảo Michigan [23].


7


Theo Maxim Lobovikov (2009) [31] thì cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
hiện nay đã thu hút sự chú ý hơn tới Lâm sản ngoài gỗ, đặc biệt là nguồn thực phẩm
thay thế. Một nghiên cứu gần đây tiến hành tại ba cộng đồng ở miền nam Cameroon
tiết lộ rằng nông nghiệp cung cấp 80% lượng carbohydrate, nông thôn ở Cameroon
nhận được 90% protein từ thịt rừng. Trái cây rừng và thảo dược là nguồn cung cấp
vitamin và chất dinh dưỡng cho cư dân nông thôn. Hàng triệu người dân châu á phụ
thuộc phần lớn vào sự cung cấp cá từ rừng ngập mặn.
Ngoài ra, lâm sản ngoài gỗ cũng ngày càng được thừa nhận về vai trò của nó
trong phát triển bền vững và bảo tồn các hệ sinh thái. Có đến 80% dân số ở các nước
đang phát triển sống phụ thuộc vào Lâm sản ngoài gỗ cho sinh hoạt, cả về kinh tế và
dinh dưỡng. Lâm sản ngoài gỗ đặc biệt quan trọng đối với phụ nữ ở các nước đang
phát triển từ châu Mỹ Latinh đến châu Á và châu Phi (Gbadebo và cộng sự, 1999) [23].
Trong hàng ngàn năm trước đây, thu thập cây dược liệu từ rừng tại Châu Á là
một thành phần quan trọng của hệ thống y học cổ truyền của khu vực, điều này vẫn
có giá trị cho đến ngày nay. Hầu hết các nước đã duy trì và hợp pháp hóa một hệ
thống kép của việc cung cấp cả thuốc tây và chăm sóc sức khỏe cổ truyền
(Aryuveda, Jamu và cộng sự, 2002) [24].
Theo Elaine Marshall và Cherukat Chandrasekharan (2009) [25] nghiên cứu
tại Nigeria, số lượng các loài thực vật hoang dã có tới 27 loài cho thực phẩm, 20
loài cho củi thương mại, 16 loài cho gỗ (chạm khắc và xây dựng), 8 loài cho thuốc
nhuộm, 6 loài cho vật liệu lợp nhà, và 6 loài để sử dụng khác như lễ nghi, lễ hội và
thiết kế giả trang. Một phần nhỏ của thực vật hoang dã đã được thuần hóa, đặc biệt
đối với y học cổ truyền (24%), lễ nghi, lễ hội và hoá trang (15%) và thuốc nhuộm
(13%). Người dân nông thôn đã có một số kiến thức về cây trồng cây truyền thống
được sử dụng làm thuốc nhuộm (31%), y học cổ truyền (25%) và thực phẩm (17%).
Cộng đồng nông thôn đã nhận thức được một số loài thực vật hoang dã sử dụng
hàng ngày đang có nguy cơ tuyệt chủng.
Nguồn tài nguyên dược liệu được biết đến là rất phong phú và đa dạng. Số
liệu của IUCN/TRAFFIC/WWF về cây thuốc và cây có chất thơm trên toàn thế giới



8

lên tới 40.000 – 50.000 loài, gần 2.500 loài được mua bán rộng rãi trên toàn thế giới; ở
Châu Âu có khoảng 2.000 loài cây thuốc được sử dụng vào mục đích thương mại.
Thống kê của IUCN (2005) cũng cho thấy khoảng 4.000 loài cây thuốc và cây có chất
thơm trên thế giới đang bị đe dọa và chỉ có một vài trăm loài đang được gây trồng
(Châu Âu 130-140 loài, trong khi đó đã có khoảng 2.000 loài được sử dụng với mục
đích thương mại); khoảng 70% số loài có nguồn gốc từ các loài hoang dã [19].
Theo báo cáo của FAO (1996) [29], tại Bhutan - Thái Lan có hơn 300 loài
cây thuốc, hệ thống y học cổ truyền ở đây được hành nghề rộng khắp. Ở phía nam,
với kiến thức gia truyền được truyền lại từ đời cha sang con trai. Viện y học kết hợp
y học cổ truyền và châm cứu để chữa nhiều loại bệnh nhanh chóng trở nên phổ biến
mặc dù bệnh viện hiện đại có cung cấp nhiều dịch vụ miễn phí.
Về sử dụng các sản phẩm Lâm sản ngoài gỗ, các báo cáo khu vực Châu ÁThái Bình Dương (2009) [25] cho biết ở đây tập trung hầu như toàn bộ sản lượng
của mây tre và khoảng 80% sản lượng thế giới. Mây và tre đã được sử dụng bao
gồm mây sử dụng đan giỏ (Salix viminalis) ở các vùng ôn đới và cận nhiệt đới và
đũa (Clusia) ở Guyana, đặc biệt để sản xuất mây tre đan và đồ thủ công mỹ nghệ.
Theo EC-FAO (2002) [24] trên toàn cầu, mây là Lâm sản ngoài gỗ quan
trọng nhất và là giao dịch mua bán quốc tế. Ở cấp địa phương, nó có tầm quan trọng
đầu tiên, bổ sung hoặc cấp thiết đối với nguồn thu nhập ở nông thôn. Có khoảng
600 loài mây, trong đó 10% được sử dụng thương mại để chế biến công nghiệp (chủ
yếu là làm đồ nội thất). Các chi mây chính là Calamus, Daemonorops, Korthalsia
và Plectocomia. Indonesia là nước chiếm phần lớn các nguồn tài nguyên mây thế
giới (cả khối lượng và số lượng các loài) và là nơi cung cấp lớn nhất về mây, với
sản xuất hàng năm ước tính khoảng 570.000 tấn.
Theo báo cáo của FAO (1995) [27] về nguồn tài nguyên Mây, thế giới có
khoảng 600 loài thuộc 13 chi và tìm thấy trong các rừng nhiệt đới vùng đất thấp ở
đông bán cầu. Hầu hết các loài có phạm vi phân bố rất hạn chế trong tự nhiên, từ sát
mực nước biển tới độ cao 3.000 m. Trong số 13 chi được biết đến có 10 chi với

khoảng 574 loài được tìm thấy ở Đông Nam Á và các vùng lân cận, từ Fiji tới tiểu


9

lục địa Ấn Độ, và từ miền Nam Trung Quốc đến Queensland ở Úc. Đông Nam Á
được coi là trung tâm đa dạng sinh học của song mây. Thương mại của loài mây chỉ
khoảng 10% của tổng số loài được biết đến trên toàn thế giới.
Theo Joost Foppes và cộng sự (2004) [34] tại Philippines, có khoảng 600
loài thuộc họ cau dừa, 90 loài mây, trong đó một 1/3 số loài mây là đặc hữu, chiếm
5% các loài mây trên toàn thế giới. Trong đầu thập kỷ 1900, tại Philippines rừng
bao phủ 70%, 21 triệu ha có hệ sinh thái rừng đa dạng sinh học phong phú, đến năm
2000 chỉ còn 5,39 triệu ha rừng. Đánh giá cho thấy mất sinh cảnh rừng là mối đe
dọa lớn cho sự tồn tại của các loài mây trong tự nhiên.
1.1.4. Về giá trị kinh tế, xã hội của Lâm sản ngoài gỗ
Ngày nay các tổ chức quốc tế, chính phủ của các Quốc gia cũng như người
dân vùng núi đã nhận thức được giá trị của các loài LSNG, chúng không chỉ có giá
trị về kinh tế mà còn có giá trị cả về văn hoá xã hội và môi trường.
Giá trị kinh tế
Theo báo cáo của Bert Jan Ottens (2005) [17] nhu cầu Lâm sản ngoài gỗ như sau:
- Nhu cầu của thế giới về thuốc có nguồn gốc từ thực vật tăng mạnh trong 10
năm qua, tăng nhanh hơn thuốc có nguồn gốc hóa học.
- Thương mại thuốc có nguồn gốc từ thực vật ước tính khoảng 10 tỉ Euro
hàng năm; tăng trưởng hơn 10% mỗi năm.
- Nhu cầu về thuốc thiên nhiên tăng liên quan nhiều đến phong trào tiêu thụ
xanh (thay thế hoặc phụ trợ cho thuốc tân dược).
- Nhu cầu về an toàn, chất lượng: Sản phẩm tiêu chuẩn hóa yêu cầu phải có
nguyên liệu thô chất lượng cao, nghiên cứu và phát triển (R&D) sẽ tăng cường tính
hợp pháp của thuốc có nguồn gốc từ thực vật.
Ngành Lâm sản ngoài gỗ phát triển ngày càng tăng, có xu hướng tăng nhanh

hơn so với ngành công nghiệp gỗ và được dự kiến tăng thêm trong tương lai. Theo
Mater, (New York Times, 1996) [23] thị trường cho các sản phẩm rừng khác như
nấm chiếm gần 20% hàng năm trong những năm qua. Ngoài ra, thị trường thuốc
thảo dược của Mỹ đã tăng trưởng với một tốc độ hàng năm ước tính khoảng 13-15%
so với doanh số bán hàng của thảo dược.


10

Theo đánh giá của Tinde van Andel (2006) [39] thực vật hoang dã được bán
gần như tất cả trên thị trường ở châu Phi, Caribê và Thái Bình Dương, nhưng ít
thông tin về đóng góp của nó cho nền kinh tế quốc dân của các nước. Rất ít quốc gia
đăng ký các loài được bán, ở đâu, số lượng và giá cả. Thậm chí ít được biết về
những người thu hoạch bán cho họ và những người mua chúng. Không giống như
gỗ và sản phẩm nông nghiệp, theo dõi không thường xuyên, đánh giá các nguồn tài
nguyên, chuỗi thị trường và đóng góp kinh tế xã hội của LSNG ở cấp quốc gia
không được thực hiện bất cứ nơi nào. Xuất khẩu Lâm sản ngoài gỗ đôi khi mới thấy
xuất hiện trong số liệu thống kê quốc gia. Tuy nhiên, thị trường thế giới hàng năm
của các sản phẩm thực vật hoang dã ước tính khoảng 60 tỷ USD, và thị trường này
tiếp tục tăng trưởng gần 20% mỗi năm.
Theo FAO (2002) [24] Trung Quốc và Ấn Độ là hai nước lớn nhất thế giới
về sản xuất và tiêu dùng Lâm sản ngoài gỗ. Trung Quốc là nước có các quy trình
sản xuất nhiều sản phẩm hoang dã hơn bất kỳ nước nào khác trên thế giới. Hiện
đang là mối quan tâm trên toàn thế giới về thực phẩm tự nhiên, thuốc đông y và
thảo dược, thủ công mỹ nghệ được làm chủ yếu từ mây và tre. Trung Quốc thống
trị thương mại thế giới về LSNG (ước tính khoảng 11 tỉ USD vào năm 1994), tiếp
theo là Ấn Độ, và sau đó Indonesia, Việt Nam, Malaysia, Philippines và Thái Lan.
Theo FAO (1995) [27] Mây là một hàng hoá quan trọng trong thương mại
quốc tế và ở cấp địa phương, ước tính thương mại của mây đạt khoảng 4 tỷ USD
trong đó các quốc gia Đông Nam Á là các thương nhân quốc tế chính của mây, với

việc sử dụng địa phương chiếm 2,5 tỷ USD. Trên thế giới, khoảng 700 triệu người
sử dụng song mây và khoảng 2 triệu người ở vùng nhiệt đới châu Á trực tiếp phụ
thuộc vào mây hoặc thực hiện việc thu hoạch và thương mại mây.
Thương mại các sản phẩm mây tre đã đem lại lợi nhuận cho nhiều nước
châu Á và là một nguồn thu nhập cho nhiều cư dân nông thôn. Ngành công nghiệp
mây tre đan còn cung cấp cơ hội việc làm cho người dân địa phương và góp phần
vào việc phát triển nền kinh tế của quốc gia. Theo báo cáo của FAO (1995) [27]
cho thấy các thương mại bên ngoài và giá trị thương mại của đồ nội thất làm từ mây


11

lên đến 7 - 8 tỷ USD. Tuy nhiên, gần 90% nguyên liệu thô đang được sử dụng cho
ngành công nghiệp chủ yếu là từ các khu rừng tự nhiên và rất ít từ rừng trồng. Do
vậy, nguồn tài nguyên mây tự nhiên đang cạn kiệt do những nguyên nhân từ khai
thác nguyên vật liệu dẫn tới thiếu tái tạo bổ xung, quản lý rừng nghèo và mất môi
trường sống của rừng.
Theo đánh giá của EC-FAO (2002) [24] thì Trung Quốc có diện tích rừng tre
trúc lớn nhất ước tính khoảng từ 7-17 triệu ha, chủ yếu Trúc sào (Phyllostachys
edulis). Hàng năm sản xuất cọc tre khoảng 6-7 triệu tấn (1/3 tổng sản lượng thế
giới). Ước tính giá trị thương mại thế giới hàng hoá từ tre khoảng 36,2 triệu USD,
Trung Quốc và Thái Lan là những nơi cung cấp chính; Malaysia, Myanmar, Hàn
Quốc, Indonesia, Việt Nam, Philippines và Bangladesh là nước xuất khẩu nhỏ. Sản
phẩm măng tre nhanh chóng mở rộng thị trường xuất khẩu, với Trung Quốc là nước
sản xuất chính trên thế giới và xuất khẩu (1.6 triệu tấn măng tươi trong năm 1999),
tiếp theo là Thái Lan, với số lượng nhỏ từ Indonesia, Việt Nam và Malaysia. Măng
tre được sản xuất tại các trang trại.
Theo Yogyakarta (1995) [28] sản phẩm hạt từ cây họ đậu (Parkia spp) ở
Châu Phi được tiêu thụ nhiều tại châu lục này và ở Đông Nam Á, Nam Mỹ. Ở Tây
Phi từ Gambia tới Cameroon cung cấp hơn 200.000 tấn hạt mỗi năm. Các sản phẩm

khác như bột cọ sagu làm thực phẩm được sử dụng rộng rãi trong khu rừng nhiệt
đới Châu Á, bột các loài Metroxylon là nguồn thực phẩm cung cấp năng lượng
chính cho ít nhất hơn 300.000 người ở Melanesia (Thuộc hòn đảo Vanuatu- Nam
Thái Bình Dương) và một triệu người sử dụng làm thực phẩm thường xuyên như
một phần trong chế độ ăn uống hàng ngày trên thế giới. Củ các loài dây leo khoai
mỡ trong rừng được tiêu thụ nhiều ở Châu Phi, Châu Úc và Châu Á.
Theo Verina Ingram (2009) [39] thương mại quốc gia về cây thuốc ở Nam
Phi ước tính trị giá 6- 9 triệu USD/năm, hơn 600 loài được bán hàng năm ở Natal.
Tổng cộng có 39 loài dược liệu nằm trongdanh mục đang có nguy cơ bị tuyệt chủng
đang được khai thác; một số loài đã tuyệt chủng. Thị trường thảo dược Nam Phi
hiện nay đã được bán trên internet. Thị trường quốc gia về cây thuốc được cho là


12

quan trọng hơn thị trường xuất khẩu kể từ khi đại đa số người châu Phi tham khảo ý
kiến thầy lang cổ truyền.
Theo Tejaswi (2008) [37] năm 1997 thị trường thế giới về nấm hoang dã sử
dụng làm dược phẩm dinh dưỡng và làm thuốc (các chất chiết xuất và sản phẩm đã
chuyển hóa được) là l.3 tỷ USD. Chiết xuất từ nấm vân chi (Trametes versicolor),
một loài nấm phổ biến ở British Columbia chiếm khoảng 16% tiêu dùng hàng năm
ở Nhật Bản để chống ung thư, và một số hoạt chất chiết xuất từ loài này bán ở
Tokyo với giá 1.500 - 2.000 USD/ kg.
Theo Verina Ingram (2009) [39] hơn 4 tỷ người dân trên toàn cầu sống dựa
vào hệ thống y học cổ truyền với các loài thực vật cho việc chăm sóc sức khoẻ chủ
yếu của họ. Ai Cập là quốc gia xuất khẩu cây thuốc quan trọng nhất ở châu Phi và là
nước xuất khẩu đứng thứ 5 về cây thuốc trên thế giới. Đầu những năm 1990, Ai Cập
xuất khẩu 11.250 tấn dược phẩm thực vật/ năm, trị giá trên 12 triệu USD.
Theo đánh giá của EC-FAO (2002) [24] thì Trung Quốc và Indonesia đứng
đầu về sản xuất nhựa dầu, ước tính khoảng 1,1 - 1,2 triệu tấn mỗi năm. Trung Quốc

đã nổi lên là nước sản xuất lớn nhất thế giới về nhựa thông, với mức sản xuất hàng
năm gần 400.000 tấn. Nấm hoang dại ăn được, đặc biệt nấm moscela phát triển tự
nhiên trong các khu rừng ôn đới của Ấn Độ, Pakistan, Afghanistan, Trung Quốc,
Nepal và Bhutan. Theo đánh giá của EC-FAO, tổng sản lượng thế giới được ước tính
là 150 tấn. Pakistan và Ấn Độ là nơi sản xuất lớn, hàng năm sản xuất và xuất khẩu
khoảng 50 tấn moscela khô (tương đương 500 tấn moscela tươi). Tổng thương mại
thế giới của moscela đạt khoảng 50-60 triệu USD.
Theo Verina Ingram (2009) [39] tại Congo Basin ở tỉnh Equateur Fumbwa
có 6% LSNG tiêu thụ trong hộ gia đình, hơn 80% sản lượng được thương mại hoá
trong đó 30 làng người lùn Píchmy Bantu trong khu vực lấy được 22% thu nhập từ
LSNG. Tuy nhiên 40% số thu hoạch đã sử dụng các phương pháp thu hoạch không
bền vững, phá hủy sinh cảnh [39].
Theo FAO (2002) [24] Trung Quốc là nước sản xuất lớn và xuất khẩu các
loài nấm hoang dã, nấm Mộc nhĩ (Auricularia auricula) được xuất khẩu hàng năm


13

khoảng 1.000 tấn trị giá khoảng 8 triệu USD, nấm Tuyết nhĩ (Tremella fuciformis)
đạt tới 1.000 tấn, 1/3 trong số đó là xuất khẩu, nấm Hương (Lentinus edodes) hàng
năm ước tỉnh sản lượng khoảng 120.000 tấn, chiếm 38% sản lượng thế giới trong đó
xuất khẩu hàng năm 1.000 tấn nấm hương khô, trị giá 20 triệu USD.
Cũng theo nghiên cứu của EC-FAO (2002) [24] thì Châu Á là nơi sản xuất
hàng đầu thế giới về một số loại dầu thiết yếu. Tổng thương mại thế giới trong các
loại dầu thô thiết yếu có thể đạt hơn 1 tỷ USD, nhưng phần lớn đến từ các nguồn
cây trồng. Ngoài ra, các nguồn hoang dã bao gồm gỗ đàn hương (Santalum spp.),
trầm hương (Aquilaria spp.), tung dầu (Aleurites spp) và dầu bạch đàn. Trung Quốc,
Indonesia, Thái Lan, Ấn Độ và Việt Nam là những nước cung cấp chính của những
loại dầu này.
Theo FAO (2002) [24] Indonesia là nước sản xuất lớn nhất thế giới về nhục

đậu khấu và vỏ của nó, chiếm khoảng 3/4 thế giới về sản xuất và xuất khẩu.
Indonesia sản xuất 15.800 tấn nhục đậu khấu trong năm 1990. Thương mại Quế trên
thế giới đạt khoảng 20.000-25.000 tấn mỗi năm, trong đó Indonesia chiếm 2/3 và
Trung Quốc chiếm phần còn lại. Sản xuất nhỏ bao gồm Việt Nam và Ấn Độ,
khoảng 2.000-3.000 tấn quế vỏ được xuất khẩu từ Việt Nam hàng năm. Chủ yếu
xuất khẩu sang các nước châu Âu, Hoa Kỳ và Nhật Bản [24].
Theo đánh giá của FAO (1995) [28] tại Ấn Độ, LSNG được sản xuất rộng rãi
và được sử dụng ở Madhya Pradesh, Maharastra, Orissa, Bihar, Tây Bengal,
Gujarat, Andhra Pradesh và Đông Bắc Hoa Kỳ. Nhóm bộ lạc đã dần dần đẩy vào
vùng biên, nơi sản lượng nông nghiệp thấp và không chắc chắn, do đó ngành LSNG
cung cấp việc làm chủ yếu cho 5,7 triệu người/năm. Hầu như 50% doanh thu quốc
gia về rừng và 80% xuất khẩu ròng thu nhập từ rừng sản xuất xuất phát từ LSNG.
Theo FAO (2002) [24] tổ Yến được khai thác nhiều ở Malaysia và Thái Lan
cung cấp chủ yếu cho thị trường Trung Quốc. Đồng thời Malaysia cũng là nước sản
xuất và xuất khẩu lớn tổ chim năm 1991 xuất khẩu tổ chim đạt tổng cộng 18,6 tấn,
chủ yếu tới Hồng Kông, Singapore, Nhật Bản và Đài Loan, trị giá khoảng 1 triệu
USD. Ngoài ra, sản phẩm gôm (Karaya) sử dụng làm nước giải khát, thu được từ


14

khai thác nhựa một số cây cây của Chi Trôm (Sterculia) ở Ấn Độ là nhà sản xuất
lớn duy nhất, tổng số sản xuất trên thế giới là khoảng 5.500 tấn/năm nhưng chủ yếu
thị trường chính vẫn là Trung Quốc.
Theo FAO (2002) [24] Bông gòn được sử dụng nhồi cho nệm, túi ngủ và chất
cách điện. Thái Lan và Indonesia là những nước cung cấp chính trong thị trường
thương mại của thế giới. Nhật Bản, Trung Quốc, Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ là thị
trường lớn. Trong năm 1992 tổng giá trị thương mại thế giới về loại LSNG này
khoảng 11 triệu USD, trong đó có khoảng 66% được đóng góp của Thái Lan và 16%
của Indonesia. Ngoài ra, Thái Lan và Ấn Độ thống trị thương mại thế giới về cánh

kiến đỏ, mỗi năm xuất khẩu trung bình khoảng 6.000 tấn/năm, Việt nam xuất khẩu
trung bình hàng năm khoảng 300 tấn, Trung Quốc sản xuất khoảng 3.000 tấn.
Theo Roderick P. Neumann (2000) [35] khảo sát 470 hộ gia đình ở tỉnh
Luang Nam Tha - Lào (Nale và huyện Sing) cho thấy hộ gia đình trung bình trong
khoảng thời gian 10 năm, sẽ có 5-6 năm với năng suất gạo bình quân (9 tháng/năm
đủ gạo để ăn), 3-4 năm với sản lượng xấu (5-6 tháng đủ gạo để ăn) và 1-2 với năng
suất tốt (không thiếu). Nghiên cứu đi đến kết luận Lâm sản ngoài gỗ đóng góp trên
61% thu nhập bình quân của các hộ gia đình (74% ở Nale, 48% ở huyện Sing),
khoảng 60 USD cho mỗi gia đình. Tác giả có kết luận: hầu như tất cả các thu nhập
xuất phát từ bán Lâm sản ngoài gỗ, được sử dụng để mua gạo (55/61 hoặc 90%).
Giá trị xã hội
Ngoài giá trị kinh tế, nhiều nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng LSNG đóng vai
trò quan trọng đối với xã hội trong việc giải quyết công ăn việc làm, giảm thiểu thất
nghiệp, xoá đói giảm nghèo hoặc nâng cao vai trò của giới trong cộng đồng điển
hình là một số nghiên cứu sau đây:
Nghiên cứu của Roderick P. Neumann và Eric Hirsch (1999) [36] chỉ ra
rằng lao động cho các hoạt động khác nhau liên quan trong việc khai thác đưa
LSNG từ rừng ra thị trường thường được phân chia giới tính. Trong đó, phụ nữ
thường là những người chủ yếu khai thác, xử lý và tiếp thị LSNG từ rừng nhiệt đới.
Mặc dù vai trò tích cực của phụ nữ trong thu hoạch và sử dụng nhưng họ thường
không có kiểm soát trực tiếp thu nhập có nguồn gốc từ LSNG, do đó có thể không


15

trực tiếp hưởng lợi từ thương mại hóa tăng lên. Nghiên cứu cũng cho thấy thương
mại hóa các dự án LSNG rõ ràng tập trung vào sự tham gia của phụ nữ có thể có
tác dụng gia tăng quyền lực chính trị và kinh tế của họ.
Theo IFAD (2008) [32] ở Scotland sự quan tâm đến LSNG đã được tăng lên
trong 10 năm qua. Hiện nay, một loạt các doanh nghiệp tạo ra đáng kể hoạt động kinh

tế, trong đó giao dịch nhiều các sản phẩm từ nấm hoang dã đến tinh dầu. Nghiên cứu
đã chỉ ra rằng trong phạm vi tại Scotland, 24% dân số có thu hái LSNG trong 5 năm
trước đây và 80% những người đó (tương đương khoảng 19% tổng số dân Scotland) đã
thu Lâm sản ngoài gỗ trong 12 tháng trong năm. Nhưng đa số chỉ được sử dụng cá
nhân [32].
Theo Tinde van Andel (2006) [38] tại Kodagu - Ấn Độ đã chỉ ra vai trò quan
trọng của LSNG trong sự hiểu biết của nền kinh tế bộ lạc. Tại đây, tỷ lệ phần trăm
chia sẻ (>70%) của LSNG đóng vai trò lớn trong kinh tế của các hộ gia đình thu
nhập thấp. Các hoạt động với LSNG cũng trở thành một hoạt động chính trong thời
gian nhất định trong năm cho những người không có đất nông nghiệp.
Nghiên cứu của quỹ nông nghiệp quốc tế (IFAD) (2006) [33] về giới cho
thấy LSNG đem lại nhiều hứa hẹn to lớn cho người sản xuất là phụ nữ trong nền
kinh tế không chính thức. Hiện nay có 150 loài LSNG có ý nghĩa quan trọng trong
thương mại quốc tế. Cùng các LSNG liên quan đến hàng triệu công nhân và người
sản xuất, trong đó có nhiều phụ nữ và đàn ông bản địa ở các vùng xa xôi nhất của
các nước đang phát triển. Người nghèo, nhất là phụ nữ đã tìm sự hấp dẫn từ các
hoạt động LSNG, hấp dẫn vì những yêu cầu đầu vào kỹ thuật và tài chính thấp.
Nghiên cứu gần đây ở Mexico và Bolivia cho thấy rằng Lâm sản ngoài gỗ có thể
góp phần xoá đói giảm nghèo bằng cách cung cấp “mạng lưới an sinh”, trong đó
làm giảm tính dễ tổn thương của các cộng đồng nghèo có sự rủi ro khi mất mùa
hoặc đình công.
1.1.5. Các nghiên cứu về sử dụng bền vững, giải pháp nâng cao vai trò của
LSNG
Một số tổ chức quốc tế tiêu biểu trong hoạt động nghiên cứu về LSNG như
tổ chức Nông lương thế giới (FAO), trung tâm nghiên cứu nông nghiệp quốc tế


16

(CIFOR), tổ chức quốc tế về tre nứa và song mây (INBAR)...tập trung chủ yếu vào

các nhóm nghiên cứu sau:
- Khảo sát tình hình nhằm cung cấp những hiểu biết chung về việc sử dụng
LSNG và tầm quan trọng cuả LSNG ở các mức độ khác nhau (hộ gia đình, địa
phương, quốc gia và quốc tế);
- Phát triển công nghệ để cải thiện quá trình chế biến và sử dụng LSNG;
- Nghiên cứu về gây trồng LSNG;
- Nghiên cứu về kinh tế, xã hội, bao gồm cả nghiên cứu về thị trường LSNG
Việc quan tâm đến công nghệ sau thu hoạch thường ít ỏi, vì thế gây lãng phí
cả về số lượng và chất lượng trong quá trình thu hái, vận chuyển và cất trữ các sản
phẩm LSNG (FAO, 1995). Một số vấn đề nổi cộm trong sản xuất, chế biến LSNG
ở các nước đang phát triển là kỹ thuật khai thác và xử lý sau thu hoạch; thiếu các
nghiên cứu về phát triển giống loài cao sản; kỹ thuật chế biến kém hiệu quả; thiếu
các giải pháp điều chỉnh chất lượng; khó khăn về thị trường và thiếu cán bộ được
đào tạo, v.v.
Chương trình Rừng, cây và con người (FTPP) (1992) đã nghiên cứu và đề
xuất được các bản hướng dẫn cho việc tạo ra các hệ thống thông tin thị trường
LSNG ở mức địa phương. Phương pháp này được kiểm nghiệm ở Bangladesh và
Uganda năm 1993.
Theo nghiên cứu của FAO (2009) [30] liên quan tới quản lý rừng để sản xuất
gỗ thì LSNG và dịch vụ môi trường chỉ nhận được rất ít sự chú ý của ngành lâm
nghiệp cho đến gần đây LSNG tăng trưởng chậm trong thập niên 1980. Shiva
(1995) gọi LSNG là "tiềm năng trụ cột của lâm nghiệp bền vững". Giá trị hiện tại và
tiềm năng của các LSNG cho các cộng đồng địa phương đang được sử dụng trong
việc hợp nhất bảo tồn và phát triển của các dự án (ICDPs).
Theo đánh giá của Roderick P. Neumann và Eric Hirsch (2000) [36] trữ
lượng khai thác từ rừng nhiệt đới khủng hoảng ở Nam Mỹ vào cuối những năm
1980 đã loé lên một làn sóng mới quan tâm đến LSNG. Do đó, các nghiên cứu chủ
yếu tập trung về LSNG đã được thực hiện tại đây.



17

Adepoju, Adenike Adebusola và Salau, Adekunle Sheu (2007) [23] nghiên
cứu về giá trị kinh tế của LSNG đưa ra nhận định: Trong quá khứ, các cơ sở hợp lý
cho việc bảo tồn rừng chỉ đơn giản để duy trì vai trò rừng sản xuất cho ngành công
nghiệp gỗ. Tuy nhiên điều này đã thay đổi ở nhiều nước trong 15 năm qua. Với sự
nổi lên của khu bảo tồn tại Brazil, Lâm nghiệp cộng đồng ở Nepal, Quản lý rừng ở
Ấn Độ và các sáng kiến tương tự ở nhiều nước khác, người dân địa phương đã được
tiếp cận với những lợi ích đáng kể từ LSNG.
1.2. Ở trong nước
1.2.1. Khái niệm về lâm sản ngoài gỗ
Trước năm 1991, sản phẩm chính của rừng được khai thác sử dụng chủ yếu
là gỗ, các lâm sản khác như: song, mây, tre, nứa, dầu nhựa, cây thuốc... còn ít được
quan tâm và quản lý nên gọi là lâm sản phụ (Minor forest product). Sau năm 1961,
một số loài lâm sản phụ có giá trị đặc biệt trong sử dụng và thương mại như: hồi,
quế, thảo quả, nấm hương... thì gọi là đặc sản rừng (Special forest product). Vài
thập kỷ gần đây, vai trò và chức năng cung cấp gỗ của rừng, nhất là rừng tự nhiên
nhiệt đới ngày càng hạn chế, vai trò và chức năng phòng hộ môi trường của rừng
ngày càng được thể hiện rõ và được quan tâm nhiều hơn trong bối cảnh biến đổi khí
hậu toàn cầu hiện nay. Muốn phát triển rừng nhằm bảo vệ môi trường sinh thái kết
hợp với phát triển kinh tế, cải thiện đời sống của người dân làm nghề rừng thì lâm
sản phụ hay đặc sản rừng lại có vai trò hết sức quan trọng. Chính vì lẽ đó một thuật
ngữ mới được đề xuất và sử dụng là Lâm sản ngoài gỗ (LSNG).
Ở Việt Nam chưa có thấy một khai niệm nào về LSNG, mà chỉ nói đến giá
trị của một số loại LSNG ảnh hưởng tới từng mặt của xã hội như: Đỗ Tất Lợi
(1991) cho rằng xuất xứ của dược liệu hầu hết là các sản phẩm của rừng; Lê Mộng
Chân (1992) cho rằng nhiều loài cây rừng cho các sản phẩm tự nhiên ngoài gỗ, đó là
cây đặc sản; Trần Hợp (2000) thì đưa ra 6 nhóm cây làm cảnh phục vụ cho đời sống
tinh thần của con người...
Trong quá trình thực hiện Dự án pha II tại Việt Nam do chính phủ Hà Lan tài

trợ từ năm 2002-2007 thì nhóm chuyên gia Việt Nam chấp nhận định nghĩa của


18

FAO năm 1999, nhưng giải thích thêm rằng “Những lợi ích gián tiếp từ rừng mang
lại như củi, than gỗ và những dịch vụ trong rừng như săn bắn, giải trí, du lịch sinh
thái, hấp thụ khí nhà kính, bảo tồn đa dạng sinh học, cải tạo đất, không xếp vào
LSNG mà gọi là dịch vụ môi trường”. Theo quan điểm này thì củi và than gỗ không
phải là gỗ và cũng không phải là LSNG mà là dịch vụ môi trường.
1.2.2. Về phân loại Lâm sản ngoài gỗ ở Việt Nam
Tháng 12 năm 1984 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) đã
thông qua Quyết định số 160/HĐBT về việc thống nhất quản lý lâm đặc sản. Đây là
hệ thống phân loại chính thức đầu tiên tại Việt Nam. Theo Quyết định này, danh
mục các loại lâm sản được xếp thành 2 nhóm chính trong hệ thực vật rừng và hệ
động vật rừng, cụ thể như sau:
Hệ thực vật rừng gồm có các nhóm sau:
+ Nhóm cây cho nhựa, tinh dầu, dầu béo, tanin như: Nhựa Thông, Quế, Hồi,
dầu Tràm, nhựa Trám, dầu Bạch đàn…
+ Nhóm cây thuốc như: Ba kích, Sa nhân, Hoàng đằng, Vàng đắng…
+ Nhóm thực vật sử dụng làm nguyên liệu cho hàng thủ công, như: Tre nứa,
song mây, lá nón…
+ Nhóm thực vật sử dụng làm nguyên liệu công nghiệp như: Cánh kiến, nhựa
thông, nhựa gôm…
Hệ động vật rừng gồm các nhóm sau:
+ Nhóm động vật hoang dã cho da, lông, xương, ngà, mỡ, xạ, mật và các sản
phẩm dược liệu. Ví dụ như: Voi, hổ, báo, hươu, trăn, rắn, khỉ, nhím, ong, chim cảnh
và các loài động vật khác
+ Nhóm các sản phẩm được chế biến từ nguyên liệu thô của động vật.
Năm 1991, báo cáo của Bộ Lâm nghiệp (nay là Bộ Nông nghiệp và Phát

triển Nông thôn) về "Tình trạng và triển vọng phát triển các loại lâm đặc sản của
Việt Nam (Ministry of Forestry - Current Status of Perspective for Non –Wood/
(Special) Forest Products Devlopment in S. R Vietnam) thì lâm đặc sản (hay Lâm
sản ngoài gỗ) của Việt Nam được chia thành 9 loại sau:


19

1. Sản phẩm tinh dầu chiết xuất: Hoàng đàn, Pơ mu, Trầm hương, Quế, Hồi,
Bạc hà...
2. Cây sử dụng làm thuốc: Thảo quả, Sa nhân, Thảo quyết minh, Hoa hoè, Mã
tiền, Trân châu, Ba kích, Củ mài, Bình vôi, Sâm ngọc linh...
3. Cây thực phẩm: Nghệ, Gừng, Hạt điều, Hạt dẻ và các đồ gia vị
4. Sản phẩm dầu béo: Sở, Trẩu, các loại dầu ăn thực vật.
5. Sản phẩm dầu nhựa và keo gôm: Trám, Dầu rái chai cục, dầu Thông...
6. Chất tannin và thuốc nhuộm: Đước, Chàm nhuộm...
7. Sản phẩm cho sợi: Thùa, Bông, Gạo, Gòn...
8. Sản phẩm thủ công từ tre nứa và song mây
9. Các sản phẩm khác: Nấm ăn được, tơ lụa, lá cọ, lá nón...., động vật và sản
phẩm từ động vật
Theo Võ Văn Chi và Trần Hợp (1999) [5] về phân loại nhóm cây có ích đã
phác thảo một hệ thống phân chia dựa trên các sản phẩm chính của cây cỏ để phân
ra 11 nhóm theo công dụng như sau:
- Nhóm cung cấp gỗ
- Nhóm cho sợi
- Nhóm nhựa mủ, gôm, nhựa dầu
- Nhóm cây cho dầu béo, sáp mỡ
- Nhóm cây cho dầu thơm (hương liệu)
- Nhóm cây cây cho Tanin, chất nhuộm
- Nhóm cây làm thuốc, diệt sâu bọ, cỏ dại

- Nhóm cây làm lương thực, cây cho bột, cho đường
- Nhóm cây làm thực phẩm
- Nhóm cây làm thức ăn gia súc
- Nhóm cây cho gia vị, nước uống
Dự án Lâm sản ngoài gỗ pha II thực hiện tại Trung tâm Nghiên cứu Lâm đặc
sản, cũng đã dựa trên khung phân loại Lâm sản ngoài gỗ của FAO (1999) [11] để
phân loại và giới thiệu các loài Lâm sản ngoài gỗ ở Việt Nam theo công dụng.


20

Như đã đề cập trên, tuy khung phân loại ở Việt Nam đã gần giống với phân loại
của FAO, nhưng việc điều tra và thống kê chúng chưa được thống nhất. Ví dụ như
rừng tre nứa được thống kê riêng chưa đưa vào rừng đặc sản, hoặc một số loại như Cao
su, Điều, Tiêu vẫn được thống kê là cây công nghiệp trong ngành nông nghiệp.... trong
khi chúng chiếm một tỷ trọng rất lớn trong thành phần LSNG. Để thuận lợi cho công
tác quản lý, đề nghị đưa các loài cây này trong hệ thống các loài LSNG.
Tóm lại, Lâm sản ngoài gỗ nếu hiểu theo các khái niệm và cách phân loại
trên thì chúng có thành phần đa dạng, bao gồm toàn bộ các loại lâm sản trừ gỗ. Để
nghiên cứu toàn diện về Lâm sản ngoài gỗ, cần phải có một chương trình lớn, huy
động nhiều nguồn lực mới đánh giá đúng mức vai trò của Lâm sản ngoài gỗ.
1.2.3. Các nghiên cứu về vai trò, tiềm năng của Lâm sản ngoài gỗ
- Nghiên cứu về vai trò và tiềm năng của Lâm sản ngoài gỗ:
Các nhà khoa học trong nước cũng đã xác định được danh lục các loài
LSNG, trong đó có khoảng 40 loài Song, Mây, 60 loài cây chứa nhiều Tanin, 260
loài cho dầu nhựa, 160 loài chứa tinh dầu, 70 loài chứa chất thơm và hàng trăm loài
làm thức ăn. Tác giả Trần Văn Kỳ với tác phẩm "Dược học cổ truyền" đã giới thiệu
một loạt thực vật có giá trị làm thuốc, tác giả tập trung mô tả về công dụng và nơi
mọc của các loài thực vật này. Theo Viện Dược liệu (2004) [22] đã phát hiện được
1863 loài cây làm thuốc ở Việt Nam thuộc 1033 chi, 236 họ và 101 bộ, 17 lớp, 11

ngành thực vật. Theo Võ Văn Chi (1997) [4] con số này lên tới hơn 3.000 loài.
Chúng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc chăm sóc sức khỏe con người từ
xưa đến nay, đặc biệt là đối với người dân tộc thiểu số.
Theo kết quả nghiên cứu của Dự án Lâm sản ngoài gỗ Việt nam trong số
12.000 loài cây được thống kê có 76 loài cho nhựa thơm, 160 loài cho dầu, 600 loài
cho tanin, 260 loài cho tinh dầu, 93 loài cho chất màu, 1498 loài cho các dược
phẩm. Theo dự đoán của nhiều nhà thực vật số loài thực vật bậc cao có thể lên tới
20.000 loài; hệ động vật cũng đã thống kê được 225 loài thú, 828 loài chim, 259
loài bò sát, 84 loài ếch nhái. Dẫn theo Triệu Văn Hùng và các cộng sự (2007) [11].


21

Theo Nguyễn Hữu Dũng (2005) [8] ở Việt Nam hiện nay đã xác định được
11.373 loài thực vật thuộc 2.524 chi và 378 họ. Đây là nguồn Lâm sản ngoài gỗ có
giá trị. Về động vật có xương sống có khoảng 310 loài thú, 840 loài chim, 286 loài
bò sát và 162 loài lưỡng cư (Đặng Huy Huỳnh, 2005) và nhiều loài động vật không
xương sống khác.
Trong công trình nghiên cứu và bảo vệ tài nguyên thực vật sinh thái núi cao
ở SaPa, Lã Đình Mỡi, Nguyễn Thị Thuỷ và Phạm Văn Thính (1995) [13] đã phân
hạng LSNG theo hệ thống sinh và thống kê được tập đoàn đông đảo thực vật có giá
trị làm thuốc ở địa phương.
Trong báo cáo hội thảo quốc gia về Lâm sản ngoài gỗ năm 2005 tại Hà Nội
[19] cho thấy tại Việt Nam đã có 28% các loài động vật, 10% các loài chim, 20%
các loài bò sát/ lưỡng cư đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng; 350 loài thực vật
cũng đang có nguy cơ tuyệt chủng. Báo cáo cũng cho thấy rằng về nguồn tài nguyên
cây thuốc có khoảng 4.000 loài (truyền thống và hiện đại) được sản xuất tại Việt
Nam đã đáp ứng được 30% tổng nhu cầu, còn 70% phải nhập khẩu. Trong đó, hơn
2000 loài cây gỗ (238 họ thực vật) có đặc tính thảo dược; 300 loài cây được thu
hoạch phục vụ cho các mục đích trong nước và thương mại; cây thuốc Việt Nam ở

phía Bắc được nhập khẩu dưới dạng phơi sấy khô và hoặc dạng chiết suất; chỉ 1020% được tiêu thụ hoặc chế biến trong nước.
Phạm Hồng Ban và cộng sự (2009) [3] nghiên cứu về sự đa dạng cây thuốc ở
vùng đệm khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên- Thanh Hóa đã xác định được 178
loài thuộc 142 chi và 75 họ. Ngành Mộc lan có đa dạng cao nhất chiếm 94,38%
tổng số loài. Có 6 loài có nguy cơ bị tuyệt chủng được ghi trong sách đỏ Việt Nam
(Danh lục đỏ cây thuốc và nghị định 32/NĐ – CP/2006). Tác giả cũng cho thấy sự
đa dạng về dạng thân, bộ phận sử dụng của cây làm thuốc và đa dạng trong các bộ
phận được sử dụng. Với 16 nhóm bệnh được sử dụng như ngoài da, thận, xương,
mắt, thần kinh…
Theo Đỗ Huy Bích và các tác giả (2004) [2] trong cuốn “cây thuốc và động
vật làm thuốc ở Việt Nam” đã giới thiệu danh mục nhiều loài cây thuốc và động vậy
làm thuốc ở Việt Nam bao gồm tên họ, đặc điểm nhận biết, phân bố sinh thái, thành
phần hóa học, công dụng và cách nuôi trồng cho từng loài.


22

Tiếp theo công trình của Đỗ Tất Lợi (2004) [12] đã giới thiệu chi tiết danh
mục phần lớn nhiều loài cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam về tên gọi,
đặc điểm sinh thái, hình thái, thành phần hóa học, công dụng và các bài thuốc liên
quan nhiều loại bệnh. Có thể nói đây là công trình chuyên sâu nhất về các vị thuốc
cổ truyền Việt Nam chủ yếu có nguồn gốc từ thực vật.
Nghiên cứu của Lê Thị Diên và Hồ Đăng Nguyên (2009) [7] về sự đa dạng
nguồn tài nguyên cây thuốc Việt Nam tại Vườn Quốc gia Bạch Mã đã thống kê
được tại khu vực có 120 loài thực vật thuộc 110 chi và 67 họ được sử dụng làm
thuốc có 8 nhóm thuộc các dạng sống khác nhau: Cây phụ sinh, cây gỗ lớn, cây gỗ
trung bình, cây gỗ nhỏ, cây bụi, cây dây leo thân gỗ, cây dây leo thân cỏ, cây cỏ
đứng. Trong đó, cây cỏ đứng chiếm 40% tổng số loài cây được người dân sử dụng
làm thuốc. Tác giả đã phân loại cây thuốc nam theo hệ thống sinh học, kết quả cho
thấy có 114 loài (95% tổng số loài) được làm thuốc thuộc ngành Ngọc lan chữa

nhiều loại bệnh như Bao tử, viêm gan, sỏi thận, trị rắn độc.
Trần Tuấn Kha (2009) [10] nghiên cứu về nấm Lỗ tại Ba Vì xác định 18 loài
nấm thuộc bộ nấm lỗ (Aphyllophorales) trong đó có sự đa dạng về hình thái. Kết
quả cũng cho thấy các loài nấm này có nhiều công dụng khác nhau như làm thực
phẩm, dược liệu, phân giải gỗ mục và kháng khối u.
Nghiên cứu về khu hệ mây song tại Bà Nà – Núi Chúa – Đà Nẵng, Nguyễn
Quốc Dựng (2009) [9] đã ghi nhận được 12 loài thuộc 3 chi chiếm 30% tổng số loài
song mây tại Việt Nam. Có 2 loài mới là Mây tôm (Calamus crispus Henderson, N.
K. Ban& N. Q. Dung) và Mây cám (Calamus fissilis Henderson, N. K) bổ sung cho
danh lục mây song trên thế giới. Có 8 loài được sử dụng làm đồ mỹ nghệ và đan lát,
4 loài chưa rõ công dụng.
Theo Nguyễn Hoàng Nghĩa và cộng sự (2000), ở Việt Nam hiện có 6 chi
song mây với 30 loài, mây nếp 19 loài, chi mây nước 4 loài, chi phướn 2 loài, chi
mây húp 1 loài, chi song lá bạc 3 loài và chi song voi 1 loài. Tác giả cũng đã mô tả
tóm tắt hình thái, phân bố địa lý và sử dụng của từng loài [15].


23

Về nguồn tài nguyên tre trúc Việt Nam theo Biswas (1995) thì Việt Nam đã
có tới 92 loài của 16 chi tre trúc (dẫn theo Nguyễn Hoàng Nghĩa, 2005) [14]. Theo
thống kê của sách thực vật chí Đông Dương thì ở Việt Nam có tới 61 loài thuộc 31
chi khác nhau (dẫn theo Nguyễn Ngọc Bình, Phạm Đức Tuấn 2007) [1].
Nghiên cứu về nguồn lợi chim ở Ninh Sơn - Ninh Thuận, Lê Đình Thủy (2009)
[20] đã ghi nhận được 120 loài chim thuộc 46 họ và 14 bộ. Thống kê đã xác định được
17 loài chim quý hiếm có giá trị kinh tế và giá trị bảo tồn nguồn gen sinh sống ở 4 dạng
sinh cảnh đặc trưng: Sinh cảnh rừng hỗn giao lá rộng và lá kim (86 loài chiếm
71,66%); sinh cảnh rừng thứ sinh, cây bụi ven sông suối, nương rẫy ở các sườn núi (74
loài chiếm 61,66%); sinh cảnh rừng lá rộng thường xanh (43 loài chiếm 35,83%); sinh
cảnh khu vực dân cư, đất canh tác nông nghiệp (36 loài chiếm 30%).

Tại Quảng Ninh - Quảng Bình, Lê Đình Thủy (2009) [21] nghiên cứu về tài
nguyên chim cũng đã thống kê được 161 loài chim thuộc 50 họ và 15 bộ phân bố ở
5 dạng sinh cảnh khác nhau. Trong đó có 9 loài chim có giá trị bảo tồn nguồn gen
và kinh tế. số loài chim ở đây chiếm 19,56% so với khu hệ chim Việt Nam.
- Các nghiên cứu về thị trường Lâm sản ngoài gỗ ở Việt Nam:
Theo Phan Sinh (2005) [18] và Nguyễn Huy Sơn (2011) [19] cho thấy doanh
thu xuất nhập khẩu LSNG tăng đều từ 15 đến 30% hàng năm, chiếm một phần nhỏ
trong tổng doanh thu xuất nhập khẩu (58,5 tỉ USD/ năm 2004). Số liệu xuất nhập
khẩu về Lâm sản ngoài gỗ từ năm 1999 đến 2011 như sau:
Bảng 1.1: Xuất nhập khẩu Lâm sản ngoài gỗ Việt Nam (1999-2011)
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Năm

Thương mại

Phi thương mại

Thương mại

Phi thương mại

(triệu USD)

(triệu USD)

(triệu USD)

(triệu USD)


1999

78.28

1.423

16.31

689

2000

99.72

4.965

23.33

1.065

2001

108.10

2.338

25.57

2.589


2002

139.44

1.599

27.78

233

2003

144.59

1.703

33.22

200

2004

197.96

1.908

58.37

214



24

Năm 2007, xuất khẩu gỗ, các sản phẩm gỗ, và quế xuất khẩu đạt được như sau.
Bảng 1.2: Xuất khẩu gỗ, các sản phẩm gỗ và Quế (2000-2007)
Năm
2000
2003
2004
2005
2006
2007
Gỗ và sản phẩm gỗ
(Đơn vị: triệu USD)
Quế xuất khẩu
(Đơn vị: nghìn tấn)

311.4

608.9

1101.7

1561.4

1943.1

2404.1

3.5


4.9

8.3

8.3

14.3

14.7

Nguồn: Niên giám thống kê 2007
Nghiên cứu đánh giá về thị trường LSNG Việt Nam cho thấy còn ít và chưa
đầy đủ. Ngoài giá trị trên trường quốc tế về xuất nhập khẩu đóng góp cho kinh tế
quốc dân, phải kể đến giá trị tiềm ẩn mà LSNG chưa thể hiện. Thiếu đánh giá vai
trò to lớn của LSNG đối với vùng nông thôn, đặc biệt là các vùng miền núi vùng
sâu vùng xa mà đa số cuộc sống của họ phụ thuộc vào rừng. Một số nghiên cứu vai
trò của giới trong thị trường LSNG cũng chưa được đánh giá đầy đủ.
1.2.4. Tình hình quản lý Lâm sản ngoài gỗ ở Việt Nam
Nhận thấy rõ vai trò quan trọng của LSNG, Chính phủ đã ban hành nhiều
chương trình, chính sách cho việc phát triển và bảo tồn rừng, trong đó có đề cập đến
nội dung quản lý LSNG. Một số chính sách quan trọng đã tạo nên sự chuyển biến
về phát triển và quản lý LSNG như chính sách của chính phủ về Giao đất giao rừng
cho hộ gia đình và cộng đồng quản lý (Nghị định 02/CP ngày 15 tháng 1 năm 1994;
thông tư 06LN/KN về giao đất lâm nghiệp; Nghị định 163/CP ngày 16/11/1999 về
giao đất và cho thuê đất lâm nghiệp); chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng cũng
đã đề cập đến việc phát triển Lâm sản ngoài gỗ; luật bảo vệ và phát triển rừng
(19/8/1991), thông tư 13LN/KL của Bộ Lâm nghiệp đã ban hành nhiều quy định
nhằm bảo vệ và phát triển tài nguyên động thực vật rừng quý hiếm.
Hiện nay, LSNG được quản lý dưới nhiều hình thức khác nhau: quản lý nhà

nước, quản lý cộng đồng và quản lý ở cấp hộ gia đình, cá nhân với nhiều mục đích
khác nhau (kinh doanh, sử dụng cho mục đích tự cung tự cấp, nghiên cứu khoa
học…). Trong đó việc lập kế hoạch quản lý bền vững LSNG dựa vào cộng đồng là


25

một trong những vấn đề được quan tâm và nó đang ngày càng thể hiện rõ vai trò
tích cực trong phát triển nguồn tài nguyên LSNG.
Theo chiến lược phát triển Lâm nghiệp Việt Nam 2006-2020 [6] định hướng
phát triển LSNG của Việt Nam đến năm 2020 dự kiến xuất khẩu lâm sản đạt trên
7,8 tỷ USD (bao gồm 7 tỷ USD sản phẩm gỗ và 0,8 tỷ USD sản phẩm Lâm sản
ngoài gỗ). Đến năm 2020, LSNG trở thành một trong các ngành hàng sản xuất
chính, chiếm trên 20% tổng giá trị sản xuất lâm nghiệp, giá trị LSNG xuất khẩu
tăng bình quân 15 - 20%; thu hút khoảng 1,5 triệu lao động và thu nhập từ LSNG
chiếm 15 - 20% trong kinh tế hộ gia đình nông thôn.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã trình Quốc hội phê duyệt
chương trình mục tiêu Quốc gia về để bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 20122020. Trong đó, đặc biệt quan tâm bảo vệ và phát triển LSNG nhằm giảm bớt áp lực
về gỗ cũng như tăng cường các lợi ích từ rừng. Các chương trình hoạt động khác
như: Chương trình xây dựng mô hình trình diễn và đào tạo, huấn luyện cho chủ
rừng; chương trình canh tác lâm nông kết hợp trên đất sau nương rẫy; Chương trình
đào tạo cho cán bộ làm công tác khuyến lâm; Chương trình thông tin, tuyên truyền;
và Chương trình tư vấn và dịch vụ khuyến lâm.
Mặc dù vậy, cho đến nay vẫn chưa có các chính sách và chương trình phát
triển riêng cho LSNG mà các chính sách, chương trình phát triển LSNG vẫn lồng ghép
vào các chính sách, chương trình liên quan đến quản lý tài nguyên rừng nói chung.
Điều này rất bất cập trong công tác quản lý vì mỗi loại LSNG có những đặc thù riêng
về môi trường sinh thái, phương thức khai thác và công nghệ chế biến, làm hạn chế
nhiều đến việc sử dụng hiệu quả và phát triển nguồn tài nguyên quý giá này.
1.3. Một số nghiên cứu về LSNG tại tỉnh Cao Bằng

Cao Bằng là một tỉnh miền núi nằm ở phía Đông Bắc Việt Nam, có tổng diện
tích đất lâm nghiệp có rừng là: 534.483,08 ha. Trong đó đất rừng sản xuất là:
26.765,02 ha; đất rừng phòng hộ là: 496.849,14 ha và đất rừng đặc dụng là:
10.868,92ha. Người dân sống dựa vào rừng nhất là LSNG là chủ yếu.


×