Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Đánh giá công tác bồi thường và giải quyết về đất đai khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn xã m, huyện t, tỉnh x

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.51 KB, 28 trang )

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến toàn thể quý thầy, cô,
trường Chính trị tỉnh Lai Châu đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi để em hoàn
thành tốt khóa bồi dưỡng ngạch chuyên viên K…, đặc biệt là tạo cơ hội cho em
tiếp cận với môi trường thực tế thông qua việc viết tiểu luận tình huống đầy ý
nghĩa, thiết thực này.
Em xin chân thành cảm ơn các đồng chí trong Ủy ban nhân dân, Ban Địa
chính, Ban Tư pháp xã Mường Mít đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi để em cập
nhật kiến thức thực tế trên địa bàn. Góp phần không nhỏ trong việc bản thân
từng bước hoàn thiện kỹ năng, kiến thức chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp.
Đặc biệt, em xin trân trọng cảm ơn giảng viên hướng dẫn đã hết lòng giúp
đỡ, hướng dẫn để em hoàn thành tiểu luận tình huống đúng thời gian quy định.
Bên cạnh đó trong quá trình viết tiểu luận tình huống e còn nhận được rất nhiều
sự giúp đỡ, hỗ trợ và động viên của quý thầy cô, đồng nghiệp, bạn bè và gia
đình. Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc.
Với thời gian thực hiện tiểu luận tình huống không nhiều. Trình độ và
nhận thức bản thân còn nhiều hạn chế. Vì vậy sẽ không tránh khỏi nhiều thiếu
sót. Kính mong Ban Giám hiệu, các thầy, cô giảng viên nhận xét, góp ý, để em
tiếp tục học hỏi, tìm hiểu, nghiên cứu, hoàn thiện bài viết và phấn đấu hơn nữa
trong quá trình học tập và rèn luyện kỹ năng.
Cuối cùng em xin kính chúc Ban giám hiệu và quý thầy cô lời chúc sức
khoẻ, thành đạt và hạnh phúc trong cuộc sống và công tác.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Lai Châu, ngày 1 tháng 5 năm 2017

1


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN........................................................................................................1


2


MỞ ĐẦU
Đất đai là sản phẩm của tự nhiên, là tài nguyên vô cùng quý giá, có giá trị
kinh tế cao là điều kiện sống cho động vật, thực vật và điều kiện sống của con
người trên trái đất. Đất đai tham gia vào tất cả các hoạt động của đời sống kinh
tế, xã hội, là địa điểm, cơ sở của các thành phố, làng mạc, các công trình công
nghiệp, giao thông, thủy lợi và các công trình khác. Là tư liệu sản xuất không
thể thiếu của một số ngành như sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, làm gốm,
gạch gói…
Dưới góc độ chính trị: đất đai là một phần không thể tách rời của mỗi
quốc gia dân tộc thông qua quá trình tác động của con người đất đai là yếu tố
tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất. Cùng với sự phát triển của xã hội, đất
đai được sử dụng vào nhiều mục đích và nhu cầu sử dụng đất càng ngày càng
tăng lên. Việc sử dụng đất có hiệu quả cả về kinh tế xã hội và tính bền vững môi
trường ngày càng có ý nghĩa.
Sử dụng đất đai vào các mục đích an ninh quốc phòng, lợi ích quốc gia,
lơị ích công cộng để thực hiện mục tiêu phát triển đất nước, đặc biệt là các dự án
phát triển đô thị, dự án sản xuất, kinh doanh phát triển kinh tế là một tất yếu
khách quan trong quá trình phát triển công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Để có mặt bằng xây dựng các dự án, Nhà nước phải thu hồi đất của nhân dân và
thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho các hộ dân có đất bị thu hồi.
Trong thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách quan
tâm trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư. Tuy nhiên đất đai và công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt
bằng và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất vẫn đang là vấn đề hết sức nhạy
cảm và phức tạp, ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Do đó,
thực tế công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng và tái định cư vẫn còn
nhiều vướng mắc và tồn tại gây nhiều bức xúc trong nhân dân. Công tác bồi

thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư là yếu tố quyết định cho nhà đầu tư
3


thực hiện dự án. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến nghĩa vụ, quyền lợi của Nhà nước,
tập thể, cá nhân có liên quan và tiến độ thi công của các dự án. Đồng thời đòi
hỏi cán bộ, công chức tham gia quá trình này phải có phẩm chất đạo đức tốt,
nắm chắc Hiến pháp, Pháp luật và các văn bản có liên quan, nhằm giải quyết
công việc vừa phải mềm mỏng, vừa phải cứng rắn và đúng người, đúng việc.
Thực hiện tốt công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư cho
các đối tượng nằm trong khu vực giải tỏa không những có ý nghĩa quyết định để
các công trình, dự án được thực hiện theo đúng tiến độ, mà còn góp phần ổn
định kinh tế, xã hội cho địa bàn dân cư khu vực giải tỏa, giải phóng mặt bằng.
Mặt khác, công việc bồi thường, tái định cư được giải quyết một cách thỏa đáng
chứng tỏ năng lực, phẩm chất của cán bộ, công chức và hiệu quả của công tác
quản lý nhà nước trong lĩnh vực này, tạo lòng tin trong dân đối với Đảng, Nhà
nước và các cấp chính quyền địa phương. Đây chính là động lực để nhân dân tự
giác chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước và thực hiện nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước.
Tuy nhiên, trên thực tế công tác giải phóng mặt bằng của rất nhiều dự án
đang gặp khó khăn, vướng mắc. Đa số các dự án chậm tiến độ bàn giao mặt
bằng cho nhà đầu tư, nhất là các dự án có quy mô sử dụng đất lớn, công trình
trọng điểm của tỉnh và của quốc gia. Mặt khác do công tác giải phóng mặt bằng
tác động lớn đến đời sống người dân có đất bị thu hồi, nhất là quyền lợi kinh tế,
vấn đề việc làm, ổn định đời sống tại nơi tái định cư nên ở nhiều dự án vẫn còn
xảy ra tình trạng đơn thư khiếu nại, thậm chí còn có những trường hợp khiếu
kiện kéo dài, khiếu kiện vượt cấp. Giải quyết khiếu nại là trách nhiệm nặng nề
của các cơ quan quản lý nhà nước, có vụ xảy ra rất phức tạp, để giải quyết thỏa
đáng còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Đây là vấn đề gây không ít khó khăn
trong công tác quản lý nhà nước ở trên địa bàn tỉnh Lai Châu nói riêng và cả

nước nói chung. Ngày 23/04/2015 Uỷ ban nhân dân tỉnh Lai Châu đã ra Quyết
định số 09/2015/QĐ-UBND quy định cụ thể về các mức bồi thường về đất, tài
sản và các chính sách hỗ trợ, tái định cư. Giao nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư cho các cơ quan chức năng như cấp huyện (thị xã, thành phố thuộc
4


tỉnh), chức năng của cấp xã trong công tác giải phóng mặt bằng. Cùng đó là
trách nhiệm của các cơ quan chức năng có liên quan, nghĩa vụ và quyền lợi của
người bị thu hồi đất.
Xã M là một xã đặc biệt khó khăn của huyện T - tỉnh X. Trên toàn địa bàn
xã, công tác bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất gặp rất nhiều khó khăn. Việc
bồi thường chưa tương xứng với mức độ thiệt hại đã gây ra nhiều bức xúc trong
nhân dân, từ đó đã có không ít trường hợp người dân không nhận tiền bồi
thường, hỗ trợ dẫn đến khiếu kiện kéo dài.
Từ những vấn đề trên cùng với những kiến thức cơ bản về quản lý Nhà
nước được các thầy, cô truyền đạt, trang bị trong thời gian tham gia lớp Bồi
dưỡng kiến thức quản lý nhà nước - chương trình chuyên viên. Em lựa chọn đề
tài: “Đánh giá công tác bồi thường và giải quyết về đất đai khi Nhà nước thu hồi
đất trên địa bàn xã M, huyện T, tỉnh X ”. Đây là tình huống hộ gia đình công dân

khiếu nại về công tác đền bù giải phóng mặt bằng của dự án xây dựng thủy
điện H
Do thời gian và kiến thức có hạn, kinh nghiệm tích lũy không nhiều, nên
mặc dù rất cố gắng nhưng bài viết của em khó tránh khỏi những sai sót, nhìn
nhận vấn đề có thể còn mang tính chủ quan. Kết Cấu nội dung tiểu luận của em
bao gồm 5 phần:
Phần 1. Nội dung tình huống
Phần 2. Phân tích tình huống
Phần 3. Xử lý tình huống

Phần 4. Kiến nghị
Phần 5: Kết luận

5


PHẦN 1
NỘI DUNG TÌNH HUỐNG
1.1. Hoàn cảnh xuất hiện tình huống
1.1.1. Khái quát về địa bàn xã M
M là một xã đặc biệt khó khăn của huyện T - tỉnh X. Có tổng diện tích tự
nhiên là 91,52 km2. Toàn xã có gần 700 hộ trên tổng số 2652 nhân khẩu. Xã
gồm 7 thôn bản, với 2 dân tộc anh em cùng sinh sống là Kinh, Thái, Mông, Dao
chiếm đa số là người Thái.
Địa hình hiểm trở có nhiều dốc cao, núi đá, giao thông đi lại còn nhiều
khó khăn trên địa bàn xã có nhiều suối và sông chảy qua. Điều kiện kinh tế
chậm phát triển, đời sống người dân đồng bào còn nghèo nàn, vẫn còn tồn tại
nhiều phong tục lạc hậu,… Địa phận xã M thuộc khu vực bồi thường, di dân tái
định cư trong xây dựng dự án thủy điện H chính vì vậy các cấp chính quyền đã
thực hiện đúng theo quy định của pháp luật trong công tác bồi thường, giải
phóng mặt bằng, tái định cư cho các đối tượng nằm trong khu vực giải tỏa, Việc
thực hiện bồi thường giải phóng mặt bằng, tái định cư cho các hộ gia đình không
những có ý nghĩa quyết định để các công trình, dự án được thực hiện theo đúng
tiến độ, mà còn góp phần ổn định kinh tế, xã hội cho địa bàn dân cư khu vực giải
tỏa, giải phóng mặt bằng. Mặt khác, công việc bồi thường, tái định cư được giải
quyết một cách thỏa đáng chứng tỏ năng lực, phẩm chất của cán bộ, công chức
và hiệu quả của công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này, tạo lòng tin trong
dân đối với Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền địa phương. Đây chính là
động lực để nhân dân tự giác chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước và thực hiện nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước.

Tuy nhiên trên thực tế công tác giải phóng mặt bằng của dự án còn gặp
nhiều khó khăn, vướng mắc. Đa số các dự án chậm tiến độ bàn giao mặt bằng
cho nhà đầu tư, nhất là các dự án có quy mô sử dụng đất lớn, công trình lớn, Mặt
khác do công tác giải phóng mặt bằng tác động lớn đến đời sống người dân có
6


đất bị thu hồi, nhất là quyền lợi kinh tế, vấn đề việc làm, ổn định đời sống tại nơi
tái định cư nên ở nhiều dự án vẫn còn xảy ra tình trạng đơn thư khiếu nại, thậm
chí còn có những trường hợp khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện vượt cấp. Những
trường hợp tập trung đến cơ quan công quyền biểu tình đánh đập cán bộ đòi
quyền lợi.... Giải quyết khiếu nại là trách nhiệm nặng nề của các cơ quan quản lý
nhà nước, có những vụ việc xảy ra rất phức tạp, để giải quyết thỏa đáng còn gặp
nhiều khó khăn, vướng mắc. Nếu cơ quan chức năng mà giải quyết chưa thỏa
đáng không dân vận cho nhân dân hiểu dễ xảy ra những mâu thuẫn không nhận
được sự ủng hộ, đồng thuận của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao
vai trò của nhân dân trong mọi hoạt động của nhà nước. Người cũng đã từng
khẳng định thực hành dân chủ là chiếc chìa khóa vạn năng giải quyết mọi khó
khăn. Chính vì vậy cán bộ phải giải thích cho dân hiểu. Tuy nhiên một bộ phận
cán bộ, công chức vẫn chưa thực hiện tốt đây là vấn đề gây không ít khó khăn
trong công tác quản lý nhà nước ở nhiều địa phương, đặc biệt là những đô thị
đang trong giai đoạn quy hoạch để phát triển.
1.2. Mô tả tình huống
Gia đình bà Lò Thị Thanh - ông Lường Văn Tuấn chuyển nhượng quyền
sử dụng đất từ diện tích đất vườn của ông Lường Văn Sinh (là cha ông bà Thanh
- Tuấn), được UBND huyện T ký xác nhận ngày 31 tháng 7 năm 2002 tại Hợp
đồng chuyển nhượng số 1500 chuyển nhượng với nội dung: Loại đất chuyển
nhượng là đất vườn theo quy định tại điều 103 Luật đất đai 2013, kèm theo sơ
đồ thửa đất có diện tích là 250 m2 (thửa đất có các số liệu: Chiều tiếp giáp Hồ
trữ nước 10 m, chiều phía sau tiếp giáp núi là 10 m và chiều sâu là 20 m). Ngày

08 tháng 8 năm 2002, bà Thanh nộp lệ phí trước bạ chuyển quyền sử dụng đất
theo biên lai thu lệ phí trước bạ (do Chi cục thuế huyện phát hành) số 03070,
tính loại tài sản là đất ở, số lượng 180 m2, giá đơn vị 100.000 đồng/m2, trị giá tài
sản tính lệ phí 18.000.000 đồng, tỷ lệ thu 1%, số lệ phí phải nộp ngân sách là
300.000 đồng. Từ khi nhận quyền sử dụng thửa đất đến nay hàng năm gia đình
bà thực hiện nghĩa vụ thuế cho thửa đất trên đầy đủ và nộp theo loại đất ở.

7


Ngày 20 tháng 04 năm 2014 thực hiện quyết định số 65/2013/QĐ-UBND
ngày 25 tháng 05 năm 2013 của UBND tỉnh X về việc phê duyệt quy hoạch bồi
thường, tái định cư xây dựng thủy điện H đại diện đội đo đạc - sở Tài nguyên Môi trường tiến hành lập biên bản xác định các loại đất nằm trong khu vực giải
tỏa để đền bù xây dựng tại hộ gia đình bà Thanh, tổng diện tích đo đạc là 200
m2, xác định diện tích đất nằm trong gianh giới giải tỏa là 150 m2.
Ngày 26 tháng 07 năm 2014 Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định
số 35/2014/QĐ-UBND về việc thu hồi đất tại địa bàn xã M huyện T tỉnh X, giao
cho Ban quản lý dự án huyện T san lấp, cải tạo làm hồ chứa có trích lục bản đồ
địa chính do sở Tài nguyên - Môi trường lập ngày 21 tháng 05 năm 2013. Trong
đó có hộ gia đình bà Thanh bị thu hồi 150 m2.
Ngày 15 tháng 8 năm 2014 UBND tỉnh Lai Châu ra Quyết định số
238/QĐ-UBND về việc thành lập Hội đồng đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng
xây dựng hồ chứa thủy điện di dân tái định cư hỗ trợ cấp đất cho các hộ dân trên
địa bàn huyện T.
Tại biên bản kiểm tra của Hội đồng đền bù thiệt hại - giải phóng mặt bằng
về thiệt hại thực tế so với tờ khai của gia đình bà Thanh ông Tuấn được đoàn cán
bộ Ban giải phóng mặt bằng huyện kiểm tra ngày 25 tháng 8 năm 2014, hai bên
đã xác định đất, tài sản và hoa màu trên đất phải giải tỏa gồm:
- Về đất: 150m2
- Về tài sản, vật kiến trúc: Nhà có kết cấu gạch đá; giằng móng BTCT

tường 220 chịu lực, chiều cao nhà 4,0m, mức độ tiện nghi hoàn thiện ở mức
trung bình: sơn tường, hoặc quét vôi ve trong ngoài từ 2 nước; hoàn chỉnh từ
móng đến mái. Lợp tôn, trần tấm nhựa nền lát gạch liên doanh, Tổng diện tích
nhà 80 m2.
1 chuồng trâu, 1 chuồng lợn diện tích tổng hai chuồng 15m 2 tốc xi lợp
ngói, láng nền bằng vữa xi măng.
- Cây cối hoa màu: Hồng Xiêm: 3 cây độ phát tán bán kính 1 cây 1,5m, 2
cây còn lại 2,5 và 3m; Vải: 2 cây; 1 cây độ phát tán bán kính 1,7m, 1 cây 3m

8


Mận: 1 cây độ phát tán bán kính 1,5m, Mít: 2 cây 1 cây độ phát tán bán kính
2,5m, 1 cây 4m;
Ngày 30 tháng 8 năm 2014 UBND huyện T tỉnh X lập tờ trình đề nghị
thẩm định tính toán đền bù thiệt hại về đất và tài sản trên khu vực xây dựng hồ
chứa tại dự án xây dựng thủy điện H. Căn cứ vào tờ trình của UBND huyện T và
báo cáo kết quả thẩm định của Sở Tài Nguyên - Môi trường về diện tích đất và
loại đất, ngày 02 tháng 09 năm 2014 UBND tỉnh X ban hành Quyết định số
16/2014/QĐ-UBND về quy định cụ thể một số chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15
tháng 05 năm 2014 Nghị định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất. Việc phê duyệt phương án đền bù thiệt hại được xác định theo quyết
định số 42/2014/QĐ-UBND ngày 16 tháng 12 năm 2014 Quyết định về việc ban
hành đơn giá bồi thường về nhà, công trình xây dựng trên đất, cây trồng, vật
nuôi và các tài sản khác gắn liền với đất khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn
tỉnh X trong đó hộ bà Thanh, ông Tuấn được phê duyệt bồi thường số tiền là:
187.250.000 đồng.
- Nhà: 1.961.000 x 80 m2 = 156.880.000 đồng
- Chuồng trại: 310.000 x 15 m2 = 4.650.000 đồng

- Cây cối hoa màu:
Hồng Xiêm: 1 cây độ phát tán bán kính 1,5m: 1×300.000=300.000 đồng
2 cây còn lại 2,5 và 3m: 2 x 450.000= 900.000 đồng
Vải: 1 cây độ phát tán bán kính 1,7m: 1 x 350.000 = 350.000 đồng
1 độ phát tán bán kính 3m: 1 x 520.000 = 520.000 đồng
Mận: 1 cây độ phát tán bán kính 1,5m: 1 x 300. 000 = 300.000 đồng
Mít: 1 cây độ phát tán bán kính 2,5m: 1 x 300.000 = 300.000 đồng
1 cây độ phát tán bán kính 4m: 1 x 550.000 = 550.000 đồng
- Hỗ trợ ổn định đời sống và di chuyển: 4.500.000 đồng
- Đền bù về đất không đủ điều kiện đền bù về đất ở:
150 m2 x 120. 000 đồng = 18.000.000 đồng

9


(Giá đất tính đền bù là giá đất nông nghiệp nộp thuế và được cộng thêm
1 khoản tiền hỗ trợ cải tạo bằng 30% chênh lệch giữa giá đất nông nghiệp và
đất vườn).
Đến ngày 3 tháng 9 năm 2014, gia đình bà Thanh và ông Tuấn đã nhận
đầy đủ số tiền đền bù là 187.250.000 đồng và tự tháo dỡ, di chuyển nhà cửa, vật
kiến trúc, hoa màu bàn giao mặt bằng cho huyện đúng thời hạn. Do không còn
thửa đất nào khác để làm nhà mà phần đất còn lại sau khi bị thu hồi vẫn đủ ở,
hơn nữa điều kiện kinh tế gia đình còn khó khăn nên gia đình bà Hương chỉ
dựng lại nhà tạm trên diện tích đất 90 m2 còn lại để sinh sống.
Ngày 25 tháng 11 năm 2016, gia đình ông bà Thanh - Tuấn làm hồ sơ xin
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích đề nghị là 90 m 2 - loại đất
ở (là diện tích còn lại mà gia đình bà đang ở).
Nhận được hồ sơ của gia đình bà Thanh, ngày 26 tháng 11 năm 2016
phòng Tài nguyên Môi trường huyện T đã cử cán bộ thẩm định xuống cùng với
cán bộ địa chính xã M kiểm tra, đo đạc, xác minh diện tích đất của gia đình bà

Thanh (mốc giới để đo do gia đình bà Thanh xác định, mốc quy hoạch chi tiết
xây dựng các công trình do chủ đầu tư và đơn vị tư vấn xây dựng công trình
thủy điện H), sau khi tổ chức đo đạc thửa đất có số liệu như sau: Tổng diện tích
là 90 m2 (diện tích gia đình bà Thanh, ông Tuấn đang khai thác sử dụng không vi
phạm về độ an toàn của công trình xây dựng hồ chứa, không tranh chấp với các
hộ xung quanh và thực hiện nghĩa vụ nộp thuế nhà ở, đất ở hàng năm đầy đủ),
trong đó có 20 m2 là diện tích đất vườn gia đình bà nhận chuyển nhượng trên
giấy tờ còn lại sau khi bị thu hồi giải tỏa, còn 70 m 2 là diện tích dôi dư ngoài
giấy tờ do gia đình bà khai phá đất hoang thêm bên ngoài khu vực hồ chứa thủy
điện.
Sau khi thẩm định hồ sơ với kết quả thực tế như trên, phòng Tài nguyên Môi trường huyện T đã gửi lại hồ sơ của bà Thanh, ông Tuấn và trả lời rằng thửa
đất của gia đình bà chưa đủ điều kiện để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
- loại đất ở và giải thích rằng trên giấy tờ hợp pháp hộ gia đình bà chỉ có diện
tích 20 m2 đất vườn, còn 70 m2 là đất dôi dư chưa có giấy tờ nào chứng nhận
10


rằng gia đình ông bà được sử dụng hợp pháp. Nếu gia đình bà muốn được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (loại đất ở) thì phải làm thủ tục đề nghị
chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ đất vườn sang đất ở đối với 20 m 2 đất vườn
hợp pháp và nộp tiền sử dụng đất theo quy định hiện hành đối với diện tích 70
m2 đất dôi dư ngoài giấy tờ. Đơn giá đất tính nộp theo Quyết định số
43/2014/QĐ-UBND ngày 19 tháng 12 năm 2014 của UBND tỉnh X, về việc ban
hành giá đất trên địa bàn tỉnh X.
Sau khi nghe giải thích và nhờ cán bộ thuế tính thử số tiền phải nộp theo
trả lời của cán bộ phòng Tài nguyên Môi trường huyện T, bà Thanh thực sự bức
xúc vì số tiền phải nộp không nhỏ so với điều kiện của gia đình bà. Cảm thấy gia
đình mình quá thiệt thòi sau khi bị nhà nước thu hồi đất giải phóng mặt bằng (và
với sự tư vấn của hàng xóm, bà Thanh đã làm đơn và trực tiếp lên phòng tiếp
công dân của UBND Huyện T trình bày đề nghị xem xét giải quyết một số nội

dung như sau:
Thứ nhất: Đề nghị tính toán lại giá trị đền bù cho gia đình bà ở phương án
đền bù giải phóng mặt bằng năm 2014, áp dụng quy định của Luật đất đai 2013
và các văn bản có liên quan, phần đền bù về đất: diện tích đất bị thu hồi đã áp
theo giá đất vườn, đề nghị tính toán lại áp theo giá đất ở để đền bù và thanh toán
bổ sung số tiền chênh lệch. Bởi vì gia đình bà đã nộp thuế trước bạ theo giá đất
ở mà chỉ được thanh toán đền bù theo giá đất vườn.
Thứ hai: Đề nghị UBND thành phố cấp đất định cư tại chỗ phần đất còn
lại gia đình bà Thanh đang sinh sống và được nộp tiền sử dụng đất theo giá đất
năm 2014 (năm gia đình bà bị thu hồi đất và nhận tiền đền bù). Theo lý giải của
bà: Vì gia đình bà được thanh toán tiền đền bù tính theo giá đất tại thời điểm đó.
Sau khi tiếp nhận đơn và hồ sơ kèm theo của bà Lò Thị Thanh, phòng tiếp
công dân của Ủy ban nhân dân huyện tham mưu cho Chủ tịch UBND huyện ban
hành Quyết định thụ lý, giao cho Thanh tra huyện chủ trì, phối hợp với phòng
Tài nguyên và môi trường, Ban giải phóng mặt bằng huyện thẩm tra, xác minh,
kết luận, tham mưu cho Chủ tịch UBND huyện giải quyết theo đúng quy định
của Pháp luật.
11


PHẦN 2
PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
2.1. Mục tiêu đặt ra của tình huống
Xác định đây là một tình huống phức tạp, là một trong nhiều trường hợp
thường xảy ra trong thực tế thực hiện công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, tái
định cư cho nhân dân. Tình huống này liên quan đến nghĩa vụ, trách nhiệm của
nhiều tổ chức cá nhân, như: Ủy ban nhân dân huyện, phòng Tài nguyên và môi
trường, cơ quan thuế, Hội đồng đền bù, giải phóng mặt bằng, các hộ gia đình
liên quan... Đặc biệt, vụ việc liên quan trực tiếp đến quyền lợi kinh tế và đời
sống của hộ gia đình thuộc diện bị giải tỏa, giải phóng mặt bằng.

Vì vậy, đòi hỏi xử lý tình huống này phải vừa đảm bảo đúng chế độ chính
sách, giữ vững kỷ cương phép nước, vừa phải đảm bảo không gây thiệt thòi cho
người dân, tạo điều kiện để họ ổn định cuộc sống, giữ vững được lòng tin trong
dân và được nhân dân đồng tình với quyết định xử lý, không để xảy ra tình trạng
khiếu kiện kéo dài hoặc khiếu kiện vượt cấp.
2.2. Cơ sở lý luận
- Căn cứ vào Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013;
- Luật đất đai năm 2013;
- Luật tổ chức chính quyền địa phương 2015;
- Luật Thanh tra năm 2010;
- Luật khiếu nại năm 2011;
- Luật tố cáo năm 2011;
- Các Nghị định của Chính phủ liên quan đến công tác quản lý sử dụng
đất và công tác đền bù, giải tỏa, giải phóng mặt bằng, tái định cư.

12


- Các Quyết định và văn bản của UBND tỉnh liên quan đến công tác quản
lý sử dụng đất và công tác đền bù, giải tỏa, giải phóng mặt bằng, tái định cư.
- Các Quyết định và văn bản của UBND huyện liên quan đến công tác
quản lý sử dụng đất và công tác đền bù, giải tỏa, giải phóng mặt bằng, tái định
cư có liên quan đến vụ việc.
- Đơn khiếu nại của công dân
2.3. Phân tích diễn biến tình huống
Từ tình huống trên ta thấy sự việc xảy ra trong cả một thời gian dài, vấn
đề nảy sinh ngay từ khi hộ gia đình bà Lò Thị Thanh - ông Lường Văn Tuấn
nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ diện tích đất vườn của ông Lường
Văn Sinh (là cha ông bà Thanh - Tuấn), được UBND huyện T ký xác nhận ngày

31 tháng 7 năm 2002 tại Hợp đồng chuyển nhượng số 1500 chuyển nhượng với
nội dung: Loại đất chuyển nhượng là đất vườn, kèm theo sơ đồ thửa đất có diện
tích là 200 m2 (thửa đất có các số liệu: Chiều tiếp giáp Hồ trữ nước 10 m, chiều
phía sau tiếp giáp núi là 10 m và chiều sâu là 20m). Tuy nhiên, việc Chi Cục
thuế huyện tính giá đất ở để thu lệ phí trước bạ mà không tính giá đất nông
nghiệp như đã ghi trong hợp đồng là vi phạm Luật thuế chuyển quyền sử dụng
đất năm 1994 và Nghị định số 176/1999/NĐ-CP ngày 21 tháng 12 năm 1999 của
Chính phủ về thu lệ phí trước bạ. Sau khi Luật đất đai 2013 được ban hành áp
dụng theo các văn bản hướng dẫn thi hành Luật đất đai như Nghị định số
140/2016/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2016 nghị định về lệ phí trước bạ. Đây
cũng chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng gia đình bà Thanh và ông Tuấn
đòi hỏi được thanh toán đền bù theo giá đất ở.
Từ khi nhận chuyển nhượng gia đình bà Thanh chưa hề làm thủ tục
chuyển đổi mục đích sử dụng đất, nên diện tích đất của gia đình bà không thể
coi là đất thổ cư. Việc bà Thanh cho rằng đã nộp phí trước bạ theo loại đất ở,
nộp thuế nhà ở, đất ở hàng năm thì phải thanh toán tiền đền bù theo giá đất ở là
không đúng quy định, vì biên lai nộp thuế không là cơ sở để chứng minh được
loại đất, chỉ có cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới được quyền công nhận loại
đất cho công dân, tổ chức.
13


Ngày 06 tháng 3 năm 2014 UBND tỉnh X có công văn chỉ đạo số 200/CVUBND về việc hướng dẫn thực hiện chính sách đền bù, giải phóng mặt bằng để
đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, ở nội dung thứ hai đã quy định: “Đối
với đất đang ở của các hộ gia đình nhận chuyển nhượng từ đất vườn, đất nông
nghiệp, đất lâm nghiệp hoặc đất khác để làm nhà ở mà chưa làm đầy đủ các thủ
tục chuyển đổi mục đích sử dụng đất theo quy định hiện hành thì không được
đền bù về đất ở, chỉ được đền bù về đất theo loại đất, hạng đất trước khi chuyển
nhượng mua, bán”. Do đó, việc Hội đồng đền bù, giải phóng mặt bằng huyện T
thực hiện Quyết định số 42/2014/QĐ-UBND ngày 16 tháng 12 năm 2014 Quyết

định về việc ban hành đơn giá bồi thường về nhà, công trình xây dựng trên đất,
cây trồng, vật nuôi và các tài sản khác gắn liền với đất khi nhà nước thu hồi đất
trên địa bàn tỉnh X của gia đình bà Thanh theo giá đất vườn là đúng quy định
của pháp luật. Đồng thời gia đình bà Thanh còn được hỗ trợ thêm 30% chênh
lệch giữa giá đất vườn và đất ở là phù hợp với quy định. Các nội dung đền bù
thiệt hại về tài sản khác Hội đồng đền bù đã thanh toán đầy đủ và được gia đình
bà Thanh nhất trí. Như vậy, việc đền bù giải phóng mặt bằng đối với gia đình bà
Thanh được giải quyết năm 2014 là đã thỏa đáng và đúng quy định của Pháp
luật.
Sau khi nhận Quyết định thu hồi đất và nhận tiền đền bù, gia đình bà
Thanh đã chủ động tháo dỡ bàn giao mặt bằng là đã thực hiện đúng quy định của
Luật đất đai 2013 “Người sử dụng đất có nghĩa vụ: Giao lại đất khi Nhà nước
có Quyết định thu hồi”.
Gia đình bà Thanh bị thu hồi đất vườn, theo quy định tại khoản điều 6 của
Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 05 năm 2014 Nghị định về bồi
thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. thì không đủ điều kiện để
được cấp đất tái định cư (đất ở). Tại điều 7, Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15
tháng 05 năm 2014 của Chính Phủ quy định: “Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất
nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi được bồi thường bằng đất có cùng mục đích
sử dụng; nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền tính
theo giá đất cùng mục đích sử dụng”. Xét thực tế gia đình bà Thanh không có
14


thửa đất nào khác, mà diện tích đất còn lại gia đình bà đang sử dụng (90 m 2) đủ
để xây dựng nhà ở nên việc bà xin được cấp đất định cư tại chỗ là hợp lý. Theo
Quyết định số 04/2008/QĐ-BXD ngày 03 tháng 04 năm 2008 của Bộ xây dựng
quy định “kích thước tối thiểu của lô đất xây dựng nhà ở đối với nhà liền kề
(nhà liền tường, nhà phố), kích thước 3.3 m x 12 m, diện tích tối thiểu 40 m 2”;
Quyết định số 39/QĐ-TTg ngày 28 tháng 02 năm 2005 của Thủ tướng Chính

phủ về hướng dẫn thi hành điều 121 Luật xây dựng, tại khoản a, mục 2, điều 3
quy định “nếu diện tích đất còn lại từ 15 m2 đến nhỏ hơn 40 m2 có chiều rộng
mặt tiền từ 3 m trở lên và có chiều sâu so với chỉ giới xây dựng từ 3 m trở lên
thì được phép xây dựng không quá 2 tầng”; Nếu xét về diện tích thì thửa đất của
gia đình bà Thanh đủ điều kiện được cấp đất xây dựng nhà ở.
Tuy nhiên, xét về nguồn gốc thửa đất thì trả lời của phòng Tài nguyên Môi trường đối với trường hợp của hộ gia đình bà Thanh là đúng. Tức là phải
làm thủ tục xin chuyển đổi mục đích sử dụng đất đối với 20 m 2 đất vườn nhận
chuyển nhượng còn lại sang đất ở và làm nghĩa vụ tài chính theo quy định. Tại
khoản 2 điều 5 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 05 năm 2014 của
Chính phủ quy định về thu tiền sử dụng đất khi chuyển đổi mục đích sử dụng đất
Đối với hộ gia đình, cá nhân: Chuyển từ đất vườn, ao trong cùng thửa đất
có nhà ở thuộc khu dân cư không được công nhận là đất ở theo quy định tại
Khoản 6 Điều 103 Luật Đất đai sang làm đất ở; chuyển từ đất có nguồn gốc là
đất vườn, ao gắn liền nhà ở nhưng người sử dụng đất tách ra để chuyển quyền
hoặc do đơn vị đo đạc khi đo vẽ bản đồ địa chính từ trước ngày 01 tháng 7 năm
2004 đã tự đo đạc tách thành các thửa riêng sang đất ở thì thu tiền sử dụng đất
bằng 50% chênh lệch giữa tiền sử dụng đất tính theo giá đất ở với tiền sử dụng
đất tính theo giá đất nông nghiệp tại thời điểm có quyết định chuyển mục đích
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đối với diện tích đất dôi dư ngoài giấy tờ,
gia đình bà Thanh phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định. Cụ thể là: Tại điều
24 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2017 của Chính phủ
quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất,
thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi
15


Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đaiTrường hợp đo đạc lại mà
diện tích thửa đất thực tế nhiều hơn diện tích ghi trên Giấy chứng nhận đã cấp
hoặc giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 100 của Luật đất đai, Điều
18 của Nghị định này và ranh giới thửa đất thực tế có thay đổi so với ranh giới

thửa đất tại thời điểm có Giấy chứng nhận hoặc giấy tờ về quyền sử dụng đất thì
việc xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất đối với diện tích đất tăng thêm được thực hiện như sau
; Thủ tục cấp Giấy chứng nhận đối với diện tích đất tăng thêm được thực hiện
theo quy định tại Điều 70 và cấp đổi Giấy chứng nhận cho thửa đất gốc theo quy
định tại Điều 76 của Nghị định này nếu thửa đất gốc đã được cấp Giấy chứng
nhận. Văn phòng đăng ký đất đai có trách nhiệm xác nhận vào Đơn đề nghị cấp
lại, cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất đối với diện tích đất tăng thêm và gửi thông tin địa chính
đến cơ quan thuế, trình cấp Giấy chứng nhận sau khi người sử dụng đất đã hoàn
thành nghĩa vụ tài chính, cập nhật, chỉnh lý hồ sơ địa chính, cơ sở dữ liệu đất đai
cho toàn bộ diện tích thửa đất đang sử dụng, trao Giấy chứng nhận cho người
được cấp hoặc gửi Ủy ban nhân dân cấp xã để trao đối với trường hợp nộp hồ sơ
tại Ủy ban nhân dân cấp xã. Tiền sử dụng đất (gia đình bà Thanh phải nộp đối
với 90m2 được tính bằng 50% giá đất hiện hành. Tại khoản 1 điều 7 Nghị định
số 45/NĐ-CP của Chính phủ quy định rõ: Trường hợp hộ gia đình, cá nhân đang
sử dụng đất có nhà ở thì phải nộp tiền sử dụng đất bằng 50% tiền sử dụng đất
đối với diện tích đất trong hạn mức giao đất ở theo giá đất quy định tại Bảng
giá đất; đối với diện tích đất ở vượt hạn mức (nếu có) thì phải nộp bằng 100%
tiền sử dụng đất theo giá đất quy định Điểm b, Điểm c Khoản 3 Điều 3 Nghị
định này tại thời điểm có quyết định công nhận quyền sử dụng đất của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Như vậy, việc gia đình bà Thanh đề nghị được nộp tiền
sử dụng đất theo giá đất tại thời điểm năm 2014 là trái quy định của Pháp luật.
Ta thấy rằng, gia đình bà Thanh đã không thực hiện kịp thời việc xin chuyển đổi
mục đích sử dụng đất và xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngay tại
thời điểm bị thu hồi đất để gửi lên cấp có thẩm quyền xem xét, trải qua thời gian
16


khá dài chính sách, giá cả thay đổi dẫn đến thiệt thòi cho gia đình bà trong việc

thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất.
2.4. Nguyên nhân dẫn đến tình huống
- Về phía cơ quan có thẩm quyền:
+ Một là, cơ quan có chức năng chưa làm tốt công tác tham mưu về quản
lý đất đai tại địa phương, không rõ ranh giới, mục đích, diện tích sử dụng đất
dẫn đến khảo sát lập phương án bồi thường còn nhiều sai phạm. Cán bộ có liên
quan làm việc thiếu tinh thần trách nhiệm, cơ quan nhà nước quy hoạch chậm
dẫn đến nhiều khiếu kiện của người dân
+ Hai là, do sự hạn chế trong khâu tuyên truyền, vận động của cơ sở và
các đoàn thể; Sự thiếu tinh thần trách nhiệm, xử lý sai của cán bộ thuế trong việc
phát hành biên lai thu lệ phí trước bạ dẫn đến việc vi phạm Pháp luật; sự sa sút
về phẩm chất đạo đức, vì lợi ích cá nhân mà cố tình làm sai lệch hồ sơ.
+ Ba là, hoạt động điều hành, quản lý đất đai ở cơ sở còn nhiều hạn chế,
công tác xử lý công việc của công dân trong các cơ quan Nhà nước còn thiếu
tính kịp thời, đặc biệt là tiến độ thực hiện đền bù, giải phóng mặt bằng.
+ Bốn là, đội ngũ cán bộ công chức thực thi nhiệm vụ đền bù, giải phóng
mặt bằng còn hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ, thiếu tinh thần trách nhiệm,
không giải thích, hướng dẫn cụ thể cho nhân dân trong công tác đền bù, tái định
cư. Sự kiểm tra, giám sát công tác quản lý và sử dụng đất đai trong khu dân cư
chưa chặt chẽ.
+ Năm là, cơ chế, chính sách về hỗ trợ, bồi thường đất còn chưa phù hợp,
gây ra nhiều tình trạng chưa công bằng và hợp lý.
- Về phía người dân:
Một là, do sự thiếu hiểu biết về pháp luật cũng như về quyền và nghĩa vụ
của công dân trong quản lý và sử dụng đất đai thể hiện rõ ở nhận thức và hành
động của gia đình bà Thanh từ khi nhận chuyển nhượng đất, bị thu hồi đất cho
đến khi xin cấp đất.

17



Hai là, Chưa thật sự quan tâm đến quyền và lợi ích của cá nhân thực hiện
chuyển đổi mục đích sử dụng đất ngay sau khi có quyết định thu hồi, bồi
thường, hỗ trợ tái định cư.
2.5. Hậu quả của tình huống
Ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện chủ trương, đường lối chính sách của
Đảng, và pháp luật của Nhà nước
- Không kịp thời phát hiện hành vi vi phạm làm sai hồ sơ giấy tờ, sử dụng
đất sai mục đích để xử lý, hướng dẫn và điều chỉnh; gây thiệt hại về kinh tế cho
hộ gia đình công dân (nộp thừa lệ phí trước bạ và thuế nhà, đất hàng năm, không
thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình trong sử dụng đất dẫn đến việc
nhiều năm nhận chuyển nhượng vẫn chưa có đất ở ổn định, chưa chuyển được
mục đích sử dụng đất); Gây ảnh hưởng đến sự ổn định của đời sống xã hội trên
địa bàn dân cư.
Sự yếu kém trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức dẫn đến hiệu quả làm việc không cao, gây tổn thất về kinh
tế, xã hội ảnh hưởng đến sự phát triển chung của huyện, đặc biệt là tiến độ thi
công các công trình, dự án; Giảm sút lòng tin của công dân đối với Nhà nước,
gây bất bình trong nhân dân, nảy sinh khiếu kiện. Nếu giải quyết không thỏa
đáng dễ dẫn đến tình trạng khiếu kiện vượt cấp, khiếu kiện kéo dài.
Để khắc phục hạn chế và giải quyết sự việc một cách ổn thỏa, chấm dứt
khiếu kiện, đòi hỏi phải có sự nhìn nhận vấn đề ở góc độ hết sức khách quan để
tìm ra phương án giải quyết tối ưu.

18


PHẦN 3
XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
3.1. Mục đích

Giải quyết nhanh, gọn thực hiện đúng quy định của pháp luật, giữ vững
kỷ cương phép nước, làm gương cho quần chúng nhân dân hiểu và thực hiện
đúng quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi tham gia quản lý và sử dụng đất, bảo
vệ được sự nghiêm minh của Pháp luật.
Tình huống này liên quan đến nghĩa vụ, trách nhiệm của nhiều tổ chức cá
nhân, như: UBND huyện T, phòng Tài nguyên và môi trường, cơ quan thuế, Hội
đồng đền bù, giải phóng mặt bằng, các hộ gia đình liên quan... Đặc biệt, vụ việc
liên quan trực tiếp đến quyền lợi kinh tế và đời sống của hộ gia đình thuộc diện
bị giải tỏa, giải phóng mặt bằng. Do đó đòi hỏi xử lý tình huống này phải vừa
đảm bảo đúng chế độ chính sách, giữ vững kỷ cương phép nước, vừa phải đảm
bảo không gây thiệt thòi cho người dân, tạo điều kiện để họ ổn định cuộc sống,
giữ được lòng tin trong dân với Đảng với Nhà nước và được nhân dân đồng tình
với quyết định xử lý, không để xảy ra tình trạng khiếu kiện kéo dài hoặc khiếu
kiện vượt cấp.
3.2. Các phương án giải quyết tình huống
Qua xem xét đánh giá vụ việc, căn cứ vào quy định của Pháp luật và một
số văn bản liên quan, Ủy ban nhân dân huyện T đã đề xuất một số phương án:
Phương án 1: Giữ nguyên phương án đền bù theo giá đất vườn, cấp đất
định cư tại chỗ và nộp tiền sử dụng đất theo giá đất thời điểm đền bù (năm
2014).
Cụ thể là không chấp nhận đề nghị của bà Thanh là tính toán lại đền bù về
đất năm 2014 theo giá đất ở thay vì giá đất vườn. Đồng ý cấp đất định cư tại chỗ
19


cho hộ gia đình bà Hương nhưng phải chuyển đổi mục đích sử dụng đất 90 m2 từ
đất vườn sang đất ở và nộp tiền sử dụng đất cho 70 m 2 đất dôi dư. Giá đất tính
nộp nghĩa vụ tài chính cho cả 90 m 2 tính theo giá đất tại thời điểm đền bù
(2014). Đồng thời hướng dẫn bà Thanh yêu cầu cơ quan Thuế trả lại phần lệ phí
trước bạ nộp thừa khi nhận quyền sử dụng đất năm 2002.

Ưu điểm: Giải quyết nhanh, giảm bớt gánh nặng về kinh phí tạo điều kiện
cho gia đình bà Thanh làm thủ tục nhanh nhằm xây dựng nhà ở, ổn định cuộc
sống, chấm dứt khiếu nại.
Nhược điểm: Không thực hiện đúng quy định của Pháp luật về thu tiền sử
dụng đất. Dễ trở thành tiền lệ cho các hộ gia đình chây lỳ không chịu làm thủ tục
hợp pháp và nghĩa vụ tài chính trong việc sử dụng đất, nảy sinh đơn thư khiếu
nại, tố cáo.
Phương án 2: Giữ nguyên phương án đền bù theo giá đất vườn, cấp đất
định cư tại chỗ và nộp tiền sử dụng đất theo giá đất hiện hành.
Cụ thể là không chấp nhận đề nghị của bà Thanh là tính toán lại đền bù về
đất năm 2014 theo giá đất ở thay vì giá đất vườn. Đồng ý cấp đất định cư tại chỗ
cho hộ gia đình bà Thanh nhưng phải chuyển đổi mục đích sử dụng đất 20m 2 từ
đất vườn sang đất ở và nộp tiền sử dụng đất cho 70m 2 đất dôi dư. Giá đất tính
nộp nghĩa vụ tài chính cho cả 90 m2 tính theo giá đất hiện hành (theo Quyết định
số 02/QĐ-UBND ngày 15 tháng 2 năm 2014 của UBND tỉnh X, về việc ban
hành bảng giá các loại đất trên địa bàn tỉnh X). Đồng thời hướng dẫn bà Thanh,
ông Tuấn yêu cầu cơ quan Thuế trả lại phần lệ phí trước bạ nộp thừa khi nhận
quyền sử dụng đất năm 2002.
Ưu điểm: Giải quyết nhanh, thực hiện đúng quy định của pháp luật, giữ
vững kỷ cương phép nước, làm gương cho quần chúng nhân dân hiểu và thực
hiện đúng quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi tham gia quản lý và sử dụng đất,
bảo vệ được sự nghiêm minh của Pháp luật.
Nhược điểm: Giá đất cao hơn so với thời điểm gia đình bà Thanh, ông
Tuấn được đền bù, gây khó khăn về tài chính cho gia đình ông, bà trong việc ổn
định cuộc sống.
20


Phương án 3: Đồng ý tính toán lại tiền đền bù theo giá đất ở và cấp đất
định cư tại chỗ và phải thực hiện nghĩa vụ tài chính bổ sung.

Cụ thể là vận dụng quy định tại điểm a khoản 1 điều 45 bồi thường, hỗ trợ
về đất khi Nhà nước thu hồi đất đối với đất sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm
1993 trở về sau mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất, trường hợp đất đang
sử dụng có nhà ở, nằm trong hạn mức bồi thường theo đất ở nhưng giá trị bồi
thường phải trừ đi tiền sử dụng đất phải nộp theo mức thu quy định tại điểm a
khoản 3 điều 8 Nghị định 198/2004/NĐ-CP (thu tiền sử dụng đất bằng 50% tiền
sử dụng đất đối với diện tích trong hạn mức giao đất ở). Đồng ý cấp đất định cư
tại chỗ cho phần đất còn lại sau thu hồi nhưng phải làm thủ tục chuyển đổi mục
đích sử dụng đất đối với 20 m2 từ đất vườn sang đất ở và nộp tiền sử dụng đất
cho 70 m2 đất dôi dư. Giá đất tính nộp nghĩa vụ tài chính cho cả 90 m 2 tính theo
giá đất hiện hành (theo quy định tại Quyết định số 43/2014/QĐ-UBND ngày 19
tháng 12 năm 2014 của UBND tỉnh X, về việc ban hành bảng giá các loại đất
trên địa bàn tỉnh X trong thời gian 05 năm từ 2015 - 2019).
Ưu điểm: Giải quyết được đề nghị thanh toán đền bù theo giá đất ở như đề
nghị của gia đình bà Thanh.
Nhược điểm: Giải quyết phiền hà, phức tạp mà giá trị đền bù bổ sung thực
tế có cao hơn nhưng không đáng kể; Việc thực hiện quy định chỉ là vận dụng,
chưa thực sự đúng người, đúng việc. Thể hiện trình độ, năng lực xử lý công việc
của cán bộ, công chức còn hạn chế. Dễ làm nảy sinh khiếu kiện từ các hộ gia
đình khác cùng thuộc diện đền bù, giải phóng mặt bằng với gia đình bà Thanh.
Qua xem xét đánh giá các phương án trên, cho thấy phương án 2 là
phương án tối ưu trong 3 phương án. Mặc dù không thỏa mãn được yêu cầu đòi
hỏi của công dân, nhưng xuất phát điểm nảy sinh từ sai sót của bản thân gia đình
công dân trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình khi sử dụng đất. Việc
giải thích cặn kẽ về chính sách Pháp luật, áp dụng xử lý đối với trường hợp hộ
gia đình bà Thanh, ông Tuấn đã đúng người, đúng việc sẽ là bài học cho gia đình
bà nói riêng và các hộ gia đình khác nói chung hiểu biết hơn về chính sách, pháp
luật về đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng, chấm dứt khiếu kiện. Giải quyết
21



theo phương án này đảm bảo tính nghiêm minh của Pháp luật và tính công bằng
trong việc quản lý sử dụng đất, đền bù, giải phóng mặt bằng. Tránh tình trạng
làm tiền lệ cho việc làm việc thiếu trách nhiệm, lách luật, cố ý làm sai của cán
bộ, công chức dẫn đến khiếu kiện của công dân. Bên cạnh đó, còn thể hiện trình
độ nhận thức về chính sách pháp luật, áp dụng trong thực tế xử lý đúng người,
đúng việc của cán bộ, công chức, tạo được lòng tin trong nhân dân, đem lại hiệu
quả cao trong công tác quản lý.
3.3. Các giải pháp thực hiện phương án đã lựa chọn
Để thực hiện phương án 2 - phương án được lựa chọn một cách hiệu quả,
cơ quan có thẩm quyền đã tổ chức thực hiện:
Bước 1: Thẩm tra, xác minh
Thanh tra huyện tiến hành thẩm tra, xác minh nội dung đơn và các tình
tiết diễn ra trong quá trình bồi thường, hỗ trợ tái định cư xảy ra đối với trường
hợp của hộ gia đình bà Thanh, ông Tuấn.
Bước 2: Tổ chức đối thoại với công dân
Bộ phận tiếp công dân của Ủy ban nhân dân phối hợp với Thanh tra thị xã
tổ chức mời công dân Lò Thị Thanh và Lường Văn Tuấn lên phòng đối thoại của
Ủy Ban nhân dân huyện T đối thoại trực tiếp với lãnh đạo Ủy ban nhân dân và
các phòng, ban chức năng có liên quan. Cụ thể thành phần mời bao gồm: Đồng
chí phó Chủ tịch UBND huyện đồng thời là Chủ tịch Hội đồng đền bù, giải
phóng mặt bằng, tái định cư huyện T; đại diện phòng Tài nguyên và môi trường;
Ban giải phóng mặt bằng; Chi cục thuế; cán bộ địa chính xã M để giải thích cụ
thể trường hợp của gia đình ông, bà và đưa ra hướng giải quyết theo đúng quy
định. Bên cạnh đó hướng dẫn gia đình bà thực hiện trình tự, làm hồ sơ, thủ tục
chuyển đổi mục đích sử dụng đất đối với 20 m 2, xin cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho cả 90 m2 và yêu cầu cơ quan thuế hoàn trả số tiền lệ phí trước
bạ gia đình bà đã nộp thừa do cán bộ thuế phát hành biên lai thu sai năm 2002 và
các năm tiếp theo. Buổi đối thoại được lập biên bản làm chứng cứ giải quyết đơn
khiếu nại.

Bước 3: Ban hành kết luận thanh tra
22


Trên cơ sở kết quả thẩm tra, xác minh, biên bản đối thoại với công dân và
các văn bản có liên quan, Thanh tra thành phố ban hành kết luận thanh tra, trong
đó phân tích đánh giá từng tình tiết xảy ra của tình huống, chỉ ra đúng, sai và đề
xuất biện pháp xử lý.
Bước 4: Ban hành Quyết định giải quyết
Thanh tra huyện T tham mưu cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện ra
quyết định giải quyết đơn của của bà Lò Thị Thanh, với nội dung xử lý theo
phương án đã lựa chọn. Cụ thể là:
Không chấp nhận đề nghị tính toán lại đền bù về đất theo giá đất ở của gia
đình bà Thanh.
Đồng ý cho gia đình bà Thanh làm thủ tục chuyển đổi mục đích sử dụng
đất từ đất nông nghiệp sang đất ở và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để
gia định bà định cư tại chỗ. Gia đình bà phải làm nghĩa vụ tài chính với Nhà
nước theo quy định của pháp luật hiện hành.
Riêng đối với lệ phí trước bạ nhận chuyển quyền sử dụng đất đã thu sai,
gia đình bà Thanh có quyền yêu cầu Chi cục thuế bồi hoàn toàn bộ số tiền thu
sai và bồi thường theo quy định của Pháp luật.

23


PHẦN 4
KIẾN NGHỊ
Là công chức làm công tác quản lý Nhà nước tại chính quyền cấp xã qua
nghiên cứu lý luận và xử lý tình huống thực tế, em mạnh dạn đề xuất một số
kiến nghị như sau:

1. Nhà nước phải xây dựng hệ thống chính sách về quản lý đất đai đáp
ứng được nhu cầu sử dụng đất trong giai đoạn hiện tại cũng như lâu dài. Chính
sách quản lý đất đai, nhất là cơ chế chính sách về bồi thường phải phù hợp với
các chính sách kinh tế - xã hội khác. Đối với các cơ quan lập pháp, Hành pháp
phải ban hành ra hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật đầy đủ, đồng bộ,
hiệu quả liên quan đến công tác đền bù, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, chuyển đổi
mục đích sử dụng đất, xử lý khi cơ quan có thẩm quyền sai phạm. Thường
xuyên có sự rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống văn bản Pháp luật
cho phù hợp với sự phát triển của xã hội.
2. Việc xác định giá trị quyền sử dụng đất để bồi thường thiệt hại trong
đền bù, hỗ trợ, tái định cư phải hợp lý để người dân ổn định cuộc sống, nhất là
trong điều kiện chúng ta đang thực hiện nền kinh tế thị trường xây dựng nhà
nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân có
hay chăng chúng ta nên tạo ra thêm nhiều cơ chế để nhân dân được tham gia bàn
bạc, đóng góp ý kiến.
3. Đối với cấp ủy, chính quyền địa phương: Các cấp phải chủ động trong
công tác chỉ đạo điều hành, ngay từ khâu lập kế hoạch, quy hoạch, tuyên truyền
vận động quần chúng nhân dân đến việc thực hiện, kiểm tra, giám sát và giải
quyết khiếu nại tố cáo. Thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo đúng thẩm quyền đã
được phân cấp.
4. Đối với các cơ quan chuyên môn: Phải bố trí cán bộ, công chức phù
hợp với năng lực, trình độ, hiểu biết về chính sách pháp luật và có phẩm chất
đạo đức tốt trực tiếp tham mưu giải quyết những vấn đề có liên quan đến công
tác quản lý sử dụng đất và công tác giải phóng mặt bằng. Có kế hoạch bồi dưỡng
24


nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ công chức. Có sự phối kết hợp chặt chẽ
và xử lý công việc đồng bộ giữa các cơ quan chuyên môn, các ngành, các cấp
nhằm đạt hiệu quả cao trong công tác quản lý.

Qua quá trình tìm hiểu và có nhận thức nhất định về bản chất của vấn đề.
Em thấy rằng cần phải rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:
Một là, Các cấp chính quyền, các cơ quan tiếp tục quán triệt chủ trương
của Đảng, chính sách Pháp luật của Nhà nước. Đồng thời tăng cường tổ chức
học tập, phổ biến, tuyên truyền sâu rộng trong toàn thể cán bộ, công chức và các
tầng lớp nhân dân.
Hai là, Phải có một hệ thống pháp luật và các chế độ chính sách đồng bộ,
phù hợp với thực tiễn.
Ba là, Coi trọng công tác cải cách tổ chức, bộ máy và thủ tục hành chính:
xây dựng bộ máy gọn nhẹ với đội ngũ cán bộ, công chức tinh thông nghiệp vụ;
thủ tục hành chính đơn giản, tránh gây phiền hà, sách nhiễu trong giải quyết
công việc với công dân, đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai, giải phóng mặt bằng.
Bốn là, Việc thực hiện các phương án đền bù, giải phóng mặt bằng phải
đảm bảo tính đúng, tính đủ, kịp thời và công khai minh bạch. Trong quá trình
phát triển kinh tế, kế hoạch sử dụng đất các cấp chính quyền phải công khai rộng
dãi trên các phương tiện thông tin đại chúng thậm chí đến từng hộ dân. Từ đó
phải chú trọng công tác tuyên truyền chính sách pháp luật nói chung và chính
sách, pháp luật về quản lý đất đai nói riêng để người dân biết và thực hiện.
Năm là, Làm tốt công tác tái định cư, hỗ trợ thỏa đáng tạo điều kiện cho
các hộ gia đình bị di dời nhanh chóng ổn định đời sống.
Sáu là, Giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo phải đảm bảo đúng quy định
về trình tự, thủ tục xử lý đúng thẩm quyền, dứt điểm và thỏa đáng, tránh khiếu
nại kéo dài, đơn thư vượt cấp.
Bảy là, Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, hoạt động quản lý của cơ
quan có thẩm quyền trong lĩnh vực đất đai, tiến hành thường xuyên thông qua đó
phát hiện và khắc phục những hạn chế, sai sót một cách kịp thời.

25



×