Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

Giải pháp tăng cường huy động vốn tạ ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh hà tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1012.55 KB, 136 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

TRẦN HIẾU

GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
NÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG SẢN XUẤT HÀNG HÓA
TẠI HUYỆN LẠC THỦY – TỈNH HÒA BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Hà Nội, 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

TRẦN HIẾU

GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
NÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG SẢN XUẤT HÀNG HÓA
TẠI HUYỆN LẠC THỦY – TỈNH HÒA BÌNH

Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp
Mã số: 60.62.01.15



LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Đình Hợi

Hà Nội, 2013



1

ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau 27 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo, nền kinh tế đất nước nói chung và nông nghiệp nước ta nói riêng đã đạt
được nhiều thành tựu to lớn và toàn diện. Từ một nền kinh tế lạc hậu, sản xuất
mang tính tự cấp, tự túc, thiếu lương thực triền miên đến nay về cơ bản đã
đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, có tỷ suất hàng hóa ngày càng cao,
nhiều mặt hàng có khối lượng xuất khẩu lớn, chiếm vị thế cao trong khu vực và
trên thế giới. Cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng đã
có sự chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa với nhiều loại nông sản chủ lực
phù hợp với điều kiện sinh thái của mỗi vùng, mỗi địa phương. Xu hướng chung
trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là phát triển nền nông nghiệp sản
xuất hàng hóa toàn diện, hình thành các vùng nông nghiệp tập trung, chuyên canh
gắn với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ, nhất là thị trường xuất khẩu.
Lạc Thuỷ là một huyện miền núi, có nhiều đồi núi và thung lũng rất
thuận lợi cho việc phát triển kinh tế rừng và trang trại. Bên cạnh đó hệ thống
giao thông liên thôn liên xã đã căn bản hoàn thành và có dòng Sông Bôi chạy
dọc quốc lộ 21A tạo điều kiện cho việc vận chuyển và giao lưu hàng hoá với
các huyện và tỉnh bạn. Điều kiện đất đai và khí hậu của Lạc Thủy rất thuận lợi

cho việc thâm canh cây lúa, trồng màu và trồng vụ đông trên đất lúa, hình
thành nên vùng chuyên canh hoa màu, rau như trồng đậu tương trên đất lúa,
rau vụ đông theo hướng sản xuất hàng hóa, có khả năng hình thành nên các
vùng chuyên canh lúa, màu và chăn nuôi. Là huyện miền núi nên huyện có
nhiều vùng đồi phù hợp với trồng rừng kết hợp với chăn thả các loại gia xúc
như dê, trâu, bò. Đó là điều kiện để hình thành các trang trại tổng hợp kết hợp
giữa lâm nghiệp và chăn nuôi tạo điều kiện phát triển kinh tế trang trại, kinh
tế hộ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế trong huyện và là điều kiện đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản suất hàng hóa.


2

Xuất phát từ những tiềm năng và lợi thế trong phát triển kinh tế cũng
như thực trạng phát triển của địa phương trong những năm qua Đảng bộ và
nhân huyện Lạc Thủy đã đề ra mục tiêu là đưa huyện Lạc Thủy phát triển
thành huyện công nghiệp của tỉnh. Để làm được điều này thì tại Đại hội
Đảng bộ huyện lần thứ XXII, XXIII đã đề ra mục tiêu đưa huyện Lạc Thủy
sớm trở thành huyện đi đầu trong phát triển công nghiệp của tỉnh và bước
đầu cho nhiệm vụ trên đó là huyện phải có một nền sản xuất hàng hóa phát
triển, hình thành những vùng chuyên canh về cây trồng, vật nuôi. Việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, một
mặt sẽ giúp cho việc xóa đói giảm nghèo, mặt khác còn giúp cho huyện dần
dần chuyển sang phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa. Nhưng để
thực hiện được điều đó thì còn gặp nhiều khó khăn trong việc triển khai
thực hiện các mục tiêu mà nghị quyết đã đưa ra. Bởi vì nhận thức của nhiều
cán bộ, đảng viên và nhân dân về việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp còn hạn chế, tổ chức chỉ đạo hiệu quả còn thấp. Một số xã chưa xác
định được phương hướng, mục tiêu và tìm ra giải pháp để thực hiện. Đây là
vấn đề cấp bách và bức xúc phải tìm cách tháo gỡ kịp thời nhằm thúc đẩy

nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản
xuất hàng hóa trên địa bàn huyện Lạc Thuỷ. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài
“Giải pháp thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
theo hướng sản xuất hàng hóa tại huyện Lạc Thuỷ, tỉnh Hoà Bình” là
vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa cả về khoa học và thực tiễn hiện nay.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Góp phần hệ thống hoá cơ sở lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói
chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng theo hướng sản xuất hàng hóa;
Nêu nên phương pháp nghiên cứu và thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của huyện trong những năm qua;


3

Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa trên địa bàn huyện
Lạc Thuỷ, tỉnh Hòa Bình.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Góp phần hệ thống hoá cơ sở lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói
chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng theo hướng sản xuất hàng hóa;
Nêu nên đặc điểm tình hình của huyện và phương pháp nghiên cứu.
Đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của huyện
trong những năm qua.
Đề xuất một số giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa trên địa bàn huyện Lạc Thủy trong
những năm tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp trong nội bộ ngành nông nghiệp huyện Lạc Thủy.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
+ Phạm vi về nội dung: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành của
huyện Lạc Thuỷ trong thời gian qua.
+ Phạm vi về không gian: Đề tài được tiến hành trên phạm vi huyện
Lạc Thuỷ, tỉnh Hòa Bình.
+ Phạm vi thời gian: Từ năm 2008 đến năm 2012.
4. Nội dung nghiên cứu
- Cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
theo hướng sản xuất hàng hóa.
- Phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo
hướng sản xuất hàng hóa tại huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình thời gian qua.
- Đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa tại huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình.


4

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CƠ CẤU KINH TẾ VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ
CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG SẢN XUẤT HÀNG HÓA

1.1. Cơ sơ lý luận về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa.
1.1.1. Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1.1.1.1. Khái niệm về cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế của một nước xét trên tổng thể bao gồm những mối liên
hệ tổng thể giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế của nước đó, bao gồm các
yếu tố kinh tế, các lĩnh vực kinh tế (sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng),
các ngành kinh tế (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ.,..) các khu vực kinh tế

(nông thôn, thành thị), các thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước, kinh tế tập
thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài). Ở mỗi vùng, mỗi ngành, mỗi thành phần kinh tế lại có cơ cấu riêng
tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội cụ thể.
Để có nền kinh tế phát triển với tốc độ tăng trưởng cao và ổn định tất
yếu phải có một cơ cấu kinh tế hợp lý. Cơ cấu kinh tế đó phản ánh được các
yêu cầu của quy luật khách quan: Quy luật tự nhiên, quy luật kinh tế, xã hội.
Trong việc hình thành và vận động của cơ cấu kinh tế, nhân tố chủ quan của
con người cũng có vai trò rất quan trọng. Việc nhận thức đầy đủ và ngày càng
sâu sắc của quy luật khách quan, người ta phân tích, đánh giá hiện trạng của
cơ cấu kinh tế, trên cơ sở đó tìm ra phương án xác lập cơ cấu kinh tế cụ thể và
lựa chọn phương án tối ưu có hiệu quả kinh tế-xã hội cao nhất trong những
điều kiện cụ thể của đất nước. Đồng thời qua đó tìm ra và thực hiện các giải
pháp hữu hiệu để đảm bảo cơ cấu kinh tế đó đi vào cuộc sống.
Lịch sử phát triển kinh tế xã hội của nhân loại đã cho thấy cơ cấu kinh tế


5

không phải một hệ thống tĩnh, bất biến mà luôn ở trạng thái vận động, không
ngừng biến đổi, phát triển và có sự chuyển dịch cần thiết phù hợp với những
thay đổi biến động của các điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội, cơ cấu
kinh tế cũng theo sự phát triển đó mà ngày càng hoàn thiện hơn. Theo đà phát
triển của xã hội, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, phân cong lao động
xã hội ngày càng sâu rộng, cơ cấu kinh tế cũng ngày càng tiến bộ.
Muốn xác lập cơ cấu kinh tế hợp lý, phù hợp với những mục tiêu, chiến
lược kinh tế - xã hội của các thời kỳ lịch sử nhất định, con người phải nghiên
cứu các quy luật tự nhiên và quy luật kinh tế - xã hội. Đó là sự đòi hỏi bức
thiết. Nghiên cứu hoạch định và dự báo cơ cấu kinh tế hiện tại và trong tương
lai là việc làm cần thiết của các nhà lý luận và những người quản lý. Từ đó

yêu cầu trước hết phải đặt ra là nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn các
chính sách vĩ mô, các mô hình kinh tế cụ thể, những vấn đề kinh tế vi mô. Từ
sự phân tích trên có thể khái quát cơ cấu kinh tế như sau: " Cơ cấu kinh tế là
một tổng thể các bộ phận hợp thành nền kinh tế của mỗi nước. Các bộ phận
đó gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và biểu hiện ở các
quan hệ tỷ lệ về số lượng, tương quan về chất lượng trong những không gian
và thời gian nhất định, phù hợp với những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định,
nhằm đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao "{1}.
1.1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự biến đổi về vị trí, vai trò, tỷ trọng và
tính cân đối vốn có giữa các yếu tố, các bộ phận của ngành, các vùng, các
thành phần kinh tế cho phù hợp với điều kiện lịch sử, kinh tế - xã hội và điều
kiện tự nhiên của một nước trong một giai đoạn nhất định.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình phức tạp, lâu dài, thậm chí
rất khó khăn nhưng trong quá trình chuyển dịch đó các mối quan hệ cũ dần
được cải biến theo những tỷ lệ phù hợp trong tất cả các ngành kinh tế cũng


6

như trong nội bộ một ngành kinh tế. Thông thường chuyển dịch cơ cấu kinh tế
chung diễn ra trước, sau đó mới đòi hỏi sự chuyển dịch trong nội bộ từng
ngành.
Quá trình chuyển dịch từ cơ cấu kinh tế cũ sang cơ cấu kinh tế mới
nhanh hay chậm còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có sự tác động của
con người có ý nghĩa quan trọng thông qua các giải pháp, các cơ chế quản lý
thích ứng để định hướng cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Sự nóng
vội hay bảo thủ, trì trệ trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đều gây
tác hại đến sự phát triển của nền kinh tế nói chung và kinh tế nông nghiệp
nói riêng.

1.1.2. Khái niệm cơ cấu kinh tế nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp
1.1.2.1. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Nền kinh tế quốc dân là một tổ hợp đa ngành, đa lĩnh vực. Trên góc độ
không gian lãnh thổ của mỗi nước, người ta phân chia ra thành kinh tế nông
thôn và kinh tế thành thị. Sự phân biệt giữa kinh tế nông thôn và kinh tế thành
thị dựa vào sự khác nhau về địa lý, gắn liền về trình độ phát triển lực lượng
sản xuất, phân công lao động xã hội và những đặc thù của các ngành. Khu
vực nông thôn bao gồm một không gian rộng lớn, ở đó cộng đồng dân cư sinh
sống và hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp ( theo nghĩa rộng) với
các hoạt động kinh tế - xã hội gắn liền với lĩnh vực đó. Kinh tế nông thôn
gồm các ngành liên quan mật thiết với nhau: Nông nghiệp, Lâm nghiệp, ngư
nghiệp và bao gồm cả công nghiệp, dịch vụ trong nông nghiệp, Các ngành
kinh tế đó liên quan chặt chẽ với nhau theo những tỷ lệ nhất định về số lượng
và liên quan chặt chẽ về mặt chất lượng.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một bộ phận của hệ thống cơ cấu kinh tế
quốc dân, phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế quốc dân, nhưng nó cũng mang tính


7

độc lập tương đối. Vậy cơ cấu kinh tế nông nghiệp được hiểu:
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là tổng thể các mối quan hệ theo tỷ lệ về số
lượng và chất lượng tương đối ổn định của các yếu tố kinh tế xã hội liên quan
đến sản xuất nông nghiệp trong một khoảng thời gian và không gian nhất
định{1}.
Cơ cấu kinh tế phản ánh quá trình phát triển, sự phù hợp, hợp lý trong
phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, mỗi nghành và mỗi thành phần kinh tế.
Muốn có một cơ cấu kinh tế hợp lý, cần có những biện pháp cụ thể nhằm
chuyển dịch cơ cấu đúng hướng để có thể khai thác tối đa những tiềm năng và

lợi thế của từng vùng, nghành và từng địa phương.
Việc xác lập cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý là một vấn đề cơ bản và
rất quan trọng để phát triển kinh tế xã hội trong nông nghiệp nói riêng và khu
vực kinh tế nông thôn nói chung. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp luôn tồn tại và
vận động không ngừng phát triển luôn gắn liền với tổng thể các mối quan hệ
kinh tế nhất định. Các bộ phận cấu thành của nó có mối quan hệ chặt chẽ tạo
những tỷ lệ nhất định kể cả lượng và chất giữa các ngành, giữa các vùng và
các thành phần kinh tế.
Hiện nay cơ cấu kinh tế nông nghiệp đang dần chuyển dịch theo hướng
tích cực, việc thay đổi tỷ lệ của các ngành, các mối quan hệ của hệ thống kinh
tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, tạo sự giao lưu kinh tế giữa
các vùng, tăng thu nhập và nâng cao đời sống cho người dân góp phần xứng
đáng vào phát triển nông nghiệp nông thôn và sự công nghiệp hóa - hiện đại
hóa đất nước.
- Đặc trưng của cơ cấu kinh tế nông nghiệp:
+ Cơ cấu kinh tế nông nghiệp mang tính khách quan.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp tồn tại và phát triển phụ thuộc vào trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Mỗi một


8

trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội
tương ứng với một cơ cấu kinh tế nông thôn cụ thể. C. Mác nói " Trong sự
phân công lao động xã hội thì con số tỷ lệ là tất yếu không ai tránh khỏi, một
sự tất yếu thầm kín, yên lặng". Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và cơ cấu kinh tế
cụ thể trong hệ thống kinh tế nông nghiệp cũng như xu hướng chuyển dịch
của chúng ra sao tùy thuộc vào những điều kiện kinh tế xã hội, những điều
kiện tự nhiên nhất định mà không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con
người. Tuy nhiên các quy luật kinh tế lại được biểu hiện và vận động thông

qua hoạt động của con người. Vì vậy con người phải nhận thức đầy đủ các
quy luật kinh tế cũng như các ngành tự nhiên để từ đó góp phần vào việc hình
thành, biến đổi và phát triển cơ cấu kinh tế nông nghiệp sao cho cơ cấu đó
ngày càng hợp lý và đem lại hiệu quả cao. Trong điều kiện hội nhập kinh tế
khu vực và thế giới hiện nay, cơ cấu kinh tế còn bị chi phối bởi sự phát triển
kinh tế chung của vùng và của thế giới. Như vậy, việc hình thành và vận động
của cơ cấu kinh tế nông nghiệp đòi hỏi phải tôn trọng khách quan và không
được áp đặt chủ quan, duy ý chí.
+ Cơ cấu kinh tế nông nghiệp không cố định mà luôn luôn vận động và
biến đổi.
Sự vận động của cơ cấu kinh tế nông nghiệp luôn gắn liền với điều kiện
kinh tế - xã hội, điều kiện tự nhiên và tiến bộ khoa học và công nghệ mới. Sự
tác động của các điều kiện đó làm cho các bộ phận kinh tế trong hệ thống
kinh tế nông nghiệp biến đổi, tác động lẫn nhau, tạo ra một cơ cấu kinh tế
nông nghiệp mới. Cơ cấu ấy vận động và phát triển, đến lượt nó phải nhường
chỗ cho một cơ cấu khác ra đời. Tuy vậy để đảm bảo cho quá trình hình
thành, vận động và phát triển cơ cấu kinh tế nông nghiệp một cách khách
quan, yêu cầu đặt ra là cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải đảm bảo tương đối ổn
định. Nếu cơ cấu kinh tế nông nghiệp thường xuyên thay đổi, xáo trộn sẽ làm


9

cho các quá trình sản xuất kinh doanh không ổn định, quá trình đầu tư lúng
túng, lưu thông hành hóa trở ngại, làm cho kinh tế nông nghiệp, nông thôn
phát tiển què quặt và phiến diện, gây lãng phí, tổn thất cho nền kinh tế.
+ Cơ cấu kinh tế nông nghiệp mang tính hợp tác và cạnh tranh.
Trong việc lựa chọn một cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý, có hiệu quả
cao phải xem xét đầy đủ các yếu tố từ bên ngoài ảnh hưởng đến việc hình
thành cơ cấu kinh tế và mối liên hệ giữa các yếu tố bên trong và bên ngoài. Sự

gắn bó được biểu hiện trong quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội, trong việc bố trí sản xuất, hoạch định các chính sách, ứng dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật và công nghệ mới, tổ chức quá trình sản xuất kinh doanh
chế biến và tiêu thụ sản phẩm...
+ Cơ cấu kinh tế nông nghiệp được hình thành và phát triển trên cơ sở
của điều kiện tự nhiên và mức độ khai thác cải tạo điều kiện tự nhiên.
Sản xuất nông nghiệp luôn gắn liền với điều kiện tự nhiên, vì vậy cơ cấu
kinh tế nông nghiệp chịu ảnh hưởng rất nhiều của điều kiện tự nhiên. Một nền
nông nghiệp hay một cơ cấu kinh tế nông nghiệp hiệu quả là phải đạt năng
suất cây trồng, vật nuôi cao, chất lượng sản phẩm tốt và với chi phí thấp nhất
có thể trên một đơn vị sản phẩm. Muốn vậy phải lợi dụng tối đa các yếu tố
của điều kiện tự nhiên tham gia vào quá trình sản xuất. Cơ cấu kinh tế nông
nghiệp chuyển dịch theo xu hướng ngày càng lợi dụng được điều kiện tự
nhiên có lợi nhất.
+ Cơ cấu kinh tế nông nghiệp hình thành và biến đổi gắn liền với sự ra
đời và phát triển của một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa.
Kinh tế nông nghiệp trải qua một quá trình phát triển từ nền kinh tế sinh
tồn sang kinh tế tự cung tự cấp, sự biến đổi của cơ cấu kinh tế nông nghiệp rất
chậm chạp và trì trệ. Từ khi chuyển sang nền kinh tế sản xuất hàng hóa thì cơ
cấu kinh tế nông nghiệp mới được hình thành đa dạng và hiệu quả hơn.


10

1.1.2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nghiệp là quá trình làm biến đổi cấu trúc và
các mối quan hệ tương tác trong hệ thống theo những định hướng và mục tiêu
nhất định tới trạng thái phát triển tối ưu để đạt được hiệu quả mong muốn,
thông qua sự điều khiển có ý thức của con người, trên cơ sở vận dụng đúng
đắn các quy luật khách quan [1].

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một quá trình tất yếu. Nhưng
quá trình đó không phải là quá trình vận động tự phát, mà con người cần phải
có tác động để thúc đẩy quá trình chuyển dịch này nhanh và hiệu quả hơn.
Trên cơ sở nhận thức và nắm bắt được quy luật vận động khách quan, con
người tìm và đưa ra các biện pháp đúng đắn tác động để làm cho quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra đúng mục tiêu và định hướng đã vạch ra.
Mục tiêu của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là tạo ra một hệ
thống các tiểu ngành nông nghiệp phù hợp điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội
của mỗi vùng. Kết quả của sự chuyển dịch là tạo được mối quan hệ hữu cơ
tương hỗ giữa các ngành trong nội bộ ngành nông nghiệp với các ngành khác
sao cho phù hợp có hiệu quả. Nó góp phần tác động tích cực tới quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
1.1.3. Sản xuất hàng hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
theo hướng sản xuất hàng hóa.
- Hàng hóa và sản xuất hàng hóa, tỷ suất nông sản hàng hóa
Hàng hóa:
Hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn một nhu cầu nào đó
của con người và dùng để trao đổi với nhau. Hàng hóa có hai thuộc tính: Giá
trị và giá trị sử dụng [2]. Như vậy một sản phẩm sản xuất ra được đem trao
đổi thì được coi là hàng hóa, và muốn trao đổi được thì hàng hóa đó phải có
một giá trị nhất định (giá trị của hàng hóa), sản phẩm đó phải đáp ứng nhu cầu


11

của người sử dụng (giá trị sử dụng). Sản phẩm, hàng hóa trao đổi trên thị
trường chịu sự chi phối của hai quy luật: Quy luật cung cầu và quy luật cạnh
tranh.
Sản xuất hàng hóa:
Sản xuất hàng hóa đánh dấu một mốc quan trọng trong tiến trình phát

triển kinh tế của mỗi nước. So với nền kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp, kinh
tế hàng hóa có những ưu việt nổi bật. Trong nền sản xuất hàng hóa, sản phẩm
sản xuất ra là để bán nên nó chịu sự chi phối của các quy luật giá trị, quy luật
cung cầu và quy luật cạnh tranh, buộc các tập thể sản xuất, người sản xuất,
phải tổ chức lại sản xuất, cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất và chất lượng sản
phẩm, hạ giá thành sản phẩm, thay đổi mẫu mã cho phù hợp với tiêu dùng của
xã hội. Từ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, đẩy nhanh quá trình xã
hội hóa sản xuất và càng tạo điều kiện cho nền sản xuất công nghiệp hóa hiện
đại hóa ra đời. Kinh tế hàng hóa ra đời và tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế
xã hội gắn liền với hai điều kiện: Sự phân công lao động xã hội và các hình
thức sở hữu. Phân công lao động xã hội ngày càng phát triển cả về chiều rộng
lẫn chiều sâu (hợp tác kinh tế quốc tế và khu vực, thị trường chung, hội nhập
kinh tế quốc tế...). Hình thức sở hữu cũng được thay đổi để phù hợp với sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Sự chuyên môn hóa và phân công hợp tác
quốc tế đã trở thành một yêu cầu tất yếu ngay cả trong sản xuất nông nghiệp.
Ở nước ta kinh tế hàng hóa đã ra đời nhưng vẫn ở dạng sản xuất hàng hóa nhỏ
và đang từng bước thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển theo hướng hiện đại.
Sản xuất hàng hóa không chỉ dựa trên điều kiện tự nhiên, kinh tế, kỹ thuật mà
đã tính đến khả năng liên kết quốc tế. Chính sự giao lưu và hợp tác quốc tế đã
làm cho kinh tế hàng hóa của nước ta có những bước phát triển mới.
Tỷ suất nông sản hàng hóa
Để đo lường trình độ sản xuất và trao đổi hàng hóa có thể dùng chỉ tiêu"


12

Tỷ suất nông sản hàng hóa". Tỷ suất nông sản hàng hóa là tỷ lệ phần trăm giữa
tổng lượng nông sản hàng hóa với tổng lượng nông sản phẩm sản xuất ra.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo nghĩa hẹp thường gắn với cách nhìn

theo góc độ của nội bộ ngành nông nghiệp như quan hệ giữa trồng trọt và
chăn nuôi; mối quan hệ giữa sản xuất – chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy,
cơ cấu kinh tế nông nghiệp còn được hiểu trong mối quan hệ giữa sản xuất,
chế biến và các hoạt động dịch vụ nông nghiệp. Do đó, cơ cấu kinh tế nông
nghiệp còn phản ánh các mối quan hệ được xác lập theo một tỷ lệ cân đối cả
về số lượng và chất lượng giữa các khâu của quá trình tái sản xuất nông
nghiệp. Trong đó, khâu sản xuất nông nghiệp là khâu quyết định, nhưng khâu
chế biến cũng rất quan trọng, vì nó làm tăng giá trị của sản phẩm nông
nghiệp, với tư cách là cầu nối giữa sản xuất và chế biến, dịch vụ vừa cung cấp
các yếu tố đầu vào lại vừa là nơi tiêu thụ sản phẩm cho người sản xuất và
người chế biến. Duy trì các mối quan hệ giữa sản xuất - chế biến - dịch vụ
không những đảm bảo cho sản xuất nông nghiệp diễn ra bình thường mà còn
làm tăng giá trị tổng sản lượng nông nghiệp, tăng giá trị sản xuất hàng hóa và
nhất là tăng giá trị nông sản xuất khẩu.
Để đánh giá được hiệu quả của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp phải sử dụng một hệ thống các chỉ tiêu như: Cơ cấu GDP, cơ cấu lao
động, cơ cấu vốn đầu tư, cơ cấu sử dụng đất, năng suất cây trồng vật nuôi,
năng suất lao động... Để đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa cần sử dụng các chỉ tiêu tỷ suất nông
sản hàng hóa và các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông
nghiệp. Căn cứ vào mục tiêu, phạm vi nghiên cứu và nguồn tài liệu cho phép
mà lựa chọn chỉ tiêu phù hợp để phân tích làm rõ vấn đề cần nghiên cứu. Tính
quy luật của sự biến đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp: Tỷ trọng nông nghiệp


13

trong cơ cấu kinh tế ngày càng giảm, lao động nông nghiệp cũng ngày giảm
cả về tương đối và tuyệt đối, trong ngành nông nghiệp thì lao động trong khu
vực sản xuất lương thực cũng giảm cả về tương đối và tuyệt đối.

* Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nghiệp theo hướng sản
xuất hàng hóa.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa
nhằm đáp ứng sự phát triển của nền kinh tế thị trường, phù hợp với nhu cầu
của người tiêu dùng và xu thế phát triển kinh tế hội nhập quốc tế. Thực trạng
kém phát triển của nền kinh tế nước ta trong quá trình chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường, ngành nông nghiệp đang phải hứng chịu và đối mặt với
nhiều thách thức, bởi vì trong nền kinh tế thị trường thì thị trường luôn là yếu
tố quyết định cho sự phát triển kinh tế và đặc biệt nó sẽ ảnh hưởng quyết định
đến việc hình thành và biến đổi cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu nông
nghiệp nói riêng. Trong khi xã hội không ngừng phát triển, nhu cầu của con
người về nông phẩm theo đó cũng tăng lên cả về số lượng, chất lượng, chủng
loại, giá cả.... Chính yêu cầu đòi hỏi của thị trường, buộc sản xuất phát triển
thì cơ cấu kinh tế nông nghiệp càng phải biến đổi phong phú và đa dạng hơn.
Đương nhiên, nền kinh tế thị trường có thể thừa nhận những cơ cấu kinh tế
hiệu quả, nghĩa là cơ cấu đó có khả năng đem lại lợi nhuận và thu nhập cao
nhất cho người sản xuất.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp mang lại lợi ích kinh
tế ngày càng cao cho nông dân phù hợp với nguyện vọng thiết thực của họ.
Mặt khác, với nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng hiện nay về nông
sản thì chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp nhằm đáp ứng tốt nhu cầu
thiết yếu của thị trường về các mặt hàng nông sản phẩm góp phần tích cực
phát triển nền kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân và ổn định chính trị - xã
hội.


14

- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa
là điều kiện yêu cầu mở rộng thị trường, hòa nhập kinh tế khu vực và thế giới.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa
bền vững chính là điều kiện và yêu cầu để mở rộng thị trường nhằm cung cấp
một khối lượng nông sản hàng hóa ổn định cho xã hội, nguyên liệu cho công
nghiệp, hàng hóa cho xuất khẩu nhằm mở rộng thị trường trong nước và quốc
tế. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn trên cơ sở
vật chất kỹ thuật trong nông nghiệp và phục vụ nông nghiệp được đổi mới và
tăng cường làm cho sức sản xuất đạt mức tăng trưởng và ổn định. Một số
ngành nghề và dịch vụ phát triển đã thu hút một lượng lao động nông nghiệp
sang các ngành nghề khác, bởi vì quá trình chuyển dịch sẽ thay đổi cơ cấu sản
xuất hợp lý hơn, tiến bộ kỹ thuật được áp dụng do đó ỷ lệ lao động của ngành
nông nghiệp giảm đi nhưng giá trị tuyệt đối ngành đó vẫn đạt mức sản xuất
cao. Khi đời sống nông dân được nâng lên thì đây cũng chính là nơi tiêu thụ
các sản phẩm công nghiệp và sản phẩm nông nghiệp đã qua chế biến. Công
nghiệp chế biến và dịch vụ thương mại phát triển lại là địa bàn thu hút lao
động nông nghiệp. Hàng hóa nông sản phẩm có điều kiện vươn ra thị trường
thế giới.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất
hàng hóa tạo cơ sở cho việc hay đổi môi trường kinh tế xã hội nông thôn nói
chung và bộ mặt nông thôn nói riêng. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế sản xuất
nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa và bền vững đòi hỏi nông nghiệp
nông thôn phải huy động tối đa các nguồn lực để xây dựng, phát triển hệ
thống kết cấu hạ tầng nông thôn ( từ các nguồn hỗ trợ của ngân sách nhà
nước, các tổ chức quốc tế và huy động nội lực trong dân...), giao thông nông
thôn được cải thiện và mở rộng, mạng lưới điện nông thôn được phát triển
phục vụ , cho sản xuất và sinh hoạt, công trình phúc lợi được sửa sang và xây


15

dựng mới đã nâng cao hơn đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân. Y tế,

giáo dục ở nông thôn cũng được đầu tư vừa nâng cao sức khỏe vừa nâng cao
dân trí. Việc nâng cao dân trí sẽ giúp cho nông dân đươc tiếp xúc với những
tiến bộ khoa học kỹ thuật và nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy, việc chuyển
dich cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn đã và đang từng bước góp phần
tích cực tới quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và đô thị hóa
nông thôn, xây dựng nông thôn mới.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất
hàng hóa tạo ra một nền sản xuất chuyên môn hóa, thâm canh cao và các liên
kết ngành nghề chặt chẽ nhau hơn. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp nhằm tạo ra một nền sản xuất chuyên môn hóa cao, thâm canh tạo ra
nhiều nông sản hàng hóa có chất lượng. Những sản phẩm truyền thống và
ngành nghề truyền thống có thương hiệu của vùng được khai thác, được
chuyên môn hóa sản xuất theo vùng có lợi thế nhất. Những tiến bộ khoa học
kỹ thuật công nghệ mới được áp dụng, tạo cho sản xuất một bước nhảy vọt cả
về số lượng và chất lượng. Từ sản phẩm của một vùng, từ chưa có thị trường
ổn định và thương hiệu để cạnh tranh trên thị trường đòi hỏi phải gắn sản xuất
với chế biến, hình thành các hiệp hội, tạo ra thương hiệu đủ sức cạnh tranh
trên thị trường thế giới.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa
góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Phát triển
nông nghiệp hàng hóa cũng xuất phát từ yêu cầu CNH,HĐH; đảm bảo vững
chắc nhu cầu lương thực, thực phẩm cho nhân dân; nguyên, vật liệu cho công
nghiệp chế biến, tăng nhanh khối lượng nông sản xuất khẩu; giải quyết công
ăn việc làm để tăng thu nhập cho nông dân, từ đó mở rộng thị trường sản
phẩm và dịch vụ công nghiệp; bổ sung lực lượng lao động cho các ngành
công nghiệp và nông nghiệp phát triển sẽ góp phần tích lũy vốn cho CNH,


16


HĐH. Nền kinh tế nước ta còn nghèo, khả năng đầu tư của nhà nước có hạn (
vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý...) của các thành phần kinh tế để phục vụ
cho sự nghiệp CNH,HĐH. Thực tế cho thấy vốn tiềm tàng trong nhân dân khá
lớn, vốn của kiều bào ở nước ngoài có thể kêu gọi để đầu tư xây dựng đất
nước không phải là nhỏ, điều quan trọng là nhà nước phải có hướng đầu tư
vào đâu, chính sách giải quyết mối quan hệ lợi ích cho phù hợp. Phát triển nền
kinh tế hàng hóa trên một nền kinh tế mở, nhiều thành phần, xây dựng được
thương hiệu, có thị trường ổn định, có đội ngũ nhân lực tiếp thu được tiến bộ
khoa học kỹ thuật mới sẽ là sức hút công nghệ lớn từ nước ngoài ( thị trường
tiêu thụ và kiều hối). Chiến lược CNH hướng về sản xuất các sản phẩm chế
biến thay thế sản phẩm nhập khẩu nâng cao chất lượng sản phẩm trong nước
thông qua chế biến và hạ giá thành để xuất khẩu. Để thực hiện được chiến
lược CNH nêu trên tất nhiên phải mở rộng sản xuất và giao lưu hàng hóa, phát
huy ưu thế từng ngành, từng địa phương, từng cơ sở sản xuất...; mở rộng nông
nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, công nghiệp cơ khí chế tạo điện tử, dầu
khí nhằm vừa thỏa mãn nhu cầu trong nước vừa tập trung nguồn hàng xuất
khẩu lớn, hướng về xuất khẩu cần nghiên cứu xu thế rõ các đối tác để có
chiến lược, sách lược khôn khéo. Ngoài ra, cần đẩy mạnh hợp tác liên doanh
với nước ngoài thông qua thành lập công ty, khu chế xuất, khu công nghiệp
kỹ thuật cao. Tất cả các công việc trên đều nhằm thu hút vốn đầu tư, tích tụ
vốn, tiếp nhận công nghệ, kinh nghiệm quản lý, nhập vật tư thiết bị tiên tiến
cho phép chúng ta mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao trình độ sản xuất với
khối lượng lớn hàng hóa lớn, chất lượng cao có sức cạnh tranh trên thị trường
trong nước và thế giới.
1.1.4. Nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng
sản xuất hàng hóa
Thực hiện quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở bất kỳ quốc


17


gia nào cũng bắt đầu từ một cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý. Cơ cấu đó
phải đảm bảo khai thác tối ưu lợi thế và khả năng của mỗi nước, mỗi vùng
miền phù hợp với quá trình và chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là sự biến đổi có mục đích dựa trên cơ sở
phân tích các căn cứ lý luận và thực tiễn cùng với việc áp dụng đồng bộ các
giải pháp cần thiết để chuyển đổi từ một cơ cấu bất hợp lý sang cơ cấu hợp lý
hơn nhằm góp phần phát triển kinh tế - xã hội nói chung và kinh tế nông
nghiệp nói riêng. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp cần thực hiện đồng
bộ các nội dung trong quá trình chuyển dịch để phát triển một nền nông
nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa bao gồm: Chuyển dịch cơ cấu các
ngành kinh tế nông nghiệp; chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành; chuyển
dịch cơ cấu vùng; cơ cấu thành phần kinh tế tham gia trong nông nghiệp và cơ
cấu kỹ thuật.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành kinh tế nông nghiệp
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp theo nghĩa rộng (bao
gồm nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản)
Trong nông nghiệp không chỉ bao gồm ngành trồng trọt và chăn nuôi nó
còn gồm cả ngành lâm nghiệp, thủy sản và dịch vụ nông nghiệp. Do vậy trong
cơ cấu ngành còn phải xét tới sự chuyển dịch của ngành lâm nghiệp, thủy sản
và ngành dịch vụ. Cơ cấu ngành của KTNN bao gồm các nhóm ngành trồng
trọt, chăn nuôi, dịch vụ nông nghiệp và lâm nghiệp. Trong mỗi nhóm ngành
lại được chia thành những ngành hẹp hơn. Trong trồng trọt lại chia thành cây
lương thực, cây công nghiệp, cây thực phẩm, cây ăn quả, cây dược
liệu…Trong lĩnh vực chăn nuôi được phân chia thành: đại gia súc, tiểu gia
súc, gia cầm…Kinh nghiệm trong nước và thế giới cho thấy chuyển dịch cơ
cấu KTNN mang tính qui luật: từ trồng trọt mở ra lâm nghiệp, ngư nghiệp,
chăn nuôi, sản xuất hàng hóa. Trong một thời gian khu vực kinh tế nước ta



18

chậm chuyển biến, nông nghiệp chiếm vị trí chủ yếu, cơ cấu chậm chuyển
dịch nguyên nhân chủ yếu là lực lượng sản xuất kém phát triển, năng suất lao
động thấp, phân công lao động chưa cụ thể sâu sắc nên tình trạng thiếu lương
thực kéo dài. Từ thập kỷ 90 trở lại đây sản xuất nông nghiệp đạt được thành
tựu to lớn, dư thừa lương thực để xuất khẩu, do vậy làm cho cơ cấu KTNN
chuyển dịch nhanh chóng theo hướng hiệu quả. Những nước có trình độ kém
phát triển nông nghiệp chiếm đại bộ phận trong nền kinh tế thì sự phát triển
của lực lượng sản xuất đặc biệt là tiến bộ khoa học kỹ thuật ứng dụng vào
làm cho cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh chóng theo hướng CNH,HĐH.
Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp theo nghĩa hẹp
Trong nông nghiệp truyền thống, bao gồm 2 ngành: trồng trọt và chăn
nuôi. Trong nội bộ từng ngành trồng trọt và chăn nuôi lại tiếp tục phân chia
thành những ngành chuyên môn. Chẳng hạn, trong ngành trồng trọt phân chia
thành các ngành, như: ngành sản xuất lương thực; ngành trồng cây công
nghiệp; cây ăn quả.v.v. Trong từng ngành đó lại tiếp tục phân chia thành
những ngành chuyên môn hóa hẹp hơn gắn với từng loại nông sản hàng hóa
sản xuât ra như: lúa gạo, rau chè, cà phê, cao su.v.v. Trong ngành chăn nuôi
được phân chia thành các ngành như: chăn nuôi trâu bò, chăn nuôi lợn, gia
cầm.v.v. Các ngành chăn nuôi đó lại tiếp tục phân chia thành các ngành
chuyên môn hóa hẹp để đi sâu sản xuất những sản phẩm mà thị trường có nhu
cầu, như thịt, trứng, sữa.v.v.
Hiện nay chăn nuôi và trồng trọt nhờ đưa các tiến bộ khoa học và công
nghệ vào trong quá trình sản xuất nên năng xuất, chất lượng của sản phẩm
ngày càng tăng. Ngành chăn nuôi hiện nay đang tăng dần về quy mô, tỷ trọng
so với ngành trồng trọt, điều này cũng phù hợp với xu hướng phát triển nông
nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa.
- Chuyển dịch cơ cấu vùng



19

Theo kinh tế chính trị của Mác-Lênin thì sự phân công lao động theo
ngành kéo theo sự phân công lao động theo vùng lãnh thổ. Sự phân công lao
động theo ngành bao giờ cũng diễn ra trên những vùng lãnh thổ nhất định.
Như vậy, xác định cơ cấu vùng lãnh thổ là bố trí các ngành sản xuất và dịch
vụ theo không gian và địa điểm cụ thể, phù hợp nhằm khai thác tối ưu mọi ưu
thế, tiềm năng to lớn của mỗi vùng, lãnh thổ. Hình thành các vùng chuyên
môn hóa và sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn, có hiệu quả cao, mở
rộng mối quan hệ với các vùng chuyên môn hóa khác gắn với cơ cấu kinh tế
của cả nước và của mỗi miền.
Để hình thành các vùng sản xuất chuyên môn hóa tập trung mang lại
hiệu quả kinh tế cao, trước hết cần hướng vào những vùng có lợi thế so sánh
về sự thuận lợi trong việc phát triển từng loại cây con cụ thể, vị trí địa lý, giao
thông thuận lợi, có điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ và thị trường các yếu
tố đầu vào, thuận lợi cho việc mở rộng giao lưu kinh tế với các vùng trong và
ngoài khu vực, trong nước cũng như trên thế giới để có thể tiếp cận một cách
nhanh nhất những phát triển của thị trường hàng hóa và dịch vụ.
- Chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế trong nông nghiệp
Cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế cũng là một nội dung hết sức
quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu
kinh tế nông nghiệp nói riêng. Cần đẩy mạnh việc đa dạng hóa các thành phần
kinh tế tham gia trong nông nghiệp nhằm phát triển một nền nông nghiệp hiện
đại, đa dạng theo hướng sản xuất hàng hóa bền vững.
Tiếp tục phát huy quan điểm nền kinh tế nhiều thành phần trong lĩnh vực
nông nghiệp, nông thôn, trong đó khẳng định thành phần kinh tế hộ nông dân
tự chủ là đơn vị sản xuất kinh doanh chính, là lực lượng chủ yếu, trực tiếp tạo
ra các sản phẩm nông-lâm-thủy sản cho nền kinh tế quốc dân mà Đại hội
Đảng đã đề ra.



20

1.1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa
Nông nghiệp có cơ cấu nội tại phức tạp, sự hình thành và vận động của
cơ cấu nông nghiệp phụ thuộc vào nhiều nhân tố nhưng nhìn chung có 3
nhóm nhân tố ảnh hưởng chủ yếu là: Nhóm nhân tố về điều kiện tự nhiên;
nhóm các nhân tố kinh tế-xã hội; nhóm nhân tố về tổ chức - kỹ thuật…
- Nhóm nhân tố về điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên về đất đai, khí hậu, vị trí địa lý có ảnh hưởng rất rõ
dệt tới sự phát triển của nông nghiệp (theo nghĩa rộng gồm cả nông, lâm, ngư
nghiệp) qua nông nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến các ngành khác.
Nhóm nhân tố này bao gồm: Vị trí địa lý của vùng lãnh thổ, điều kiện
đất đai của các vùng: Điều kiện khí hậu, thời tiết, các nguồn tài nguyên khác
của vùng lãnh thổ như: Điều kiện khí hậu, thời tiết, các nguồn tài nguyên khác
của vùng lãnh thổ như: Nguồn nước, rừng, biển…Các nhân tố tự nhiên trên
tác động một cách trực tiếp tới sự hình thành, vận động và biến đổi cơ cấu
kinh tế nông nghiệp. Tuy nhiên sự tác động và ảnh hưởng của điều kiện tự
nhiên tới mỗi nội dung của cơ cấu kinh tế là không giống nhau.
Trong nội dung của cơ cấu kinh tế nông nghiệp thì cơ cấu ngành, cơ cấu
vùng lãnh thổ chịu sự ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên tới mỗi nội dung của
cơ cấu kinh tế là không giống nhau.
Đất đai là cơ sở tự nhiên, là tiền đề đầu tiên của mọi quá trình sản
xuất nhất là đối với nông nghiệp nó là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể
thay thế được.
Quy mô và cơ cấu sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất lớn vào quỹ đất
nông nghiệp trong tổng quỹ đất tự nhiên cũng như độ phì nhiêu và cấu tạo thổ
nhưỡng.



21

Để xác định cơ cấu sản xuất, đất đai có thể được phân loại dưới nhiều
góc độ khác nhau: theo vùng địa hình thì có thể chia thành vùng ven biển, nội
đồng, bán sơn địa, vùng núi thấp, vùng núi cao; theo đặc điểm các loại đất có
thể chia đất phù sa, đất xám bạc màu, đất phèn, đất cát biển, đất nâu đỏ…Mỗi
vùng, mỗi loại đất thích hợp với các loại cây trồng và vật nuôi khác nhau. Do
vậy, tùy vào điều kiện đất đai của từng vùng mà có cơ cấu ngành nông nghiệp
thích hợp.
Khí hậu, thời tiết là nguồn tài nguyên liên quan và là tác nhân ảnh hưởng
rất lớn đến các ngành kinh tế quốc dân. Đặc biệt là lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp. Sự phân bố các yếu tố ánh sáng, nhiệt độ, các loại thời tiết, không
những liên quan đến cơ cấu năng suất cây trồng mà còn đến cả số lượng mùa
vụ cây trồng, vật nuôi trong năm. Ở mỗi vùng lãnh thổ với điều kiện thời tiết,
khí hậu (lượng mưa, nhiệt độ, độ ẩm…) khác nhau thì hệ sinh thái sẽ khác
nhau về quy mô số lượng các phân ngành của nông, lâm, ngư nghiệp dẫn tới
sự khác nhau của cơ cấu ngành.
Ở nước ta với hai mùa mưa và mùa khô, quanh năm cây trồng phát triển
thuận lợi. Tuy nhiên, trong mùa mưa các loại cây trồng phát triển mạnh hơn
nhất là những nơi có khí hậu khô nóng hay vào mùa đông lạnh với những đợt
gió mùa Đông bắc, nhiều loại cây trồng không thích ứng được nhưng cũng có
một số cây trồng thích ứng tốt, phát triển bình thường.
Ngoài ra, điều kiện thủy văn cũng chi phối mạnh cơ cấu ngành nông
nghiệp. Vùng đồng bằng, mưa nhiều lúa nước chiếm ưu thế, ở những vùng
cao nguyên, thiếu nước thì thích hợp với các cây công nghiệp dài ngày.
Trong mỗi quốc gia các vùng lãnh thổ với vị trí địa lý khác nhau có điều
kiện đất đai, điều kiện khí hậu các nguồn tài nguyên khác (nước, rừng,
biển…) và hệ sinh thái khác về số lượng và quy mô các phân ngành chuyên

ngành sâu của nông lâm ngư nghiệp, giữa các vùng có sự khác nhau, dẫn tới


22

sự khác nhau của cơ cấu ngành. Điều này được thể hiện rõ rệt từ sự phân biệt
về cơ cấu ngành kinh tế trong nông nghiệp giữa các vùng đồng bằng, trung du
miền núi. Ngay giữa các vùng cơ cấu kinh tế các ngành cũng có sự khác biệt
rõ rệt, do tính đa dạng và phong phú của tự nhiên nước ta và sự phát triển
không đồng đều của nguồn lực. Một số vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi
để phát triển một số ngành sản xuất, tạo ra các lợi thế so với các vùng khác
của đất nước. Đây là cơ sở tự nhiên để hình thành các vùng kinh tế.
- Nhóm các nhân tố kinh tế-xã hội
Các nhân tố kinh tế xã hội ảnh hưởng tới cơ cấu kinh tế nông nghiệp bao
gồm: vốn, cơ sở hạ tầng trong nông nghiệp, sự phát triển của các khu công
nghiệp và đô thị; thị trường (thị trường trong và ngoài nước); hệ thống các
chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước; kinh nghiệm, tập quán và truyền
thống sản xuất của dân cư…
+ Về vốn cho sản xuất và điều kiện cơ sở hạ tầng trong nông nghiệp
Muốn đảm bảo tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông
nghiệp lâu dài, bền vững và chất lượng cao thì việc đảm bảo tiền vốn là rất
quan trọng. Vốn đầu tư trong nông nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tư liệu
lao động và đối tượng lao động được đầu tư vào sản xuất nông nghiệp.
Các nguồn vốn đầu tư để chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp gồm,
nguồn vốn huy động của dân cư vào phát triển sản xuất, kinh doanh. Đặc
điểm quan trọng của nguồn vốn này ở nông thôn khác với ở đô thị, đó là tính
nhỏ lẻ, tỷ lệ huy động thấp.
Nguồn vốn huy động từ chính phủ: thường được coi là nguồn vốn đầu tư
trực tiếp từ ngân sách. Đây là nguồn vốn rất quan trọng mang tính định
hướng, quy mô lớn và tập trung.



×