Tải bản đầy đủ (.pdf) (137 trang)

Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp quản lý bảo vệ rừng dựa trên cơ sở cộng đồng ở huyện bắc yên tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.57 MB, 137 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
--------------------------

NGUYỄN TRUNG HOÀ

NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
BẢO VỆ RỪNG DỰATRÊN CƠ SỞ CỘNG ĐỒNG Ở
HUYỆN BẮC YÊN - TỈNH SƠN LA

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Hà Nội, 2010


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
--------------------------

NGUYỄN TRUNG HOÀ

NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
BẢO VỆ RỪNG DỰATRÊN CƠ SỞ CỘNG ĐỒNG Ở
HUYỆN BẮC YÊN - TỈNH SƠN LA


Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60.62.60

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Nguyễn Thị Bảo Lâm

Hà Nội, 2010



1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng là một nguồn tài nguyên vô cùng quý báu, nó có ý nghĩa to lớn về
mặt kinh tế, xã hội, môi trường. Rừng còn cung cấp lâm sản làm thoả mãn
nhu cầu ngày càng tăng của con người, rừng là nơi du lịch, bảo vệ và làm giàu
cho đất, chi phối khí hậu cho khu vực. Là nơi có cả thế giới động thực vật
phong phú. Với sự phát triển của xã hội thì vai trò của của rừng cũng trở nên
quan trọng và đòi hỏi phải được quản lý, bảo vệ và sử dụng bền vững.
Hiện nay, việc quản lý, bảo vệ tài nguyên rừng theo hình thức lâm
nghiệp truyền thống không còn phù hợp. Hình thức quản lý này chỉ phù hợp
khi tài nguyên rừng còn nhiều, dân số ít, nhu cầu đòi hỏi của con người về
lâm sản còn thấp hơn nhiều so với khả năng cung cấp của tự nhiên.
Hoạt động của con người trong những năm qua đã làm cho tài nguyên
rừng suy giảm nghiêm trọng cả về số lượng và chất lượng. Độ che phủ của
rừng đã giảm sút với tốc độ nhanh chóng. Theo số liệu thống kê năm 1943 độ
che phủ của rừng là 43% nhưng đến năm 1995 chỉ còn 28%. Tình trạng khai
thác rừng bừa bãi, đốt rừng làm nương rẫy, du canh du cư là nguyên nhân

chủ yếu làm cho rừng bị thu hẹp.
Mặc dù Đảng và Nhà nước đã ban hành rất nhiều chính sách và pháp
chế lâm nghiệp. Song các chính sách đó vẫn có phần không mang lại hiệu quả
cao. Những chính sách đó còn mang tính tách rời sự tham gia của cộng đồng,
nhiều khi những văn bản pháp luật đó chỉ xuất phát từ lợi ích của Nhà nước
mà không tính đến lợi ích của người dân và cộng đồng nên không được người
dân ủng hộ và thực hiện. Với cách quản lý và bảo vệ đó, người dân không
thực sự là người làm chủ tài nguyên rừng nên không những không bảo vệ và
phát triển được rừng mà rừng ngày càng bị tàn phá nghiêm trọng. Những
nguyên nhân dẫn đến nạn phá rừng trong những năm qua chủ yếu là do cách
quản lý chưa hợp lý của Nhà nước. Bên cạnh đó cũng do rất nhiều nguyên


2

nhân khác như: Sự bùng nổ dân số làm tăng nhu cầu lương thực, chất đốt. Do
vậy người dân phải phá rừng để mở rộng diện tích đất canh tác và thoả mãn
nhu cầu cho việc sử dụng chất đốt của họ và do tập quán du canh du cư, đốt
rừng làm nương rẫy của các dân tộc thiểu số.
Đứng trước hoàn cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương thực
hiện đổi mới về kinh tế. Ngành lâm nghiệp đã chủ trương chuyển hướng từ
lâm nghiệp truyền thống lấy các đơn vị quốc doanh làm chính sang nền lâm
nghiệp có sự tham gia của nhiều thành phần với quan điểm: Sự nghiệp cao cả
bảo vệ rừng là sự nghiệp của toàn Đảng toàn dân. Bảo vệ chỉ thực sự có kết
quả khi có sự tham gia toàn diện của người dân,cũng như của các cấp lãnh
đạo và các tổ chức xã hội khác.
Các chủ trương đúng đắn và kịp thời của Đảng và nhà nước ta là điều
kiện tiên quyết, là động lực mạnh mẽ trong việc tạo ra bước ngoặt chuyển
biến từ nền lâm nghiệp truyền thống sang nền lâm nghiệp có sự tham gia của
người dân và cộng đồng (lâm nghiệp cộng đồng)

Bên cạnh những nỗ lực để nâng cao diện tích rừng trồng, tăng cường công
tác quản lý bảo vệ rừng tự nhiên hiện có, tình trạng vi phạm luật bảo vệ rừng và
phát triển rừng vẫn và đang xẩy ra dưới nhiều hình thức khác nhau và ngày tinh
vi hơn. Điều này khẳng định việc tìm hiểu vấn đề và nâng cao hiệu quả công tác
quản lý bảo vệ rừng trong cả nước là điều rất quan trọng và cấp bách hiện nay.

Xuất phát từ nhu cầu hết sức cấp bách của thực tế nhằm quản lý ngày
càng có hiệu quả đối với nguồn tài nguyên hiện nay. Từ nhận thức cá nhân để
góp phần bổ sung và hoàn thiện những cơ sở lý thuyết và thực tiễn , đưa ra
các giải pháp khuyến khích sự tham gia của cộng đồng về công tác quản lý
bảo vệ rừng. Tôi tiến hành nghiên cứu, thực hiện Đề tài:
“ Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp quản lý bảo vệ rừng dựa trên
cơ sở cộng đồng Huyện Bắc Yên - Tỉnh Sơn La’’.


3

Chương 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Nhận thức về quản lý bảo vệ rừng trên cơ sở cộng đồng
Cộng đồng là một tập hợp những người sống gắn bó với nhau thành một
xã hội nhỏ có những điểm tương đồng về mặt văn hoá, kinh tế, xã hội truyền
thống, phong tục tập quán, có các quan hệ trong sản xuất và đời sống gắn bó
với nhau và thường có ranh giới không gian trong một thôn, bản. Theo quan
niệm này, “cộng đồng” chính là “cộng đồng dân cư thôn bản”. Tuy nhiên,
trong phạm vi hẹp hơn còn bao gồm cả cộng đồng sắc tộc, cộng đồng các
dòng họ, cộng đồng tôn giáo hoặc các nhóm hộ trong thôn bản.
Mặc dù có những quan niệm khác nhau về cộng đồng, nhưng phần lớn
các ý kiến đều cho rằng “cộng đồng” được dùng trong quản lý rừng chính là
nói đến cộng đồng dân cư thôn, bản. Tại Điều 3 Luật bảo vệ và phát triển

rừng năm 2004 đã định nghĩa “cộng đồng dân cư thôn là toàn bộ các hộ gia
đình, cá nhân sống trong cùng một thôn, làng, bản, ấp, buôn, phum, sóc hoặc
đơn vị tương đương” [12].
Trong nghiên cứu của đề tài này, cộng đồng được hiểu theo nghĩa là
cộng đồng thôn, bản (kể cả các tổ chức đoàn thể trong cộng đồng).
1.1.1. Khái niệm về cộng đồng tham gia quản lý rừng
Cộng đồng tham gia quản lý rừng cũng có thể thay thế bằng một từ
chung nhất là lâm nghiệp cộng đồng (LNCĐ).
Theo FAO, LNCĐ là thuật ngữ bao trùm diễn tả hàng loạt các hoạt
động gắn người dân với rừng, cây, các sản phẩm của rừng và việc phân chia
lợi ích các sản phẩm này.
Hiện nay, ở Việt Nam có những quan điểm khác nhau về LNCĐ và
chưa có một định nghĩa chính thức nào được công nhận. Tuy nhiên, qua các
cuộc hội thảo dường như mọi người đều thống nhất ở Việt Nam, có hai hình
thức quản lý rừng cộng đồng phù hợp với định nghĩa của FAO như sau:


4

- Thứ nhất là quản lý rừng cộng đồng (QLRCĐ)
Đây là hình thức mà mọi thành viên của cộng đồng tham gia quản lý và
ăn chia sản phẩm hoặc hưởng lợi từ những khu rừng thuộc quyền quản lý, sử
dụng, sở hữu của cộng đồng hoặc thuộc quyền sử dụng chung của cộng đồng.
Rừng của cộng đồng là rừng của làng bản đã được quản lý theo truyền
thống lâu đời (rừng thiêng, rừng ma, rừng mó nước…quản lý theo các luật tục
truyền thống với tinh thần tự nguyện cao); rừng trồng của các hợp tác xã,
rừng tự nhiên đuợc giao cho các hợp tác xã trước đây, nay hợp tác xã giao lại
cho các xã, hoặc các thôn quản lý; rừng được chính quyền địa phương giao
cho cộng đồng với tính chất thí điểm trong thời gian gần đây.
- Thứ hai là quản lý rừng dựa vào cộng đồng

Đây là hình thức cộng đồng tham gia quản lý các khu rừng không thuộc
quyền quản lý, sử dụng, sở hữu chung của họ mà thuộc quyền quản lý, sử
dụng sở hữu của các thành phần kinh tế khác nhưng có quan hệ trực tiếp đến
đời sống, đến việc làm, thu hoạch sản phẩm, thu nhập hay các lợi ích khác của
cộng đồng (thuỷ lợi nhỏ, nước sinh hoạt…). Hình thức này bao gồm hai đối
tượng:
+ Rừng của hộ gia đình, cá nhân là thành viên trong cộng đồng. Cộng
đồng tham gia quản lý với tính chất hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau, chia xẻ lợi ích
cùng nhau trên cơ sở tự nguyện (tạo thêm sức mạnh để bảo vệ rừng, hỗ trợ
hoặc đổi công cho nhau trong các hoạt động lâm nghiệp…).
+ Rừng thuộc quyền quản lý, sử dụng, sở hữu của các tổ chức nhà nước
(các ban quản lý rừng phòng hộ, đặc dụng, các lâm trường, công ty lâm
nghiệp nhà nước, các trạm trại…) và các tổ chức tư nhân khác. Cộng đồng
tham gia các hoạt động lâm nghiệp như bảo vệ, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh,
phục hồi rừng, trồng rừng với tư cách là người làm thuê thông qua các hợp
đồng khoán và hưởng lợi theo các cam kết trong hợp đồng.


5

Từ sự phân tích trên đây cho thấy, LNCĐ, QLRCĐ là những khái niệm
khác nhau. Thuật ngữ QLRCĐ được sử dụng với ý nghĩa hẹp hơn để chỉ CĐ
quản lý những khu rừng của một cộng đồng dân cư, còn nói đến LNCĐ hay
cộng đồng tham gia quản lý rừng chính là diễn tả hàng loạt các hoạt động gắn
người dân trong cộng đồng dân cư thôn bản với rừng, cây, các sản phẩm của
rừng và việc phân chia lợi ích từ rừng. Hay nói cách khác, LNCĐ là một hình
thức quản lý, bảo vệ, sử dụng và phát triển rừng do cộng đồng dân cư thôn
bản thực hiện bao gồm cả rừng của cộng đồng và rừng của các thành phần
kinh tế khác.
Với cách hiểu như vậy, nên chấp nhận LNCĐ bao gồm cả quản lý rừng

cộng đồng (cộng đồng quản lý rừng của cộng đồng) và quản lý rừng dựa vào
cộng đồng (cộng đồng quản lý rừng của các chủ rừng khác). Khái niệm này
vừa phù hợp với định nghĩa của FAO vừa phát huy được nhiều hơn sự đóng
góp của cộng đồng vào quản lý, bảo vệ, xây dựng và phát triển rừng [21],
[37], [38].
BVR trên cơ sở cộng đồng là BVR mà phát huy được những nội lực của
cộng đồng cho các hoạt động chống lại sự xâm hại đến rừng như: chống chặt,
phá, lấn chiếm rừng, đất rừng, khai thác lâm sản, săn, bẫy, bắt động vật rừng
trái phép, phòng cháy chữa cháy rừng (PCCCR), phòng trừ sinh vật gây hại
rừng, bảo vệ hệ sinh thái rừng và được thực hiện theo quy định của pháp luật
về quản lý lâm sản. Những giải pháp BVR trên cơ sở cộng đồng luôn chứa
đựng những sắc thái của luật tục, phong tục, tập quán, ý thức dân tộc, nhận
thức, kiến thức của người dân, đặc điểm quan hệ gia đình, họ hàng, các tổ
chức đoàn thể, làng bản phù họp với chính sách pháp luật của Nhà nước.
1.1.2. Vai trò của chính sách Nhà nước đối với quản lý bảo vệ rừng
trên cơ sở cộng đồng
BVR trên cơ sở cộng đồng được xây dựng dựa trên cơ sở phong tục, tập
quán, kiến thức và thể chế bản địa của người dân địa phương. Tuy nhiên, có
những phong tục tập quán phù hợp với yêu cầu quản lý bền vững tài nguyên


6

rừng, nhưng cũng có những phong tục tập quán ngược lại với yêu cầu quản lý
bền vững tài nguyên rừng. Do đó, quản lý BVR trên cơ sở cộng đồng phải
hướng và phát huy được những phong tục tập quán có lợi và giảm dần những
phong tục tập quán cản trở đến quản lý bền vững tài nguyên rừng [24].
BVR trên cơ sở cộng đồng sẽ không thể thực hiện được nếu thiếu sự hậu
thuẫn của các chính sách và thể chế Nhà nước. Các tổ chức cộng đồng không
phải là cơ quan quyền lực, không có công cụ chuyên chính riêng. Trong nhiều

trường hợp, tổ chức cộng đồng không giải quyết được một cách triệt để những
vấn đề phức tạp của quản lý BVR. Khi đó các tổ chức cộng đồng phải hợp tác
với các cơ quan chính quyền để giải quyết những vấn đề vượt khỏi quyền hạn
của mình. Vì vậy, các qui định của cộng đồng phải được xây dựng trên cơ sở
tính đến sự hỗ trợ của các chính sách và thể chế hiện thời của Nhà nước,
không trái với các qui định của Nhà nước.
1.1.3. Chiến lược và chính sách quản lý bảo vệ rừng trên cơ sở cộng
đồng
Chiến lược và chính sách quản lý, bảo vệ rừng trên cơ sở cộng đồng của
các nước trong khu vực đều được tiến hành theo những hướng sau:
- Những giải pháp chủ yếu để tăng cường quyền quản lý, BVR trên cơ sở
cộng đồng: Phát huy những luật tục, phong tục tập quán và trách nhiệm của
toàn cộng đồng đối với công tác QLBV&PTR, xây dựng qui ước, hương ước
BVR của thôn, bản, qui định rõ quyền lợi và trách nhiệm của mọi người dân
trong cộng đồng.
- Kết hợp những giải pháp về chính sách hỗ trợ về kinh tế - xã hội để
khuyến khích người dân tham gia, trong đó chú trọng phát triển đồng bộ cả
giải pháp về đào tạo, tập huấn trong việc BVR trên cơ sở cộng đồng.
- Các hình thức BVR: Tuần tra BVR, PCCCR trên địa bàn phải được
thực hiện theo phương pháp cùng tham gia ở tất cả các giai đoạn tuần tra bảo
vệ, xây dựng lực lượng, kế hoạch bảo vệ. Đây được xem là phương pháp cho
phép phát huy đầy đủ nhất những nội lực của cộng đối với công tác BVR.


7

1.1.4. Quan điểm về quản lý bảo vệ rừng trên cơ sở cộng đồng
Bảo vệ có hiệu quả tài nguyên rừng chính là để nâng cao chất lượng cuộc
sống cho các cộng đồng dân cư thôn, bản. Công tác BVR phải được tiến hành
đồng thời với sự phát triển kinh tế - xã hội và góp phần nâng cao thu nhập cho

cộng đồng dân cư thôn, bản trên địa bàn. Mấu chốt của vấn đề BVR trên cơ
sở cộng đồng vừa là bảo vệ được tài nguyên rừng vừa giải quyết tốt vấn đề
nâng cao chất lượng cuộc sống cho cộng đồng.
Bảo vệ tài nguyên rừng nếu không có sự tham gia của cộng đồng dân cư
thôn, bản thì sẽ không thành công. Vì vậy, đề xuất các giải pháp để nâng cao
trách nhiệm và quyền hưởng lợi của cộng đồng dân cư thôn, bản trong BVR
là rất cần thiết. Để công tác BVR đạt hiệu quả cao thì phải có chính sách
khuyến khích, thu hút sự tham gia tích cực của cộng dồng dân cư thôn, bản
[10], [21].
1.2. Tình hình nghiên cứu và thực hiện trên thế giới
Trong giai đoạn hiện nay BVR trên cơ sở cộng đồng đang được xem như
là một giải pháp hữu hiệu để bảo vệ hiệu quả vốn rừng hiện còn, góp phần
giải quyết tình trạng diện tích, chất lượng rừng ngày một giảm. Đã có không ít
những mô hình quản lý BVR trên cơ sở cộng đồng thành công ở Thái Lan,
Malaysia, Trung Quốc.... Đây sẽ là những bài học quý báu cho quá trình xây
dựng những giải pháp quản lý bền vững tài nguyên rừng trên cơ sở cộng đồng
ở Việt Nam.
BVR trên cơ sở cộng đồng ở một số nước:
* Ở Thái Lan:
Thái Lan là một nước được các nước trong khu vực và trên thế giới đánh
giá cao về những thành tựu trong công tác xây dựng các chương trình BVR
trên cơ sở cộng đồng.
Ở đây, sử dụng đất đai được thông qua chương trình làng rừng, hộ nông
dân được giao đất nông nghiệp, đất thổ cư, đất để trồng rừng. Người nông dân
được Chính phủ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và có trách nhiệm
quản lý đất, không được chặt hoặc sử dụng cây rừng. Việc cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất hợp pháp đã làm gia tăng mức độ an toàn cho người


8


được nhận đất. Do vậy đã ảnh hưởng tích cực đến việc khuyến khích đầu tư
và tăng sức sản xuất của đất [33].
* Ở NePal:
Năm 1957, Nhà nước thực hiện quốc hữu hoá rừng, Nhà nước tập trung
quản lý, BVR và đất rừng, người dân ít quan tâm đến BVR của Nhà nước, kết
quả là trong vòng 20 năm hàng triệu ha rừng bị tàn phá.
Từ năm 1978, Chính phủ đã giao quyền quản lý và BVR cho người dân
địa phương để thực hiện chính sách phát triển lâm nghiệp cộng đồng. Tuy
nhiên, sau một thời gian người ta nhận thấy các đơn vị hành chính này không
phù hợp với việc quản lý và BVR do các khu rừng nằm phân tán, không theo
đơn vị hành chính và người dân có nhu cầu, sở thích sử dụng sản phẩm rừng
khác nhau.
Năm 1989, Nhà nước thực hiện chính sách lâm nghiệp mới đó là chia
rừng và đất rừng làm hai loại: rừng tư nhân và rừng Nhà nước cùng với hai
loại sở hữu rừng tương ứng là sở hữu tư nhân và sở hữu rừng Nhà nước.
Trong quyền sở hữu của Nhà nước lại được chia theo các quyền sử dụng khác
nhau như: rừng cộng đồng theo nhóm người sử dụng, rừng hợp đồng với các
tổ chức, rừng tín ngưỡng, rừng phòng hộ. Nhà nước công nhận quyền pháp
nhân và quyền sử dụng cho các nhóm sử dụng.
Năm 1993, Nêpal phát triển chính sách lâm nghiệp mới, nhấn mạnh đến
các nhóm sử dụng rừng, cho phép gia tăng quyền hạn và hỗ trợ cho các nhóm
sử dụng rừng thay chức năng của các phòng lâm nghiệp huyện từ chức năng
cảnh sát và chỉ đạo sang chức năng hỗ trợ và thúc đẩy cho các cộng đồng, từ
đó rừng được quản lý và bảo vệ có hiệu quả hơn.
Năm 2000 QLBVR trên cơ sở cộng đồng được thực hiện tại các vùng đồi
có diện tích trên 500 nghìn ha rừng suy thoái được giao cho các nhóm sử
dụng rừng. Hoạt động này đã thu hút sự tham gia của khoảng 800.000 hộ (4
triệu người). Trọng tâm của chính sách lâm nghiệp cộng đồng tại Nepal là bảo
vệ rừng cộng đồng và cho phép người dân tiếp cận tài nguyên rừng phục vụ

nhu cầu sinh hoạt cơ bản. Lâm nghiệp cộng đồng tại Nepal dựa vào các nhóm
sử dụng rừng, trong đó mỗi nhóm được giao quản lý một diện tích rừng nhất


9

định. Nhà nước được lợi từ hoạt động này là diện tích rừng suy thoái được
phủ xanh trong khi đó các nhóm sử dụng rừng có cơ hội tiếp cận lâm sản [11],
[34], [36].
*Ở Indonêsia:
Năm 1991, chương trình phát triển lâm nghiệp được hình thành, năm
1995 đổi tên thành chương trình phát triển cộng đồng làng lâm nghiệp do Bộ
lâm nghiệp quản lý. Chương trình này yêu cầu các công ty khai thác gỗ phải
góp phần phát triển nông thôn và BVR với 3 mục tiêu:
- Cải thiện điều kiện sống cho người dân sống ở trong và ngoài khu vực
đang khai thác gỗ.
- Nâng cao chất lượng và năng suất của rừng.
- BVR và môi trường.
Năm 1996, Bộ lâm nghiệp, các tổ chức phi Chính phủ và các trường Đại
học đã xây dựng một chương trình dự án điểm lôi kéo người dân vào bảo vệ
và phát triển rừng. Dự án này cho phép người dân quản lý 10.000ha rừng có
khả năng khai thác gỗ [35].
*Ở Ấn Độ:
Đặc điểm nổi bật trong chính sách quản lý rừng của Ấn Độ là sự duy trì
mối quan hệ giữa rừng với người dân các bộ tộc và những người nghèo sống
ở trong rừng và gần rừng, bảo vệ quyền lợi nhận rừng và hưởng lợi từ rừng
lâu đời của họ. Ấn Độ đã coi cộng đồng như một đối tác quản lý những vùng
đất rừng của Chính phủ. Chính phủ cho phép các cộng đồng được sử dụng tất
cả các sản phẩm không phải là gỗ, còn việc phân chia quyền lợi cây gỗ lại có
sự thay đổi nhiều giữa các Bang. Tại Ấn Độ, người ta nghiên cứu một số giải

pháp nhằm tạo ra hoặc tăng thêm các tổ chức địa phương có hiệu lực lâu dài
cho quản lý rừng cộng đồng [31], [32].
*Ở Philippine:
Từ những năm 1970, Chính phủ Philippine đã quan tâm đến phát triển
lâm nghiệp xã hội. Nhà nước xây dựng các dự án Lâm nghiệp xã hội tổng hợp
do Bộ tài nguyên thiên nhiên chủ trì và phối hợp với các bộ có liên quan, phân
chia thành từng vùng phát triển; Lâm nghiệp xã hội do Giám đốc vùng phụ


10

trách, xây dựng mạng lưới đến cấp huyện. Philippine chú trọng chuyển giao
kỹ thuật nông lâm kết hợp và kỹ thuật canh tác đất dốc đến người nông dân để
phát triển lâm nghiệp. Năm 1982, Chính phủ xây dựng dự án phát triển lâm
nghiệp xã hội quốc gia công nhận quyền sử dụng đất lâu dài cho cộng đồng.
Từ kết quả thực tế của các nước đã thu được trong công tác BVR trên cơ
sở cộng đồng, một vấn đề cực kỳ quan trọng là phải giải thích cho cộng đồng
rõ những lợi ích do rừng mang lại cho cộng đồng và những chính sách về kinh
tế để hỗ trợ cộng đồng trong công tác và để bảo rừng có hiệu quả phải tuân
thủ nguyên tắc gắn công tác BVR với cộng đồng thôn, bản [29], [30].
1.3. Quản lý bảo vệ rừng trên cơ sở cộng đồng ở Việt Nam
1.3.1.Các tổ chức cộng đồng ở Việt Nam
- Cộng đồng dân tộc: Hiện nước ta có 54 dân tộc, với mỗi cộng đồng dân
tộc đều có những đặc điểm riêng về văn hoá, tổ chức xã hội, tiếng nói, phong
tục tập quán...
- Cộng đồng làng, bản:
+ Làng, xóm ở miền xuôi là hình thức cộng đồng được hình thành trên cơ
sở của phương thức canh tác lúa nước, đã có nhiều thể chế tồn tại lâu đời
trong xã hội nông thôn Việt Nam.
+ Thôn, bản ở miền núi là hình thức cộng đồng được hình thành trên cơ

sở sắc tộc và kinh tế tự nhiên tự túc, tự cấp, có ảnh hưởng sâu sắc đến việc
quản lý, bảo vệ, xây dựng và phát triển rừng [2].
Ngoài hai hình thức chủ yếu trên còn có các loại hình cộng đồng khác
như: cộng đồng tôn giáo, cộng đồng họ tộc, cộng đồng giới tính... Một số loại
hình cộng đồng đã được phát triển thành các tổ chức đoàn thể có mục tiêu,
điều lệ rõ ràng, hoạt động theo quy chế tổ chức chính trị xã hội hay các tổ
chức kinh tế. Một số đoàn thể đã tham gia và có nhiều đóng góp cho việc phát
triển lâm nghiệp tại các địa phương như: Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội cựu
chiến binh, Đoàn thanh niên...
1.3.2. Hình thức bảo vệ rừng trên cơ sở cộng đồng ở Việt Nam
Tính cộng đồng của các dân tộc Việt Nam đã là yếu tố quan trọng tạo
nên cơ sở cho những thành quả đã đạt được trong công cuộc bảo vệ và phát


11

triển tài nguyên rừng. Vì vậy, vấn đề phát huy vai trò của các cộng đồng để
quản lý nguồn tài nguyên rừng là vấn đề vừa mang ý nghĩa phát huy truyền
thống, vừa có thể tạo ra một cách quản lý tài nguyên có hiệu quả hơn, bền
vững hơn, phù hợp với những xu hướng phát triển của thế giới[21].
Ở Việt Nam, hình thức quản lý BVR trên cơ sở cộng đồng mới được coi
là một hình thức tồn tại song song với các hình thức khác như: quản lý BVR
Nhà nước, hình thức quản lý BVR tư nhân, do đó việc đánh giá hiệu quả của
hình thức này chỉ dừng lại ở những nhận định khái quát, mang tính định tính.
Tuy chưa có thống kê chi tiết, nhưng ở những nơi cộng đồng thực sự tham gia
vào quản lý BVR thì công tác quản lý BVR có hiệu quả rõ nét, các hành vi
xâm hại tài nguyên rừng bị phát hiện và ngăn chặn kịp thời, rừng ngày càng
sinh trưởng phát triển tốt. Thực tiễn cho thấy rằng, quản lý BVR có sự tham
gia của cộng đồng dân cư thôn, bản là hình thức quản lý BVR có tính khả thi
về kinh tế - xã hội, bền vững về sinh thái môi trường và tiết kiệm chi phí cho

Nhà nước.
Để trao quyền quản lý BVR cho các cộng đồng Nhà nước đã thực hiện
chính sách giao đất, giao rừng. Đây là một trong những chính sách lớn tạo
môi trường thuận lợi cho quản lý BVR trên cơ sở cộng đồng ở Việt Nam. Chủ
trương giao đất, khoán rừng đã được Đảng và Nhà nước ta đề ra và thực hiện
từ năm 1968, qua mỗi giai đoạn phát triển, Nhà nước lại có những điều chỉnh,
bổ xung kịp thời cho phù hợp với thực tế.
Nhìn chung kết quả giao đất lâm nghiệp, giao rừng đã làm cho rừng có
chủ thực sự, tạo ra nhiều hình thức sở hữu rừng, tạo điều kiện khai thác tiềm
năng đất đai, lao động, tiền vốn tại chỗ. Công tác giao rừng cho cộng đồng
dân cư quản lý bảo vệ đều đạt hiệu quả cao, diện tích rừng được giao đều
được quản lý tốt, các hiện tượng xâm hại tài nguyên rừng giảm mạnh, ý thức
quản lý bảo vệ tài nguyên rừng của cộng đồng dân cư được nâng cao. Thông
qua việc tổ chức BVR, mối quan hệ xã hội trong cộng đồng và giữa cộng
đồng với các cơ quan liên quan đến quản lý, BVR trên địa bàn cũng được
nâng cao, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý bảo vệ và phát triển
rừng.


12

Đối với cộng đồng dân cư thôn, bản quản lý BVR cộng đồng đã góp
phần nâng cao thu nhập của người dân địa phương, góp phần xoá đói giảm
nghèo, xây dựng nông thôn văn minh, giàu đẹp, đồng thời đáp ứng một phần
nhu cầu về gỗ, củi và các lâm sản khác đối với cuộc sống người dân. Nhìn
chung lợi ích từ rừng mang lại được chia sẻ công bằng hơn trong các hệ thống
hiện tại, do đó ít xảy ra mâu thuẫn, xung đột [15].
Đối với Nhà nước, hình thức quản lý BVR trên cơ sở cộng đồng đáp ứng
được các mục tiêu về chính sách lâm nghiệp của Việt Nam. Mặt khác, hình
thức này cũng làm giảm chi phí phải trả cho cộng đồng bằng cách chia sẻ lợi

ích mang lại và tăng quyền hưởng lợi từ rừng để thúc đẩy cộng đồng thôn,
bản tham gia quản lý BVR [20].
1.3.3. Những nghiên cứu chính liên quan đến quản lý bảo vệ rừng
trên cơ sở cộng đồng Việt Nam
- Năm 1998, Việt Nam chính thức tham gia "Chương trình hành động
lâm nghiệp nhiệt đới" của cộng đồng Quốc tế. Dự án "Tổng quan về lâm
nghiệp Việt Nam" với mã hiệu VIE - 08 - 037 đã được tiến hành và kết thúc
vào năm 1991, Dự án đã có những đóng góp quý báu vào việc đánh giá hiện
trạng lâm nghiệp Việt Nam thời điểm lúc đó và đưa ra những khuyến cáo về
việc định hướng phát triển ngành lâm nghiệp cho đến năm 2000 và những
năm tiếp theo.
- Dự án "Đổi mới chiến lược ngành lâm nghiệp" đây là dự án xuất phát
từ yêu cầu cấp bách đối với nước ta sau khi Luật bảo vệ và phát triển rừng đã
được ban hành (năm 1991), mục tiêu của dự án là tìm hiểu học tập và hợp tác
để tìm ra các giải pháp chiến lược thực thi có hiệu quả mục tiêu phát triển
ngành lâm nghiệp trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
- Dự án "Phát triển lâm nghiệp xã hội Sông đà" bắt đầu vào năm 1993,
dự án này đã chú ý làm việc với "nhóm sử dụng rừng" hơn là với các đơn vị
hành chính lâm nghiệp. Dự án đã tiến hành những thu xếp về tổ chức khi thực
hiện quy hoạch sử dụng đất và giao đất có người dân tham gia, sau đó tiến
hành lập những "nhóm bảo vệ rừng" và hỗ trợ dân bản xây dựng những qui
chế bảo vệ rừng. Những quy chế này dựa vào việc quản lý, bảo vệ rừng của


13

cộng đồng để nâng cao sự tự giác của dân bản và tăng cường sự kiểm soát của
dân bản, tránh sự phá hoại rừng của những bản lân cận. Củng cố tổ chức cấp
thôn bản và xã là việc làm cần thiết tiếp theo. Những Ban quản lý thôn bản
mà ít nhất có một thành viên chịu trách nhiệm về lâm nghiệp trong bản được

thiết lập khi tiến hành lập kế họach phát triển thôn bản hàng năm. Trong quá
trình xây dựng kế hoạch dự án sử dụng 4 tiêu chí chính để giới thiệu và tăng
cường thực thi quản lý lâm nghiệp cộng đồng, đó là: Quyền sử dụng, nghiên
cứu địa phương, khả năng của cộng đồng và điều kiện địa lý khu vực [3], [4].
Vũ Hoài Minh và Haws Warfvinge (2002) đã tiến hành đánh giá về thực
trạng quản lý, BVR tự nhiên của các hộ gia đình và cộng đồng địa phương tại
3 tỉnh: Hoà bình, Nghệ an và Thừa Thiên Huế. Các tác giả đã tìm hiểu về sự
hình thành, các lợi ích đạt được và những vấn đề về hưởng lợi, quyền sử dụng
và các chính sách liên quan đến hình thức quản lý, BVR này. Trong 5 mô
hình quản lý, BVR cộng đồng có 4 hình thức là tự phát của cộng đồng địa
phương và được chính quyền địa phương chấp thuận. Họ tự đề ra các qui định
về quản lý, sử dụng lâm sản cũng như các hoạt động BVR, phát triển rừng.
Hình thức quản lý, BVR ở Thủ Yên Thượng (cộng đồng dân tộc Kinh) được
xây dựng trên sự hợp tác giữa chính quyền với sự hỗ trợ của tổ chức Quốc tế
[14].
Các kết quả nghiên cứu, kinh nghiệm quản lý rừng cộng đồng qua các
cuộc hội thảo quốc gia về lâm nghiệp công đồng. Đến nay đã có 3 cuộc hội
thảo quốc gia về quản lý rừng cộng đồng.
- Hội thảo quốc gia về LNCĐ lần đầu tiên được tổ chức tại Hà Nội trong
2 ngày 01 và 02/6/2000. Hội thảo đã thu hút sự tham gia của gần 60 đại biểu
đại diện cho các cơ quan Nhà nước cấp Trung ương và cấp tỉnh, các Viện
nghiên cứu, trường Đại học, các chương trình và dự án quốc tế, các tổ chức
phi chính phủ, các thành viên tổ công tác, các chuyên gia trong ngành lâm
nghiệp. Tại đây nhiều các tác giả cùng các công trình nghiên cứu như:
Nguyễn Hồng Quân, Tô Đình Mai, Nguyễn Tường Vân và Urich Appel,
Edwin Sauk, Nguyễn Văn Thuận, Âu Văn Bảy, Trần Văn Con với các báo


14


cáo về kinh nghiệm từ hoạt động dự án và một số nghiên cứu điểm. Hội thảo
đã thống nhất có hai hình thức quản lý rừng ở Việt Nam:
+ Cộng đồng quản lý trực tiếp rừng và đât rừng thuộc quyền sở hữu
chung của thôn bản (như rừng thiêng, rừng do Lâm trường, hợp tác xã giao
cho thôn bản, rừng đầu nguồn ở địa phương, đồng cở chăn nuôi, đất trống
được quy hoạch để trồng rừng hoặc tái sinh tự nhiên).
+ Cộng đồng tham gia vào việc quản lý những diện tích rừng thuộc sở
hữu hoặc quản lý của các cơ quan nhà nước như bảo vệ rừng phòng hộ, rừng
đặc dụng qua các hợp đồng khoán bảo vệ với các cơ quan nhà nước, bảo vệ
rừng sản xuất do các Lâm trường khoán bảo vệ rừng và đất rừng đã giao cho
các hộ gia đình và các tổ chức khác [6].
- Hội thảo quốc gia về lâm nghiệp cộng đồng được tổ chức lần 2 trong 2
ngày 14, 15/11/2001 tại Hà Nội là bước tiếp theo nhằm làm rõ các yếu tố
khuôn khổ pháp lý của rừng cộng đồng, việc thực thi các chính sách hỗ trợ
cho quản lý rừng cộng đồng tại Việt Nam [7], [13]. Trong hội thảo có rất
nhiều báo cáo và các vấn đề thảo luận: ‘‘Báo cáo về khuôn khổ pháp lý, chính
sách của Nhà nước và hiện trạng quản lý rừng cộng đồng ở Việt Nam’’ của
tác giả : Phạm Xuân Phương, Hà Công Tuấn, Vũ Văn Mê, Nguyễn Hồng
Quân. Các báo cáo về sự vận dụng chính sách lâm nghiệp nhà nước ở cấp tỉnh
của các tác giả như : Sheelagh, Orelly, Vũ Hữu Tuynh, Nguyễn Ngọc Lung,
Lê Ngọc Anh, Nguyễn Hải Nam, Cao Vĩnh Hải… Cuối cùng hội thảo đi đến
kết luận cộng đồng đang quản lý 15% diện tích rừng của nhà nước, đó là thực
tế mang tính khách quan và ngày càng có một vị trí quan trọng trong hệ thống
quản lý tài nguyên rừng ở Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn còn một số những vướng
mắc trong khuôn khổ chính sách hưởng lợi từ rừng khi tham gia bảo vệ và
phát triển rừng như : không quy định cộng đồng dân cư thôn bản là đối tượng
của chính sách này. Sự vận dụng các chính sách của nhà nước và địa phương
đã có tính sáng tạo, cụ thể là một số tỉnh đã mạnh dạn thí điểm giao đất giao
rừng và cấp sổ đỏ cho cộng đồng dân cư thôn bản như Sơn La, Thừa Thiên
Huế, ĐăcLắk [17], [18],[19].



15

- Hội thảo quốc gia về lâm nghiệp cộng đồng được tổ chức lần 3 voà
tháng 11/2004 tại Hà Nội với nội dung về khuôn khổ và thể chế quản lý rừng
cộng đồng, chính sách hưởng lợi trong quản lý rừng cộng đồng, đánh giá tài
nguyên rừng và khai thác rừng cộng đồng. Hội thảo kết luận, quản lý rừng
cộng đồng hiện đang tồn tại như một xu thế khách quan và ngày càng có vị trí
quan trọng trong hệ thống quản lý tài nguyên rừng, nhiều diện tích đất lâm
nghiệp có thể giao cho cộng đồng quản lý (Diện tích rừng xa khu dân cư, có
địa hình phức tạp mà các tổ chức nhà nước và hộ gia đình không có khả năng
quản lý và quản lý không có hiệu quả, các khu rừng giữ nguồn nước phục vụ
trực tiếp cho cộng đồng, khu rnừg giáp danh giữa các thôn, xã). Bên cạnh đó,
vấn đề hưởng lợi của cộng đồng quản lý rừng được nhiều nhà khoa học quan
tâm và nghiên cứu, đặc biệt là tác giả Nguyễn Bá Ngãi, Nguyễn Ngọc Lung.
Tác giả Phạm Xuân Phương với khảo sát đánh giá tình hình triển khai chính
sách hưởng lợi đối với hộ gia đình, các nhân, cộng đồng được giao nhận
khoán rừng năm 2003 [16]. Bên cạnh đó về kỹ thuật đánh giá thực trạng quản
lý rừng cộng đồng của các tác giả Nguyễn Hồng Quân, Vũ Long, Phạm Xuân
Phương đã đưa ra khung định vị đánh giá hiện trạng quản lý rừng cộng đồng
gồm 5 tiêu chí. Tuy nhiên, các tác giả cũng đã nêu rõ việc chọn tiêu chí đánh
giá phải phụ thuộc và từng vùng, từng cộng đồng dân cư. Cũng trong tháng
9/2004, Nguyễn Ngọc Lung, VIFA cùng tổ chức các quốc gia về quản lý rnừg
cộng đồng đã đưa ra hội thảo lần 2 hướng dẫn giao đất về quản lý rừng cộng
đồng, hướng dẫn giao đất có rừng cho cá nhân, hộ gia đình, nhóm hộ và cộng
đồng. Qua hội thảo, các báo cáo và các công trình nghiên cứu của các tác giả
cho thấy, tuy nhà nước chưa quy định quyền hưởng lợi của cộng đồng với
những diện tích rừng cộng đồng hiện đang quản lý, song trên thực tế cộng
đồng đang quản lý và có quyền hưởng lợi, phân chia lợi ích từ rừng [8], [9].

Nhìn chung, quản lý rừng và đất rừng trên cơ sở cộng đồng là một vấn đề
tổng hợp và phụ thuộc nhiều vào khuôn khổ thể chế, chính sách của từng
quốc gia, từng địa phương. Do vậy, không thể sao chép nguyên vẹn một mô
hình nào từ nơi này sang nơi khác. Tuy nhiên, việc chia sẻ kinh nghiệm, chia
sẻ những bài học thành công hay thất bại trong cả nước và khu vực là rất cần


16

thiết trong bối cảnh chính sách lâm nghiệp đang cải cách và hoàn thiện như
hiện nay. Điều đáng chú ý là phải có những nghiên cứu tổng hợp đánh giá và
đúc kết kinh nghiệm, bổ sung và xây dựng những chính sách mới phù hợp cho
mỗi vùng.
Vì vậy quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng được xem như nền tảng của sự
phát triển vì nó đảm bảo đáp ứng được những nhu cầu lợi ích cho cộng đồng,
góp phần xoá đói giảm nghèo và khắc phục được tình trạng khánh kiệt tài
nguyên trong những phương thức sử dụng kém bền vững.
1.3.4. Hiệu quả đạt được từ quản lý bảo vệ rừng cộng đồng ở Việt
Nam
Cho đến nay chưa có đánh giá hiệu quả quản lý rừng cộng đồng ở quy
mô toàn quốc, tuy nhiên, căn cứ vào 3 kết quả Hội thảo quốc gia về quản lý
rừng cộng đồng ở Việt Nam được tổ chức tại Hà Nội ( tháng 6/2000, tháng
11/2001 và tháng 11/2004) có thể đưa ra một số nhận định sau:
- Nhiều nơi rừng cộng đồng được bảo vệ và phát triển tốt hơn, những
nơi rừng do cộng đồng quản lý hầu như không bị chặt phá, do không có xâm
hại nên rừng ngày càng tăng trưởng.
- Góp phần nâng cao thu nhập của người dân, xoá đói giảm nghèo, đáp
ứng nhu cầu lâm sản cho các công trình chung của cộng đồng và hộ gia đình.
Đối với diện tích rừng do cộng đồng nhận khoán bảo vệ, hàng năm
được Nhà nước hoặc chủ rừng trả tiền công khoán, đã góp phần giải quyết

một phần khó khăn về đời sống cho một bộ phận dân cư.
Đối với diện tích rừng và đất rừng chính quyền địa phương giao, cộng
đồng có thể tận dụng khi rừng chưa khép tán hoặc đất trống chưa trồng rừng
để canh tác kết hợp cây nông nghiệp, chăn thả dưới tán rừng, được các dự án
đầu tư hỗ trợ vốn để sản xuất, được hưởng lợi sản phẩm từ rừng.
Đối với diện tích rừng cộng đồng quản lý theo truyền thống cho đến
nay hầu như cộng đồng có toàn quyền quyết định việc sử dụng tài nguyên


17

rừng, trong đó đáp ứng nhu cầu lâm sản cho các công trình chung của cộng
đồng, giải quyết nhu cầu gỗ làm nhà cho các hộ gia đình.
- Tiết kiệm chi phí cho Nhà nước: hiện nay có nhiều cộng đồng đang
quản lý rừng hầu như không có sự hỗ trợ của Nhà nước về kinh phí, nhưng
rừng vẫn được bảo vệ tốt.
- Rừng cộng đồng đã góp phần bảo vệ nguồn nước, giải quyết một phần
nhu cầu gỗ gia dụng cho cộng đồng và thành viên của cộng đồng; khai thác
lâm sản ngoài gỗ..., góp phần phát triển ngành nghề thủ công truyền thống và
tăng thu nhập cho cộng đồng.
- Góp phần khôi phục truyền thống văn hoá, phong tục tập quán tốt đẹp
của cộng đồng thông qua việc quản lý rừng cộng đồng, có sự giúp đỡ và
hướng dẫn của các tổ chức nhà nước, đã góp phần thúc đẩy việc xây dựng và
thực hiện quy chế quản lý, bảo vệ rừng; thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở;
khôi phục truyền thống văn hoá tốt đẹp, hương ước của cộng đồng [21].
1.3.5. Những bài học kinh nghiệm cho quản lý rừng trên cơ sở cộng
đồng ở Việt Nam
Từ những kết quả phân tích trên đây có thể rút ra những bài học chủ yếu
cho quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng ở Việt Nam như sau :
- Quản lý bảo vệ rừng trên cơ sở cộng đồng là phương thức quản lý dựa

vào những tổ chức và luật lệ cộng đồng. Nó cần thiết cho cả quản lý tài
nguyên thuộc sở hữu Nhà nước, sở hữu cộng đồng và sở hữu tư nhân và đặc
biệt có ý nghĩa ở vùng sâu, vùng xa, nơi mà ý thức pháp luật hoặc khả năng
thực thi pháp luật chưa cao.
Quản lý bảo vệ rừng trên cơ sở cộng đồng sẽ thành công khi lấy lợi ích
cộng đồng làm mục tiêu và lồng ghép được với mục tiêu của quốc gia và khu
vực.
Sự hợp tác trong quản lý tài nguyên rừng giữa Nhà nước với cộng đồng,
giữa các đối tượng hưởng lợi là yếu tố quan trọng đảm bảo sự thành công của
quản lý rừng dựa vào cộng đồng.


18

Quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng cần phải được phối hợp với các
phương thức quản lý khác mà trước hết là phương thức quản lý dựa vào chính
sách thể chế của Nhà nước, phương thức phát huy mọi tiềm năng quản lý của
các hộ gia đình [21].
1.3.6.Hướng nghiên cứu chính của đề tài
Hầu hết các đề tài nghiên cứu giải pháp quản lý rừng trên cơ sở cộng
đồng dân cư thôn, bản đều đề xuất những giải pháp quản lý tài nguyên rừng
mang tính định tính. Trên địa bàn huyện Bắc Yên chưa có đề tài nào nghiên
cứu về quản lý rừng dựa trên cơ sở cộng đồng nói chung và bảo vệ rừng trên
cơ sở cộng đồng nói riêng. Do vậy, đề tài này tập trung phân tích đánh giá sâu
điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, phong tục tập quán, kiến thức, thể chế bản
địa và đánh giá thực trạng công tác bảo vệ rừng trên địa bàn huyện, đồng thời
đánh giá mức độ đe doạ, mối quan tâm, mâu thuẫn và khả năng hợp tác của
các bên liên quan trong, ngoài cộng đồng đến công tác bảo vệ rừng cũng như
đánh giá tiềm năng bảo vệ rừng của cộng đồng. Trên cơ sở đó phân tích đánh
giá để đề xuất các giải pháp bảo vệ rừng trên cơ sở cộng đồng nhằm góp phần

bảo vệ có hiệu quả tài nguyên rừng và nâng cao đời sống của người dân trong
cộng đồng dân cư thôn, bản.


19

Chương 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu thực trạng quản lý bảo vệ rừng dựa trên cơ sở cộng đồng,
từ đó đề xuất các giải pháp nhằm góp phần bảo vệ có hiệu quả tài nguyên
rừng và nâng cao đời sống cho cộng đồng dân cư huyện Bắc Yên.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá thục trạng quản lý bảo vệ rừng dựa trên cơ sở cộng đồng.
- Phân tích vai trò cộng đồng thôn, bản trong hoạt động QLBVR.
- Từ đó đề xuất một số giải pháp quản lý bảo vệ rừng có hiệu quả hơn.
2.2. Nội dung và giới hạn nghiên cứu
2.2.1. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu về đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và nhân
văn của huyện.
- Nghiên cứu thực trạng quản lý rừng trên địa bàn huyện và những yếu
tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác quản lý bảo vệ rừng.
- Nghiên cứu vai trò của cộng đồng, những nhân tố thúc đẩy và cản trở
sự tham gia của cộng đồng vào công tác quản lý bảo vệ rừng.
- Đề xuất một số giải pháp lôi cuốn cộng đồng vào quản lý bảo vệ rừng.
2.2.2. Giới hạn nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội liên quan

đến bảo vệ rừng, tiềm năng bảo vệ rừng của cộng đồng dân cư thôn, bản và
mối quan tâm đến tài nguyên rừng, vai trò, mâu thuẫn, khả năng hợp tác của
các bên liên quan trong công tác bảo vệ rừng trên địa bàn huyện Bắc Yên.


20

2.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là:
- Cộng đồng dân cư thôn, bản trong công tác quản lý bảo vệ rừng.
- Điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội và các đối tác liên quan đến
QLBVR.
- Luật pháp và chính sách của Trung ương, địa phương liên quan đến
bảo vệ rừng.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp luận
Khi cộng đồng dân cư thôn bản tham gia vào các hoạt động quản lý
rừng là hoạt động trong hệ thống kinh tế - xã hội tác động tới hệ thống sinh
thái tự nhiên.
2.4.2. Phương pháp kế thừa
- Kế thừa có chọn lọc những thông tin cơ bản về điều kiện tự nhiên,
kinh tế, xã hội và nhân văn của khu vực nghiên cứu…. các thông tin kế thừa
đảm bảo tính cập nhật và đáp ứng được độ chính xác theo yêu cầu của đề tài.
- Các tài liệu từ cơ quan chuyên ngành như: Quy hoạch sử dụng đất của
huyện, số liệu giao đất - giao rừng tỉnh Sơn La, Dự án bản vệ và phát triển
rừng 661, vốn hỗ trợ khoanh khoán của sự nghiệp Kiểm lâm…
2.4.3. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu
Chọn điểm nghiên cứu là đại diện tương đối cho khu vực nghiên cứu.
Theo Donova (1997), tiêu chuẩn chọn điểm nghiên cứu là: Thành phần
dân tộc, khả năng tiếp cận và địa hình.

+ Trong vùng nghiên cứu tất cả các bản đều phân bố bám rừng, gần
rừng cho nên các yếu tố về địa hình và khả năng tiếp cận với rừng tương đối
đồng nhất. Vì vậy, thành phần dân tộc là yếu tố lựa chọn làm tiêu chí chọn
thôn nghiên cứu của đề tài.


21

+ Thành phần dân tộc là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng lớn đến thói
quen sử dụng tài nguyên rừng, đến sinh kế, hình thức tác động của cộng đồng,
khả năng tiếp thu thông tin bên ngoài, dân tộc và tập tục văn hoá có thể ảnh
hưởng đến quá trình đổi mới chấp nhận các kỹ thuật mới và sự tham gia vào
các hoạt động phát triển rừng.
Tiêu chí chọn các xã, bản nghiên cứu, bao gồm các tiêu chuẩn:
- Người dân trong xã có các hoạt động phụ thuộc vào tài nguyên như:
Đất canh tác nông nghiệp, gỗ, củi, động vật và các tài nguyên khác.
- Có các dân tộc ít người đang sinh sống.
- Có vị trí quan trọng trong công tác quản lý bảo vệ rừng.
Với các tiêu chí trên, chúng tôi đã chọn điểm nghiên cứu tại 3 bản: Bản
Háng A, xã Làng Chếu, bản Pắc Ngà, xã Pắc Ngà và Bản En xã Phiêng Côn.
- Bản Háng A, xã Làng Chếu: Với 100% cộng đồng bản là người dân
tộc H’Mông, đời sống của bà con bản Háng A chủ yếu là sản xuất nương rẫy,
chăn nuôi, phụ thuộc rất lớn vào tài nguyên rừng.
- Bản Pắc Ngà, xã Pắc Ngà: Với 100% người dân tộc Thái, đời sống
của người dân phụ thuộc vào sản xuất nương rẫy, các sản phẩm từ rừng.
- Bản En xã Phiêng Côn: Với 100% cộng đồng người dân tộc Dao, đời
sống của người dân phụ thuộc vào sản xuất nương rẫy, các sản phẩm từ rừng.
Ở các bản chọn điểm nghiên cứu, chúng tôi đã chọn mỗi bản 30 hộ gia
đình để phỏng vấn. Tiêu chuẩn chọn hộ gia đình để phỏng vấn: Các hộ gia
đình là người dân tộc H’Mông, dân tộc Thái, Dao và phải có hộ khá, trung

bình, nghèo thuộc vùng nghiên cứu.
2.4.4. Phương pháp điều tra
- Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA): Được thực hiện để
thu thập những thông tin bổ sung về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, ảnh


22

hưởng của các nhân tố này đến công tác QLBVR cũng như thuận lợi, khó
khăn, nguy cơ, thách thức trong công tác QLBVR.
- Phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia (PRA): Được áp
dụng để củng cố những thông tin thu thập được từ phương pháp kế thừa và
phương pháp RRA. Đồng thời, xác định những phong tục, tập quán, kiến thức
và thể chế bản địa liên quan đến việc QLBVR và tiềm năng QLBVR của cộng
đồng cũng như vai trò của các bên liên quan đến công tác QLBVR, mâu thuẫn
và khả năng hợp tác của các bên liên quan trong công tác QLBVR. Theo
phương pháp này, đề tài đã tổ chức những cuộc thảo luận nhóm với chủ đề tập
trung vào những nội dung trên. Trong quá trình thảo luận, những người thực
hiện đề tài giữ vai trò thúc đẩy và định hướng cuộc thảo luận, không đưa ra
những ý kiến mang tính quyết định và không áp đặt tư tưởng của mình cho
các thành viên tham gia thảo luận.
- Phương pháp chuyên gia: Những người thực hiện đề tài đã tiến hành
phỏng vấn cán bộ xã, cán bộ của các cơ quan có kinh nghiệm trong quản lý
bảo vệ rừng, từ đó làm cơ sở để phân tích, đề xuất các giải pháp hợp lý, có
hiệu quả hơn.
- Các công cụ sử dụng trong điều tra:
+ Ma trận, sơ đồ đánh giá sự quan tâm của các bên liên quan trong
QLBVR.
+ Ma trận đánh giá mâu thuẫn, khả năng hợp tác của các bên liên quan
trong BVR và mức độ quan trọng của rừng đối với đời sống của cộng đồng.

+ Bảng câu hỏi phỏng vấn bán định hướng cán bộ các cơ quan cấp
huyện, cấp xã, trưởng bản.
+ Bảng câu hỏi phỏng vấn hộ gia đình.
+ Tham gia dự hội thảo cấp huyện, xã liên quan đến công tác QLBVR.


×