Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Phân tích các nhân tố tác động đến chi tiêu giáo dục của hộ gia đình khu vực đồng bằng sông cửu long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN LƯU TRUNG

PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG
ĐẾN CHI TIÊU GIÁO DỤC CỦA HỘ GIA ĐÌNH
KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

Chuyên ngành: Quản lý Kinh tế
Mã số: 60340410

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN TIẾN KHAI

Tp. Hồ Chí Minh - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, luận văn “Phân tích các nhân tố tác động đến chi tiêu
giáo dục của hộ gia đình khu vực Đồng bằng sông Cửu Long” là bài nghiên cứu của
chính tôi.
Ngoại trừ những tài liệu tham khảo được trích dẫn trong luận văn, toàn phần
hay những phần nhỏ của luận văn này chưa từng được công bố hoặc được sử dụng
để nhận bằng cấp ở những nơi khác.
Không có nghiên cứu, luận văn, tài liệu nào của người khác được sử dụng
trong luận văn này mà không được trích dẫn theo đúng quy định.

Tp.HCM, tháng 5 năm 2017




MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
TÓM TẮT
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU .......................................................... 1
1.1. Đặt vấn đề ...........................................................................................................1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu ...........................................................................................3
1.3. Câu hỏi nghiên cứu .............................................................................................3
1.4. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................3
1.5. Đối tượng nghiên cứu .........................................................................................3
1.6. Ý nghĩa nghiên cứu ............................................................................................4
1.7. Cấu trúc luận văn ................................................................................................4
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT ........................................................................ 6
2.1. Các khái niệm liên quan .....................................................................................6
2.2. Các lý thuyết liên quan .......................................................................................9
2.3. Các nghiên cứu thực nghiệm liên quan ............................................................12
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................................. 21
3.1. Khung phân tích ...............................................................................................21
3.2. Mô hình nghiên cứu..........................................................................................22
3.3. Mô tả biến số ....................................................................................................22
3.4. Nguồn dữ liệu ...................................................................................................27


3.5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................28

CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................. 35
4.1. Tổng quan về tình hình kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng sông Cửu Long ......35
4.2. Đặc điểm hộ gia đình và chi tiêu giáo dục của hộ gia đình Đồng bằng sông
Cửu Long ..........................................................................................................40
4.3. So sánh khác biệt về chi tiêu giáo dục giữa các nhóm hộ ................................44
4.4. Các yếu tố tác động đến chi tiêu giáo dục ........................................................48
4.5. Phân tích kết quả nghiên cứu............................................................................57
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH ...................................... 61
5.1. Kết luận ............................................................................................................61
5.2. Hàm ý chính sách từ kết quả nghiên cứu .........................................................62
5.3. Hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo...........................................64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
OLS
VHLSS

Ordinary Least Square

Bình phương tối thiểu thông thường

Vietnam Households Living Standard

Bộ số liệu điều tra Mức sống

Survey

hộ gia đình Việt Nam


MN

Mầm non

TH

Tiểu học

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

ĐBSCL

Đồng bằng sông Cửu Long


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tổng hợp một số nghiên cứu thực nghiệm liên quan .............................. 18
Bảng 3.1: Mô tả biến số trong mô hình .................................................................... 26
Bảng 4.1: Tuổi, học vấn chủ hộ và quy mô hộ ........................................................ 40
Bảng 4.2: Đặc điểm hộ gia đình các tỉnh ĐBSCL qua dữ liệu điều tra ................... 41
Bảng 4.3: Số trẻ em đi học của hộ............................................................................ 43
Bảng 4.4: Thu nhập và chi tiêu giáo dục .................................................................. 44
Bảng 4.5: Kiểm định trung bình về chi tiêu giáo dục theo các đặc điểm của hộ ..... 44

Bảng 4.6: Ma trận tương quan .................................................................................. 48
Bảng 4.7: Kết quả hồi quy ban đầu .......................................................................... 49
Bảng 4.8: Hệ số phóng đại phương sai .................................................................... 52
Bảng 4.9: Kết quả mô hình sau khi hiệu chỉnh ........................................................ 54
Bảng 4.10:

Tổng hợp kết quả kỳ vọng và mức ý nghĩa thống kê ........................ 55


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 3.1: Khung phân tích các yếu tố tác động đến chi tiêu giáo dục .................... 21
Hình 4.1: Cơ cấu người dân học nghề tại các bậc học giai đoạn 2011-2015 .......... 37
Hình 4.2: Tỷ lệ lao động qua đào tạo của vùng nằm 2010 và 2014 ........................ 38
Hình 4.3: Số hộ gia đình có trẻ em đi học trong từng độ tuổi ................................. 42


TÓM TẮT
Nghiên cứu này nhằm xác định các nhân tố tác động đến chi tiêu giáo dục của
hộ gia đình vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Bằng phương pháp nghiên cứu định
lượng với 02 nhóm kỹ thuật phân tích chủ yếu là thống kê mô tả để mô tả chi tiêu
cho giáo dục của hộ gia đình một cách tổng quát cũng như chi tiết các khoản mục
chi tiêu cho giáo dục, phân theo các đặc điểm về nông thôn hay thành thị, đặc điểm
thu nhập của hộ,… và kỹ thuật hồi qui OLS, TOBIT nhằm phân tích các yếu tố ảnh
hưởng đến chi tiêu giáo dục của hộ. Nghiên cứu sử dụng thông tin dữ liệu được xử
lý và trích xuất cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long từ Bộ dữ liệu điều tra mức
sống hộ gia đình Việt Nam do Tổng cục Thống kê thực hiện năm 2014. Kết quả
phân tích cho thấy các nhân tố ảnh hưởng có ý nghĩa đến chi tiêu giáo dục của hộ
gia đình vùng Đồng bằng sông Cửu Long bao gồm các nhóm biến chính thể hiện:
(i) đặc điểm giáo dục của trẻ em trong hộ (số trẻ em trong độ tuổi đi học ở các cấp
học, số trẻ có đi học thêm) ; (ii) đặc điểm của hộ gia đình (thu nhập, qui mô của hộ);

(iii) đặc điểm của chủ hộ (dân tộc, số năm đi học và tuổi của chủ hộ) và (iv) tiếp cận
các chính sách hỗ trợ từ chính quyền và các tổ chức xã hội (nhận trợ cấp giáo dục).
Tuy nhiên, trong nghiên cứu này tác giả chưa tìm được mối quan hệ giữa các nhân
tố hộ nông nghiệp, nơi sinh sống, giới tính chủ hộ, chủ hộ là cán bộ viên chức và
chi tiêu giáo dục của hộ do đặc thù riêng của dữ liệu nghiên cứu cho vùng Đồng
bằng sông Cửu Long năm 2014.


1

CHƯƠNG 1.

GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU

Chương này giới thiệu sơ lược về đề tài nghiên cứu bao gồm đặt vấn đề, mục
tiêu, câu hỏi nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu cũng như là phạm vi tiếp cận và ý
nghĩa của đề tài mang lại.
1.1. Đặt vấn đề
Trên con đường hội nhập ngày càng sâu rộng với các quốc gia khác trên thế
giới, Việt Nam với vị trí là một nước đang phát triển, đang phải đối mặt ngày càng
nhiều hơn với những khó khăn, thách thức. Đáng chú ý là có những khó khăn, thách
thức do chính những chính sách chưa phù hợp với xu hướng phát triển hoặc quá
trình tổ chức triển khai, thực hiện không hiệu quả đã và đang đánh mất dần những
lợi thế của Việt Nam trong thu hút các nhà đầu tư, giải quyết việc làm, tạo thu nhập
cho người dân,… so với một số nước khác có lợi thế tương đồng. Một trong những
lợi thế cạnh tranh nổi bật của Việt Nam trong thời gian qua đó là nguồn nhân lực
dồi dào, giá rẻ đã thúc đẩy một số nhà đầu tư trong và ngoài nước bỏ vốn đầu tư vào
sản xuất để tận dụng lợi thế này của Việt Nam. Tuy nhiên, lợi thế này chỉ có tác
dụng trong một giai đoạn nhất định và sẽ trở thành lực cản nếu Chính phủ không
chú trọng đến các chính sách về giáo dục, đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn

nhân lực thay vì chỉ quan tâm nhiều đến số lượng việc làm được tạo ra cho người
dân.
Đồng bằng sông Cửu Long lâu nay vẫn bị xem là vùng trũng về giáo dục, đào
tạo của cả nước (chỉ đứng trên khu vực Tây Nguyên và miền núi phía Bắc). Mặc dù
Chính phủ đã có một số cơ chế, chính sách đặc thù, ưu tiên các nguồn lực để tập
trung phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề nhưng có vẻ như Đồng bằng sông
Cửu Long vẫn đang gặp rất nhiều khó khăn để thoát ra khỏi vùng trũng của cả nước.
Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo tại Hội nghị tổng kết phát triển giáo dục,
đào tạo và dạy nghề vùng Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2011 - 2015, bên
cạnh những khó khăn về hệ thống cơ sở vật chất thì khó khăn lớn nhất của giáo dục
phổ thông đó là tỷ lệ huy động trẻ trong độ tuổi đến trường còn thấp và giảm nhanh


2

qua từng cấp học, tỷ lệ học sinh bỏ học cao và có xu hướng tăng nhanh ở cấp học
cao hơn. Bên cạnh đó, mặc dù kết quả dạy nghề của vùng đã phát triển mạnh cả về
quy mô và chất lượng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu về nguồn nhân lực của
thị trường lao động; tuy nhiên, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề của vùng năm 2015
chỉ đạt 35,2%, thấp hơn tỷ lệ của cả nước là 40,6%.
Năm 2015, thu nhập bình quân đầu người một tháng của người dân khu vực
Đồng bằng sông Cửu Long là 2,327 triệu đồng, đứng hàng thứ 3 và bằng 88,24%
của cả nước. Thu nhập thấp đã hạn chế rất nhiều những nhu cầu chi tiêu căn bản của
người dân, trong đó có nhu cầu chi tiêu cho giáo dục của hộ gia đình. Theo kết quả
điều tra mức sống hộ gia đình (VHLSS, 2014) thì chi tiêu của hộ gia đình cho giáo
dục đào tạo bình quân cho một người đi học của vùng trong 12 tháng là 2,324 triệu
đồng, chỉ bằng 68,17% so với cả nước (mức chi của cả nước là 3,409 triệu đồng).
Nếu so sánh chi tiêu cho giáo dục, đào tạo bình quân của một người đi học của năm
2014 với năm 2004 của vùng thì mức chi này chỉ tăng 3,33 lần, trong khi đó mức
tăng của cả nước là 4,13 lần. Kết quả này cho thấy mức chi tiêu cho giáo dục, đào

tạo bình quân của một người đi học ở Đồng bằng sông Cửu Long có tăng nhưng
chậm, thể hiện sự quan tâm đầu tư cho giáo dục của hộ gia đình trong vùng vẫn còn
ở mức thấp. Vấn đề đặt ra là với mức thu nhập bình quân đầu người 01 tháng của
người dân trong vùng bằng 88,24% của cả nước, chỉ xếp sau vùng Đồng bằng sông
Hồng và vùng Đông Nam bộ, nhưng mức chi tiêu cho giáo dục bình quân một
người đi học trong năm 2014 lại thấp so với mức chi của cả nước (chỉ bằng 68,17%
so với cả nước).
Như vậy, nghiên cứu của tác giả sẽ xem xét các nhân tố tác động đến chi tiêu
giáo dục của hộ gia đình ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Từ đó làm cơ sở
tham vấn để ban hành các chính sách nhằm huy động sự tham gia đóng góp của
toàn xã hội, mà trước hết là khuyến khích nâng cao đầu tư cho giáo dục của hộ gia
đình là việc làm cần thiết trong bối cảnh tình hình hiện nay của vùng.


3

1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nhằm xác định các nhân tố tác động đến chi tiêu giáo dục của hộ gia
đình ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả
sẽ đưa ra một số khuyến nghị về chính sách nhằm khuyến khích sự đầu tư cho giáo
dục từ hộ gia đình một cách hợp lý, góp phần nâng cao tỷ lệ trẻ trong độ tuổi đến
trường, giảm tỷ lệ học sinh bỏ học, cải thiện chất lượng nguồn nhân lực của vùng
Đồng bằng sông Cửu Long.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm trả lời cho các câu hỏi sau:
(1) Những nhân tố nào tác động đến chi tiêu giáo dục của hộ gia đình?
(2) Khác biệt mức độ chi tiêu giáo dục tại từng cấp học như thế nào?
(3) Chính phủ và chính quyền các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long nên làm gì
để khuyến khích hộ gia đình nâng cao chi tiêu cho giáo dục?
1.4. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài sử dụng bộ dữ liệu về khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam do Tổng
cục Thống kê thực hiện năm 2014 tại 13 tỉnh, thành: Long An, Tiền Giang, Bến
Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Hậu Giang, Sóc
Trăng, Cà Mau, Bạc Liêu và thành phố Cần Thơ thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu
Long.
1.5. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là chi tiêu cho giáo dục và những nhân tố tác động đến
nó ở cấp độ gia đình. Các khoản chi tiêu cho giáo dục của hộ giới hạn ở những hộ
có thành viên đang đi học ở các bậc học từ mầm non đến tiến sĩ trong hệ thống giáo
dục quốc dân của Việt Nam, với các giả định để thống nhất tính số năm đi học của
mỗi người:


4

(1) Tuổi bắt đầu đi học của mỗi người là từ 3 tuổi và có 3 năm đi học mẫu
giáo trước khi vào bậc TH.
(2) Thời gian đi học là liên tục, mỗi năm lên một lớp. Như vậy, số năm đi học
của chủ hộ được tính bằng tổng số năm đi học ở cấp hệ giáo dục phổ thông, giáo
dục nghề nghiệp và giáo dục đại học.
1.6. Ý nghĩa nghiên cứu
Tác giả kỳ vọng kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là cơ sở khoa học để đưa ra
các khuyến nghị về chính sách, giải pháp phù hợp cho Chính phủ và chính quyền
các tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long nhằm khuyến khích nâng cao chi tiêu
đầu tư cho giáo dục của hộ gia đình, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
trên địa bàn vùng trong thời gian tới.
1.7. Cấu trúc luận văn
Kết cấu luận văn gồm 5 chương:
Chương 1. Giới thiệu
Chương 1, gồm các nội dung giới thiệu vấn đề nghiên cứu, mục tiêu nghiên

cứu, câu hỏi nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, ý nghĩa khoa
học và thực tiễn của đề tài và kết cấu luận văn.
Chương 2. Cơ sở lý thuyết
Tác giả sẽ trình bày cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu liên quan, gồm các nội
dung: cơ sở lý thuyết, các khái niệm liên quan, lý thuyết kinh tế liên quan, mô hình
kinh tế về chi tiêu của hộ gia đình, nghiên cứu thực nghiệm liên quan.
Chương 3. Phương pháp nghiên cứu
Trong chương 3, tác giả sẽ giới thiệu về quy trình thực hiện nghiên cứu, khung
phân tích, phương pháp nghiên cứu, dữ liệu sẽ được sử dụng cho đề tài.


5

Chương 4. Kết quả nghiên cứu
Nội dung chủ yếu là kết quả thu được dựa trên mô hình và phương pháp
nghiên cứu ở Chương 3. Tuy nhiên, trước khi đến với kết quả hồi quy, tác giả thực
hiện các thao tác thống kê mô tả nhằm thể hiện những đặc trưng của bộ dữ liệu.
Trong phần kết quả hồi quy và thảo luận: các kết quả nghiên cứu sẽ được tóm lược
và đối chiếu với các nghiên cứu trước để tìm ra điểm giống và khác nhau bằng hình
thức so sánh hoặc xác nhận có điểm mới.
Chương 5. Kết luận và kiến nghị
Chương 5 tóm lược lại toàn bộ nghiên cứu từ lý do chọn đề tài cho đến
phương pháp và thảo luận kết quả của nghiên cứu. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu,
tác giả kiến nghị những giải pháp về mặt chính sách có liên quan trong đề tài. Và sẽ
nêu những hạn chế của đề tài, đồng thời đề xuất các hướng nghiên cứu tiếp theo.


6

CHƯƠNG 2.


CƠ SỞ LÝ THUYẾT

Ở Chương này tác giả sẽ trình bày cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu liên quan,
gồm các nội dung: các khái niệm liên quan, lý thuyết kinh tế liên quan, mô hình
kinh tế về chi tiêu của hộ gia đình, nghiên cứu thực nghiệm liên quan.
2.1. Các khái niệm liên quan
2.1.1.

Giáo dục

Theo Shultz (1964), giáo dục cần được hiểu theo 3 khía cạnh: (i) nếu xét ý
nghĩa tiêu dùng ở hiện tại, thì giáo dục là thứ hàng hóa tạo sự phấn khích cho người
tiêu dùng (từ việc biết thêm kiến thức); (ii) nếu xét ý nghĩa tiêu dùng ở tương lai, thì
giáo dục giúp người học có khả năng tiêu thụ thêm nhiều hàng hóa khác trong đời
sống; (iii) giáo dục mang ý nghĩa đầu tư, nghĩa là vốn con người hình thành từ quá
trình giáo dục giống như vốn vật lực, được sử dụng cho đến khi năng suất biên của
nó bằng với chi phí biên sử dụng nó.
Gillis và Thomsen (1996), định nghĩa giáo dục chính là các hình thức học hỏi
của con người, về cơ bản có ba dạng: (i) hình thức giáo dục chính quy liên quan đến
quá trình học tập tại các trường học, viện; (ii) hình thức giáo dục không chính quy
liên quan đến các chương trình diễn ra bên ngoài nhà trường với khoảng thời gian
ngắn; và (iii) cuối cùng là hình thức học diễn ra ở bất cứ nơi đâu: ở nhà, công sở và
ở địa phương.
Ở một cách tiếp cận khác, giáo dục được hiểu là hoạt động có tổ chức, có mục
đích, có kế hoạch, có hệ thống nhằm tạo ra sức mạnh có tính đa dạng về thể chất và
tinh thần của con người, đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Nó còn là
con đường hình thành nên những tri thức khoa học về thế giới quan, lý tưởng, đạo
đức, thái độ, thẩm mỹ, cơ sở để hình thành nhân sinh quan, phát triển đức, trí, thể,
mỹ của từng con người cụ thể. Giáo dục còn có sứ mệnh rèn luyện nhân cách cho

từng cá nhân làm cho họ trở thành những chủ thể có kỹ năng và bản lĩnh khi đối
diện với những vấn đề đặt ra của thế giới và của bản thân. Họ sẽ hiện diện trong


7

môi trường sống không chỉ bằng kiến thức, trí nhớ mà còn sự chọn lựa về đạo đức
và hệ thống chính trị (Nguyễn Văn Hiến, 2009).
Như vậy, nghiên cứu của tác giả sẽ tiếp cận giáo dục với góc độ là hàng hóa
tạo sự phấn khích cho người tiêu dùng, hay là động cơ để hộ gia đình gia tăng chi
tiêu cho con em mình nhằm mục đích nâng cao trình độ, tìm được việc làm tốt với
mức thu nhập tương xứng. Ở cách tiếp cận này, chi tiêu cho giáo dục mang ý nghĩa
đầu tư nhằm gia tăng vốn con người, nhân tố quan trọng quyết định nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực của một đất nước.
2.1.2.

Hộ gia đình

Trong nghiên cứu cũng như trong quá trình xây dựng chính sách, hộ gia đình
được xem là một đơn vị thống kê dân số dùng để chỉ một tập hợp người có mối
quan hệ gắn kết với nhau và mỗi người chỉ có thể thuộc về một và chỉ một hộ gia
đình nào đó.
Theo báo cáo của Ủy ban châu Âu (2010) về kết quả điều tra chi tiêu cho giáo
dục cho rằng hộ gia đình có 04 đặc trưng sau: (i) các thành viên của hộ có chung địa
chỉ thường trú, (ii) các loại chi phí đảm bảo cuộc sống được thống nhất bởi các
thành viên trong hộ, (iii) ngân sách của hộ được hình thành bởi sự đóng góp từ các
thành viên trong hộ, và (iv) các thành viên trong hộ có sự ràng buộc về mối quan hệ
huyết thống hoặc quan hệ tình cảm.
Theo Tổng cục Thống kê (2014) quy định về hộ trong cuộc điều tra mức sống
hộ gia đình Việt Nam, hộ là một hoặc một nhóm người ăn chung, ở chung trong một

chỗ từ 6 tháng trở lên trong thời kỳ khảo sát và có chung quỹ thu chi. Những người
được coi là thành viên của hộ phải thỏa mãn đồng thời hai điều kiện sau: (i) cùng
ăn, ở chung trong hộ 6 tháng trở lên trong 12 tháng qua; và (ii) có chung quỹ thu
chi, nghĩa là mọi khoản thu nhập của thành viên đều được đóng góp vào ngân sách
chung của hộ và mọi khoản chi tiêu của họ đều lấy từ ngân sách đó.


8

Như vậy, nghiên cứu của tác giả sẽ tiếp cận khái niệm hộ gia đình với góc độ
là một hoặc một nhóm người ăn chung, ở chung trong một chỗ và có chung quỹ thu
chi; thành viên hộ phải là những người cùng ăn, ở chung từ 6 tháng trở lên và có
đóng góp vào quỹ thu chi của hộ.
2.1.3.

Thu nhập của hộ gia đình

Theo Tổng cục Thống kê (2014), thu nhập của hộ gia đình là toàn bộ số tiền
và giá trị hiện vật mà hộ và các thành viên của hộ nhận được trong một thời gian
nhất định, bao gồm: (i) thu từ tiền công, tiền lương; (ii) thu từ sản xuất nông, lâm
nghiệp, thủy sản, (đã trừ chi phí sản xuất và thuế sản xuất); (iii) thu từ sản xuất
ngành nghề phi nông, lâm nghiệp, thủy sản (đã trừ chi phí sản xuất và thuế sản
xuất); (iv) thu khác được tính vào thu nhập (không tính tiền rút tiết kiệm, bán tài
sản, vay thuần túy, thu nợ và các khoản chuyển nhượng vốn nhận được).
2.1.4.

Chi tiêu của hộ gia đình cho giáo dục

Theo Tổng cục Thống kê (2014), chi tiêu hộ gia đình là tổng số tiền và giá trị
hiện vật mà hộ và các thành viên của hộ đã chi cho tiêu dùng trong một thời gian

nhất định, bao gồm cả tự sản, tự tiêu về lương thực, thực phẩm, phi lương thực, thực
phẩm và các chi tiêu khác (biếu, đóng góp,…). Các khoản chi tiêu hộ gia đình
không bao gồm chi phí sản xuất, thuế sản xuất, gửi tiết kiệm, cho vay, trả nợ và các
khoản chi tương tự. Do đó, chi tiêu của hộ gia đình cho giáo dục là tổng số tiền và
giá trị hiện vật mà hộ và các thành viên của hộ đã chi cho giáo dục, đào tạo trong
một thời gian nhất định.
Theo Lassibille (1994) thì chi tiêu cho giáo dục của hộ gia đình gồm những
mục cơ bản như sau: (i) các khoản chi được quy ước thành tiền mặt: học phí, phí
bảo hiểm, những khoản đóng góp bắt buộc hoặc tự nguyện, (ii) các khoản chi mua
những đồ dùng phục vụ trực tiếp cho học tập, (iii) các khoản chi phụ trợ khác: chi
phí đi lại của cả người học và người đưa đón, tiền ăn cho người học bán trú, nội
trú,… (iv) chi trả lãi vay trong trường hợp hộ gia đình phải vay tiền để chi cho việc
học của các thành viên trong hộ.


9

Theo Ủy ban châu Âu (2010), chi phí cho giáo dục của hộ gia đình gồm: (i)
chi phí trực tiếp, như: học phí (học chính khóa, học thêm), chi phí mua đồ dùng,
dụng cụ học tập, đồng phục,… (ii) chi phí gián tiếp, như: chi phí ăn uống cho người
học bán trú, nội trú, chi phí đi lại, chi phí mua đồ dùng, dụng cụ hỗ trợ việc tự học,
chi phí quà tặng vì mục đích học tập cho người ngoài hộ gia đình.
Như vậy, nghiên cứu của tác giả sẽ tiếp cận khái niệm chi tiêu giáo dục của hộ
gồm tổng số tiền và giá trị hiện vật mà hộ và các thành viên của hộ đã chi cho giáo
dục, đào tạo trong một thời gian nhất định (thời gian khảo sát), bao gồm cả chi phí
trực tiếp và chi phí gián tiếp.
2.2. Các lý thuyết liên quan
Các nghiên cứu về những nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu cho giáo dục của hộ
gia đình đã sử dụng nhiều lý thuyết khác nhau làm nền tảng cho việc phân tích.
Trong đó, ba hướng phân tích chính là: (i) dựa trên lý thuyết về hành vi tiêu dùng,

(ii) lý thuyết về sự tác động của thu nhập đến chi tiêu, và (iii) lý thuyết đầu tư cho
giáo dục.
2.2.1.

Lý thuyết về hành vi tiêu dùng

Lý thuyết về lựa chọn tiêu dùng được phát triển bởi Mas – Colell và cộng sự
(1995) chứng minh rằng quyết định lựa chọn tiêu dùng các loại hàng hóa của người
tiêu dùng có tính duy lý. Khi khả năng ngân sách hộ gia đình có giới hạn buộc
người tiêu dùng phải lựa chọn rổ hàng hóa để tối đa mức hữu dụng của mình.
Max u (x) với điều kiện p*x ≤ I. Trong đó: x = (x1, x2,…, xn) là rổ hàng hóa
tiêu dùng; x1, x2,…, xn là các loại hàng hóa; p = (p1, p2,…, pn) là giá của rổ hàng
hóa; p1, p2,…, pn là giá của từng loại hàng hóa trong rổ; I là ngân sách của người
tiêu dùng. Với những giả định, thông tin thị trường hoàn hảo, người tiêu dùng chấp
nhận giá và giá của hàng hóa có dạng tuyến tính, người tiêu dùng sẽ lựa chọn hành
vi mua sắm hàng hóa x sao cho đạt mức hữu dụng cao nhất tại mức giá p và với
ngân sách I.


10

Lý thuyết về hành vi ra quyết định chi tiêu của hộ gia đình (Sheth, 1974) cho
thấy phần lớn hành vi tiêu dùng của hộ bắt nguồn từ quyết định mua hàng của một
hay một số hoặc tất cả thành viên trong hộ. Và tối đa hóa hữu dụng là mục tiêu của
việc ra quyết định chi tiêu cho một loại hàng hóa nào đó trong khả năng ngân sách
của hộ gia đình. Tóm lại, lý thuyết về hành vi tiêu dùng chỉ ra hành vi tiêu dùng là
một quá trình cân nhắc, cảm nhận, thái độ và hành động mua sắm của một cá nhân
hay nhóm người đối với một loại hàng hóa với mục tiêu tối đa hóa hữu dụng hay
với một kỳ vọng tốt hơn trong tương lai.
2.2.2.


Lý thuyết về sự tác động của thu nhập đến chi tiêu

Lý thuyết về sự tác động của thu nhập đến chi tiêu của E. Engel (1821-1896)
khi nghiên cứu về ngân sách gia đình đã đưa ra kết luận về các mô hình chi tiêu tiêu
dùng, đó là hộ gia đình có mức thu nhập khác nhau sẽ có chi phí cho các hàng hóa
và dịch vụ khác nhau. Cụ thể hơn, khi hàng hóa thuộc loại thiết yếu thì lượng hàng
được mua có xu hướng tăng lên cùng với sự gia tăng của thu nhập nhưng với tốc độ
giảm dần; trong khi đối với hàng hóa xa xỉ thì lượng hàng được mua cũng tăng theo
sự gia tăng của thu nhập nhưng với tốc độ nhanh hơn; còn đối với hàng hóa cấp
thấp thì người ta có khuynh hướng giảm chi tiêu cho loại hàng này khi thu nhập
tăng lên. Các gia đình nghèo thường sử dụng phần lớn thu nhập cho các nhu cầu
thiết yếu, trong khi các hộ giàu lại có xu hướng chi tiêu cho các nhu cầu xa xỉ. Sự
thay đổi này trong các mô hình chi tiêu tiêu dùng với sự gia tăng thu nhập của các
hộ gia đình được gọi là quy luật Engel và được giới thiệu bởi nhà kinh tế học người
Đức Ernst Engel vào năm 1895. Như vậy theo lý thuyết trên thì sự thay đổi của thu
nhập sẽ có tác động đến chi tiêu của hộ gia đình cho một loại hàng hóa.
2.2.3.

Lý thuyết về đầu tư cho giáo dục

Nghiên cứu về vốn con người bởi Schultz (1961) và Becker (1975) cho thấy
giáo dục và đào tạo là khoản đầu tư quan trọng nhất trong chiến lược phát triển vốn
con người. Nhiều thống kê cho thấy học vấn có tác động tích cực lên thu nhập của
gia đình ở Mỹ, hay hai người có trình độ học vấn khác nhau thì thu nhập của mỗi


11

người sẽ khác nhau. Cụ thể hơn, sau khi trừ các chi phí trực tiếp và gián tiếp cho

việc học thì thu nhập ròng của những người có khả năng tiếp cận với chương trình
đào tạo chất lượng sẽ cao hơn những người khác. Các nghiên cứu cũng đã cho thấy
số năm đi học của con cái nhiều hay ít là do cha mẹ quyết định và quyết định này
tùy thuộc vào sự kỳ vọng về thu nhập của con cái họ sau này và lợi nhuận của đầu
tư cho giáo dục là khoản chênh lệch giữa hiện giá thu nhập trong tương lai với chi
phí của việc học, trong đó cha mẹ với tư cách là nhà đầu tư. Bên cạnh đó, hoạt động
giáo dục đào tạo còn được thực hiện trong môi trường làm việc và môi trường xã
hội để giúp cho người ta hoàn thiện hơn, đáp ứng được những tiêu chuẩn của thị
trường lao động.
Nghiên cứu của Bùi Quang Bình (2009) về “Vốn con người và đầu tư vào vốn
con người” cũng chứng tỏ giáo dục đào tạo giữ vai trò quyết định trong việc hình
thành và tích lũy vốn con người của nền kinh tế. Quá trình tích lũy nguồn vốn này
được thực hiện thông qua việc phát triển hệ thống giáo dục quốc dân với vai trò của
một “hệ thống tài chính”. Thông qua giáo dục đào tạo, con người sẽ được tiếp nhận
những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm của xã hội đã được tích lũy qua thời gian,
đồng thời còn trang bị, bổ sung kiến thức mới cho người ta để đáp ứng những yêu
cầu mới, lúc này lượng vốn con người đã gia tăng. Đến mức độ nhất định, lượng
vốn con người sẽ quyết định đến thu nhập của người đó. Kết quả của nghiên cứu
cho thấy chi tiêu cho giáo dục đào tạo là một hình thức chi tiêu trong tổng chi tiêu
của bất kỳ hộ gia đình nào cho một loại hàng hóa thiết yếu (không có hàng hóa khác
thay thế), và đây được xem là một khoản đầu tư với mong muốn gia tăng nguồn vốn
nhân lực của hộ gia đình, nền kinh tế và thu nhập tốt hơn trong tương lai.
Tóm lại, dựa vào các lý thuyết trên, đề tài sẽ phân tích những yếu tố sẽ tác
động đến việc ra quyết định của hộ gia đình cho chi tiêu cho giáo dục trong khả
năng ngân sách (tổng thu nhập) của hộ ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.


12

2.3. Các nghiên cứu thực nghiệm liên quan

Dựa trên các lý thuyết và mô hình kinh tế trình bày ở trên, nhiều nghiên cứu
đã thực hiện các kỹ thuật tính toán thống kê và phân tích định lượng nhằm xác định
các nhân tố tác động đến chi tiêu cho giáo dục của hộ gia đình. Các nghiên cứu
được thực hiện ở các quốc gia với những khác biệt về văn hóa, tình hình kinh tế - xã
hội, hoặc vùng, miền trong cùng một quốc gia, thời gian và phạm vi nghiên cứu
nhưng các kết luận có nhiều điểm tương đồng về những nhân tố ảnh hưởng đến chi
tiêu cho giáo dục của hộ gia đình. Bốn nhóm nhân tố chính được xem xét nhiều đó
là (i) đặc điểm giáo dục của trẻ em trong hộ (số trẻ em đi học từng cấp, học thêm
của trẻ em); (ii) đặc điểm của hộ gia đình (thu nhập, qui mô, nghề nghiệp hộ, nơi
sinh sống); (iii) đặc điểm của chủ hộ (giới tính, trình độ học vấn, dân tộc, độ tuổi,
đặc điểm công việc) và (iv) tiếp cận các chính sách hỗ trợ từ chính quyền và các tổ
chức xã hội (trợ cấp).
2.3.1.

Đặc điểm giáo dục của trẻ em trong hộ

Theo nghiên cứu của Đào Thị Yến Nhi (2013) về đánh giá tác động đặc điểm
hộ gia đình đến chi tiêu giáo dục Trung học của hộ gia đình Việt Nam đã chỉ ra hộ
có số trẻ trong độ tuổi đi học càng nhiều thì chi tiêu cho giáo dục của trẻ cũng càng
nhiều. Tuy nhiên, nghiên cứu Vũ Quang Huy (2012) thì lại cho thấy nếu tăng số trẻ
em trong độ tuổi đi học bậc tiểu học và trung học thì chi tiêu giáo dục của hộ có xu
hướng gia tăng, ở chiều ngược lại nếu tăng số trẻ đi học mầm non và đại học thì chi
tiêu cho giáo dục của hộ có xu hướng giảm. Kết quả nghiên cứu của Andreou
(2012) thì chỉ ra những hộ gia đình có trẻ từ 13-30 tuổi đi học sẽ có chi tiêu giáo
dục cao hơn so với nhóm trẻ trong độ 0-5 tuổi. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của
Khổng Tiến Dũng và Phạm Lê Thông (2014) về các yếu tố ảnh hưởng đến chi tiêu
cho giáo dục của người dân ở Đồng bằng sông Cửu Long cũng cho thấy yếu tố học
thêm cùng với các yếu tố số người nam và người nữ đi học trong gia đình góp phần
là gia tăng chi tiêu giáo dục của hộ.



13

Kế thừa từ các nghiên cứu trước về tác động của số trẻ đi học đến chi tiêu giáo
dục của hộ. Các giả thuyết được tác giả đặt ra như sau:
Giả thuyết H1: Số trẻ từ 3-5 tuổi đi học càng cao thì chi tiêu giáo dục của hộ
càng tăng;
Giả thuyết H2: Số trẻ từ 6-11 tuổi đi học càng cao thì chi tiêu giáo dục của hộ
càng tăng;
Giả thuyết H3: Số trẻ từ 12-15 tuổi đi học càng cao thì chi tiêu giáo dục của
hộ càng tăng;
Giả thuyết H4: Số trẻ từ 16-18 tuổi đi học càng cao thì chi tiêu giáo dục của
hộ càng tăng;
Giả thuyết H5: Số trẻ trên 18 tuổi được chu cấp học tập càng cao thì chi tiêu
giáo dục của hộ càng tăng;
Giả thuyết H6: Hộ có trẻ học thêm thì chi tiêu giáo dục của hộ tăng.
2.3.2.

Đặc điểm hộ

2.3.2.1. Mối quan hệ giữa thu nhập hộ và chi tiêu giáo dục
Theo Khổng Tiến Dũng và Phạm Lê Thông (2014) tổng thu nhập của hộ gia
đình là yếu tố quan trọng tác động đến mức chi tiêu cho giáo dục của người dân.
Tương tự, nghiên cứu của Vũ Quang Huy (2012) cho thấy thu nhập của hộ có tác
động dương đến chi tiêu giáo dục hay thu nhập hàng năm của hộ càng cao thì chi
tiêu giáo dục càng lớn. Kết quả này cũng tương tự với nhận định của Tilak (2002),
Qian và Smyth (2011) khi trình độ học vấn, thu nhập của hộ hoặc của cha mẹ càng
tăng thì chi tiêu cho giáo dục cho con cái càng tăng.
Ngoài ra, nghiên cứu của Mauldin và cộng sự (2001) khẳng định thu nhập sau
thuế của cha mẹ càng cao thì mức sẵn lòng chi tiêu cho giáo dục càng tăng. Nghiên

cứu cho thấy các bậc cha mẹ nhận thức rằng nếu họ đầu tư nhiều tiền cho việc học
của con mình thì chúng sẽ nhận được kết quả tốt về tri thức và chất lượng cuộc sống


14

trong tương lai. Như vậy, đa số kết quả các nghiên cứu đã có nhận định chung là thu
nhập của hộ có tác động mạnh đến chi tiêu giáo dục của hộ gia đình. Giả thuyết H7
được tác giả đặt ra: Thu nhập của hộ càng tăng thì chi tiêu giáo dục của hộ càng
tăng.
2.3.2.2. Mối quan hệ giữa qui mô hộ và chi tiêu giáo dục
Qui mô của hộ hay số lượng thành viên trong hộ cũng có tác động đến chi tiêu
cho giáo dục của hộ nhưng ở chiều ngược lại. Điều này cho thấy gánh nặng nhân
khẩu tác động tiêu cực đến chi tiêu cho giáo dục của các hộ gia đình. Nghiên cứu
của Tilak (2002) cho thấy thực trạng các hộ có qui mô lớn có chi tiêu cho giáo dục
ở mức cao, tỷ trọng chi tiêu cho giáo dục lớn trong tổng chi tiêu của hộ nhưng chất
lượng giáo dục các thành viên có được chỉ ở mức trung bình thấp. Aslam và
Kingdon (2008) cũng chỉ ra qui mô hộ gia đình có tác động dương đến ngân sách
cho giáo dục của hộ và có thể lý giải khi hộ gia đình có qui mô lớn thì khả năng có
nhiều con trong độ tuổi đi học sẽ cao hơn nên hộ gia đình giành phần ngân sách lớn
hơn cho chi tiêu giáo dục so với hộ gia đình có qui mô nhỏ. Tuy nhiên, Vũ Quang
Huy (2012) lại cho thấy nếu tăng số trẻ em trong độ tuổi đi học cấp tiểu học và
trung học thì hộ gia đình có xu hướng gia tăng chi tiêu giáo dục và ngược lại nếu
tăng số trẻ trong độ tuổi đi học mầm non và đại học thì làm sụt giảm chi tiêu giáo
dục. Giả thuyết H8 được đặt ra: Qui mô hộ càng tăng thì chi tiêu giáo dục của hộ
càng tăng.
2.3.2.3. Mối quan hệ giữa nghề nghiệp hộ và chi tiêu giáo dục
Kết quả nghiên cứu của Qian và Smyth (2011) cho thấy bố mẹ có trình độ học
vấn cao và nghề nghiệp càng chuyên nghiệp thì chi tiêu cho giáo dục của trẻ càng
nhiều. Trong khi đó, nghiên cứu của Aslam và Kingdon (2008) thì chỉ rõ tác động

nghề nghiệp đến chi tiêu giáo dục của hộ. Theo đó, do nghề nghiệp tác động đến thu
nhập nên chủ hộ có nghề nghiệp thuộc lĩnh vực thương mại, dịch vụ, quản lý thì chi
tiêu cho giáo dục của hộ sẽ cao hơn chi tiêu giáo dục của hộ có chủ hộ làm nghề
nông nghiệp hoặc làm thuê. Tuy nhiên, nghiên cứu của Tilak (2002) thì nghề nghiệp


15

của chủ hộ lại không có tác động đáng kể đến chi tiêu giáo dục cho trẻ trong hộ.
Như vậy, giả thuyết H9 được đặt ra: Hộ nông nghiệp thì chi tiêu giáo dục của hộ
thấp hơn hộ khác.
2.3.2.4. Mối quan hệ giữa nơi sinh sống và chi tiêu giáo dục
Nơi sinh sống của hộ gia đình cũng có tác động đến chi tiêu của hộ cho giáo
dục. Theo Mauldin và cộng sự (2001) với kết quả nghiên cứu cho các gia đình sống
ở vùng Đông Bắc và phía Tây Hoa Kỳ có mức chi tiêu cho giáo dục ít hơn các hộ
gia đình sống ở phía Nam. Điều này được giải thích rằng vùng Đông Bắc và phía
Tây của Hoa Kỳ chủ yếu là khu vực nông thôn, mật độ dân cư thấp, ít các đô thị
sầm uất, giàu có như ở phía Nam. Trong khi đó, Qian và Smyth (2011) cho thấy sự
khác biệt khá thú vị của chi tiêu của hộ cho giáo dục theo vị trí địa lý của đô thị.
Theo đó, trong nhóm gia đình có thu nhập cao nhất thì những gia đình sống ở khu
vực Duyên hải có tỷ lệ cho con đi du học cao hơn những hộ có cùng đặc điểm
nhưng ở những vùng đô thị khác. Nghiên cứu của Vũ Quang Huy (2012) cho thấy
những hộ sinh sống ở miền Nam và Bắc có tác động đến chi tiêu giáo dục thấp hơn
so với những hộ sống ở các khu vực trung tâm của nước. Aslam và Kingdon (2008)
cũng cho thấy những hộ sinh sống ở thành thị cũng có ngân sách chi tiêu cho giáo
dục lớn hơn hộ sống ở nông thôn. Giả thuyết H10 được đặt ra: Hộ gia đình khu vực
thành thị thì chi tiêu giáo dục của hộ cao hơn hộ gia đình ở khu vực nông thôn.
2.3.3.

Đặc điểm chủ hộ


2.3.3.1. Mối quan hệ giữa dân tộc chủ hộ và chi tiêu giáo dục
Kết quả nghiên cứu UNICEF (2010) cho thấy tỷ lệ nhập học trung học của trẻ
em dân tộc Kinh cao hơn trẻ em thuộc các gia đình dân tộc thiểu số. Diep Nang
Quang (2008) nghiên cứu cho thấy dân tộc Kinh, Hoa chiếm tỷ trọng cao nhất và có
trình độ dân trí cao hơn các dân tộc thiểu số khác, do đó mức quan tâm đầu tư hay
chi tiêu giáo dục của hộ gia đình thuộc các dân tộc Kinh, Hoa sẽ cao hơn chi tiêu
giáo dục của các dân tộc thiểu số còn lại. Giả thuyết H11 được đặt ra: Hộ gia đình


16

dân tộc Kinh hoặc Hoa thì chi tiêu giáo dục của hộ cao hơn hộ gia đình dân tộc
khác.
2.3.3.2. Mối quan hệ giữa giới tính chủ hộ và chi tiêu giáo dục
Giới tính của chủ hộ cũng có tác động đến chi tiêu giáo dục của hộ, nghiên
cứu của Donkoh và Amikuzumo (2011) cho rằng chủ hộ là nam có xác suất chi tiêu
giáo dục thấp hơn khi chủ hộ là nữ. Vũ Quang Huy (2012) cũng cho kết quả như
vậy, tuy nhiên kết quả hồi qui lại không có ý nghĩa thống kê. Riêng nghiên cứu của
Aslam và Kingdon (2008) có kết quả là giới tính của chủ hộ có quan hệ cùng chiều
với chi tiêu giáo dục của hộ, những gia đình có chủ hộ là nữ có xu hướng giành
ngân sách chi tiêu giáo dục cao hơn so với chủ hộ là nam. Giả thuyết H12 được đặt
ra: Chủ hộ nam thì chi tiêu giáo dục của hộ cao hơn hộ gia đình có chủ hộ là nữ.
2.3.3.3. Mối quan hệ giữa trình độ học vấn và chi tiêu giáo dục
Kết quả nghiên cứu của Khổng Tiến Dũng và Phạm Lê Thông (2014) đã cho
thấy trình độ học vấn cùng với tuổi của chủ hộ, tổng thu nhập của hộ là những yếu
tố quan trọng tác động đến mức chi tiêu cho giáo dục của người dân. Tương tự, kết
quả nghiên cứu của Tilak (2002) cũng có nhận định trình độ học vấn của chủ hộ
càng cao thì mức chi cho giáo dục của hộ tăng theo. Ngoài ra, trong nghiên cứu của
Mauldin và cộng sự (2001), tác giả cho thấy hộ gia đình có cha mẹ có bằng cử nhân

trở lên sẽ chi tiêu cho giáo dục cho con cái của họ nhiều hơn những hộ gia đình có
bằng trung học trở xuống. Bên cạnh đó, Qian và Smyth (2011) đã cung cấp thông
tin chi tiết hơn về sự ảnh hưởng của học vấn, nghề nghiệp cha mẹ đến chi phí học
tập của con cái. Đó là, những gia đình có người cha làm các ngành nghề mang tính
chuyên nghiệp và người mẹ có trình độ cao đẳng, đại học thì có xu hướng chọn
những loại hình giáo dục có chất lượng cao do đó chi phí giáo dục cho con cái của
họ cũng tăng, đây chính là mối liên hệ chặt chẽ giữa trình độ của cha mẹ với mức
chi tiêu cho giáo dục giành cho con cái của họ. Giả thuyết H13 được đặt ra: Học
vấn chủ hộ càng cao thì chi tiêu giáo dục của hộ càng tăng.


17

2.3.3.4. Mối quan hệ giữa tuổi chủ hộ và chi tiêu giáo dục
Các nghiên cứu của Mauldin và cộng sự (2001), Donkoh và Amikuzumo
(2011) đã chứng minh có mối liên hệ giữa tuổi tác của cha mẹ với mức chi tiêu giáo
dục của họ cho con em mình, cụ thể những gia đình có cha mẹ tuổi đời càng cao thì
họ quan tâm nhiều hơn đến việc học của con cái, và do đó chi tiêu cho giáo dục ở
các hộ này cũng cao hơn những hộ tuổi đời trẻ. Tuy nhiên, vấn đề này cần phải
được xem xét đồng thời với các yếu tố khác như ngành nghề, trình độ chuyên môn,
môi trường làm việc,… Khổng Tiến Dũng và Phạm Lê Thông (2014) thì chỉ ra rằng
tuổi của chủ hộ càng cao thì mức chi tiêu cho giáo dục của người dân càng nhiều
trong điều kiện các yếu tố khác không đổi. Tuy nhiên, mức chi tiêu này chỉ tăng đến
mức cực đại, sau đó sẽ giảm xuống. Giả thuyết H14 được đặt ra: Tuổi chủ hộ càng
cao thì chi tiêu giáo dục của hộ càng tăng.
2.3.3.5. Mối quan hệ giữa đặc điểm công việc chủ hộ và chi tiêu giáo dục
Các nghiên cứu trước ít phân tích sự tác động của yếu tố đặc điểm công việc
chủ hộ đến chi tiêu giáo dục của hộ mà thường dựa vào yếu tố nghề nghiệp để tìm
hiểu mối quan hệ giữa nghề nghiệp của chủ hộ với chi tiêu giáo dục của hộ. Khi
xem xét yếu tố nghề nghiệp, Qian và Smyth (2011) đã chứng minh nghề nghiệp của

bố mẹ càng chuyên nghiệp thì chi tiêu cho giáo dục của trẻ càng nhiều. Trong khi
đó, nghiên cứu của Aslam và Kingdon (2008) chỉ rõ nếu nghề nghiệp chủ hộ thuộc
lĩnh vực thương mại, dịch vụ, quản lý thì chi tiêu cho giáo dục của hộ sẽ cao hơn
chi tiêu giáo dục của hộ có chủ hộ làm nghề khác. Giả thuyết H15 được đặt ra: Chủ
hộ là cán bộ viên chức (liên quan nhiều đến quản lý) thì chi tiêu giáo dục của hộ cao
hơn so với hộ khác.
2.3.4.

Mối quan hệ giữa tiếp cận các chính sách hỗ trợ từ chính quyền và các

tổ chức xã hội với chi tiêu giáo dục
Các chính sách thông qua các khoản hỗ trợ từ chính quyền và các tổ chức xã
hội có ý nghĩa chi phối quan trọng đến chi tiêu giáo dục của hộ gia đình. Theo báo
cáo Ủy ban châu Âu (2010) nếu chính quyền và xã hội có các chính sách tốt như hỗ


×