i
LỜI CẢM ƠN
Luận văn Thạc sỹ khoa học lâm nghiệp “Nghiên cứu đề xuất quy
hoạch bảo vệ và phát triển rừng huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội giai đoạn
2012 -2020" được hoàn thành theo chương trình Đào tạo Sau đại học của
trường Đại học Lâm nghiệp, niên khóa 2010 - 2012.
Với tấm lòng biết ơn sâu sắc của bản thân, tôi xin gửi lời cảm ơn sự
hướng dẫn quý báu, nhiệt tình, đầy trách nhiệm và nhiệt huyết của thầy giáo
PGS.TS Nguyễn Bá Ngãi, người thầy đã bồi dưỡng, khuyến khích, và truyền
đạt những kiến thức và kinh nghiệm quý báu cho tác giả trong suốt thời gian
học tập, công tác cũng như thực hiện luận văn.
Qua đây, cho phép tôi được gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo đã trực
tiếp tham gia giảng dạy, các thầy cô giáo trong khoa Đào tạo Sau đại học
trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam.
Nhân dịp này tôi cũng xin bày tỏ sự cảm ơn tới Uỷ ban nhân dân huyện
Ba Vì, Hạt Kiểm lâm Ba Vì, Ban quản lý Vườn Quốc gia Ba Vì, gia đình,
bạn bè, đồng nghiệp đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Đề tài được hoàn thành với sự nỗ lực cố gắng của bản thân song do
kiến thức và thời gian còn hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót nhất
định, rất mong đón nhận được những ý kiến đóng góp từ phía các Nhà khoa
học, thầy cô để đề tài được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn./.
Hà Nội, ngày 30 tháng 10 năm 2012
Học viên
Nguyễn Thị Vân
ii
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn …………………………………………………………………
i
Mục lục …………………………………………………………………….
ii
Danh mục các từ viết tắt ………………………………………………….
v
Danh mục các bảng………………………………………………………..
vi
ĐẶT VẤN ĐỀ
1
Chương 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Nhận thức chung về quy hoạch
3
3
1.1.1.Trên thế giới 5
1.1.2.Ở Việt Nam 10
Chương 2. MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
19
2.1. Mục tiêu nghiên cứu 19
2.1.1. Mục tiêu tổng quát 19
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
19
2.2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu
19
2.2.2. Phạm vi nghiên cứu
19
19
2.3. Nội dung nghiên cứu 19
2.4. Phương pháp nghiên cứu
20
2.4.1. Phương pháp luận 20
2.4.2. Thu thập các tài liệu thứ cấp
21
2.4.3. Phương pháp điều tra khảo sát bổ sung ngoại nghiệp
2.4.4. Phương pháp tổng hợp phân tích tài liệu
23
23
iii
2.4.5. Phương pháp xử lý số liệu
24
Chương 3. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI CỦA HUYỆN BA
VÌ
25
3.1. Điều kiện tự nhiên
25
3.1.1. Vị trí địa lý 25
3.1.2. Địa hình, địa thế
25
3.1.3. Khí hậu, thủy văn 26
3.1.4. Địa chất, thổ nhưỡng
27
3.1.5. Tài nguyên du lịch 28
3.2. Tình hình kinh tế
28
3.2.1. Kinh tế chung
28
3.2.2. Ngành nông nghiệp
29
3.2.3. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng
3.2.4. Dịch vụ
30
31
3.3. Thực trạng phát triển xã hội
3.3.1. Dân số, dân tộc
32
32
3.3.2. Lao động, việc làm và mức sống dân cư
32
3.3.3. Giáo dục đào tạo 33
3.3.4. Y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân
3.3.5. Văn hóa, thông tin, thể thao
33
34
3.3.6. Tình hình thực hiện các chính sách xã hội, xóa đói giảm nghèo 34
3.3.7. Cơ sở hạ tầng
35
3.3.8. Hiện trạng về an ninh, quốc phòng
36
3.3.9. Đánh giá chung về đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội 37
Chương 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 39
4.1. Cơ sở quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng huyện Ba Vì 39
4.1.1. Những căn cứ pháp lý
39
iv
4.1.2. Cơ sở thực tiễn
42
4.2.1. Hiện trạng sử dụng đất đai chung (19 xã có rừng và đất lâm nghiệp)
43
4.2.2. Diện tích đất lâm nghiệp huyện Ba Vì 44
4.2.3. Diện tích đất lâm nghiệp phân theo đơn vị hành chính
4.2.4. Diện tích đất lâm nghiệp phân theo chủ quản lý
46
4.2.5.Diện tích đất lâm nghiệp phân theo 3 loại rừng
48
45
4.2.6. Trữ lượng các loại rừng 49
4.2.7. Hệ thực vật, động vật rừng
50
4.3. Đánh giá công tác bảo vệ và phát triển rừng huyện Ba Vì………51
4.3.1. Tổ chức quản lý
51
4.3.2. Tình hình giao, khoán, thuê rừng và đất lâm nghiệp
52
4.3.3. Bảo vệ rừng 53
4.3.4. Phát triển rừng
54
4.3.5. Khai thác lâm sản 55
4.3.6. Hoạt động của các dự án lâm nghiệp 56
4.3.7. Những tồn tại và nguyên nhân của công tác bảo vệ và phát triển rừng
58
4.3.8. Dự báo nhu cầu và tiềm năng phát triển rừng huyện Ba Vì
61
4.4. Đề xuất các nội dung cơ bản của quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng
huyện Ba Vì giai đoạn 2012-2020
64
4.4.1. Phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ và phát triển rừng huyện Ba
Vì đến năm 2020 64
4.4.2. Quy hoạch đất lâm nghiệp
4.4.3. Quy hoạch 3 loại rừng
67
69
4.4.4. Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng huyện Ba Vì
76
4.4.5. Tổng hợp vốn đầu tư thực hiện quy hoạch và dự toán hiệu quả 89
v
4.4.6. Đề xuất các giải pháp thực hiện quy hoạch 93
KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận 100
2. Tồn tại
102
3. Khuyến nghị
102
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
100
vi
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt
STT
Viết đầy đủ
1
Bộ NN&PTNT
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
2
CT
Chỉ thị
3
EU
Euro: Các nước Châu Âu
4
HĐND
Hội đồng nhân dân
5
KTXH
Kinh tế xã hội
6
NLKH
Nông lâm kết hợp
7
QĐ
Quyết định
8
TCLN
Tổng cục Lâmnghiệp
9
TTg
Thủ tướng
10
TTLT
Thông tư liên tịch
11
Sở NN&PTNT
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
12
UBND
Ủy ban nhân dân
13
VQG
Vườn Quốc Gia
vii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng
TT
Trang
3.1
Một số chi tiêu kinh tế tổng hợp của huyện ba Vì
29
4.1
Thống kê diện tích các loại đất đai
43
4.2
Diện tích đất lâm nghiệp
44
4.3
Diện tích đất lâm nghiệp phân theo đơn vị hành chính
45
4.4
Diện tích đất lâm nghiệp theo chủ quản lý
47
4.5
Diện tích đất lâm nghiệp phân theo chức năng
48
4.6
Trữ lượng các loại rừng
50
4.7
Tổng hợp diện tích thí điểm cho thuê môi trường
57
4.8
Dự báo dân số 16 xã khu vực vùng đệm VQG Ba Vì
61
4.9
Quy hoạch đất lâm nghiệp theo 3 loại rừng
68
4.10 Quy hoạch diện tích cho thuê môi trường
73
4.11 Kế hoạch phát triển rừng huyện Ba Vì
82
4.12 Kế hoạch bảo vệ rừng huyện Ba Vì
87
4.13 Kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng huyện Ba Vì
88
4.14 Tổng hợp nhu cầu vốn đầu tư
90
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, vai trò của rừng nói riêng hay ngành Lâm nghiệp nói chung
không những được đánh giá ở khía cạnh kinh tế thông qua những sản phẩm
trước mắt thu được từ rừng mà còn tính đến những lợi ích to lớn về xã hội,
môi trường mà rừng và nghề rừng mang lại. Sự tác động đến rừng và đất rừng
không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến nghề rừng và sự phát triển kinh tế - xã hội
tại khu vực có rừng mà còn tác động nhiều mặt đến các khu vực phụ cận cũng
như nhiều ngành sản xuất khác. Do vậy, để sử dụng tài nguyên rừng một cách
bền vững và lâu dài, việc xây dựng phương án quy hoạch hợp lý là yêu cầu cấp
thiết đối với các nhà quản lý.
Quy hoạch Bảo vệ và phát triển rừng là một hoạt động vừa mang tính
khoa học vừa mang tính pháp lý của hệ thống các biện pháp kỹ thuật, kinh tế,
xã hội. Quy hoạch Bảo vệ và phát triển rừng thực chất là quá trình ra quyết
định sử dụng rừng và đất rừng như một tư liệu sản xuất đặc biệt, nhằm mục
tiêu sử dụng rừng và đất rừng một cách hiệu quả.
Công tác Quy hoạch Bảo vệ và phát triển rừng luôn được chú trọng và
coi là nhiệm vụ chiến lược trong quản lý rừng và đất rừng. Năm 2004 Luật
Bảo vệ và phát triển rừng ra đời và Nghị định số 23/2006/NĐ-CP về thi hành
Luật bảo vệ và phát triển rừng của Chính phủ yêu cầu tỉnh, huyện, xã phải xây
dựng quy hoạch và kế hoạch bảo vệ phát triển rừng. Trên cơ sở đó tiến hành
sử dụng các biện pháp Quy hoạch Bảo vệ và phát triển rừng nhằm đưa ra
phương pháp phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội cho từng địa
phương.
Huyện Ba Vì, thuộc thành phố Hà Nội, nằm về phía Tây Bắc và cách
trung tâm thành phố 53 km. Rừng và đất rừng của huyện giữ vai trò rất quan
trọng trong việc phòng hộ đầu nguồn, bảo vệ môi trường, bảo vệ đa dạng sinh
học và phát triển kinh tế xã hội. Thấy rõ được vai trò và tầm quan trọng của
2
rừng, trong nhiều năm qua Đảng và Chính phủ đã không ngừng đầu tư xây
dựng và phát triển rừng .
Huyện Ba Vì có 1/3 diện tích đồi núi, chủ yếu có địa hình cao dốc, chia
cắt phức tạp, giao thông đi lại gặp nhiều khó khăn, đây là nơi sinh sống chủ
yếu của đồng bào các dân tộc Kinh, Dao, Mường với tập quán canh tác lạc
hậu, trình độ dân trí hạn chế, đời sống còn nhiều thiếu thốn. Chính vì vậy,
việc xây dựng và phát triển rừng trên địa bàn gặp rất nhiều khó khăn, hệ thống
rừng nơi đây chưa đáp ứng được yêu cầu về phòng hộ, bảo vệ môi trường,
phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng.
Nhằm sử dụng rừng và đất lâm nghiệp trên địa bàn huyện hiệu quả, quản
lý bảo vệ rừng tốt hơn, đẩy nhanh hơn nữa trồng rừng kinh tế, phòng hộ môi
trường, sinh thái, cảnh quan du lịch; xây dựng các trang trại rừng cũng như xây
dựng và phát triển rừng khu vực Tây Bắc của thành phố Hà Nội, việc quy hoạch
bảo vệ và phát triển rừng ổn định và bền vững trên địa bàn huyện là việc làm vô
cùng cấp thiết và quan trọng hiện nay, tạo vành đai xanh, bảo vệ sinh thái cho
Thủ đô Hà Nội.
Việc nghiên cứu, quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng huyện Ba Vì, thành
phố Hà Nội nhằm bố cục hợp lý về mặt không gian tài nguyên rừng và bố trí cân
đối các hạng mục sản xuất kinh doanh, làm cơ sở cho việc lập kế hoạch, định
hướng cho sản xuất kinh doanh lâm nghiệp đáp ứng nhu cầu lâm sản cho nền
kinh tế quốc dân, cho kinh tế địa phương, cho xuất khẩu và cho đời sống nhân
dân, đồng thời phát huy những tác dụng có lợi khác của rừng.
Để có những cơ sở, luận cứ góp phần quy hoạch phát triển lâm nghiệp
trên địa bàn huyện cho phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, nhằm quản
lý, bảo vệ chặt chẽ, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên quý giá, phục vụ cho
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của huyện, tác giả tiến hành nghiên cứu đề
tài:“Nghiên cứu đề xuất quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng huyện Ba Vì,
thành phố Hà Nội giai đoạn 2012 -2020".
3
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Nhận thức chung về quy hoạch
Quy hoạch nói chung và quy hoạch lâm nghiệp nói riêng là một hoạt
động định hướng nhằm sắp xếp, bố trí tổ chức các hoạt động không gian và
thời gian một cách hợp lý vào thời điểm hiện tại và phù hợp với mục tiêu
trong tương lai.
Với những áp lực và hiện trạng sử dụng đất đai như hiện nay cho thấy
nguồn tài nguyên đất đai ngày càng khan hiếm và có giới hạn, dân số thế giới
gia tăng nhanh. Do đó, đòi hỏi phải có sự đối chiếu hợp lý giữa các kiểu sử
dụng đất đai và loại đất đai để đạt được khả năng tối đa về sản xuất ổn định và
an toàn lương thực, đồng thời cũng bảo vệ được hệ sinh thái cây trồng và môi
trường đang sống.
Quy hoạch sử dụng đất đai (QHSDĐĐ) là nền tảng trong tiến trình
này. Đây là một thành phần cơ sở có liên quan đến hệ sinh thái các vùng núi,
sa mạc hoang vu, hay các vùng đồng bằng ven biển, đồng thời lại nằm trong
mục tiêu phát triển và bảo vệ rừng, đất trồng và tài nguyên ven biển.
QHSDĐĐ là yếu tố chính trong tất cả yêu cầu phát triển và bảo vệ các vùng
đất đai nông nghiệp.
Hiện nay có rất nhiều tài liệu nghiên cứu định nghĩa về QHSDĐĐ khác
nhau từ đó đưa đến những việc phát triển quan điểm và phương pháp được sử
dụng trong QHSDĐĐ cũng khác nhau.
Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng là một hoạt động vừa mang tính
khoa học vừa mang tính pháp lý của hệ thống các biện pháp kỹ thuật, kinh tế,
xã hội. Thực chất đó là quá trình ra quyết định sử dụng rừng và đất rừng như
một tư liệu sản xuất đặc biệt, nhằm mục tiêu sử dụng rừng và đất rừng một cách
4
hiệu quả. Công tác quy hoạch bảo vệ và phát triển lâm nghiệp luôn được chú
trọng và coi là nhiệm vụ chiến lược trong quản lý rừng và đất rừng.
Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng là một bộ phận cấu thành của quy
hoạch tổng thể phát triển nông thôn. Do đó công tác quy hoạch bảo vệ và phát
triển rừng cần có sự phối hợp chặt chẽ với quy hoạch tổng thể phát triển kinh
tế - xã hội nông thôn nhằm tránh sự chồng chéo, hạn chế lẫn nhau giữa các
ngành. Thực chất của công tác quy hoạch là tổ chức không gian và thời gian
phát triển cho một ngành hoặc một lĩnh vực sản xuất trong từng giai đoạn cụ
thể. Mỗi ngành kinh tế muốn tồn tại và phát triển thì nhất thiết phải thực hiện
quy hoạch, sắp xếp một cách hợp lý mà trong đó công tác điều tra cơ bản
phục vụ cho quy hoạch phát triển phải đi trước một bước. Quy hoạch bảo vệ
và phát triển rừng có ý nghĩa rất quan trọng đối với ngành lâm nghiệp nói
riêng và sự phát triển kinh tế xã hội nói chung. Nếu công tác quy hoạch bảo
vệ và phát triển lâm nghiệp được chú ý quan tâm đúng mức thì sự phát triển
của ngành lâm nghiệp sẽ mang lại tính bền vững, trong điều kiện ngược lại sẽ
gặp những trở ngại, khó khăn. Ngày nay khi nhu cầu của xã hội về lâm sản
đáp ứng cho nguyên liệu, gỗ, củi … ngày càng cao, tạo áp lực ngày càng lớn
vào tài nguyên rừng và đất rừng thì vấn đề quy hoạch bảo vệ và phát triển
rừng một cách bền vững càng trở lên quan trọng và cấp thiết hơn bao giờ hết,
và đã trở thành một nguyên tắc hàng đầu trong chiến lược phát triển lâm
nghiệp của mỗi quốc gia nói riêng và trên toàn thế giới nói chung [5].
Cách nhìn nhận về quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng sao cho hợp lý
đã được nhiều tác giả khác nhau đề cập tới ở những mức độ rộng hẹp khác
nhau. Việc đưa ra một khái niệm thống nhất là một điều rất khó thực hiện,
song phân tích qua các khái niệm cho thấy có những điểm giống nhau, đó là
dựa trên quan điểm về sự phát triển bền vững thì các hoạt động có liên quan
5
đến đất đai phải được xem xét một cách toàn diện và đồng thời nhằm đảm bảo
nó một cách lâu dài và bền vững.
Những nội dung chủ yếu thường được chú ý là các yếu tố về mặt kinh
tế, bảo vệ môi trường, bảo vệ các hệ sinh thái đa dạng sinh học và các đặc
điểm xã hội, nhân văn. Quá trình phát triển của việc quản lý sử dụng đất trên
thế giới luôn gắn liền với lịch sử phát triển xã hội loài người.
1.1.1.Trên thế giới
Sự phát sinh của quy hoạch lâm nghiệp gắn liền với sự phát triển kinh
tế tư bản chủ nghĩa. Do công nghiệp và giao thông vận tải phát triển nên khối
lượng gỗ yêu cầu ngày càng tăng. Sản xuất gỗ đã tách khỏi nền kinh tế địa
phương của phong kiến và bước vào thời đại kinh tế hàng hoá tư bản chủ
nghĩa. Thực tế sản xuất lâm nghiệp không còn bó hẹp trong việc sản xuất gỗ
đơn thuần mà cần phải có ngay những lý luận và biện pháp nhằm đảm bảo thu
hoạch và lợi nhuận lâu dài. Trên cơ sở như vậy lý luận về quy hoạch lâm
nghiệp, bảo vệ phát triển rừng dần hình thành.
Theo Dent, QHSDĐĐ như là phương tiện giúp cho lãnh đạo quyết định
sử dụng đất đai như thế nào thông qua việc đánh giá có hệ thống cho việc
chọn mẫu hình trong sử dụng đất đai, mà trong sự lựa chọn này sẽ đáp ứng
với những mục tiêu riêng biệt, và tự đó hình thành nên chính sách và chương
trình cho sử dụng đất đai [17].
Quy hoạch lâm nông nghiệp được xác nhận như là một chuyên ngành
bắt đầu bằng các quy hoạch vùng ngay từ thế kỷ 17. Theo Olschowy [25] vào
thời gian này quy hoạch quản lý rừng và lâm sinh ở Châu Âu được xem như
là một lĩnh vực phát triển ở mức cao trên cơ sở QHSD đất.
Vào thế kỷ 18, theo Behrens [28] thì “Lý thuyết về khu nông nghiệp”
của Johan H. Thuenen đưa ra năm 1826 đã đánh dấu mốc lịch sử về lợi dụng
canh tác nông nghiệp của các diện tích đất đai tại Đức. Lý thuyết này chỉ chú
6
ý đến các yếu tố kinh tế xã hội cho quy hoạch sản xuất nông nghiệp. Ông cho
rằng khoảng cách giữa khu sản xuất và nơi tiêu thụ sản phẩm là một tham số
kinh tế, các khu sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi cần được quy
hoạch xung quanh trung tâm tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy, hình thành “Vành đai
Thuenen” là cơ sở cho quy hoạch sản xuất lâm nông nghiệp.
Vào thế kỷ 19, có các giả thuyết về “ Vùng đồng nhất ”, từ đó hình
thành lý thuyết về “ Phép vi phân không gian địa lý” để tạo các nhân tố kinh
tế trong quy hoạch. Vào đầu thế kỷ 20, lý thuyết về “Phép vi phân không gian
địa lý ” được sử dụng để giao đất cho khu công nghiệp. Lần đầu tiên các nhân
tố địa thế được Weber đề cập cho quy hoạch vào năm 1909 [32]. Thêm vào
đó, Christaller năm 1933 [30] đã xây dựng khung khái niệm về “Các khu vực
trung tâm” cho quy hoạch vùng. Có thể cho rằng những ý tưởng của Weber
năm 1921 trong tác phẩm “Hình thành các Bang hợp lý” bằng lý thuyết tổ
chức với các khái niệm “Lập địa hợp lý” và “Năng suất sử dụng” mở đầu thời
kỳ quy hoạch phát triển lâm nông nghiệp [33]. Theo lý thuyết trên thì việc
phân chia đất đai theo địa lý với vùng sản xuất là nền tảng của quy hoạch
vùng cho sản xuất lâm nông nghiệp.
Tại Mỹ, bang Wiscosin đã ra đạo luật sử dụng đất đai vào năm 1929,
tiếp theo là xây dựng kế hoạch sử dụng đất đầu tiên cho vùng Oneide của
Wiscovin. Kế hoạch này đã xác định các diện tích cho sử dụng lâm nghiệp,
nông nghiệp và nghỉ ngơi giải trí. Hạn chế của quy hoạch này là tạo việc khai
thác rừng quảng canh, không kiểm soát lửa rừng và chống xói mòn.
Tại Châu Âu, vào thập kỷ 30 và 40 quy hoạch ngành giữ vai trò lấp chỗ
trống của quy hoạch vùng được xây dựng vào đầu thế kỷ. Năm 1946 Jacks
G.V. đã cho ra đời chuyên khảo đầu tiên về phân loại đất đai với tên “Phân
loại đất đai cho quy hoạch sử dụng đất” [24]. Đây cũng là tài liệu đầu tiên đề
cập đến đánh giá khả năng của đất cho quy hoạch sử dụng đất.
7
Tại Đức, tác giả Haber năm 1972 đã xuất bản tài liệu “Khái niệm về sử
dụng đất khác nhau”. Đây được coi là lý thuyết sinh thái về quy hoạch sử
dụng đất dựa trên quan điểm về mối quan hệ hợp lý giữa tính đa dạng của hệ
sinh thái cũng như sự ổn định của chúng với năng suất và khả năng điều chỉnh
[31]. Từ năm 1967 Hội đồng nông nghiệp châu Âu đã phối hợp với tổ chức
FAO tổ chức nhiều hội nghị về phát triển nông thôn và quy hoạch sử dụng
đất. Các hội nghị đều khẳng định rằng quy hoạch các ngành sản xuất như
nông nghiệp, lâm nghiệp, chế biến loại nhỏ . . . phải dựa trên cơ sở quy hoạch
đất đai [22]. Năm 1971 và 1975 các chuyên gia tư vấn họp tại Rome (Italia)
và Geneve (Thụy Sỹ) để thảo luận về phương pháp luận quy hoạch nông thôn.
Nội dung các cuộc thảo luận đã đề cập đến các phương pháp cùng tham gia
trong quy hoạch cấp vĩ mô.
Năm 1985 một nhóm chuyên gia tư vấn quốc tế về quy hoạch sử dụng đất
được tổ chức FAO thành lập nhằm xây dựng một quy trình quy hoạch sử dụng
đất. Theo Purnell năm 1988, mục tiêu của quy hoạch sử dụng đất đựợc các
chuyên gia xác định là “Thiết lập các kế hoạch thực tiễn có khả năng sử dụng tốt
nhất các loại đất đai nhằm đạt được các mục tiêu khác nhau để tăng sản xuất
quốc gia, cải thiện đời sống, bảo vệ môi trường, đạt các lợi ích xã hội và giải trí”.
Bốn câu hỏi nền tảng của quy hoạch đất đai là [26]: Các vấn đề nào đang tồn tại
và mục tiêu quy hoạch là gì? Có các phương án sử dụng đất nào? Phương án nào
là tốt nhất? Có thể vận dụng vào thực tế như thế nào?
Wilkingson năm 1985 nghiên cứu quy hoạch sử dụng đất theo khía
cạnh luật pháp. Ông đề nghị “Một hệ thống luật pháp thích hợp cần được phát
triển nhằm mục đích: cung cấp chính sách và mục tiêu rõ ràng của Nhà nước
về đất đai, thiết lập các tổ chức sử dụng đất phù hợp, yêu cầu sử dụng theo
quy trình kế hoạch và kỹ thuật, tăng cường sự thông hiểu về sử dụng đất và
khuyến khích xây dựng cơ chế giám sát và cưỡng chế” [27].
8
Năm 1988, Dent và nhiều tác giả nghiên cứu sâu về quy trình quy
hoạch. Ông khái quát quy hoạch sử dụng đất trên 3 cấp khác nhau và mối
quan hệ của các cấp: kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia, cấp vùng (tỉnh,
huyện) cấp cộng đồng (xã, thôn). Ông còn đề xuất quá trình quy hoạch gồm 4
giai đoạn và 10 bước. [21]
Trong khi xây dựng khung đánh giá đất đai, lần đầu tiên tổ chức FAO
năm 1976 đã đề xuất cấu trúc khung quy hoạch sử dụng đất với 10 điểm chính
[22]. Trong đó phân loại đánh giá và đề xuất các kiểu và dạng sử dụng đất
được xét như là các bước chính trong quá trình quy hoạch. Năm 1980,
Buchwald đề xuất quá trình quy hoạch 8 bước, trong đó những nghiên cứu
đánh giá về sinh thái và kinh tế xã hội được đề cập tách biệt ở các bước khác
nhau [29]. Điểm hạn chế này tạo nên sự thiếu tính liên ngành trong quy
hoạch. Maydell năm 1984 cho rằng 4 điểm chính trong quá trình quy hoạch
nông lâm nghiệp tại các nước nhiệt đới là: phân tích xu hướng nghĩa là phân
tích hiện trạng và phát triển; xác định mục tiêu và nhiệm vụ; phân tích
phương pháp và tiến hành đánh giá.
Xem xét đến các khía cạnh riêng, có thể dẫn ra đây một số quy trình
quy hoạch được nhiều chương trình, dự án áp dụng. Theo Zimmermann năm
1989 tổ chức GTZ của Đức đưa ra và thử nghiệm quy trình quy hoạch tại
nhiều nước, trong đó có dự án Lâm nghiệp xã hội Sông Đà của Việt Nam.
Quy trình này dựa trên quá trình phân tích tình hình, chuẩn đoán hiện trạng và
phân tích mục tiêu. Các kỹ thuật của phương pháp phân tích tối ưu hóa mục
tiêu (ZOPP) được sử dụng [34]. Năm 1987, Spitzer đề xuất các bước quy
hoạch sử dụng đất đa mục tiêu, trong đó nhấn mạnh xác định mục tiêu và
chọn phương pháp lập kế hoạch như sau: Chuẩn đoán trong thu thập thông tin
và dự đoán cơ hội, tư vấn trong đánh giá, lập kế hoạch và điều phối, thực hiện
trong điều phối và giám sát.
9
Phạm vi quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng vào thời kỳ đầu thế kỷ 18
chỉ giải quyết việc “khoanh khu chặt luân chuyển”, có nghĩa là đem trữ lượng
hoặc diện tích tài nguyên rừng đem chia đều cho từng năm của chu kỳ khai
thác và tiến hành khoanh khu chặt luân chuyển theo trữ lượng hoặc diện tích.
Phương thức này phục vụ cho phương thức kinh doanh rừng chồi, chu kỳ khai
thác ngắn.
Vào thế kỷ 19, sau cách mạng công nghiệp, phương thức kinh doanh
rừng chồi được thay bằng phương thức kinh doanh hạt với chu kỳ khai thác
dài. Phương thức “Chia đều” của Hating đã thay thế phương thức” khoanh
khu chặt luân chuyển” bằng cách chia chu kỳ khai thác thành 20 thời kỳ lợi
dụng và cũng lấy đó khống chế chặt hằng năm.
Phương pháp “Bình quân thu hoạch” ra đời, với quan điểm là giữ đều
mức thu hoạch trong chu kỳ khai thác hiện tại, đồng thời vẫn đảm bảo thu
hoạch được liên tục trong chu kỳ sau. Và đến cuối thế kỷ 19, phương pháp
“Lâm phần kinh tế” của Judeich xuất hiện, phương pháp này khác với phương
pháp “Bình quân thu hoạch”. Về căn bản, Judeich cho rằng những lâm phần
nào đảm bảo thu hoạch được nhiều tiền nhất sẽ được đưa vào diện khai thác.
Hai hương pháp”Bình quân thu hoạch” và “Lâm phần kinh tế” chính là tiền
đề của hai phương pháp tổ chức kinh doanh và tổ chức rừng khác nhau.
Phương pháp “Bình quân thu hoạch” và sau này là phương pháp”Cấp
tuổi” chịu ảnh hưởng của ‘Lý luận rừng tiêu chuẩn”, và có nghĩa là rừng phải
có kết cấu tiêu chuẩn về tuổi cũng như về diện tích và trữ lượng, vị trí và đưa
các cấp tuổi cao vào diện tích khai thác. Phương pháp “Lâm phần kinh tế” và
hiện nay là phương pháp “ Lâm phần” không căn cứ vào tuổi rừng mà dựa
vào đặc điểm cụ thể của mỗi lâm phần tiến hành phân tích, xác định sản lượng
và biện pháp kinh doanh, phương thức điều chế rừng.
Một vài kết luận rút ra từ kinh nghiệm của thế giới
10
Tổng kết các tài liệu nghiên cứu có liên quan đến quy hoạch lâm nông
nghiệp và sử dụng đất cấp địa phương trên thế giới, tác giả có một số kết luận
phục vụ cho nghiên cứu quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp huyện ở Việt
Nam như sau:
Mặc dù đã có những nghiên cứu đề xuất và thử nghiệm về quy hoạch sử
dụng đất nhưng chưa có một lý thuyết hoàn chỉnh về quy hoạch lâm nông
nghiệp cấp địa phương. Tuy vậy, những nghiên cứu và quy trình quy hoạch
trên thế giới có thể được nghiên cứu và áp dụng trong điều kiện ở Việt Nam
theo các hướng sau:
- Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp huyện phải lấy quy hoạch sử
dụng đất làm nền tảng, kết hợp hài hoà giữa ưu tiên của cấp trên với nhu cầu
của cộng đồng thông qua sự tham gia trực tiếp của người dân.
- Phân tích được mối quan hệ tác động lẫn nhau của các cấp quy hoạch
lâm nông nghiệp để xác định rõ nội dung và phương pháp quy hoạch bảo vệ
và phát triển rừng có tính đặc thù riêng của mỗi cấp.
- Các phương pháp đánh giá đất đai của FAO, quy trình lập kế hoạch sử
dụng đất cần được áp dụng trong quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp
huyện, nhưng đòi hỏi phải điều chỉnh phù hợp với hoàn cảnh của cộng đồng
nông thôn Việt Nam.
1.1.2.Ở Việt Nam
Đảng và Nhà nước có quan điểm rõ ràng về quy hoạch phát triển lâm
nông nghiệp. Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm
1992 nêu “Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và
pháp luật, đảm bảo sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà nước giao đất
cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài”. Luật đất đai
năm 2003 tại điều 13 quy định rõ có 3 loại đất chính: đất nông nghiệp, đất phi
nông nghiệp, đất chưa sử dụng với 6 quyền sử dụng tùy theo từng loại đất và
11
mục đích sử dụng mà được giao cho tổ chức, cá nhân quản lý và sử dụng.
Luật đất đai nêu rõ trong mục 2 quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tại điều 23
là lập quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đai là một trong những nội dung
quản lý Nhà nước đối với đất đai [4]. Luật Đất đai là cơ sở pháp lý cơ bản
nhất cho quy hoạch nông lâm nghiệp. Luật bảo vệ và phát triển rừng năm
2004 phân định rõ 3 loại rừng làm cơ sở cho quy hoạch lâm nghiệp [5].
Như vậy, Đảng và Nhà nước đã chú trọng đến quy hoạch nông lâm
nghiệp cấp địa phương, coi quy hoạch sử dụng đất là cơ sở nền tảng cho các
quy hoạch khác và là cơ sở cho giao đất, lập kế hoạch sử dụng đất, xây dựng
các dự án phát triển. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có các quy định cụ thể về
quy hoạch lâm nông nghiệp cấp địa phương, đặc biệt là cấp xã. Những điểm
liên quan đến quy hoạch lâm nông nghiệp cấp xã chưa được thống nhất. Trên
thực tế cấp xã mới có định hướng và mục tiêu phát triển sản xuất nông nghiệp
và lâm nghiệp. Ngay cả khi xây dựng định hướng phát triển kinh tế - xã hội và
sản xuất cũng gặp một số khó khăn khi vận dụng những chính sách có liên
quan. Một số vấn đề liên quan đến Luật Đất đai và Luật Bảo vệ và Phát triển
rừng cần thống nhất, nhất là việc phân định các loại đất trong luật đất đai và
phân loại rừng trong luật bảo vệ và phát triển rừng. Các văn bản dưới luật cần
cụ thể hoá cho từng điều kiện địa phương đảm bảo tính đa mục đích sử dụng
của đất đai, tạo điều kiện cho quy hoạch lâm nông nghiệp tránh chồng chéo và
mâu thuẫn.
Đầu thập kỷ 90, các vấn đề quy hoạch lâm nông nghiệp cấp vi mô được
nhiều tác giả đề cập và nghiên cứu. Các nghiên cứu của Reichenberg (1992)
[22] và các nhà nghiên cứu trong nước đều cho rằng Việt Nam chưa có quy
hoạch sử dụng đất, quy hoạch nông nghiệp và lâm nghiệp cấp vi mô được xây
dựng trên cơ sở xem xét mọi khía cạnh của tất cả các ngành trong tương lai,
vì vậy việc tiến hành quy hoạch lâm nông nghiệp còn thiếu cơ sở thực hiện.
12
Năm 1990 Tổng cục quản lý ruộng đất có ban hành bản hướng dẫn quy hoạch
sử dụng đất vi mô. Nhiều tỉnh đã triển khai thực hiện quy hoạch vi mô theo
hướng dẫn này. Tuy nhiên, khi triển khai gặp những khó khăn về phương
pháp chưa thống nhất
Trong đầu những năm 90, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng ra đời
năm 1991 được sửa đổi thay thế vào năm 2004, Luật Đất đai sửa đổi năm
1993 và đặc biệt là các Nghị định 02/CP năm 1994, Nghị định 01/CP năm
1995, Nghị định 64/CP năm 1993 là cơ sở tiền đề cho quy hoạch lâm
nông nghiệp cấp xã. Cùng lúc ra đời của Luật Đất đai, Luật Bảo vệ và
Phát triển rừng, nhiều người cho rằng quy hoạch vĩ mô là quy hoạch phản
ánh hiện trạng và phân chia 3 loại đất sử dụng và 3 loại rừng. Hai định
nghĩa mới được xác nhận cho quy hoạch quốc gia và cấp tỉnh. Các nhà
khoa học trong nước và nước ngoài đều cho rằng quan điểm quy hoạch
nông lâm nghiệp cấp địa phương nên theo các hướng sau:
Tiến hành nghiên cứu và thực thi khả năng kết hợp quy hoạch lâm nông
nghiệp dựa vào chức năng sử dụng của đất với đánh giá tiềm năng của đất.
Rà soát và xem xét lại hệ thống chính sách nhằm hướng tới đa mục
đích sử dụng đất đai bằng việc đa dạng hóa các hoạt động sản xuất trong mỗi
bản quy hoạch của cộng đồng.
Gắn 2 quá trình quy hoạch đất đai với giao đất và coi là 2 bộ phận có
quan hệ chặt chẽ để làm cơ sở cho quy hoạch sản xuất lâm nông nghiệp ở mỗi
địa phương, mỗi cộng đồng.
Nghiên cứu và thử nghiệm các phương pháp cùng tham gia trong quá
trình quy hoạch phát triển lâm nông nghiệp, xác định và phân tích rõ các chủ
thể trong quy hoạch lâm nông nghiệp cấp xã.
Ở Việt Nam, những hiểu biết về kinh nghiệm sử dụng đất đã bắt đầu
được chú ý và tổng hợp thành tài liệu từ thế kỷ 15. Lê Quý Đôn trong Vân
13
Đài Loại Ngữ đã khuyên nông dân áp dụng luân canh với cây họ đậu để tăng
năng suất lúa.
Năm 1963 các vấn đề về quy hoạch sử dụng đất được khởi xướng ở
Việt Nam. Trước đây việc quy hoạch sử dụng đất thường dựa vào các đơn vị
hành chính (tỉnh, huyện, xã), quy hoạch theo ngành (Nông, lâm, thuỷ sản),
hoặc là quy hoạch dựa theo điều kiện tự nhiên theo từng vùng, từng khu vực.
Đầu thập kỷ 90, các vấn đề quy hoạch lâm nông nghiệp cấp vi mô được
nhiều tác giả đề cập và nghiên cứu. Các nghiên cứu của Reichenberg (1992)
[22] và các nhà nghiên cứu trong nước đều cho rằng Việt Nam chưa có quy
hoạch sử dụng đất, quy hoạch nông nghiệp và lâm nghiệp cấp vi mô được xây
dựng trên cơ sở xem xét mọi khía cạnh của tất cả các ngành trong tương lai, vì
vậy việc tiến hành quy hoạch lâm nông nghiệp còn thiếu cơ sở thực hiện.
Nghiên cứu và thí điểm đầu tiên về quy hoạch sử dụng đất và giao đất
lâm nghiệp cấp xã được thực hiện tại xã Tử Nê huyện Tân Lạc và xã Hang
Kia, Pà Cò huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình do Dự án đổi mới chiến lược phát
triển lâm nghiệp thực hiện năm 1993. Một trong những bài học rút ra được
qua việc thực thi dự án là công tác quy hoạch sử dụng đất phải được coi là
một nội dung chính và cần được thực hiện trước khi giao đất trên cơ sở tôn
trọng tập quán nương rẫy cố định, lấy xã làm đơn vị để lập kế hoạch và giao
đất, có sự tham gia tích cực của người dân, già làng, trưởng bản và chính
quyền xã. Hạn chế của chương trình này là chưa có kế hoạch sử dụng chi tiết
nên khó tránh khỏi các mâu thuẫn của cộng đồng phát sinh sau quy hoạch.
Bản đánh giá về trường hợp Tử Nê cho thấy cần phải có một kế hoạch sử
dụng đất chi tiết hơn hiện nay thì mới đáp ứng được yêu cầu, tránh được các
mâu thuẫn của cộng đồng phát sinh sau quy hoạch.
Sự tham gia của người dân trong quá trình quy hoạch là một khái niệm
mới. Vũ Văn Mễ và Desloges năm 1996 cho rằng "Điểm quan trọng là thu hút
14
người dân tham gia vào tất cả các giai đoạn trong quá trình quy hoạch sử dụng
đất và giao đất lâm nghiệp ngay từ khi bắt đầu. Sự tham gia này tất nhiên sẽ
khác nhau về phạm vi và mức độ tùy theo nội dung hoạt động và giai đoạn
tiến hành" [7].
Trong công trình “Đất rừng Việt Nam”, Nguyễn Ngọc Bình (1996) [1]
đã đưa ra những quan điểm nghiên cứu và phân loại đất rừng trên cơ sở những
đặc điểm cơ bản của đất rừng Việt Nam.
Năm 1997, Đặng Văn Phụ, Hà Quang Khải [8] trong chương trình tập
huấn hỗ trợ lâm nghiêp xã hội của Trường đại học lâm nghiệp đã đưa ra khái
niệm về hệ thống sử dụng đất và đề xuất một số hệ thống, kỹ thuật sử dụng
đất bền vững trong điều kiện Việt Nam. Trong đó các tác giả đã đi sâu phân
tích quan điểm về tính bền vững: Khái niệm tính bền vững và phát triển bền
vững; Hệ thống sử dụng đất bền vững; Kỹ thuật sử dụng đất bền vững; Các chỉ
tiêu đánh giá tính bền vững trong các hệ thống và kỹ thuật sử dụng đất.
Tài liệu tập huấn về quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp có sự
tham gia của người dân, tác giả Trần Hữu Viên (1997) [18] đã kết hợp
phương pháp quy hoạch sử dụng đất trong nước và của một số dự án quốc tế
đang áp dụng tại một số vùng có dự án ở Việt Nam. Trong đó tác giả đã trình
bày về khái niệm và nguyên tắc chỉ đạo quy hoạch sử dụng đất và giao đất có
người dân tham gia.
Xung quanh chủ đề phân loại đất đã có nhiều công trình khác triển khai
thực hiện trên các vùng sinh thái. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu
trên chỉ mới dừng lại ở mức độ nghiên cứu cơ bản, thiếu biện pháp đề xuất
cần thiết cho việc sử dụng đất, công tác điều tra phân loại đã không gắn liền
với công tác sử dụng đất. Những thành tựu về nghiên cứu đất đai trong giai
đoạn trên là cơ sở quan trọng góp phần vào việc bảo vệ, cải tạo, quản lý và sử
dụng đất đai một cách có hiệu quả trong cả nước.
15
Ở Việt Nam, công tác quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cũng được
triển khai từ thời kì Pháp thuộc. Từ năm 1955-1957, tiến hành sơ thám và mô
tả để ước lượng tài nguyên. Từ năm 1958-1959 tiến hành thống kê trữ lượng
rừng miền Bắc. Đến năm 1964 công tác quy hoạch mới áp dụng ở miền Bắc.
Từ năm 1965 đến nay, quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng ngày càng được
tăng cường và mở rộng. Viện điều tra quy hoạch rừng kết hợp chặt chẽ với
lực lượng điều tra quy hoạch của các Sở nông nghiệp, không ngừng cải tiến
phương pháp điều tra, quy hoạch của nước ngoài cho phù hợp với điều kiện
tài nguyên rừng ở nước ta.
Lê Sỹ Việt, Trần Hữu Viên (1999) [19]: Đầu thế kỷ 18, phạm vi quy
hoạch lâm nghiệp mới chỉ giải quyết việc “khoanh khu chặt luân chuyển” có
nghĩa là đem trữ lượng hoặc diện tích tài nguyên rừng chia đều cho từng năm
của chu kỳ khai thác và tiến hành khoanh khu chặt luân chuyển theo trữ lượng
hoặc diện tích. Phương thức này phục vụ cho phương thức kinh doanh rừng chồi,
chu kỳ khai thác ngắn.
So với lịch sử phát triển của các nước khác thì quy hoạch bảo vệ và
phát triển rừng nước ta hình thành và phát triển muộn hơn nhiều. Vì vậy
những nghiên cứu cơ bản về kinh tế, xã hội, kỹ thuật và tài nguyên rừng làm
cơ sở cho công tác quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng chưa được giải quyết,
nên công tác này ở nước ta đang trong giai đoạn vừa tiến hành vừa nghiên cứu
áp dụng.
Theo Chiến lược phát triển Lâm nghiệp quốc gia giai đoạn 2006-2020
một trong những tồn tại mà Bộ NN&PTNT đánh giá là: “ Công tác quy hoạch
nhất là quy hoạch dài hạn còn yếu và chậm đổi mới, chưa kết hợp chặt chẽ
với quy hoạch của các ngành khác, còn mang nặng tính bao cấp và thiếu tính
khả thi. Chưa quy hoạch 3 loại rừng hợp lý và chưa thiết lập được lâm phần
16
ổn định trên thực địa”. Đây cũng là nhiệm vụ nặng nề và cấp bách đối với
ngành lâm nghiệp ở nước ta hiện nay.
Các văn bản chính sách của Nhà nước đề cập đến quy hoạch phát triển
lâm nghiệp thể hiện qua: Hiến pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1992 nêu “Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy
hoạch và pháp luật, đảm bảo sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà
nước giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu
dài”. Luật đất đai năm 2003 quy định rõ 3 nhóm đất với 6 quyền chung của
người sử dụng đất, tùy theo từng loại đất và mục đích sử dụng mà được giao
cho tổ chức, cá nhân quản lý và sử dụng. Luật bảo vệ và phát triển rừng năm
2004 quy định về quản lý, bảo vệ, phát triển, sử dụng rừng, quyền và nghĩa vụ
của chủ rừng, phân định rõ 3 loại rừng. Nghị định 23 về thi hành Luật Bảo vệ
và phát triển rừng quy định về việc: quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển
rừng; giao rừng, cho thuê rừng; thống kê, kiểm kê, theo dõi diễn biến tài
nguyên rừng; tổ chức quản lý rừng, bảo vệ rừng, phát triển rừng và sử dụng
rừng. Nhằm cụ thể hóa hơn nữa công tác quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng,
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành thông tư 05/2008/TTBNN hướng dẫn lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng, làm cơ sở
cho công tác quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng. Thông tư này hướng dẫn
trình tự, thủ tục, nội dung lập, thẩm định, điều chỉnh và phê duyệt quy hoạch,
kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng của tỉnh, của huyện, của xã. Phần III của
Thông tư có quy định về trình tự, nội dung, lập, thẩm định, phê duyệt quy
hoạch bảo vệ và phát triển rừng. Trong đó nội dung của quy hoạch bảo vệ
phát triển rừng cấp huyện được hướng dẫn cụ thể tại khoản 2 mục II của phần
này. Nội dung quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp huyện gồm có: 1. Khái
quát tình hình hiện trạng rừng và sử dụng đất lâm nghiệp; 2. Đề nghị điều
chỉnh quy hoạch rừng và đất lâm nghiệp; 3. Xác định phương hướng, mục
17
tiêu, nhiệm vụ bảo vệ phát triển rừng trong kỳ quy hoạch; 4. Xác định các
biện pháp kỹ thuật chủ yếu, tiến độ thực hiện và vốn đầu tư về bảo vệ, phát
triển rừng; 5. Xác định các giải pháp thực hiện quy hoạch bảo vệ và phát
triển rừng; 6. Tổng hợp nhu cầu vốn đầu tư; 7.Xác định danh mục các dự án
ưu tiên cần đầu tư trọng điểm (nếu có)[2.
Tổng kết các tài liệu nghiên cứu có liên quan đến quy hoạch lâm nông
nghiệp và sử dụng đất, cho phép rút ra một số kết luận phục vụ cho nghiên
cứu quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp huyện ở Việt Nam như sau:
Hiện tại Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu đầy đủ về quy hoạch lâm
nông nghiệp cũng như quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng, nhìn chung đã có
một vài nghiên cứu thử nghiệm được thực hiện nhưng chưa đầy đủ, chưa
được tổng kết, đánh giá và phát triển thành phương pháp luận.
Ở các chương trình, dự án khác nhau thì áp dụng một phương pháp quy
hoạch khác nhau, thiếu sự thống nhất chung về mặt phương pháp một cách
toàn diện. Do đặc thù về điều kiện khác nhau của từng vùng nên việc phân
biệt giữa quy hoạch sử dụng đất và kế hoạch sử dụng đất còn một số điểm
chưa được phân biệt rõ. Phương pháp quy hoạch dựa trên thuộc tính của đất
đai mà ít xem đến tiềm năng của đất đai, nhu cầu, khả năng thích ứng của cây
trồng và thị trường. Phương pháp quy hoạch có sự tham gia của người dân
đang được chú ý và thí điểm ở một số nơi. Những kết quả đưa ra tuy đạt được
một số thành công nhưng chưa được tổng kết, hiệu quả của quy hoạch chưa
được khẳng định.
Nội dung của quy hoạch lâm nông nghiệp tuy đã được xác định tương
đối rõ ràng ở một số nghiên cứu và chương trình dự án, nhưng vẫn chưa có sự
thống nhất về mặt quan điểm giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch lâm
nông nghiệp.
18
Cùng với sự phát triển đi lên của kinh tế xã hội thì quy hoạch luôn phải
đi trước một bước. Quy hoạch bảo vệ và phát triển lâm nghiệp cũng vậy, nó
luôn đi theo phát triển kinh tế xã hội, nó đảm bảo và thể hiện được tầm nhìn
của các nhà lãnh đạo trong việc phân vùng kinh tế và sử dụng một cách tối đa
có hiệu quả nhưng hài hoà giữa các vùng trong chiến lược phát triển lâm
nghiệp chung của đất nước.
Ở Việt Nam đã tiến hành quy hoạch bảo vệ và phát triển lâm nghiệp
cho các cấp quản lý, kinh doanh và các cấp quản lý lãnh thổ ở tầm vĩ mô, vi
mô. Trên cơ sở quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng trong phạm vi lãnh thổ
một quốc gia, xác định phương hướng, nhiệm vụ phát triển lâm nghiệp trên
toàn quốc, xác định tiến độ thực hiện từng hạng mục làm cơ sở cho việc quy
hoạch bảo vệ và phát triển lâm nghiệp của các tỉnh. Khi lập quy hoạch sử
dụng đất phải thu thập nhu cầu sử dụng đất cho các mục đích của các đơn vị
hành chính trực thuộc. Trong quy hoạch sử dụng đất của mỗi cấp phải thể
hiện phương án phân bổ quỹ đất đối với diện tích thuộc nhiệm vụ quy hoạch
của cấp mình.
Việc lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng phải đồng bộ
với việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và phải căn cứ vào quy hoạch sử
dụng đất của địa phương.
Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp huyện phải phù hợp với quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và định hướng quy hoạch
phát triển lâm nghiệp toàn tỉnh và cả nước.