i
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của riêng Tôi, số liệu và
kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được sử dụng để bảo
vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan, mọi việc giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được cảm
ơn, các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, Ngày 15 tháng 4 năm 2016
Tác giả luận văn
Đặng Thị Tuyết Mai
ii
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và thực tập tốt nghiệp, ngoài sự cố gắng của bản
thân, Tôi đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình của nhiều tập thể, cá nhân
trong và ngoài trường.
Để hoàn thành luận văn thạc sỹ kinh tế của mình, Tôi xin gửi lời cảm ơn
chân thành đến toàn thể Quý Thầy giáo, Cô giáo trong Trường đại học Lâm Nghiệp
Việt Nam, Quý Thầy Cô giáo trong Khoa Kinh tế và Quản trị kinh doanh đã trang bị
cho Tôi những kiến thức quý báu trong học tập.
Đặc biệt, cho phép Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thầy giáo
PGS.TS. Nguyễn Văn Tuấ n người đã dành nhiều thời gian, tâm huyết tận tình chỉ
bảo hướng dẫn Tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Phòng nông nghiệp, Huyện ủy - HĐND – UBND
và công an huyện Đăk G’long, UBND và công an và bà con nông dân thuộc diện di
cư tự do các xã Đăk Som, Đăk R’măng, Quảng Hòa đã tạo điều kiện thuận lợi,
giúp đỡ Tôi trong quá trình thực tế tại địa bàn.
Cuối cùng, Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã động
viên, giúp đỡ Tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, Ngày 15 tháng 4 năm 2016
Tác giả luận văn
Đặng Thị Tuyết Mai
iii
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan ............................................................................................................... i
Lời cảm ơn ................................................................................................................. ii
Mục lục ...................................................................................................................... iii
Danh mục các từ viết tắt..............................................................................................v
Danh mục các bảng ................................................................................................... vi
ĐẶT VẤN ĐỀ.............................................................................................................1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN SINH KẾ BỀN
VỮ NG CHO NGƯỜI DI CƯ TỰ DO ........................................................................5
1.1. Cơ sở lý luận về phát triển sinh kế bền vững cho người di cư tự do ................5
1.1.1. Di cư ...........................................................................................................5
1.1.2. Sinh kế và sinh kế bền vững .....................................................................12
1.2. Cơ sở thực tiễn về phát triển sinh kế cho người di cư tự do ...........................21
1.2.1. Kinh nghiệm phát triển sinh kế của các nước trên thế giới ......................21
1.2.2. Kinh nghiệm phát triển sinh kế của Việt nam ..........................................24
Chương 2. ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN HUYỆN ĐĂK G’LONG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU ..........................................................................................................35
2.1. Đặc điểm cơ bản của huyện Đăk G’Long ......................................................35
2.1.1.Các điều kiện tự nhiên ...............................................................................35
2.1.2 Đặc điểm về kinh tế - xã hội......................................................................40
2.2. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................47
2.2.1.Phương pháp chọn điểm nghiên cứu, khảo sát ..........................................47
2.2.2. Phương pháp thu thập số liệu, tài liệu ......................................................47
2.2.3 Phương pháp phân tích số liệu ..................................................................49
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .....................................................................54
3.1 Thực trạng vấn đề di cư tự do tại Huyện Đăk G’Long ....................................54
3.1.1. Tình hình di cư tự do đến huyện Đăk G’Long .........................................54
iv
3.1.2. Tình hình và kết quả giải quyết vấn đề di cư tự do tại huyện Đăk G’Long
............................................................................................................................58
3.2 Thực trạng sinh kế của người di cư tự do trên địa bàn huyện Đăk G’Long ....59
3.2.1. Thông tin chung về các Hộ gia đình điều tra ...........................................59
3.2.2. Thực trạng các nguồn lực sinh kế của người di cư tự do .........................61
3.2.3 Thực trạng nghề nghiệp sinh kế của người di cư tự do .............................69
3.2.4 Thực trạng nguồn thu nhập sinh kế của người di cư tự do........................72
3.2.5. Những khó khăn trong phát triển sinh kế bền vững của các HGĐ điều tra
............................................................................................................................75
3.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến sự bền vững sinh kế của người di cư tự do trên địa
bàn huyện Đăk G’Long .........................................................................................77
3.4 Những thành công, tồ n ta ̣i trong phát triể n sinh kế bề n vững cho dân di cư tự
do trên huyê ̣n Đăk G’Long ....................................................................................85
3.4.1 Những thành công .....................................................................................85
3.4.2 Những tồ n ta ̣i, ha ̣n chế ..............................................................................85
3.5 Giải pháp phát triển sinh kế bền vững cho người di cư tự do trên địa bàn
huyện Đăk G’Long ................................................................................................87
3.5.1 Phân tích SWOT cho vấ n đề phát triể n sinh kế trên điạ bàn huyê ̣n ..........87
3.5.2 Các giải pháp đề xuấ t góp phần ổn định sản xuất và đời sống cho đồng
bào di cư tự do tới huyện Đăk G’long ................................................................90
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ...........................................................................98
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
v
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Viết đầy đủ
Viết tắt
CNQSDĐ
Chứng nhận quyền sử dụng đất
DCTD
Di cư tự do
DFID
Cơ quan phát triển Quốc tế Vương Quôc Anh (Danish
International Development)
DTTS
Dân tộc thiểu số
HGĐ
Hộ gia đình
TĐ PTBQ
Tốc độ phát triển bình quân
UNDP
Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (United Nations
Development Programme)
DCKH
Di cư kế hoạch
BQ
Bình quân
WCED
Ủy ban Thế giới về Môi trường và Phát triển (World
Commission on Enviroment and Development)
vi
DANH MỤC CÁC BẢNG
Nội dung
TT
Trang
2.1
Tình hình sử dụng đất đai huyện Đắk Glong
38
2.2
Tình hình dân số huyện Đắk Glong
41
2.3
Một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu của huyện Đắk Glong
43
2.4
Thang đo các yếu tố ảnh hưởng đến mức hài lòng với cuộc sống
của các hộ DCTD trên địa bàn nghiên cứu
50
3.1
Số liệu dân DCTD đến địa bàn huyện Đắk Glong
56
3.2
Thành phần dân tộc của người DCTD đến huyện Đắk Glong
57
3.3
Thông tin chung về HGĐ điều tra
60
3.4
Tình hình nguồn nhân lực của HGĐ điều tra
62
3.5
Điều kiện sống của HGĐ điều tra
64
3.6
Tình hình đất đai của HGĐ điều tra
66
3.7
Tình hình vốn cho SX của HGĐ điều tra
68
3.8
Tình hình hoạt động sinh kế của HGĐ điều tra
69
3.9
Tình hình sử dụng đất của các hộ điều tra
70
3.10
Tình hình chi tiêu của HGĐ điều tra
73
3.11
Tình hình hoạt động kinh tế của HGĐ điều tra
75
3.12
Những khó khăn, vướng mắc của các hộ di cư tự do
76
3.13
Các biến đặc trưng và thang đo chất lượng tốt
77
3.14
Kết quả chạy bảng phân tích nhân tố
78
3.15
Tổng phương sai được giải thích (Total Variance Explained)
79
3.16
Ma trận nhân tố xoay (Rotated Component Matrixa)
80
3.17
Mô hình điều chỉnh qua kiểm định và phân tích nhân tố khám phá
81
3.18
Hệ số hồi quy Coefficients
82
3.19
Tóm tắt mô hình
82
3.20
Kiểm định phương sai ANOVA
83
3.21
Tương quan giữa các nhân tố (Correlations
83
3.22
Vị trí quan trọng của các yếu tố
84
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, nhờ thực thi những chính sách đổi mới gần đây Đảng
và Nhà nước đã triển khai nhiều chính sách nhằm phát triển kinh tế - xã hội cả nước
nói chung và nông nghiệp, nông thôn ở Tây Nguyên nói riêng, đã đạt được nhiều
thành tựu hết sức to lớn.
Tuy nhiên sự phát triển kinh tế - xã hội tại Tây Nguyên trong những năm qua
là nhanh nhưng không vững chắc và không đồng đều giữa các vùng, giữa các đối
tượng dân cư, dân tộc.
Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng trên là tác động
của quá trình di dân tự do đến Tây Nguyên nói chung và đến huyện Đăk G’long,
tỉnh Đắk Nông nói riêng, đặc biệt là từ khi tái lập tỉnh năm 2004.
Trên cơ sở phát triển và xuất phát từ yêu cầu khách quan, huyện Đăk G’long được
chính thức thành lập vào tháng 7 năm 2005. Việc thành lập huyện là một mốc quan
trọng cho sự phát triển toàn diện về mọi mặt cũng là những cơ hội và thách thức
mới cho huyện.
Trên lĩnh vực kinh tế, Đảng bộ, chính quyền huyện Đăk G’long đã chủ
động đề ra những chủ trương, tổ chức chỉ đạo các ngành, các cấp và động viên nhân
dân các dân tộc trong huyện đoàn kết, từng bước khắc phục khó khăn, phát huy nội
lực và tiềm năng của các thành phần kinh tế, bảo đảm cho các hoạt động kinh tế
được giữ vững ổn định và có bước phát triển. Để tiến tới nâng dần tỷ trọng các
ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Về văn hoá - xã hội, tiếp tục thực hiện tốt sự chỉ đạo của cấp trên về đổi mới
sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, thực hiện các chính
sách xã hội, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, chính sách dân tộc, tôn giáo,
chính sách đối với người có công…nên cơ sở vật chất được tăng cường, chất lượng
hoạt động được nâng cao hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của nhân dân. Hoạt động
văn hoá, thông tin, thể thao có sự cố gắng lớn. Đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân ngày càng được cải thiện, kể cả trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại
2
chỗ, vùng sâu, vùng xa: Công tác giải quyết việc làm cho người lao động được quan
tâm. Công tác xoá đói giảm nghèo được triển khai tích cực với nhiều hình thức
phong phú và hiệu quả, cơ bản giải quyết xong đất sản xuất, đất ở, nhà ở cho đồng
bào dân tộc thiểu số tại chỗ theo các chương trình của Chính phủ.
Tuy nhiên, hiện nay tình hình dân di cư tự do (DCTD) lại có diễn biến phức
tạp và khó kiểm soát, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) vùng miền núi Tây
Bắc do điều kiện sản xuất ở các vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới còn khó khăn
nên một bộ phận đồng bào DTTS có thể tiếp tục di cư vào Tây Nguyên, trong đó có
huyện Đăk G’long, tỉnh Đăk Nông để sinh sống, cộng với 23.566 hộ trong vùng
hiện chưa bố trí ổn định cần sắp xếp vào vùng quy hoạch, chắc chắn sẽ gây khó
khăn cho các cấp chính quyền Tây Nguyên nói chung cũng như huyện Đăk Glong
nói riêng trong công tác quản lý hành chính về đất, rừng, nhân hộ khẩu, chính sách
xã hội, an ninh trật tự...
Điều nan giải là đa số dân DCTD đến địa bàn chủ yếu tìm đến sinh sống
trong các vùng rừng núi, các khu vực rất khó khăn xây dựng kết cấu hạ tầng... Do
đó, công tác tuyên truyền, vận động thực hiện di dời dân cư vào vùng dự án tập
trung còn tốn rất nhiều công sức, tiền của của Nhà nước. Nếu chỉ tính riêng số dân
DCTD từ năm 2004 (từ năm chia tách tỉnh) đến tháng 3/2014 trên địa bàn tỉnh Đắc
Nông là 4.601 hộ/21.619 khẩu. Dân DCTD từ các tỉnh khác nhau đến trên địa bàn 8
huyện, thị của tỉnh và tập trung đông nhất tại địa bàn huyện là Đăk G’long 2.280
hộ/11.506 khẩu, chiếm 22% dân số toàn huyện.
Cùng với những hiệu quả tích cực mang lại, trong quá trình triển khai các dự
án cũng đã và đang nảy sinh những bất cập. Số dân DCTD gia tăng đã làm xáo trộn
và phá vỡ quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, gia tăng tình trạng phá rừng làm
nương rẫy, sang nhượng đất đai trái phép, gây khó khăn cho việc quản lý bảo vệ
rừng, gây phức tạp về an ninh, trật tự an toàn xã hội tại địa phương đồng thời tăng
sức ép và khó khăn cho các cấp chính quyền trong việc quản lý nhân hộ khẩu, các
nhu cầu về xã hội như giáo dục, y tế, đời sống... Thực trạng đáng lo ngại nhất là số
dân DCTD từ các tỉnh, thành trong cả nước đến địa bàn không giảm mà đang ngày
3
một tăng. Bên cạnh việc giải quyết đời sống cho các hộ dân DCTD đã đến sinh sống
tại các vùng còn nhiều trở ngại, thì vấn đề quản lý tình trạng dân DCTD đến tỉnh
vẫn chưa có biện pháp hữu hiệu.
Xuất phát từ thực tiễn và nhận thức được yêu cầu cấp bách trên, tác giả đã lựa chọn
đề tài: “Phát triển sinh kế bền vững cho đồng bào di cư tự do tại huyện Đăk
G’Long, tỉnh Đăk Nông”.
2.Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát:
Đánh giá thực trạng sinh kế, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sinh kế bền
vững, từ đó đề xuất định hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm đảm bảo sinh kế
bền vững cho đồ ng bào di cư tự do trên địa bàn huyện Đăk G’long.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa và làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triể n sinh kế
bền vững cho cộng đồng dân di cư tự do;
- Đánh giá được thực trạng sinh kế của đồ ng bào di cư tự do trên địa bàn
huyện Đắk G’long;
- Chỉ ra được các nhân tố ảnh hưởng đến sinh kế bền vững của đồ ng bào di
cư tự do trên địa bàn huyện Đắk G’long;
- Đề xuất được các giải pháp chủ yếu nhằm đảm bảo sinh kế bền vững cho
đồ ng bào di cư tự do trên địa bàn huyện Đắk G’long trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các yếu tố cấu thành sinh kế của các hô ̣
thuộc diện di cư tự do trên địa bàn huyện Đăk G’long, tỉnh Đắk Nông.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Phạm vi nội dung
Sinh kế của các hộ di cư tự do được nghiên cứu trên các khía cạnh:
+ Các nguồn vốn (nguồn lực) sinh kế, gồm:
- Vốn con người
4
- Vốn tự nhiên
- Vốn vật chất
- Vốn xã hội
- Vốn tài chính
+ Chiế n lươ ̣c sinh kế (hoạt động sinh kế)
+ Thu nhâ ̣p của sinh kế
Tính bền vững của sinh kế các hộ di cư tự do được nghiên cứu trên các khía cạnh:
- Bền vững về kinh tế
- Bền vững về xã hội
- Bền vững về môi trường, sinh thái
3.2.2 Phạm vi về không gian
Nghiên cứu được triển khai trên địa bàn sinh số ng của các hô ̣ di cư tự do đế n
huyện Đăk G’long, tỉnh Đắk Nông.
3.2.3 Phạm vi về thời gian
- Các số liê ̣u, thông tin về tiǹ h hình di cư tự do, diễn biế n các hoa ̣t đô ̣ng sản
xuấ t và đời số ng của các hô ̣ di cư tự do ở huyện Đăk G’Long, tỉnh Đăk Nông đươ ̣c
thực hiê ̣n trong khoảng thời gian từ 2004 (sau khi tách tỉnh) đến 2015.
- Các số liê ̣u, tài liê ̣u thực tra ̣ng sinh kế của các hô ̣ di cư tự do trên điạ bàn
nghiên cứu huyện Đăk G’Long được khảo sát trong khoảng thời gian từ năm 2014
đế n 2015.
4. Nội dung nghiên cứu
- Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển sinh kế bền vững cho người DCTD
- Thực trạng sinh kế của người dân DCTD trên địa bàn huyện Đăk G’long.
- Những nhân tố ảnh hưởng đến sinh kế của đồng bào di cư tự do trên địa bàn
huyện Đăk G’long.
- Đưa ra giải pháp phát triển sinh kế bền vững cho đồng bào di cư tự do trên
địa bàn huyện Đăk G’long.
5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
PHÁT TRIỂN SINH KẾ BỀN VỮ NG CHO NGƯỜI DI CƯ TỰ DO
1.1. Cơ sở lý luận về phát triển sinh kế bền vững cho người di cư tự do
1.1.1. Di cư
1.1.1.1.Khái niệm và các hình thức di cư
Một số khái niệm
+) Di cư
Từ rất xa xưa cho đến nay, trong lịch sử thế giới ta đã thấy có những cuộc di
cư vì lý do thiên tai như bão lụt, núi lửa phun…; lý do chiến tranh hoặc lý do kinh
tế: người dân đi tìm cơ hội mới, họ muốn sống trong một đất nước tự do, cởi mở
hơn…
Hiện nay, có rất nhiều cách hiểu về di cư, song mỗi định nghĩa về di cư được
xuất phát từ những khía cạnh khác nhau.
Theo các nghiên cứu điều tra dân số gần đây của Việt Nam qua các cuộc
tổng điều tra dân số 1989, 1999, 2009, ta thấy có nhiều vùng có hiện tượng di cư.
Tuy nhiên, điều này nhắc ta nhớ lại lịch sử Việt Nam từ một ngàn năm nay đã có
nhiều cuộc Nam tiến, những luồng di cư đã định hình nước Việt Nam. Do đó, việc
nghiên cứu về di cư đòi hỏi loại hình nghiên cứu liên ngành, với các ngành như:
tâm lý học, địa lý nhân văn, xã hội học, dân số học, dân tộc học… Trong phạm vi
bài trình bày này, diễn giả chỉ nói về mặt lý thuyết nghiên cứu xã hội học, không
nói về các số liệu. Diễn giả mong muốn đem lại một góc nhìn mới về một số vấn đề
trong các luồng di cư ở Việt Nam.
Nhà kinh tế học Gary Becker (giải Nobel năm 1992) nghiên cứu ở cấp độ cá
nhân, ứng dụng lý thuyết về “sự lựa chọn hợp lý”, dựa trên nguyên lý: hành động
của một con người bao giờ cũng dựa trên sự tính toán giữa chi phí và lợi ích (costs
and benefits). Một nhà kinh tế học khác, ông Michael Todaro nghiên cứu động lực
của di dân. Nhược điểm của cách nghiên cứu này là ông đã coi cá nhân như một
6
đơn vị, một hạt nhân hoàn toàn biệt lập trong xã hội. Trong thực tế, quyết định di cư
không mang tính cá nhân mà là một chiến lược mang tính gia đình.
Theo khái niệm của Liên hiệp quốc, di cư là sự di chuyển từ một đơn vị lãnh
thổ này đến một đơn vị lãnh thổ khác, hoặc là sự di chuyển với khoảng cách tối
thiểu quy định. Sự di chuyển này diễn ra trong khoảng thời gian di dân xác định và
được đặc trưng bởi sự thay đổi nơi cư trú thường xuyên.
Di cư theo nghĩa đen là hiện tượng di chuyển để mưu sinh của bầy đoàn khi
chuyển mùa, hoặc khi có những thay đổi bất lợi của môi trường sống.
Nơi xuất cư (đầu đi): Là địa phương đưa dân đi, hoặc dân tự đi đến các vùng
thuộc các tỉnh khác, hoặc trong phạm vi của tỉnh; người dân đi từ địa phương này
gọi là xuất cư.
Nơi nhập cư (đầu đến): Là địa phương có dân đến định cư theo kế hoạch hoặc
đến tự do. Người dân định cư ở vùng mới gọi là dân nhập cư.
+) Di dân
Di dân (migration) hay di cư là một hình thức di chuyển trong không gian
của con người từ một đơn vị địa lý hành chính khác, kèm theo sự thay đổi chỗ ở
thường xuyên trong khoảng thời gian di dân xác định” ( Liên hiệp quốc, 1958)
Định nghĩa của Liên hiệp quốc đã loại ra những trường hợp người sống lang
thang, dân du mục, di dân theo mùa và di dân theo kiểu con lắc (đi về hàng ngày).
Nhìn chung, ở đa số các nước, dân cư di chuyển ra khỏi giới hạn hành chính của
một thành phố, tỉnh, huyện trong một khoảng thời gian xác định được xem là di dân.
Di dân là sự dịch chuyển của con người trong một không gian và thời gian
nhất định kèm theo sự thay đổi nơi cư trú tạm thời hay vĩnh viễn.
Di dân là sự di chuyển của dân cư từ một đơn vị hành chính lãnh thổ này đến
một đơn vị hành chính lãnh thổ khác nhằm thiết lập một nơi cư trú mới trong một
thời gian nhất định.
+ Theo nghĩa rộng: Di dân là sự dịch chuyển bất kỳ của con người trong một
không gian và thời gian nhất định kèm theo sự thay đổi nơi cư trú tạm thời hay vĩnh
viễn. Như vậy, với khái niệm này di dân được hiểu là sự chuyển động cơ học của dân
7
cư, bất cứ sự chuyển động nào của con người trong không gian gắn với sự thay đổi
theo vị trí địa lý lãnh thổ đều được coi là di dân.
+ Theo nghĩa hẹp: Di dân được hiểu là sự chuyển dịch của dân cư theo lãnh
thổ, sự phân bố lại dân cư. Tuy nhiên không phải bất kỳ sự dịch chuyển nào của dân
cũng là di dân, mà di dân là sự di chuyển của dân cư ra khỏi biên giới đất nước hay
ra khỏi lãnh thổ hành chính mà họ đang cư trú gắn với việc thay đổi chỗ ở của họ.
- Dưới góc độ quản lý, di dân là sự dịch chuyển dân cư theo không gian và
thời gian từ nơi này đến nơi khác. Có ba tiêu chí để xác định:
+ Đây là sự dịch chuyển địa điểm từ đơn vị hành chính này đến đơn vị hành
chính khác;
+ Vì mục đích kinh tế - xã hội, gắn với điều kiện kinh tế, phát triển đời sống;
+ Thời gian đến nơi ở mới phải lâu dài.
- Có rất nhiều các khái niệm về di dân nhưng có thể tóm tắt một số đặc điểm
chung của di dân như sau:
+ Người di dân di chuyển ra khỏi một địa điểm nào đó và đến một nơi khác
sinh sống. Nơi đi và nơi đến phải được xác định là một vùng lãnh thổ hay một đơn
vị hành chính;
+ Người di chuyển bao giờ cũng có mục đích và họ di cư đến một nơi nào
đó để thực hiện được mục đích đó. Nơi xuất phát là nơi đi, nơi sinh sống mới là
nơi đến;
+ Khoảng thời gian ở lại nơi ở mới phải lâu dài (đây là một trong những tiêu
chí quan trọng để xác định di dân...).
Trong nghiên cứu di dân, các thuật ngữ “di dân” và “di cư” được dùng khá phổ biến
và thường không phân biệt sự khác nhau vì cùng nói về sự di chuyển của con người.
Phân loại di cư
+ Theo độ dài thời gian cư trú, có thể phân di cư thành các loại:
- Di cư lâu dài: Gồm các hình thức thay đổi nơi cư trú thường xuyên và nơi
làm việc đến nơi ở mới với mục đích sinh sống lâu dài, trong đó phần lớn những
người di cư là do chuyển công tác đến nơi khác xa nơi ở cũ, những người tìm kiếm
8
cơ hội mới di chuyển đến những nơi có điều kiện kinh tế - xã hội tốt hơn, có thể tìm
kiếm việc làm và cuộc sống mới;
- Di cư tạm thời: Là sự thay đổi nơi ở cũ lâu dài và đến một lúc nào đó sẽ
quay trở lại nơi ở cũ, di cư này thường là sự di chuyển theo mùa vụ hoặc theo
thời gian;
- Di cư chuyển tiếp: Là sự di cư mà đích đến sẽ là một nơi khác tiếp theo chứ
không phải là nơi vừa mới tới.
+ Theo không gian: Có thể hình thành các loại di cư trong một vùng hoặc
giữa nơi đi và nơi đến; di dân giữa các nước thì gọi là di cư quốc tế, di cư trong
nước hoặc nội vùng thì gọi là di cư nội địa.
+ Theo hình thức tổ chức, di cư được chia thành 2 loại:
- Di dân có tổ chức (di dân theo kế hoạch của Nhà nước): Sự di chuyển này
được thực hiện theo các chương trình, mục tiêu của Nhà nước vạch ra trực tiếp chỉ
đạo, tổ chức thực hiện. Hình thức này được sự hỗ trợ và giúp đỡ cần thiết từ nhà nước
để ổn định đời sống, kinh tế - xã hội của cộng đồng di dân cả ở nơi đi và nơi đến;
hình thức này thường là di dân đến vùng kinh tế mới, bảo vệ an ninh quốc phòng
hoặc di dân để thực hiện các dự án của Nhà nước;
- Di cư không có tổ chức, lại được phân chia thành hai loại: di dân tự do và
di dân bất hợp pháp.
Di dân tự do: Di dân tự do (tự phát) là hiện tượng di dân do một người, một
hộ gia đình, hoặc nhóm hộ tự thực hiện không theo một phương án, chương trình và
sự quản lý, điều hành của bất kỳ một cơ quan hoặc tổ chức nào.
Di cư tự do là một hiện tượng kinh tế - xã hội tất yếu được diễn ra dưới nhiều
nền kinh tế khác nhau và đặc biệt ngày càng mạnh mẽ trong nền kinh tế thị trường
trong thời kỳ công nghiệp hoá, đô thị hoá đất nước.
Theo quy định tại Thông tư số 05/NN/ĐCĐC-KTM ngày 26 tháng 3 năm
1996 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì “Di dân tự do là đồng bào
chuyển cư ngoài kế hoạch di dân hàng năm của nhà nước”. Có nhiều quan điểm khác
nhau evề di dân tự do, quan niệm phổ biến được các nhà nghiên cứu công nhận: di
9
dân tự do cũng có đủ các tiêu chí như di dân nhưng trong trường hợp này một cá
nhân, một gia đình, một nhóm nguời tự quyết định hành vi đi hay ở mà không chịu sự
tác động từ phía Nhà nước hoặc bên ngoài. Có thể hiểu di dân tự do là sự di chuyển
đến nơi ở mới hoàn toàn do người dân tự quyết định, bao gồm việc lựa chọn nơi đến,
họ tự tổ chức di chuyển, tự lo các khoản kinh phí, tự tạo cuộc sống mới tại nơi đến
trên cơ sở thực hiện một số các thủ tục đối với chính quyền sở tại nơi họ chuyển đến.
Ngoài ra, nó còn thể hiện sức hút của nơi đến và lực đẩy của nơi đi.
Di dân bất hợp pháp: là sự di chuyển đến nơi cư trú mới có đặc điểm gần
giống di dân tự do nhưng người đi bỏ qua sự kiểm soát và không trình diện với
chính quyền địa phương nơi đến. Hình thức này thường gây ra những tác động tiêu
cực đến đời sống kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng và môi trường nơi đến.
1.1.1.2. Tác động của di cư tự do
+ Những tác động tích cực
- Di cư góp phần phân bổ lại lao động và dân cư một cách tự nhiên, mở các
điểm kinh tế mới ở các vùng cao, vùng sâu, vùng xa, thúc đẩy kinh tế địa phương
(nơi có dân nhập cư) phát triển;
- Di cư tạo cơ hội việc làm, tăng thu nhập, góp phần nâng cao mức sống gia
đình và giảm đói nghèo ở các vùng nông thôn có thu nhập thấp. Ngoài ra, dân
DCTD đã cung cấp một lực lượng lao động làm thuê cho các nông - lâm trường và
người dân địa phương trong những lúc thời vụ (thu hái cà phê, chăm sóc cây cao su,
thu hái chè và các loại nông sản khác). Dân DCTD đến địa phương nào thì họ cũng
đã tham gia tích cực vào thị trường lao động tại các địa phương đó;
- Di cư tự do đã tạo cơ hội việc làm cho họ và phần đông trong số họ đã có
nguồn thu nhập cao hơn so với nơi ở cũ. Trong các chỉ tiêu so sánh giữa nơi ở cũ và
nơi ở mới, thực tế cho thấy chỉ có hai chỉ tiêu là việc làm và thu nhập tại nơi ở mới
được đánh giá là tốt hơn, các chỉ tiêu khác như nhà ở, tiện nghi sinh hoạt, điều kiện
học hành con cái, ý tế, giao thông, mua bán, thông tin liên lạc là kém hơn hoặc bằng
nơi ở cũ.
- Di cư tạo cơ hội tăng thu nhập, góp phần nâng cao mức sống gia đình và
giảm đói nghèo ở các vùng nông thôn có thu nhập thấp. Ngoài ra, dân di cư tự do đã
10
cung cấp một lực lượng lao động làm thuê cho các nông - lâm trường địa phương
trong những lúc thời vụ (thu hái cà phê, chăm sóc cây cao su, thu hái chè và các loại
nông sản khác). Di cư tự do đến địa phương nào thì họ cũng đã tham gia tích cực vào
thị trường lao động tại các địa phương đó.
- Đối với nơi có dân đi: Các đối tượng di cư để lại một số diện tích đất canh
tác, vườn cây cho những người ở lại sản xuất, tạo thêm cơ hội việc làm cho người
dân ở lại địa phương, giảm sức ép về dân số đối với các vùng "đất chật, người
đông". Một số dân DCTD làm ăn khá đã góp phần giải quyết khó khăn về kinh tế
cho gia đình, bà con thân thích ở quê cũ;
- Về mặt xã hội: DCTD còn góp phần tích cực đưa thêm ngành nghề đến nơi
nhập cư; góp phần thực hiện các chính sách và nghĩa vụ công dân như thuế, nghĩa vụ
quân sự và thực hiện đóng góp xây dựng địa phương mới nhập cư.
+ Những tác động tiêu cực
- Song song với mặt tích cực thì DCTD cũng làm nảy sinh những mặt tiêu cực
cho đời sống xã hội của đất nước. DCTD làm tăng dân số một cách đột biến, khai phá
rừng bừa bãi, làm suy thoái vốn rừng; quá tải sử dụng các công trình hạ tầng cơ sở,
làm suy giảm trầm trọng môi trường sinh thái. Một bộ phận những người DCTD
không có đất dựng nhà nên đã phá rừng, đốt rẫy, lấy gỗ để dựng nhà khiến cho diện
tích rừng bị thu hẹp, nhiều vùng đất đai bị xói mòn và thoái hóa nghiêm trọng cũng
như làm cạn kiệt nguồn nước tự nhiên;
- DCTD ngoài kế hoạch làm đời sống nhân dân ở nhiều vùng định cư gặp
nhiều khó khăn, còn tạo thêm gánh nặng cho địa phương (nơi nhập cư) trong việc
đầu tư thêm cơ sở hạ tầng ở các vùng đất mới. DCTD còn làm nảy sinh một số vấn
đề xã hội phức tạp như mất trật tự an ninh, xung đột giữa người di cư và người địa
phương; nạn cờ bạc, nghiện hút, mại dâm… Đa số những người đi DCTD không
đăng ký hộ khẩu, kể cả hộ khẩu tạm trú nên địa phương nơi cư trú khó nắm bắt hoạt
động của họ khi có những vi phạm về trật tự, an ninh xảy ra;
- Dân DCTD đến các vùng đất mới cùng với việc tăng dân số tự nhiên làm tăng
đột biến nhu cầu các dịch vụ xã hội, vượt khả năng đáp ứng hiện có ở địa phương, cơ
sở hạ tầng phục vụ dân sinh vốn đã thiếu lại càng thiếu thêm;
11
- Theo các tác giả Nguyễn Hữu Tiến (1998), trong “Điều tra cơ bản và xác
định các giải pháp giải quyết tình hình di cư tự do đến Tây Nguyên và một số tỉnh
khác”, nguyên nhân của những tác động tiêu cực trên là:
+ Dòng DCTD với số lượng lớn ồ ạt đến vào thời điểm địa phương chưa có quy
hoạch ổn định, đại bộ phận là dân nghèo; bao gồm nhiều dân tộc, nhiều địa phương
khác nhau, nếp sống tập quán khác nhau, có nhiều người tốt nhưng cũng có kẻ xấu; lại
không được quản lý tốt của địa phương nơi đi cũng như địa phương nơi đến;
+ Dân DCTD phân bố rải rác, họ đến nơi cư trú mới để tìm đất sản xuất, tìm
việc làm, mong cuộc sống khá hơn nơi ra đi nên nơi nào thuận lợi thì họ đến, nơi
nào có sự quản lý lỏng lẻo của chính quyền thì họ tranh thủ làm ăn. Việc xử phạt
hành chính trong lĩnh vực quản lý bảo vệ rừng gần như không thực hiện được vì họ
không có gì ngoài hai bàn tay trắng và niềm tin tồn tại bằng sự khai phá đất rừng để
canh tác;
+ Thu nhập và đời sống của số dân DCTD thấp kém lại đến những vùng mà
ở đó dân bản địa đời sống cũng còn khó khăn, cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời
sống chưa có gì đáng kể. Ngân sách địa phương có hạn, nhà nước chưa có chính
sách hỗ trợ về mặt tài chính, trách nhiệm của địa phương có dân đi không được tốt;
+ Các địa phương có dân di cư đến cũng như các địa phương có dân đi chưa
có quy hoạch tổng thể về sử dụng đất đai, về phân bổ lao động và dân cư, về các
vùng định canh định cư, các vùng kinh tế mới nên các dự án xây dựng thường bị
động, phiến diện lại không được đầu tư dứt điểm, không đáp ứng được yêu cầu bức
bách của người dân di chuyển;
+ Sự quản lý của địa phương cũng có nhiều bất cập và tồn tại như chưa tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục một cách liên tục, rộng rãi đối với mọi tầng lớp dân cư
(đặc biệt là vùng nông thôn, miền núi những vùng có dân đi và đến) về các quy định
quản lý hộ khẩu, về di cư và định cư, về bảo vệ môi trường và tài nguyên. Mặt khác
chưa xử lý nghiêm khắc những kẻ coi thường pháp luật, tuỳ tiện di cư, định cư, tuỳ
tiện phá rừng, mua bán đất đai trái phép ở những vùng kinh tế mới, những kẻ dụ dỗ,
lừa đảo người DCTD;
12
+ Chính quyền bị động trong việc đưa ra những chính sách kinh tế - xã hội để
ổn định DCTD và các giải pháp có tính khả thi cho những vùng có dân đến như:
chính sách đất đai, chính sách thuế, chính sách đầu tư và trợ giúp vốn, chính sách
xuất cư và nhập cư… Và cho những vùng có dân đi như chính sách giải quyết về đất
đai và tài sản của người dân DCTD, chính sách hỗ trợ cho người đã ra đi và dân
nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người vốn có khó khăn triền miên. Nếu
Nhà nước có sự hướng dẫn, chủ động làm tốt trong việc bố trí sản xuất, điều hòa
phân phối dân cư lao động giữa các vùng, các tỉnh thì chắc chắn đã không xảy ra
những mặt tiêu cực đáng tiếc trong thời gian qua [13].
1.1.2. Sinh kế và sinh kế bền vững
1.1.2.1.Khái niệm về phát triển bền vững
Bắt đầu từ những năm 1980, tính bền vững ít nhiều đã được đề cập đến trong
các tranh luận về mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa tăng trưởng kinh tế, nghèo
đói và bảo vệ môi trường, từ đó, nhiều cá nhân và nhiều tổ chức đã đưa ra các khái
niệm khác nhau về tính bền vững đứng trên các góc độ nghiên cứu khác nhau.
Tuy nhiên, phải đến năm 1987 thì khái niệm phát triển bền vững mới được
sử dụng một cách chính thức và phổ biến trên phạm vi toàn cầu. Khái niệm này
được đưa ra trong báo cáo của WCED năm 1987 (còn được gọi là báo cáo
Bruntland1) có tên là “Tương lai chung của chúng ta” (Our Common Future).
Theo báo cáo này, phát triển bền vững là “sự phát triển đáp ứng được các nhu cầu
của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các
thế hệ tương lai”. Khái niệm này bao gồm 2 nội hàm: (i) tập trung vào việc đáp
ứng nhu cầu của con người, trong đó đặc biệt ưu tiên các nhu cầu cơ bản của
người nghèo trên toàn thế giới, và (ii) ý tưởng về giới hạn của công nghệ, tổ chức
xã hội và khả năng của môi trường trong việc đáp ứng các nhu cầu của thế hệ hiện
tại và tương lai [ 40 ].
Báo cáo Phát triển Con người đầu tiên của UNDP (1994) lần đầu tiên sử
dụng khái niệm Sustainable human development – phát triển bền vững con người
(phát triển con người một cách bền vững hay phát triển con người bền vững với
13
hàm ý là sự phát triển bình đẳng trong tiếp cần cơ hội và nâng cao năng lực, mở rộn
quyền lựa chọn và đảm bảo công bằng trong chia sẻ phúc lợi do tăng trưởng kinh tế
mang lại cho mọi người trong hiện tại và giữa các thế hệ, không phân biệt tôn giáo,
dân tộc, sắc tộc (UNDP, HDR, 1994) [ 43 ].
Ở Việt Nam, các nội dung của phát triển bền vững được nêu trong Chương
trình Nghị sự 21 của Việt Nam được Thủ tướng chính phủ phê duyệt trong Quyết
định số 153/2004/QĐ-TTg, trong đó sự phát triển phải đảm bảo tính bền vững trên
3 khía cạnh: kinh tế - xã hội - môi trường.
Bền vững về kinh tế hướng tới việc đạt được sự tăng trưởng ổn định và cơ
cấu kinh tế hợp lý, tránh được suy thoái và đình trệ, tránh để lại nợ nần lớn cho các
thế hệ mai sau.
Bền vững về xã hội hướng tới mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội, bảo
đảm chế độ dinh dưỡng và chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày càng
được nâng cao, mọi người đều có cơ hội được học hành và có việc làm, giảm đói
nghèo và khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp và nhóm xã hội, giảm các tệ
nạn xã hội, nâng cao mức độ công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các thành
viên và giữa các thế hệ trong một xã hội, duy trì và phát huy được tính đa dạng và
bản sắc văn hóa dân tộc, không ngừng nâng cao trình độ văn minh và đời sống vật
chất và tinh thần.
Bền vững về môi trường hướng tới việc khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm
và có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý và kiểm soát
có hiệu quả ô nhiễm môi trường, bảo vệ tốt môi trường sống, bảo vệ được các
vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu dự trữ sinh quyển và bảo tồn đa dạng
sinh học, khắc phục suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường sống.
1.1.2.2 Khái niệm về sinh kế
Khái niệm sinh kế lần đầu tiên được đề cập trong báo cáo Brundland(1987)
tại hội nghị thế giới vì môi trường và phát triển. Một sinh kế được cho là bền vững
khi con người có thể đối phó và khắc phục được những áp lực và cú sốc. Đồng thời
có thể duy trì hoặc nâng cao khả năng và tài sản ở cả hiện tại và trong tương lai mà
không gây tổn hại đến cơ sở các nguồn tài nguyên thiên nhiên [ 44 ].
14
Sinh kế, theo cách hiểu đơn giản nhất, là phương tiện để kiếm sống.
Có nhiều cách tiếp cận và định nghĩa khác nhau về sinh kế.
- Chambers và Conway cho rằng sinh kế bao gồm khả năng, nguồn lực và
các hoạt động cần thiết làm phương tiện sống của con người [38].
- F.Ellis cho rằng một sinh kế bao gồm những tài sản (tự nhiên, phương tiện
vật chất, con người, tài chính và nguồn vốn xã hội), những hoạt động và cơ hội
được tiếp cận đến các tài sản và hoạt động đó (đạt được thông qua các thể chế và
quan hệ xã hội), mà theo đó các quyết định về sinh kế đều thuộc về mỗi cá nhân
hoặc mỗi nông hộ [40].
- Theo Ủy ban Phát triển Quốc tế của Anh (DFID), sinh kế được hiểu là tập
hợp tất cả các nguồn lực và khả năng mà con người có được, kết hợp với những
quyết định và hoạt động mà họ thực thi nhằm để kiếm sống cũng như để đạt được
các mục tiêu và ước nguyện của họ [39].
- Theo DFID sinh kế bao gồm 3 thành tố chính: nguồn lực và khả năng
con người có được, chiến lược sinh kế và kết quả sinh kế, có quan niệm cho rằng
sinh kế không đơn thuần chỉ là vấn đề kiếm sống, kiếm miếng ăn và nơi ở, mà
còn đề cập đến vấn đề tiếp cận các quyền sở hữu, thông tin, kỹ năng, các mối
quan hệ... [39].
Sinh kế cũng được xem như là “sự tập hợp các nguồn lực và khả năng mà con
người có được kết hợp với những quyết định và hoạt động mà họ thực thi nhằm
để sống cũng như để đạt được các mục tiêu và ước nguyện của họ” (DFID). Về
cơ bản các hoạt động sinh kế là do mỗi cá nhân hay hộ gia đình tự quyết định
dựa vào năng lực và khả năng của họ và đồng thời chịu tác động của các thể chế
chính sách và các mối quan hệ xã hội và mỗi cá nhân và hộ gia đình tự thiết lập
trong cộng đồng.
Nguồn vốn sinh kế được hiểu như là các điều kiện khách quan và chủ quan
tác động vào một sự vật hiện tượng làm cho nó thay đổi vè chất hoặc lượng. Trong
phạm vi đề tài này, các yếu tố vè con người, tự nhiên, vật chất, tài chính, xã hội, các
thể chế chính sách mà xã hội quy định. Các nguồn vốn đó được hiểu như sau:
15
+ Vốn con người: Con người là cơ sở nguồn vốn này. Vốn con người bao
gồm các yếu tố như cơ cấu nhân khẩu của hộ gia đình, kiến thức và giáo dục của
các yếu tố như cơ cấu nhân khẩu của hộ gia đình, kiến thức và giáo dục của các
thành viên trong gia đình (bao gồm trình độ học vấn, kiến thức truyền được hoặc
được kế thừa trong gia đình), những kỹ năng và năng khiếu của từng cá nhân, khả
năng lãnh đạo, sức khỏe, tâm sinh lý của các thành viên trong gia đình, quỹ thời
gian, hình thức phân công lao động. Đây là một yếu tố được xem như là quan trọng
nhất vì nó quyết định khả năng của một cá nhân, một hộ gia đình sử dụng và quản
lý các nguồn vốn khác.
+ Vốn vật chất: Thể hiện ở các tài sản vật chất đảm bảo cho cuộc sống, sinh
hoạt cũng như làm ăn của người dân. Nguồn vốn vật chất được phân chia làm hai
loại: Tài sản của cộng đồng và tài sản của hộ. Tài sản của cộng đồng trong nghiên
cứu này xem xét các cơ sở vật chật cơ bản phục vụ nhu cầu sản xuất và sinh hoạt
như: điện, đường giao thông, trường học, trạm y tế, công trình thủy lợi, thông tin
liên lạc, thông tin liên lạc. Tài sản của hộ trong nghiên cứu này khá phong phú bao
gồm cả các tài sản phục vụ sản xuất và các tài sản phục vụ sinh hoạt của hộ.
+ Vốn tự nhiên: Nguồn vốn tự nhiên là một yếu tố đặc biệt quan trọng ảnh
hưởng tới sinh kế của người nghèo. Nó bảo gồm các yếu tố như khả năng cung ứng
quỹ đất sản xuất, sông biển ao hồ có thể sử dụng để sản xuất của hộ gia đình cũng
như cộng đồng cùng với điều kiện thuận lợi hay khó khăn của việc khai thác các
nguồn lực ấy là nguồn vốn tự nhiên.
+ Vốn tài chính: Vốn tài chính được thể hiện bằng khả năng tạo ra dòng tiền
cho hộ gia đình. Những khó khăn về tài chính làm cho khả năng trỗi dậy của kinh tế
nông hộ bị giảm sút, muốn cải thiện được kinh tế nông hộ thì việc tăng đầu tư nhằm
mở rộng quy mô sản xuất, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm là một nhu cầu tất
yếu. Trong điều kiện như hiện nay, khi mà khả năng tích lũy của hộ nông dân rất
thấp, sự hỗ trợ của Chính phủ và các tổ chức phi Chính phủ ngày càng giảm, thì việc
vay vốn để đầu tư được coi là hành vi quan trọng nhất để thỏa mãn về tài chính.
+ Vốn xã hội: Bao gồm các mạng lưới xã hội, các mối quan hệ với họ hàng,
16
người xung quanh, bảo gồm ngôn ngữ, các giá trị về niềm tin tín ngưỡng, văn hóa,
các tổ chức xã hội, các nhóm chính thức cũng như phi chính thức mà con người
tham gia để có được những lợi ích và cơ hội khác nhau... Việc con người tham gia
vào xã hội và sử dụng nguồn vốn này như thế nào cũng tác động không nhỏ đến quá
trình tạo dựng sinh kế của họ. Vốn xã hội được duy trì, phát triển và tạo ra những
lợi ích mà người sở hữu nó mong muốn như khả năng tiếp cận và huy động nguồn
lực có từ các mối quan hệ, chia sẻ thông tin, kiến thức hay các giá trị chuẩn mực.
Vốn xã hội của mỗi cá nhân được tích lũy trong quá trình xã hội hóa của họ thông
qua sự tương tác giữa cả các cá nhân.
1.1.2.3.Sinh kế bền vững.
Khái niệm sinh kế bền vững về cơ bản được dựa trên nền tảng của khái
niệm phát triển bền vững. Rất nhiều bộ phận cấu thành trong sinh kế bền vững
đều dựa trên tư tưởng của Báo cáo Bruntland và Báo cáo Phát triển Con người, đó
là: tập trung vào người nghèo và nhu cầu của họ; tầm quan trọng của sự tham gia
của người dân; nhấn mạnh vào tính tự lực và tính bền vững; và những giới hạn về
sinh thái (Solesbury, 2003).
Xuất phát từ tư tưởng chung về phát triển bền vững, trong báo cáo
Bruntland, WCED (1987) cũng đưa ra khái niệm về an ninh sinh kế bền vững
(sustainable livelihood security). Sinh kế (livelihood) được hiểu là có các nguồn
dự trữ về lương thực và tiền bạc để đáp ứng các nhu cầu cơ bản. An ninh
(security) được hiểu là được sở hữu hoặc được tiếp cận các nguồn lực và hoạt
động tạo thu nhập để bù đắp rủi ro, làm giảm các đột biến cũng như ứng phó kịp
thời với những bất thường xảy ra. Bền vững (sustainable) đề cập đến khả năng
duy trì hoặc tăng cường năng suất trong dài hạn. Do đó, một hộ gia đình có thể đạt
được an ninh sinh kế bền vững bằng nhiều cách: sở hữu đất đai, cây trồng và vật
nuôi; có quyền được chăn thả, đánh bắt, săn bắn hoặc hái lượm; có công việc ổn
định với mức thu thập đủ trang trải các nhu cầu của cuộc sống, … Theo WCED,
sinh kế bền vững là một khái niệm lồng ghép và được coi là phương tiện để đạt
được 2 mục tiêu: công bằng và bền vững [ 44 ].
17
Thuật ngữ “sinh kế bền vững” được sử dụng đầu tiên như là một khái niệm
phát triển vào những năm đầu 1990. Tác giả Chambers và Conway (1992) định
nghĩa về sinh kế bền vững như sau: Sinh kế bền vững bao gồm con người, năng lực
và kế sinh nhai, gồm có lương thực, thu nhập và tài sản của họ. Ba khía cạnh tài sản
là tài nguyên, dự trữ, và tài sản vô hình như dư nợ và cơ hội. Sinh kế bền vững khi
nó bao gồm hoặc mở rộng tài sản địa phương và toàn cầu mà chúng phụ thuộc vào
và lợi ích ròng tác động đến sinh kế khác. Sinh kế bền vững về mặt xã hội khi nó có
thể chống chịu hoặc hồi sinh từ những thay đổi lớn và có thể cung cấp cho thế hệ
tương lai [ 38 ].
Dựa trên khái niệm về sinh kế bền vững của Chambers và Conway (1992),
Scoones (1998) định nghĩa sinh kế “bao gồm khả năng, nguồn lực (bao gồm các
nguồn lực vật chất và nguồn lực xã hội) và các hoạt động cần thiết làm phương
tiện sống của con người. Một sinh kế được coi là bền vững khi nó có thể giải quyết
được hoặc có khả năng phục hồi từ những căng thẳng; duy trì và tăng cường khả
năng và nguồn lực hiện tại mà không làm tổn hại đến cơ sở tài nguyên thiên nhiên”
(Scoones, 1998).
Các chính sách để xác định sinh kế cho người dân theo hướng bền vững
được xác định liên quan chặt chẽ đến bối cảnh kinh tế vĩ mô và tác động của các
yếu tố bên ngoài....
Năm 2001, Cơ quan Phát triển Quốc tế Vương quốc Anh (DFID) đưa ra khái
niệm về sinh kế để hướng dẫn cho các hoạt động hỗ trợ của mình, theo đó, sinh kế
“bao gồm khả năng, nguồn lực cùng các hoạt động cần thiết làm phương tiện sống
cho con người” (DFID, 2001, tr.5). Khái niệm này về cơ bản hoàn toàn giống với
khái niệm về sinh kế của Chambers và Conway (1992) và Scoones (1998).
Chambers và Conway (1992) đánh giá tính bền vững của sinh kế trên 2
phương diện: bền vững về môi trường (đề cập đến khả năng của
sinh kế trong việc bảo tồn hoặc tăng cường các nguồn lực tự nhiên, đặc biệt cho
các thế hệ tương lai) và bền vững về xã hội (đề cập đến khả năng của sinh kế trong
việc giải quyết những căng thẳng và đột biến và duy trì nó trong dài hạn). Sau này,
18
Scoones (1998), Ashley, C. và Car- ney, D. (1999), DFID (2001) và Solesbury
(2003) đã phát triển tính bền vững của sinh kế trên cả phương diện kinh tế và thể
chế và đi đến thống nhất đánh giá tính bền vững của sinh kế trên 4 phương diện:
kinh tế, xã hội, môi trường và thể chế.
•
Một sinh kế được coi là bền vững về kinh tế khi nó đạt được và duy trì một
mức phúc lợi kinh tế cơ bản và mức phúc lợi kinh tế này có thể khác nhau giữa các
khu vực.
•
Tính bền vững về xã hội của sinh kế đạt được khi sự phân biệt xã hội được
giảm thiểu và công bằng xã hội được tối đa.
•
Tính bền vững về môi trường đề cập đến việc duy trì hoặc tăng cường
năng suất của các nguồn tài nguyên thiên nhiên quan trọng vì lợi ích của các thế hệ
tương lai.
Một sinh kế được coi là bền vững về kinh tế khi nó đạt được và duy trì
một mức phúc lợi kinh tế cơ bản và mức phúc lợi kinh tế này có thể khác nhau giữa
các khu vực.
Tính bền vững về xã hội của sinh kế đạt được khi sự phân biệt xã hội được
giảm thiểu và công bằng xã hội được tối đa.
Tính bền vững về môi trường đề cập đến việc duy trì hoặc tăng cường
năng suất của các nguồn tài nguyên thiên nhiên quan trọng vì lợi ích của các thế
hệ tương lai.
Một sinh kế có tính bền vững về thể chế khi các cấu trúc hoặc qui trình hiện
hành có khả năng thực hiện chức năng của chúng một cách liên tục và ổn định theo
thời gian để hỗ trợ cho việc thực hiện các hoạt động sinh kế.
Theo các tác giả trên, cả 4 phương diện này đều có vai trò quan trọng như
nhau và cần tìm ra một sự cân bằng tối ưu cho cả 4 phương diện. Cùng trên quan
điểm đó, một sinh kế là bền vững khi: (i) có khả năng thích ứng và phục hồi trước
những cú sốc hoặc đột biến từ bên ngoài; (ii) không phụ thuộc vào sự hỗ trợ từ bên
ngoài; (iii) duy trì được năng suất trong dài hạn của các nguồn tài nguyên thiên
nhiên, và (iv) không làm phương hại đến các sinh kế khác.
Tiêu chí đánh giá tính bền vững của sinh kế
19
Các nghiên cứu của Scoones (1998) và DFID (2001) đều thống nhất đưa ra
một số chỉ tiêu đánh giá tính bền vững của sinh kế trên 4 phương diện: kinh tế, xã
hội, môi trường và thể chế.
• Bền vững về kinh tế: được đánh giá chủ yếu bằng chỉ tiêu gia tăng thu nhập
• Bền vững về xã hội: được đánh giá thông qua một số chỉ tiêu như: tạo thêm
việc làm, giảm nghèo đói, đảm bảo an ninh lương thực, cải thiện phúc lợi.
• Bền vững về môi trường: được đánh giá thông qua việc sử dụng bền vững
hơn các nguồn lực tự nhiên (đất, nước, rừng, tài nguyên thủy sản…), không gây
hủy hoại môi trường (như ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường) và có khả
năng thích ứng trước những tổn thương và cú sốc từ bên ngoài.
• Bền vững về thể chế: được đánh giá thông qua một số tiêu chí như: hệ thống
pháp lý được xây dựng đầy đủ và đồng bộ, qui trình hoạch định chính sách có sự
tham gia của người dân, các cơ quan/tổ chức ở khu vực công và khu vực tư hoạt
động có hiệu quả; từ đó tạo ra một môi trường thuận lợi về thể chế và chính sách
để giúp các sinh kế được cải thiện một cách liên tục theo thời gian
1.1.2.4 Khung sinh kế bền vững
Về cơ bản, các khung sinh kế bền vững đều phân tích sự tác động qua lại
của 5 nhóm yếu tố ảnh hưởng đến sinh kế hộ gia đình là: (i) nguồn lực sinh kế; (ii)
chiến lược sinh kế, (iii) kết quả sinh kế, (iv) các qui trình về thể chế và chính sách,
và (v) bối cảnh bên ngoài (DFID, 2001).
Nguồn lực sinh kế: Khả năng tiếp cận của con người đối với các nguồn lực
sinh kế được coi là yếu tố trọng tâm trong cách tiếp cận về sinh kế bền vững. Có 5
loại nguồn lực sinh kế: Tự nhiên, vật chất, tài chính, con người, xã hội.
Chiến lược sinh kế là cách mà hộ gia đình sử dụng các nguồn lực sinh kế
sẵn có để kiếm sống và đáp ứng những nhu cầu trong cuộc sống.
Kết quả sinh kế là những thành quả mà hộ gia đình đạt được khi kết hợp các
nguồn lực sinh kế khác nhau để thực hiện các chiến lược sinh kế. Các kết quả sinh
kế chủ yếu bao gồm: tăng thu nhập, cải thiện phúc lợi, giảm khả năng bị tổn thương,
tăng cường an ninh lương thực, sử dụng bền vững hơn các nguồn tài nguyên thiên