Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

Thực trạng sức khỏe tâm trí của học sinh ở một số trường trung học phổ thông ngoài công lập ở Hà Nội năm học 20132014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (980.11 KB, 63 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
-------------------

ĐÀO THANH THỦY

THỰC TRẠNG SỨC KHỎE TÂM TRÍ CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG MỘT SỐ TRƯỜNG NGOÀI CÔNG LẬP TẠI HÀ NỘI
NĂM HỌC 2013-2014

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC


Hà Nội - 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
-------------------

ĐÀO THANH THỦY

THỰC TRẠNG SỨC KHỎE TÂM TRÍ CỦA HỌC SINH TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG MỘT SỐ TRƯỜNG NGOÀI CÔNG LẬP TẠI
HÀ NỘI


NĂM HỌC 2012-2013

Chuyên ngành : Y tế công cộng
Mã số : 60720301

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC :
PGS.TS. CHU VĂN THĂNG
Hà Nội – 2013
MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ
ĐẶT VẤN ĐỀ
CHƯƠNG

1

TỔNG

QUAN…………………………………………………....9
1

Một

số

khái


niệm



bản………………………………………………………9
1.1 Khái

niệm

sức

khỏe…………………………………………………………9
1.1.1

Sức

khỏe

thể

chất…………………………………………………….…..9
1.1.2

Sức

khỏe

tâm

thần…………………………………………………………9

1.1.3

Sức

khỏe



hội………………………………………………………….9
1.1.4

Khái niệm tuổi vị thành niên (VTN)……………………
………………10

1.2 Những

biến

đổi

về

thể

chất,

tâm

lý,




hội……………………………….10
1.2.1

Biến đổi thể chất………………………………………………..
………10

1.2.2

Biến đổi về tâm lý……………………………………………..
…………11


1.2.3

Biến

đổi

về



hội………………………………………………………12
1.3 Những

rối

loạn


liên

quan

đến

SKTT……………………………………..12
1.3.1

Rối loạn hành vi…………………………………………………..
……13

1.3.2

Rối

loạn

tăng

động…………………………………………………..…13
1.3.3

Rối

loạn

ứng


xử…………………………………………………………14
1.4 Những

yếu

tố

ảnh

hưởng

đến

SKTT……………………………………..14
1.4.1

Yếu

tố



nhân………………………………………………………….14
1.4.2

Yếu

tố

nhà


trường……………………………………………………….15
1.4.3

Yếu

tố

gia

đình………………………………………………………....15
1.4.4

Quan

hệ

thầy

trò,

bạn

bè………………………………………………..16
1.5

Tình

hình


sức

khỏe

tâm

trí……………………………………………….17
1.5.1

Tình

hình

SKTT

trên

thế



Việt

giới…………………………………………..17
1.5.2

Tình

hình


SKTT

Nam……………………………………………19


CHƯƠNG 2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU………22
2.1

Địa

điểm



đối

tượng

nghiên

cứu……………………………………….22
2.1.1

Địa

điểm

nghiên


cứu…………………………………………………….22
2.1.2

Đối

tượng

nghiên

cứu……………………………………………………22
2.2.

Phương

pháp

nghiên

cứu…………………………………………………23
2.2.1

Thiết

kế

nghiên

cứu……………………………………………………..23
2.2.2


Cỡ

mẫu



chọn

mẫu……………………………………………………23
2.2.3

Phương

pháp

thu

thập

thông

KẾT

QUẢ

tin………………………………………24
CHƯƠNG

3


DỰ

KIẾN

...........................................................32
CHƯƠNG

4

BÀN

LUẬN

…………………………………………………..43
KẾT
LUẬN…………………………………………………………………..4
3
KHUYẾN

NGHỊ

…………………………………………………………….43
TÀI

LIỆU

THAM

KHẢO……………………………………………………44
PHỤ

LỤC………………………………………………………………………


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
WHO: Tổ chức Y tế thế giới (World Health Organization)
CSSK: Chăm sóc sức khỏe

SKTT: Sức khỏe tâm trí
VTN:

Vị thành niên

THPT: Trung học phổ thông
SDQ:

Bộ câu hỏi sàng lọc vấn đề sức khỏe tâm trí
(Strength and difficulty questionnaire)

ICD:

International Classification Diseases


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
1. Bảng 2.1: Thang điểm đánh giá SKTT học sinh do giáo viên điền
trên bộ câu hỏi
SDQ..............................................................................................
2. Bảng 3.1: Thông tin về giới, tuổi, học lực, hạnh kiểm, dân tộc, nơi
ở...
3. Biểu đồ 3.2 Thực trạng SKTT của học sinh THPT dân lập tại Hà Nội

năm học 2013-2014
4. Biểu đồ 3.3 Thực trạng vấn đề SKTT học sinh THPT dân lập tại Hà
5.
6.
7.
8.
9.

Nội năm học 2013-2014
Bảng 3.4.1.1: Yếu tố đặc điểm cá nhân và vấn đề SKTT
Bảng 3.4.1.2: Mối liên quan giữa đặc điểm cá nhân và vấn đề SKTT
Bảng 3.4.2.1: Yếu tố gia đình và vấn đề SKTT
Bảng 3.4.2.2: Mối liên quan giữa đặc điểm gia đình và vấn đề SKTT
Bảng 3.4.2.3: Yếu tố quan hệ tình cảm trong gia đình và vấn đề

SKTT
10. Bảng 3.4.2.4: Mối liên quan giứa quan hệ tình cảm trong gia đình
với vấn đề SKTT
11. Bảng 3.4.3.1: Yếu tố môi trường nhà trường và vấn đề SKTT
12. Bảng 3.4.3.2: Mối liên quan giữa môi trường nhà trường và vấn đề
SKTT
13. Bảng 3.4.3.3: Môi trường học tập, vui chơi, giải trí và vấn đề SKTT
14. Bảng 3.4.3.4: Mối liên quan giữa môi trường học tập, vui chơi, giải
trí với vấn đề SKTT


ĐẶT VẤN ĐỀ
“Sức khỏe là vàng” thậm chí còn quý hơn vàng đó là câu thành
ngữ mà từ xa xưa ông ta cha đã đúc kết ra, nhưng dường như chỉ đến khi
ốm đau bệnh tật mọi người mới lo lắng khám chữa bệnh và mới thấy

được giá trị thực của sức khỏe, ngày nay khi xã hội ngày càng phát triển
thì việc nhận thức về giá trị của sức khỏe của người dân đã thay đổi.
Chăm sóc sức khỏe (CSSK) đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của xã
hội, tất cả các tầng lớp từ người giàu, người nghèo, từ trí thức đến người
lao động, từ thành thị đến nông thôn, mọi người đều rất chú ý đến việc
chăm sóc sức khỏe, đặc biệt CSSK cho lứa tuổi học sinh. Sức khỏe của
học sinh hôm nay quyết định đến khuynh hướng sức khỏe dân tộc ta
trong tương lai, chính vì vậy CSSK thể chất cho học sinh là tạo điều
kiện cho các em phát triển chiều cao, cân nặng, rèn luyện sức khỏe. Để
phát triển hài hòa, toàn diện về cả thể chất lẫn tinh thần thì việc CSSK
tâm trí đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển của trẻ,
CSSK tâm trí là tạo điều kiện cho việc phát triển trí tuệ, tăng cường khả
năng cân bằng tâm lý, tình cảm, thích nghi với môi trường sống với các
mối quan hệ gia đình, bạn bè, xã hội. Hơn nữa CSSK tâm trí còn giúp
tạo cho trẻ phát triển tính tự lập, tự tin trong cuộc sống, phát triển nhân
cách, mang giá trị đạo đức căn bản của con người. Sức khỏe tâm trí có
vấn đề dẫn đến rối loạn hành vi, mất kiểm soát và có những hành vi sai
lệch gây ảnh hưởng đến cá nhân, gia đình và xã hội. Nhưng năm gần
đây tình trạng học sinh có những hành vi tiêu cực như bỏ học, tự tử,
nghiện hút, hoạt động tình dục tập thể hay hành vi bạo lực với bạn bè và
thầy cô đang gia tăng tới mức báo động. Theo báo cáo của tổ chức Y tế
thế giới (WHO), những rối loạn này chiếm khoảng 12% trên tổng số


gánh nặng bệnh tật trên thế giới [1]. Nhiều nghiên cứu trên thế giới và
trong nước cho thấy: tỷ lệ tổn thương SKTT ở lứa tuổi trẻ em chiếm từ
8-21% [2]. Việt Nam chúng ta đang trong quá trình phát triển hội nhập
quốc tế, cuộc sống dần cuốn theo dòng chảy của kinh tế thị trường. Sự
biến đổi nhanh của nền kinh tế - xã hội đã tác động mạnh mẽ đến con
người, lối sống của người dân gấp gáp hơn để theo kịp với thời đại, điều

này đã dẫn đến các hậu quả khá là nghiêm trọng. Các bậc phụ huynh
không còn thời gian để sum vầy, áp lực công việc khiến cho cha mẹ
không quan tâm đến tâm lý của trẻ, họ chỉ cố gắng kiếm ra thật nhiều
tiền đáp ứng nhu cầu vật chất cho trẻ, điều đó vô tình đã đẩy trẻ đến một
cuộc sống tự lập, phải đối mặt với nhiều thách thức trong cuộc sống,
trong khi đó các em còn chưa kịp trang bị những kiến thức của cuộc
sống. Đối với lứa tuổi học sinh thì áp lực học tập, thi cử hay các mối
quan hệ khác giới khiến cho các em luôn bị căng thẳng, nếu như không
có sự quan tâm chia sẻ từ bố mẹ hay người thân trong gia đình thì các
em luôn cảm thấy lo lắng bất an, lúng túng trong xử lý các tình huống;
Tất cả những điều trên đều ảnh hưởng đến sức khỏe tâm trí của trẻ, đặc
biệt là đối với lứa tuổi dậy thì, lứa tuổi đang có những thay đổi tâm sinh
lý đặc biệt.
Hà Nội là thủ đô nước Việt Nam đứng đầu về diện tích trong cả
nước: 3328.9 km2 và đứng thứ nhì về dân số trên toàn quốc: 6.699.600
người. Hà Nội là trung tâm giáo dục lớn nhất Việt Nam với 677 trường
tiểu học, 581 trường trung học cơ sở và 186 trường trung học phổ thông,
trong đó có 65 trường trung học phổ thông ngoài công lập [3]. Đề tài
nghiên cứu về sức khỏe tâm trí của học sinh phổ thông có rất nhiều nhà
khoa học đã nghiên cứu nhưng chưa có đề tài nào nghiên cứu về học
sinh trung học phổ thông dân lập, chính vì vậy tôi thực hiện nghiên cứu
“Thực trạng sức khỏe tâm trí của học sinh ở một số trường trung học
phổ thông ngoài công lập ở Hà Nội năm học 2013-2014” tại 2 trường


THPT dân lập Đống Đa và THPT dân lập Lương Thế Vinh, Ba Vì với 3
mục tiêu:
1. Mô tả thực trạng sức khỏe tâm trí của học sinh THPT dân lập ở

Hà Nội năm học 2013-2014

2. Xác định một số yếu tố liên quan ảnh hưởng tới sức khỏe tâm trí

của học sinh THPT dân lập ở Hà Nội năm 2013-2014.
3. So sánh vấn đề sức khỏe tâm trí giữa học sinh THPT dân lập ở

nông thôn và thành thị
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN
1. Một số khái niệm cơ bản
1.1 Khái niệm sức khỏe

Theo tuyên ngôn của tổ chức Y tế thế giới năm 1982 tại Alma
Ata: “Sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn thoải mái về thể chất, tinh
thần và xã hội chứ không chỉ là tình trạng không có bệnh hay thương
tật”. Sức khỏe toàn diện trong mỗi con người đều bao gồm 3 thành
phần: khỏe về thể chất, khỏe về tinh thần và khỏe về xã hội.
1.1.1

Sức khỏe thể chất được biểu hiện ở thể lực khỏe mạnh có thể làm
việc mang vác nặng, đi lại nhanh nhẹn thoải mái, có tính dẻo dai, bền
bỉ không cảm thấy mệt mỏi. Sức khỏe thể chất còn thể hiện khi
không có bệnh tật, không ốm đau, hay có sức đề kháng tốt, khi ốm
thì có thể nhanh hồi phục hoặc có thể chống đỡ được được môi
trường khắc nghiệt hoặc thời tiết thay đổi đột ngột [4].

1.1.2

Sức khỏe tâm thần là một trạng thái không chỉ không có rối loạn hay
dị tật tâm thần mà còn là một trạng thái tâm thần hoàn toàn thoải
mái, vui tươi yêu đời. Sức khoẻ tinh thần chỉ là sự biểu hiện nếp sống



lành mạnh, văn minh. Cơ sở của sức khoẻ trạng thái là sự thăng bằng
và hài hoà giữa lý trí và tình cảm. SKTT còn là một cuộc sống năng
động có khả năng chống đỡ được được những thử thách trong cuộc
sống.
1.1.3

Sức khỏe xã hội là sự hoà nhập của những cá nhân với cộng đồng,
gia đình, người thân và xã hội, như câu nói của Mác: "Con người là
sự tổng hoà các mối quan hệ xã hội". Sức khỏe xã hội còn là sự đóng
góp tích cực của cá nhân vào việc phát triển của xã hội. Xã hội và
các nhân có sự tương tác hỗ trợ cho nhau. Nếu xã hội phát triển ổn
định về kinh tế, chính trị văn hóa xã hội thì sẽ tạo điều kiện cho cá
nhân phát huy được khả năng với một tâm lý thoải mái và ngược lại
[6].
1.1.4

Khái niệm tuổi vị thành niên (VTN)
Vị thành niên: từ này xuất phát từ tiếng Latinh - adolescere có

nghĩa là "lớn lên" hay "phát triển đến sự chín muồi". VTN là những
người trong độ tuổi 10-19 tuổi nghĩa là trong độ tuổi thiếu nhi và
trước tuổi trưởng thành (Quy định của tổ chức y tế thế giới) hay nói
theo tâm lý học thì VTN là giai đoạn kết nối chuyển tiếp đòi hỏi mỗi
cá nhân phải có những thay đổi mới để thích nghi. Tuổi vị thành niên
là giai đoạn phát triển sinh lý gắn liền với sự trưởng thành về sinh
dục, nó bao hàm cả nghĩa phát triển về vị thế, địa vị xã hội, hành vi,
tình cảm… Khi trẻ bước vào tuổi VTN thì luôn có xu hướng tách dần
ra khỏi vòng tay của cha mẹ, không muốn phụ thuộc vào bố mẹ. Ở
tuổi này sự biến đổi về tâm lý rất phức tạp, mỗi một giai đoạn lại

biểu hiện một tích cách khác nhau: có lúc thì kiềm chế nhẫn nhịn có
khi lại chủ quan chống đối. Hơn nữa, đây còn là giai đoạn có những
mối quan hệ khác giới, nhu cầu giao tiếp với xã hội bạn bè nhiều
hơn, các em có xu hướng theo bạn bè hơn là cha mẹ. Theo kết quả


tổng điều tra dân số năm 2012 ở Việt nam trẻ VTN có khoảng
23.165.631 trẻ, chiếm khoảng 26,2% dân số cả nước [6]
1.2 Những biến đổi về thể chất, tâm lý, xã hội
1.2.1

Biến đổi về thể chất
Những thay đổi về sinh lý khi các em tới tuổi VTN hay còn

gọi là tuổi dậy thì, cơ thể bắt đầu phát triển nhanh và nhiều thay đổi. Sự
phát triển này thường xảy ra từ từ kéo dài trong vài năm từ 13, 14 - 20
tuổi, giai đoạn phát triển của mỗi cá nhân có sự thay đổi khác nhau, ở
nam và nữ cũng khác nhau. Ở nam sự thay đổi rõ rệt nhất là chiều cao
tăng đáng kể, từ một cậu bé cơ thể phát triển với những đặc điểm như
một người trưởng thành: vóc dáng cao hơn, bụng và hông thon lại, cơ
bắp nhiều lên. Đặc biệt là sự phát triển của lông và râu, lông nách lông
chân thậm chí cả lông ngực, râu và ria mọc chậm hơn lông mu khoảng
một vài năm. Ngoài ra còn xuất hiện lang ben và mụn chứng cá trên cổ
mặt và lưng, đó là do tuyến mồ hôi và tuyến bã hoạt động mạnh. Hóc
môn nam có tên gọi là testosterone tăng cường hoạt động mạnh dẫn đến
các bạn nam bị vỡ giọng, nhưng dần dần sẽ có chất giọng ấm áp của
người đàn ông trưởng thành. Ở giai đoạn này các em còn thấy sự thay
đổi của bộ phận sinh dục, biểu hiện rõ là dương vật càng ngày càng lớn
lên, tinh hoàn cũng to lên theo, hiện tượng xuất tinh lần đầu tiên về ban
đêm đánh dấu sự dậy thì chính thức ở các bạn nam và thường xảy ra ở

khoảng 15 đến 17 tuổi [7].
Tuổi dậy thì ở con gái sớm hơn con trai khoảng 2 năm, trước
đây thường bắt đầu từ tuổi 13 nhưng cơ thể bắt đầu thay đổi từ 8- 9 tuổi,
ngoài thay đổi về chiều cao thì vú to lên là dấu hiệu sớm nhất, bắt đầu 9
-13 tuổi, tốc độ và mức độ to lên khác nhau tuỳ từng em. Tiếp theo là
lông mu mọc, cơ thể nở nang, sau đó mới là sự ra kinh lần đầu và mọc
lông nách. Hành kinh là dấu hiệu bộ máy sinh sản đã sẵn sàng hoạt


động. Trước khi có hành kinh thì đã có sự tăng nồng độ hormone
androgen nên thành phần axit béo của mồ hôi thay đổi khiến cho có thể
có mùi. Ngoài ra androgen còn tăng bài tiết bã nhờn nên các em xuất
hiện nhiều trứng cá [7].
1.2.2

Biến đổi về tâm lý
Khi bước vào tuổi dậy thì các em thường dễ rơi vào trạng thái

lo lắng, buồn rầu về những thay đổi trên trên cơ thể mình, các em bắt
đầu phát triển tư duy trừu tượng một cách rõ rệt và thích tò mò về những
hành vi liên quan đến tính dục. Lúc này cơ thể các em có những thay đổi
rõ ràng về mặt thể chất, kéo theo đó là những biến đổi về mặt tâm lý,
tình cảm, trẻ trở nên bướng bỉnh muốn tách ra khỏi vòng kiểm soát của
cha mẹ, muốn tự quyết định mọi việc, tự khẳng định bản thân. Chính sự
thay đổi về hormone và các đặc điểm sinh học của cơ thể đã thôi thúc
các em quan tâm nhiều hơn đến bạn bè và nảy sinh tình cảm với bạn
khác giới [7]. Những rung động đầu đời khiến cho các em tưởng tình
bạn là tình yêu, khát vọng về tình dục mang lại cho các em cảm giác
mới là về mối quan hệ khác giới nhưng sau đó lại dễ thay đổi, muốn gì
thì phải đạt cho được nhưng lại chán ngay. Đặc biệt thích tò mò cùng

với mong muốn khám khả năng lựa hoạt động tình dục của mình nên
các em dễ bốc đồng, hành động theo bản năng và theo bạn bè.
1.2.3

Biến đổi về xã hội [8]
Trẻ vị thành niên thường tò mò khám phá môi trường bên

ngoài qua internet, sách báo, các em có hiểu biết khá rộng về môi trường
xung quanh, vì vậy việc hình thành các mối quan hệ xã hội luôn thôi
thúc các em phát triển các kỹ năng giao tiếp, ứng xử mới theo cách
riêng, theo trào lưu của bạn bè.
1.3

Những rối loạn liên quan đến SKTT


Do biến đổi đặc điểm sinh lý ở lứa tuổi dậy thì nên trẻ VTN
thường có những rối loạn cảm xúc, mất cân bằng tâm lý, các biểu hiện
như tim đập nhanh, chóng mặt, hoa mắt, dễ nổi nóng, khó hiểu thậm chí
còn không hiểu được chính cả bản thân. Có rất nhiều biểu hiện của rối
loạn cảm xúc: rối loạn lo âu như sợ hãi một cái gì đó quá mức hoặc lo
lắng những vấn đề không có thật. Các em có biểu hiện hoang mang, lo
lắng triền miên mà không biết lý do hoặc suy nghĩ viển vông tưởng
tượng ra những câu chuyện ám ảnh không có thật rồi tự đặt mình vào
tình huống rồi lại đau khổ [9]. Ngoài ra thì những sang chấn hay những
sự kiện xảy đến với các em khiến tâm thần luôn bị hoảng loạn như tai
nạn, lạm dụng tình dục, bị bạo lực…Rối loạn cảm xúc còn có biểu hiện
như trầm cảm hay buồn rầu khóc lóc, tự ti, chán nản, biểu hiện chán ăn,
hay quên, không chăm sóc đến bản thân như trước, học tập giảm sút,
hoạt động chậm chạp. Đặc biệt hơn rối loạn cảm xúc lưỡng cực khá phổ

biến với tỉ lệ 0,5 dân số. Đây là một bệnh tâm thần nội sinh xuất hiện có
tính chất chu kì với các cơn hưng cảm và trầm cảm xen lẫn. Theo BS.
Nguyễn Văn Dũng- Viện Tâm thần Quốc gia (Bệnh viện Bạch Mai) cho
hay: tuổi teen là độ tuổi phát bệnh rối loạn cảm xúc cao nhất trong tổng
số ca mắc chứng bệnh này. Trẻ có lúc thì lầm lì, buồn rầu, ức chế chán
nản, bi quan, tuyệt vọng, dễ mủi lòng khóc lóc, than vãn rên rỉ, lúc lại
hưng cảm đọc thơ ca, ví von hóm hỉnh, nói luôn miệng, tự đánh giá cao
bản thân, thậm chí coi thường người khác. Bệnh mang tính chu kỳ tức là
người bệnh có thể chuyển từ cảm xúc hưng phấn (vui vẻ tột độ) sang
cảm xúc ức chế (trầm cảm) và ngược lại một cách nhanh chóng.
1.3.1

Rối loạn hành vi
Những dấu hiệu cho thấy trẻ rối loạn hành vi như càn quấy, cư

xử hung hãn đối với người khác hoặc động vật, phá hoại tài sản, nói dối,
ăn cắp vặt, bỏ học, hỗn láo với người lớn, bỏ nhà đi [9]


1.3.2

Rối loạn tăng động
Đặc trưng cơ bản của bệnh rối loạn tăng động là kém tập

trung, giảm chú ý, tăng động. Theo Bác sĩ Ngô Văn Lương, Khoa Tâm
thần, bệnh viện trung ương Huế: đặc trưng của rối loạn tăng động là sự
kết hợp của một hành vi hoạt động quá mức, thiếu kiềm chế với giảm
chú ý, thiếu kiên trì trong mọi công việc.
1.3.3
-


Rối loạn ứng xử [10]

Ít quan tâm đến người khác, xâm phạm thô bạo đến bạn bè, người
thân hoặc súc vật.

-

Không tuân thủ các quy tắc xã hội hay có các hành động quá đáng
và quá mức, vi phạm trật tự, chống đối

-

Ngoài ra còn có các biểu hiện: nói dối, ăn cắp, trốn học, gây gổ…

1.4

Những yếu tố ảnh hưởng đến SKTT

1.4.1

Yếu tố cá nhân
Nhân tố di truyền: Vấn đề di truyền tất nhiên có ảnh hưởng xấu

đến một số rối nhiễu tâm trí nhưng không phải là tuyệt đối. Có khi các
rối nhiễu tâm trí phát sinh trong một thành viên của gia đình mà không
thấy trong các thành viên khác, có trường hợp cha mẹ đều có bệnh mà
con cháu vẫn khỏe mạnh bình thường. Cũng có trường hợp nhân tố di
truyền không tác động vào thế hệ tiếp theo mà vào thế hệ sau nữa.
Những nguyên nhân do sinh nở: trường hợp sinh khó để lại di

chứng trong sự phát triển của bộ não


Những nguyên nhân do nuôi dưỡng: chế dộ ăn uống không hợp
lý đẫn đến suy dinh dưỡng, ảnh đến sức khỏe thể lực cũng như sức khỏe
tâm trí
Nhân cách bao gồm: thích thú, khuynh hướng, năng lực, tính
cách, khí chất…Nhân cách mạnh, bền vững là một nhân tố chống lại sự
phát sinh các vấn đề về SKTT, nhất là các bệnh do căn nguyên tâm lý.
Khi mắc các vấn đề về SKTT thì người có nhân cách vững bị nhẹ hơn
và hồi phục nhanh hơn.Nhân cách yếu, không bền vững là một yếu tố
thuận lợi cho rối nhiễu tâm trí phát sinh, khi mắc thì sẽ hồi phục khó
khăn và chậm.
1.4.2

Yếu tố nhà trường
Giáo dục nhà trường cũng có thể gây nên những tổn thương tâm

trí cho trẻ em. Đó là cách giáo dục áp đặt làm cho trẻ em thiếu tự tin.
Nội dung chương trình quá tải, áp lực thi cử nặng nề làm cho trẻ em lúc
nào cũng căng thẳng, lo sợ, dẫn đến những rối loạn về cả thế xác lẫn tâm
trí. Ván đề học thêm với chính thầy cô ở trường, trẻ phải học ngày học
đêm nên không có thời gian nghỉ ngơi, giải trí, luyện tập thân thể. Điều
này dẫn đến những hành vi bất thường, tác hại lâu dài đến tư duy sáng
tạo học hỏi của trẻ
1.4.3

Yếu tố gia đình
Gia đình là nền tảng của xã hôi, gia đình hạnh phúc, con cái


trưởng thành, sẽ đóng góp một phần cho sự phát triển một xã hội tốt
đẹp, một đất nước văn minh và giàu mạnh. Tuy nhiên bên cạnh những
mặt tích cực là sự tốt đẹp của mỗi gia đình, sự hạnh phúc của cha mẹ, sự
trưởng thành của con cái, thì vẫn có những vấn đề mà mỗi chúng ta đều
phải nhìn nhận một cách xác đáng.


Trẻ VTN sống trong gia đình có những hoàn cảnh không may
như gia đình ly tán, cha mẹ thường xuyên xung đột, có người uống
rượu, thường xuyên dùng bạo lúc, trẻ bị bạo hành, đối sử bất công, bị
xúc phạm, giáo dục lệch lạc dễ bị ảnh hưởng đến hành vi, ứng xử .
Những gia đình có bố mẹ quá bận rộn với công việc không có thời gian
chăm sóc gần gũi con cái sẽ khiến cho trẻ bị lôi cuốn bởi những tác
động xấu từ xã hội, từ phim ảnh, internet...[11].
Những áp đặt của bố mẹ, thiếu tin tưởng, thiếu công bằng cũng dẫn
đến hiện tượng rối nhiễu tâm lý ở TVTN hiện nay.
Trong giai đoạn hiện nay, dưới sức ép của một nền kinh tế phát
triển nhanh, tiếp nhận một lượng thông tin quá lớn trong thời đại bùng
nổ tin học, có nhiều tác nhân gây stress ảnh hưởng đến sức khỏe trẻ em
như: nhiều gia đình có nguyện vọng cho con em học thêm nhiều để nâng
cao tri thức, khối lượng học ở trường nhiều, học thêm nhiều, vì vậy thời
gian vui chơi giải trí và vận động tích cực buộc phải thu hẹp lại. Cha mẹ
bận rộn nhiều, ít có thời gian quan tâm, chăm sóc con cái.
Xã hội hiện đại đang tạo ra những con người năng động trong
nhiều lĩnh vực. Sự đòi hỏi khắt khe của xã hội cùng với những kỳ vọng
của cha mẹ vào con cái đều có thể là nguyên nhân gây áp lực tâm lý cho
các em khi mà năng lực của các em không đáp ứng được [12]
1.4.4

Quan hệ thầy trò, bạn bè

Mối quan hệ bạn bè, thầy cô cũng là vấn đề rất quan trọng trong

những ứng xử của trẻ. Trong trường học thường hình thành những nhóm
trẻ chơi với nhau do hợp tính cách nhung cũng có những nhóm trẻ con
nhà giàu có điều kiện thì chơi với nhau, đua nhau những vật dụng các
nhân, ăn mặc, tiêu xài… Sự phân nhóm này dẫn đến tình trạng phân biệt
giàu nghèo khiến các bạn con nhà nghèo thường mặc cảm tự ti, không


dám tiếp xúc hoặc có xu hướng đua đòi dẫn đến những hành vi xấu, lệch
lạc. Mối quan hệ giữa học sinh và thầy cô có sự cách biệt, thầy giảng,
trò nghe, chép không có sự khuyến khích sáng tạo, trao đổi thảo luận để
trẻ có thể bộc lộ các cảm xúc của mình, điều này dẫn đến tình trạng học
sinh chây ì, không phát huy được khả năng mà luôn thụ động dựa vào
bài giảng của giáo viên [13].
Tình hình sức khỏe tâm trí

1.5

Tình hình SKTT trên thế giới

1.5.1

Trên thế giới, có tới 7% đến 10% trẻ em và thanh thiếu niên mắc
phải các rối loạn tâm trí cần điều trị. Tỉ lệ này cao hơn ở các vùng đô thị
đông dân có nhiều yếu tố xã hội không thuận lợi, đặc biệt ở tuổi dậy thì.
Những trạng thái tâm lý bệnh học trẻ em thường gặp là:
-

Hành vi gây rối và chống đối xã hội (những rối loạn bên ngoài) có

tỷ lệ

mắc là 3-5%.

-

Rối loạn cảm xúc (những rối loạn bên trong) có tỷ lệ gặp là 2-5%.

-

Những trở ngại tâm lý và rối loạn dạng cơ thể chiếm 1-3%.

-

Hiếm gặp hơn là các rối loạn tâm trí trẻ em và rối loạn sự phát triển
nói chung (bệnh tự kỷ) gặp 0,1%. [14]
Việc chăm sóc sức khỏe tâm trí cho trẻ em và trẻ vị thành niên là

một trong ba chương trình lớn của chăm sóc sức khỏe bao gồm phòng
chống tai nạn, chống nhiễm khuẩn và chăm sóc sức khỏe tâm trí. Các
tổn thương tâm trí luôn là một trong những gánh nặng bệnh tật cho xã
hội, nó chiếm tỷ lệ khoảng 12% trên tổng số bệnh [1].
Những rối loạn hành vi gây rối và chống đối xã hội thường gặp ở
trẻ trai nhiều gấp 2 đến 3 lần trẻ gái. Tỉ lệ giữa nam và nữ tương đồng


hơn với các rối loạn cảm xúc, trẻ gái lại hay gặp trầm cảm và chứng
biếng ăn nhiều hơn so với trẻ trai. Những rối loạn cảm xúc (lo âu, trầm
cảm) làm giảm sút đáng kể sự phát triển và khả năng học của trẻ. Các
rối loạn hành vi gây phá vỡ nghiêm trọng sự phát triển về mặt xã hội và

có thể dẫn tới mắc các chứng bệnh tinh thần về lâu dài.
Các báo cáo nghiên cứu gần đây cho thấy vấn đề sức khỏe tâm
trí có xu hướng gia tăng. Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới, trên
25% dân số thế giới bị rối loạn tâm trí và hành vi tại một thời điểm nào
đó trong cuộc đời[1]. Năm 1996, nghiên cứu về gánh nặng bệnh tật của
thế giới của Đại học Harvard, WHO và Ngân hàng thế giới cho biết
gánh nặng toàn cầu của các rối loạn tâm trí chiếm 10,5% gánh nặng
bệnh tật, tuy nhiên vẫn được cho là thấp hơn so với thực tế. Cũng trong
nghiên cứu này, ước tính gánh nặng bệnh tật do bệnh tâm trí và thần
kinh sẽ tăng lên với tốc độ cao hơn so với bệnh tim mạch và chiếm
khoảng 15% vào năm 2020 (WHO 1998).
Các số liệu nghiên cứu gần đây cho thấy tỷ lệ vị thành niên có
biểu hiện rối loạn tâm trí tại một số nước phát triển như Úc, Mỹ, Đức,
Thụy Sỹ, Tây Ban Nha đều trên 20% . Ở Trung Quốc, các nhà nghiên
cứu thấy rằng áp lực từ các kỳ thi chuyển cấp và gánh nặng học tập có
liên quan đến tình trạng sức khỏe tâm trí kém ở các học sinh Trung
Quốc [16], không những thế, áp lực học tập cao cũng có thể dẫn đến bạo
lực và các vấn đề phát triển [17].
Ở các nước phát triển, mặc dù có hệ thống cơ sở hỗ trợ tâm lý và
chăm sóc sức khoẻ thể chất và tâm trí lâu đời và phong phú, nhưng hầu
hết các trẻ em có nhu cầu hỗ trợ SKTT đều không được đáp ứng thoả
đáng [5]. Trong số những trẻ được đáp ứng thì phần lớn là thông qua hệ
thống trường học. Lý do là: 1/3 thời gian trong ngày của trẻ diễn ra ở
nhà trường. Nhà trường vốn từ trước đến nay luôn thực hiện vai trò nuôi


dưỡng, giáo dục trẻ, tức là đảm bảo cho trẻ một sự phát triển toàn diện
và hoàn thiện nhân cách. Do vậy, nhà trường luôn sẵn sàng tổ chức các
hoạt động trợ giúp, hỗ trợ các em khi gặp những khó khăn. Trên thực tế,
trẻ cũng có thể đến các phòng khám, trung tâm tư vấn để nhận được sự

hỗ trợ này nhưng thông thường khi đó, những khó khăn đã trở nên trầm
trọng hơn, có thể đã trở thành bệnh lý và nhiều người rất ngại đến các
phòng khám chăm sóc SKTT vì sợ bị định kiến, kì thị. Ngoài ra, lợi thế
trường học là khi thực hiện các hoạt động này cũng dễ dàng tiếp cận đến
số đông. Chính vì thế, ở nhiều nước, chính sách tăng cường cung cấp
các dịch vụ hỗ trợ SKTT đã quan tâm đến việc chuyển dịch và hướng
các hình thức chăm sóc, hỗ trợ truyền thống vào cơ cấu nhà trường.
1.5.2

Tình hình SKTT ở Việt Nam

Hiện nay ở nước ta đã bắt đầu có những công trình nghiên cứu về rối
nhiễu tâm trí ở tuổi vị thành niên. Kết quả cho thấy tình trạng đã ở mức
đáng lo ngại. Các rối loạn tâm trí thường được biểu hiện dưới dạng:
trầm cảm, lo âu, hoảng loạn, rối loạn hành vi… Trong một thời điểm
nào đấy, các em không đánh giá được hậu quả thực sự hành vi của mình.
Những điều này không mới với các bậc cha mẹ và thầy cô giáo, có điều
người lớn chưa chú ý đến những biểu hiện nguy cơ ở mức độ cần thiết.
Khi tai họa xảy ra thì đã muộn dù có cố gắng đi tìm nguyên nhân, tìm
người chịu trách nhiệm…
Mặc dù kết quả không hoàn toàn nhất quán, nhưng các nghiên cứu
cho thấy một xu hướng rõ ràng rằng tỉ lệ trẻ em Việt Nam gặp các vấn
đề sức khỏe tâm trí là đáng kể. Có thể kể đến các nghiên cứu về các vấn
đề sức khỏe của học sinh, điển hình như nghiên cứu của bệnh viện tâm
thần Mai Hương năm 2005 cho thấy tỉ lệ mắc các vấn đề sức khỏe tâm
trí của học sinh trong các quận nội thành là 19,46 % [18]. Hoàng Cẩm
Tú và Đặng Hoàng Minh nghiên cứu trên học sinh ở 2 trường THPT


Nguyễn Trãi (Hà Nội) và Vân Tảo (Hà Tây) cho thấy trẻ mắc các vấn đề

về sức khỏe tâm trí chiếm 22.55% [15]. Nghiên cứu của Trung tâm
nghiên cứu và đào tạo phát triển cộng đồng tiến hành tại 6 tỉnh trên cả
nước cho thấy tỉ lệ mắc các vấn đề sức khỏe tâm trí là 19,6%.
Tuy nhiên sau đó, một nghiên cứu khác của Ananda và Trần Tuấn
(2007) trên hai tỉnh miền Trung lại cho kết quả tỷ lệ trẻ mắc các vấn đề
sức khỏe tâm trí là 9% [19]. Nghiên cứu của Amstadter [19] đánh giá
mức độ các rối loạn tâm trí ở thanh thiếu niên Việt Nam, kết quả nghiên
cứu cho thấy có 9,1% thanh thiếu niên cho là có mắc phải các vấn đề về
tâm trí. Những nghiên cứu này cho thấy sự quan tâm chú ý của những
nhà chuyên môn đến các vấn đề sức khỏe tâm trí của trẻ em. Mckelvey
và cộng sự nghiên cứu tỷ lệ của các vấn đề hành vi, cảm xúc và các
điểm mạnh của trẻ từ độ tuổi 4 đến 18 sống tại Hà Nội. Kết quả nghiên
cứu cho thấy nếu dựa trên điểm tiêu chuẩn của Mỹ, từ độ tuổi 4 đến 11
có 5,3% trẻ nam và 7,7% ở trẻ nữ, từ độ tuổi từ 12 đến 18 có 9,5% trẻ
nam và 10,1% trẻ nữ được coi là mắc các vấn đề sức khỏe tâm trí.[20]
Điều tra quốc gia về thanh niên và vị thành niên lần thứ hai (SAVY 2)
cho biết, trong số 10039 thanh thiếu niên trả lời, có 73,1% người từng
có cảm giác buồn chán. Tỷ lệ thanh thiếu niên đã từng cảm thấy hoàn
toàn thất vọng về tương lai là 21,3% và có 4,1% đã từng nghĩ đến
chuyện tự tử. Có 78,9% thanh thiếu niên thành thị (trong tổng số 2465
người) đã từng cảm thấy buồn chán, cao hơn khoảng 7% so với tỷ lệ này
ở nông thôn. Tỷ lệ thanh thiếu niên thành thị cảm thấy thất vọng về
tương lai là 23,5%. Tỷ lệ này ở nông thôn là 20,6%. Trong số 4925 nữ
thanh thiếu niên, có 77,9% người đã từng trải qua cảm giác buồn chán.
Tỷ lệ này ở nam thanh thiếu niên là 68,4%. Đặc biệt, có 5,9% nữ thanh
thiếu niên đã từng nghĩ đến chuyện tự tử. Tỷ lệ này cao gấp hơn 2 lần so
với nam thanh thiếu niên [21].


Trong một nghiên cứu của sở y tế Hà Nội - Bệnh viện tâm thần Mai

Hương và trường đại học Melbourne của Úc được tiến hành gần đây
trong khuôn khổ dự án “Chăm sóc sức khỏe tâm thần học sinh trường
học tại Hà Nội” cho thấy có 15,94% em có rối nhiễu về tâm trí trong
tổng số học sinh các cấp. Lạm dụng chất gây nghiện đang tăng nhanh
trong thanh thiếu niên. Trong số các ca tự sát có tới 10% các em ở độ
tuổi từ 10 đến 16. Khảo sát ở 1202 học sinh tiểu học và trung học cơ sở
độ tuổi từ 10 đấn 16 có tới 19,46% học sinh có vấn đề về sức khỏe tâm
trí [18].
Sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội với tốc độ nhanh chóng đã làm
nảy sinh nhiều tác động lớn và làm tổn thương SKTT trẻ em, dẫn đến
các rối loạn stress, trầm cảm, tự tử, hành vi chống đối (như bỏ nhà, trốn
học, trộm cắp, hung dữ, tàn bạo, đánh nhau, phá vỡ các quy tắc xã
hội…), nghiện hút, mại dâm… Các hiện tượng trên ngày một gia tăng,
thậm chí đến mức báo động… và đã trở thành mối lo ngại chung cho
từng gia đình, tổ chức, nhà nước của nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt
Nam, với sự biến đổi của nền kinh tế thị trường, quá trình đô thị hoá, mở
rộng giao lưu văn hoá liên quốc gia, mỗi người dân nói chung và trẻ em
nói riêng đòi hỏi phải theo kịp sự phát triển của xã hội. Nảy sinh gia
tăng mâu thuẫn quan điểm giữa các thế hệ, mâu thuẫn giữa nhu cầu bản
thân và sự đáp ứng của xã hội, gia đình; cấu trúc gia đình bị phá vỡ,
chuẩn mực xã hội thay đổi… Đây là những stress tâm lý xã hội tác động
không nhỏ đến tâm lý và gây tổn thương SKTT của trẻ em vị thành niên.

CHƯƠNG 2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


2.1 Địa điểm và đối tượng nghiên cứu
2.1.1

Địa điểm nghiên cứu


Nghiên cứu được thực hiện tại 2 khu vực: thành thị, nông thôn miền Bắc
nước ta. Trong đó có hai quận huyện đại diện 2 khu vực
-

Đại diện thành thị: trường THPT dân lập Đống Đa, Quận Đống
Đa

-

Đại diện nông thôn: trường THPT dân lập Lương Thế Vinh, Huyện
Ba Vì

Tiêu chuẩn chọn trường tham gia nghiên cứu
-

Đồng ý tham gia vào nghiên cứu

-

Đại diện cho tỉnh, thành phố lựa chọn

2.1.2 Đối tượng nghiên cứu
-

Học sinh 2 trường ngoài công lập (dân lập và TT GDTX) của 2
quận huyện:

-


Giáo viên chủ nhiệm các lớp được chọn nghiên cứu



Tiêu chuẩn lựa chọn học sinh, giáo viên tham gia nghiên cứu

-

Học sinh các trường THPT ngoài công lập được lựa chọn vào
nghiên cứu

-

Thầy cô giáo chủ nhiệm lớp của các trường được chọn tham gia
nghiên cứu


Tiêu chuẩn loại trừ:


-

Những học sinh đã được xác định có mắc bệnh thần kinh hoặc thiểu
năng trí tuệ
-

Những học sinh không đồng ý tham gia nghiên cứu

-


Những học sinh vắng mặt trong thời gian nghiên cứu

-

Những giáo viên vắng mặt trong thời gian nghiên cứu

2.2 Phương pháp nghiên cứu
2.2.1

Thiết kế nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang
2.2.2
2.2.2.1

Cỡ mẫu và việc chọn mẫu

Cỡ mẫu: Cỡ mẫu cho nghiên cứu điều tra học sinh từng khối được tính
theo công thức tính cỡ mẫu cho một nghiên cứu tỷ lệ trong quần thể
Đơn vị chọn mẫu là học sinh:
Số học sinh được chọn cho một tỉnh là:
p(1-p)
n= Z2(1-α/2)------------------------(εp)2
Trong đó:
n: cỡ mẫu nghiên cứu.
α: Mức ý nghĩa thống kê.
Z1-α/2 : Giá trị Z được tra từ bảng ứng với giá trị α được chọn.



×