TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
**************
BÙI THỊ PHƢƠNG
ĐẢNG BỘ HUYỆN TRẤN YÊN (YÊN BÁI)
LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO
TRONG NHỮNG NĂM 1996 - 2015
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
HÀ NỘI - 2017
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
**************
BÙI THỊ PHƢƠNG
ĐẢNG BỘ HUYỆN TRẤN YÊN (YÊN BÁI)
LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO
TRONG NHỮNG NĂM 1996 - 2015
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS NGUYỄN VĂN DŨNG
HÀ NỘI - 2017
LỜI CẢM ƠN
Trên thực tế không có sự thành công nào mà không gắn liền với
những sự hỗ trợ, giúp đỡ dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của
người khác. Trong suốt thời gian từ khi bắt đầu học tập ở giảng đường đại
học đến nay, em đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của quý
Thầy Cô, gia đình và bạn bè. Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, em xin gửi
đến quý Thầy Cô ở Khoa Khoa Lịch Sử - Trường Đại Học Sư Phạm Hà
Nội 2 đã cùng với tri thức và tâm huyết của mình để truyền đạt vốn kiến
thức quý báu cho chúng em trong suốt thời gian học tập tại khoa và
trường. Em xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Văn Dũng đã tận tâm
hướng dẫn em hoàn thành tốt khóa luận này. Nếu không có những lời
hướng dẫn, dạy bảo của thầy thì em nghĩ khóa luận này của em rất khó có
thể hoàn thiện được. Một lần nữa, em xin chân thành ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2017
Sinh viên
Bùi Thị Phương
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu
thống kê trong khóa luận được sử dụng trung thực, nguồn trích dẫn có chú
thích rõ ràng, khóa luận của tôi có tính kế thừa, phát triển các tài liệu đã được
công bố. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan danh dự của tôi.
Hà Nội, tháng 5 năm 2017
Sinh viên
Bùi Thị Phương
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 3
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................. 4
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu................................................ 4
6. Đóng góp của khóa luận ............................................................................ 4
7. Kết luận của khóa luận ............................................................................... 5
Chương 1. ĐẢNG BỘ HUYỆN TRẤN YÊN (YÊN BÁI) LÃNH ĐẠO
CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TRONG GIAI ĐOẠN 1996 - 2000...... 6
1.1. Điều kiện tự nhiên, dân cư của huyện Trấn Yên .................................... 6
1.1.1. Điều kiện tự nhiên và địa giới hành chính. ...................................... 6
1.1.2. Dân cư ............................................................................................... 7
1.2. Tình hình kinh tế và truyền thống văn hóa giáo dục của huyện
Trấn Yên ........................................................................................................ 9
1.2.1. Tình hình kinh tế trong những năm 1996 - 2000 .............................. 9
1.2.2. Đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của huyện Trấn Yên....................... 12
1.3. Thực trạng giáo dục của huyện Trấn Yên trước năm 1996 .................. 13
1.4. Chủ trương của Đảng bộ huyện Trấn Yên trong việc lãnh đạo công tác
giáo dục đào tạo trong năm 1996- 2000 ...................................................... 14
1.4.1. Những chủ trương lớn của Đảng và Đảng bộ huyện Trấn Yên về đổi
mới giáo dục đào tạo năm 1996 - 2000 .................................................... 14
1.4.2. Đảng bộ huyện Trấn Yên (Yên Bái) lãnh đạo khởi đầu đổi mới giáo
dục và đào tạo 1996 - 2000 ...................................................................... 24
1.5. Thành tựu và hạn chế ............................................................................ 26
1.5.1. Thành tựu ........................................................................................ 26
1.5.2. Hạn chế ........................................................................................... 27
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 28
Chương 2. ĐẢNG BỘ HUYỆN TRẤN YÊN LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC
GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TRONG NHỮNG NĂM 2001 - 2015 ..................... 29
2.1. Chủ trương của Đảng bộ huyện Trấn Yên trước yêu cầu đổi mới giáo
dục đào tạo ................................................................................................... 29
2.1.1. Bối cảnh quốc tế ............................................................................. 29
2.1.2. Bối cảnh trong nước ....................................................................... 31
2.1.3. Yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra đối với đổi mới giáo dục đào tạo của
huyện Trấn Yên (2001 - 2015) .................................................................. 33
2.1.4. Chủ trương và tổ chức chỉ đạo đổi mới giáo dục đào tạo của huyện
Trấn Yên (2000 - 2015) ............................................................................. 34
2.2. Quá trình chỉ đạo và thực hiện .............................................................. 41
2.2.1. Tổ chức thực hiện đổi mới giáo dục đào tạo của Đảng bộ huyện
Trấn Yên (2001 - 2015) ............................................................................. 41
2.3. Thành tựu và hạn chế ............................................................................ 48
2.3.1. Thành tựu ........................................................................................ 48
2.3.2. Hạn chế ........................................................................................... 51
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 51
Chương 3. NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM................................................ 53
3.1. Nhận xét ................................................................................................ 53
3.1.1. Ưu điểm ........................................................................................... 53
3.1.2. Nhược điểm ..................................................................................... 55
3.2. Kinh nghiệm.......................................................................................... 57
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 65
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
với mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp,
hội nhập với cộng đồng. Nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là nguồn lực con người.Để phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước thì phải đổi mới, tăng cường toàn bộ hệ thống giáo dục, trong đó bậc
trung học phổ thông và là bậc học tạo nguồn trực tiếp cho việc đào tạo nhân
lực chất lượng cao.
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vấn
đề phát triển giáo dục và đào tạo càng được đặt ra cấp bách. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (tháng 7 - 1996) xác định: “Cùng với khoa
học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”.[22,tr.107]. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X của Đảng (tháng 4 - 2006) tiếp tục khẳng định: “Phấn đấu
xây dựng nền giáo dục hiện đại, của dân do dân và vì dân, đảm bảo công bằng
về cơ hội học tập cho mọi người, tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và học
tập suốt đời, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [30,
tr.206, 207].
Từ khi Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới cho đến nay,
sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã có nhiều chuyển biến lớn và giành được
nhiều kết quả quan trọng. Những thành tựu đạt được đó chính là nhờ sự nỗ
lực của toàn Đảng, toàn dân, là sự nghiệp đóng góp tích cực của nhiều địa
phương trong cả nước.
Bước vào thời kỳ đổi mới toàn đất nước, Đảng bộ và nhân dân huyện
Trấn Yên (Yên Bái) tiếp tục vượt lên mọi khó khăn, thách thức để hoàn thành
xuất sắc các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của huyện đề ra.
1
Nhận thấy rõ vai trò to lớn của giáo dục và đào tạo, Đảng bộ huyện Trấn
Yên luôn coi giáo dục và đào tạo là một trong những giải pháp hàng đầu để
tạo cơ sở nền tảng cho sự phát triển kinh tế xã hội.
Là một sinh viên sư phạm, tôi nhận thấy vấn đề đổi mới giáo dục và đào
tạo là một vấn đề rất quan trọng trong quá trình đào tạo nhân lực phục vụ cho
quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta nói chung, ở Trấn Yên (Yên
Bái) nói riêng, đồng thời cũng là một người con vùng đất huyện Trấn Yên
(Yên Bái) tôi muốn tìm hiểu về giáo dục đào tạo của huyện mình nên tôi đã
lựa chọn đề tài: “Đảng bộ huyện Trấn Yên lãnh đạo công tác giáo dục đào
tạo trong những năm 1996 - 2015” làm khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đã có nhiều công trình đề cập đến vấn đề đổi mới giáo dục và đào tạo.
Các công trình này có nội dung đề cập và góc độ tiếp cận khá phong phú song
như sau:
“Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI” của GS. TS
Phạm Minh Hạc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. Cuốn sách này
đã trình bày tính chất của nền giáo dục, nguyên lý, nội dung, hệ thống
giáo dục nước ta qua các giai đoạn lịch sử; phân tích mối quan hệ giữa
giáo dục và phát triển nguồn lực, các nguồn lực phát triển giáo dục và
phương hướng phát triển giáo dục trong thời gian tới.
Tác phẩm “Nhân tố mới về giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” do GS.TS Phạm Minh Hạc chủ
biên, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, cũng đã nêu bật được
những chuyển biến tích cực về chất lượng dạy và học.
Một số luận văn thạc sĩ chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
cũng đã đề cập vấn đề giáo dục và đào tạo và công tác lãnh đạo sự nghiệp
giáo dục và đào tạo:
2
“Chiến lược con người Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc
đổi mới đất nước từ năm 1986 đến nay” của Hoàng Thị Hằng.
“Một số quan điểm cơ bản của Đảng về giáo dục và đào tạo trong
công cuộc đổi mới 1986 - 1996” của Bùi Minh Hằng.
Hai luận văn trên cũng nêu bật được đường lối, chủ trương của Đảng ta
về giáo dục và đào tạo trong thời kỳ nước ta thực hiện đường lối đổi mới.
Ngoài ra còn có nhiều luận văn nghiên cứu về giáo dục và đào tạo ở các
địa phương cả nước như:
Đảng bộ thị xã Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc lãnh đạo sự nghiệp giáo dục đào tạo từ năm 1986 - 2000” của Hà Văn Định.
“Đảng bộ tỉnh Bình Định lãnh đạo sự nghiệp giáo dục và đào tạo từ
năm 1991 - 2000” của Trần Văn Dũng.
Những tài liệu trên có nội dung phong phú, đa dạng về phạm vi nghiên
cứu, không chỉ là nguồn tư liệu quan trọng mà còn gợi mở về phương pháp
tiếp cận cho việc thực hiện khóa luận này. Tuy nhiên cho đến nay chưa có
một công trình nào nghiên cứu có hệ thống về “Đảng bộ huyện Trấn Yên
(Yên Bái) lãnh đạo công tác giáo dục đào tạo trong những năm 1996 - 2015”.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu của khóa luận
- Sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Trấn Yên (Yên Bái) về công tác giáo
dục đào tạo trong những năm 1996 - 2015. Trên sơ sở đường lối nghị quyết,
chủ trương của Đảng và nhà nước về giáo dục và đào tạo và căn cứ vào đặc
thù riêng của huyện Trấn Yên tỉnh Yên Bái.
- Thực tiễn đổi mới giáo dục đào tạo của huyện.
- Những kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn trên.
* Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng bộ huyện Trấn Yên (Yên Bái) về
công tác giáo dục đào tạo và kết quả thực hiện trong giai đoạn (1996 - 2015).
3
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu và trình bày có hệ thống quá trình lãnh đạo đúng đắn, sang
tạo, chủ động của Đảng bộ huyện Trấn Yên (Yên Bái) về công tác giáo dục
đào tạo trong những năm 1996 - 2015.
* Nhiệm vụ của khóa luận
- Đánh giá khách quan, khoa học về thành tựu, hạn chế và nguyên nhân
quá trình lãnh đạo đổi mới giáo dục đào tạo của Đảng bộ huyện Trấn Yên
(Yên Bái).
- Rút ra một số kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Trấn
Yên đối với sự nghiệp đổi mới giáo dục đào tạo trong giai đoạn (1996 2015), nhằm góp phần xây dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo ở
địa phương trong thời gian tới.
5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
* Nguồn tư liệu
Dựa trên nguồn từ liệu lịch sử Đảng bộ của huyện Trấn Yên và của Tỉnh
Yên Bái.
Tham khảo những bài khóa luận, luận văn và bài báo cáo chính trị tại đại
hội XII, XIII, XIX và XX.
* Phương pháp nghiên cứu
- Các phương pháp chủ yếu: phương pháp lịch sử và phương pháp logic
- Các phương pháp khác: phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng
hợp… để làm rõ những vấn đề cần thiết trong quá trình nghiên cứu.
6. Đóng góp của khóa luận
- Khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu giảng
dạy lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam ở địa phương.
- Từ những nghiên cứu cụ thể về tình hình giáo dục đào tạo ở địa
phương, khóa luận còn góp phần nhỏ bé của mình cho Đảng bộ huyện Trấn
4
Yên (Yên Bái) làm cơ sở tiếp tục bổ sung, xây dựng đường lối phát triển sự
nghiệp giáo dục và đào tạo của huyện.
7. Kết luận của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phục lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung khóa luận được kết cấu 3 chương:
Chương 1: Đảng bộ huyện Trấn Yên (Yên Bái) lãnh đạo công tác giáo
dục đào tạo trong những năm 1996 - 2000
Chương 2: Đảng bộ huyện Trấn Yên (Yên Bái) lãnh đạo công tác giáo
dục đào tạo trong những năm 2001 - 2015
Chương 3: Nhận xét và Kinh nghiệm
5
Chƣơng 1
ĐẢNG BỘ HUYỆN TRẤN YÊN (YÊN BÁI) LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC
GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TRONG GIAI ĐOẠN 1996 - 2000
1.1. Điều kiện tự nhiên, dân cƣ của huyện Trấn Yên
1.1.1. Điều kiện tự nhiên và địa giới hành chính.
Trấn Yên là một huyện vùng thấp của tỉnh Yên Bái. Phía Tây giáp với
huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái. Phía đông nam giáp với huyện Hạ Hòa tỉnh Phú
Thọ. Phía đông bắc giáp với huyện Yên Bình. Phía tây nam giáp với huyện
Văn Chấn của tỉnh Yên Bái. Phía đông nam giáp với thành phố.Với diện tích
tự nhiên là 69.074,1 ha, chiếm 10,3% diện tích toàn tỉnh.
Là miền giao thoa văn hóa các dân tộc Tây Bắc - Việt Bắc; vùng chuyển
tiếp giữa trung du với miền núi dọc theo thung lũng sông Hồng. Là miền đất
lâu đời nên địa danh, địa giới hành chính của huyện có nhiều thay đổi.
Từ năm 220 nhà Ngô thống trị nước ta đổi Giao Chỉ thành Giao Châu
với 6 quận; Trấn Yên nằm trong quận Tân Hưng - huyện Lâm Tây. Sang nhà
Tấn quận Tân Hưng đổi thành quận Tân Xương sau đó Tân Xương đổi thành
Hưng Châu. Năm 602 nhà Tùy thống trị nước ta chia Giao Chỉ cũ thành 2
huyện: Giao Chỉ và Long Biên lệ thuộc vào Giao Châu, đầu đời Đại Nghiệp
(nhà Tùy) gộp Phong Châu và Giao Châu rồi đặt lại quận Giao Chỉ và chia
Giao Chỉ thành 9 huyện, Trấn Yên lúc này thuộc huyện An Nhân.
Theo “Hưng Hóa phong thổ lục” của Hoàng Bình Chính: Huyện Trấn
Yên nguyên là đất Châu Đăng thời Lý. Tên huyện đặt từ thời Lê (khoảng giữa
thế kỷ XX). Đời Gia Long (1802) vẫn như thế.
Năm 1886 sau khi thực dân Pháp làm chủ được thành Hưng Hóa và
Tuyên Quang, quân đội viễn chinh Pháp tiếp tục mở rộng lên mạn thượng lưu
sông Hồng, tiến công tuyến phòng thủ từ Hào Gia, Tuần Quán đến Giới
Phiên, Bạch Lẫm. Những năm sau quân Pháp tiếp tục mở rộng xâm lược sang
6
sông Đà sông Chảy và lên Lào Cai thành lập tiểu khu Hưng Hóa - Yên Bái Tuyên Quang.
Với địa hình được kiến tạo bởi hai dãy núi lớn và dòng sông Thao tạo
nên hình thể lòng chảo. Phía tả ngạn là dãy Con Voi, phía hữu ngạn là dãy Pú
Luông. Các triền núi, đồi và đất đai dốc từ 2 dãy Pú Luông, Con Voi nghiêng
ra sông, các con suối chính cũng bắt nguồn và chảy theo hướng địa hình lòng
chảo đổ vào sông Thao. Độ cao trung bình từ 100 - 200m so với mặt nước
biển, nơi thấp nhất là xã Minh Quân có độ cao 20m. Nhìn chung địa hình cao
dần từ đông nam lên Tây Bắc, phù hợp với địa hình chung của vùng Tây Bắc.
Các xã phía nam và phía đông nam, có địa hình đồi vúi thấp, bát úp đỉnh đồi
bằng, sườn dốc thoải mái thuận tiện cho việc trồng cây lương thực và cây
công nghiệp. Các xã nằm xen kẽ dưới chân núi Con Voi và dãy Pú Puông có
địa hình phức tạp, đồi cao, độ dốc lớn, chia cắt mạnh, núi đồi xen kẽ với các
thung lũng sâu gây nên nhiều khó khăn cho việc đi lại và giao lưu kinh tế.
Ngày 11/4/1900 toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập tỉnh Yên
Bái tách ra từ đạo quan binh thứ 4 bao gồm 4 huyện là: Huyện Trấn Yên, huyện
Văn Chấn, huyện Văn Bàn, huyện Lục Yên và một châu là châu Than Uyên.
Đến năm 1989 - 2008 huyện có 28 xã và một thị trấn nhưng sau năm
2008 thì chia tách 7 xã về thành phố Yên Bái và huyện Yên Bình. Hiện nay
huyện Trấn Yên còn lại 21 xã và 1 thị trấn [27, tr. 8].
1.1.2. Dân cư
Là miền đất có bề dày văn hóa trong huyện có 6 dân tộc anh em đã sinh
sống nhiều đời, nhiều thế kỷ sát cánh bên nhau phát triển kinh tế - xã hội và
bảo vệ quê hương đất nước.
Dân số tính đến năm 2000 là 94.718 người. Trong đó nam 47.095 người,
nữ 47.623 người; số người sống ở nông thôn là 89.311 người. Mật độ dân số
137 người/ km. Tỷ lệ tăng dân số 1.39% (năm 2003).
7
Về thành phần dân tộc.
Người Kinh có 70.370 chiếm 74,3%, sinh sống chủ yếu ở các xã
vùng ngoài và các xã phía Nam của huyện. Vùng 2 bờ sông Thao được
người Kinh khai khẩn từ rất lâu, lập nên làng xóm đông đúc trù phú như
trung du Bắc Bộ.
Người Tày có 14.560 người chiếm 15,9% dân số, sống chủ yếu ở
các xã vùng sâu có các bồn địa và ven suối lớn. Họ sống tập trung thành
từng bản, ở nhà sàn thâm canh lúa nước, chăn nuôi gia súc gia cầm.
Người Dao: Theo điều tra và phân loại, người Dao thuộc nhiều
nhánh như Dao Tiền, Dao Quần Trắng, Dao Đại Bản… và người Sán
Chay (Cao Lan). Người Dao trong huyện định cư sau người Tày, họ có
tập quán sống ở cấc sườn núi cao từ 300- 400m so với mặt biển. Tổng số
người Dao ở Trấn Yên có 5.872 người chiếm 6,2% dân số, bao gồm cả
người Sán Chay (Cao Lan).
Người Mường: Có 3.073 người tính bằng 2.2% dân số. Người
Mường có nguồn gốc từ huyện Thanh Sơn (Phú Thọ) đã di thực theo
sông Thao lên cư trú tại xã Quy Mông cách đây khoảng 150 năm. Họ
sống thành cộng đồng trong làng Mường. Sản xuất chủ yếu là trồng cây
lúa nước, chăn nuôi gia súc, gia cầm.
Người H’mông: Trong những năm đầu miền Bắc mới được giải
phóng, huyện Trấn Yên cơ bản không có người H’mông. Theo điều tra
năm 1932 của thực dân Pháp toàn huyện chỉ có 77 người H’mông sống
rải rác ở các xã vùng cao miền thượng huyện. Từ các năm tám mươi
người H’mông du cư từ Trạm Tấu, Văn Chấn đến ở các xã giáp ranh của
huyện. Họ ở tập trung thành từng bản H’mông ở Hồng Lâu (Hồng Ca),
Đồng Ruộng (Kiên Thành) với tổng số người là 1.270 chiếm 1.3% dân
số toàn huyện. Người H’mông có tập quán phát nương trồng rẫy, sau
8
nhiều lần trồng rẫy độ phì nhiêu của đất tàn kiệt, rừng trơ trụi xác xơ
người H’mông lại di chuyển đến nơi khác [27, tr.21, 33].
1.2. Tình hình kinh tế và truyền thống văn hóa giáo dục của huyện
Trấn Yên
1.2.1. Tình hình kinh tế trong những năm 1996 - 2000
Tỉnh Yên Bái, xuất phát điểm kinh tế còn thấp nên việc đẩy mạnh kinh tế
phát triển càng được chú trọng. Huyện Trấn Yên cũng đã xây dựng những dự
án để phát triển kinh tế, từ đó nền kinh tế từ năm 1996 đến năm 2015 có
chuyển biển rõ rệt về cơ cấu kinh tế.
Hệ thống giao thông là yếu tố quan trọng của kết cấu hạ tầng phục vụ
cho việc phát triển kinh tế.
Tỉnh lộ Yên Bái - Văn Yên đoạn qua đất Trấn Yên dài 22km được xây
dựng trên nền tảng của đường quan binh dọc sông Thao từ Yên Bái lên Bảo
Hà. Đầu thập niên 60 được mở rộng, trải cấp phối, nhiều đoạn bỏ nền cũ để
tránh sạt lở, tiếp đến những năm 70 được trải nhựa, là huyết mạch giao thông
quan trọng của huyện Trấn Yên và Văn Yên. [3,tr.11]
Các đường quốc lộ 13A, 32C, tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai cũng
đã đóng góp thiết thực vào lĩnh vực dân sinh, mở mang kinh tế cho các xã
trong huyện.
Hệ thống đường giây tải điện và trạm biến thế đã phủ kín các xã trong
huyện từ năm 2002. Phía hữu ngạn sông Thao tỉnh đầu tư xây dựng lưới điện
vượt sông nối liền từ trung tâm tỉnh ra các xã lân cận. Tuy số xã có điện đạt
100% nhưng còn nhiều thôn bản nằm ở các xã khu vực sâu xa đường xã khó
đi lại, điều kiện kinh tế - xã hội nhiều khó khan thì chưa có khả năng kéo
điện. Đây là vấn đề khó khăn cần được tháo gỡ nhằm tạo động lực phát triển
và thực hiện công bằng xã hội của huyện.
Mạng lưới thông tin liên lạc cũng phát triển và đang đạt tới mục tiêu
phủ kín địa bàn cấp xã. Đến năm 2000 trên địa bàn huyện có 1 tổng đài kỹ
9
thuật số, tổng số thuê bao điện thoại là 463 máy, đạt 0,49 máy /100 dân, đến
năm 2004 các xã hầu hết đã có bưu điện văn hóa xã. [27,tr 36].
Thông tin liên lạc giữa huyện với tỉnh, giữa huyện với các xã thông suốt
đã tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường
vai trò quản lý nhà nước cấp huyện với cơ sở.
Các vùng chuyên canh cây trồng và các nhà máy chế biến nông lâm sản:
Trong những năm trăn trở tìm kiếm cách giải quyết cái ăn, cái mặc
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội bộ ngành sản xuất nông - lâm
nghiệp đã đưa tới kết quả tạo ra được các vùng chuyên canh lớn, đây là
những điều kiện để phát triển một nền kinh tế hàng hóa và xây dựng
nông thôn mới. vùng thâm canh lúa nước với diện tích canh tác là 3.040
ha, chủ yếu tập trung ở 17 xã dọc sông Thao với những cánh đồng phù sa
màu mỡ và ở các xã vùng trong với những bồn địa đất đai phì nhiêu.
Vùng chè kinh doanh 2.300 ha bao gồm chè của các hộ và 700ha chè
của các xí nghiệp chè đóng trên địa bàn huyện. Hệ thống máy chế biến
chè được xây dựng gắn liền với các vùng nguyên liệu. Khu vực thượng
huyện với 2 nhà máy công suất chế biến 10 tấn/ ngày khu vực phía nam
của huyện có 1 dây chuyền nhỏ, 1 nhà máy lớn với công suất 15 tấn/
ngày, khu vực phía tây nam có nhiều thôn bản chuyên sản xuất chè với 2
nhà máy lớn, công suất tối đa 20 tấn / ngày. Tổng công suất các nhà máy
chế biến chè trong huyện đạt từ 35- 40 tấn/ ngày đã tiêu thụ hết khối
lượng búp sản xuất ra mỗi năm là 12.500 tấn.
Cây quế là đặc sản nổi bật nhất tỉnh Yên Bái. Tại huyện Trấn Yên
rừng quế được hình thành trong chương trình trồng rừng phủ xanh đất
trống đồi núi trọc. Diện tích rừng quế đã hình thành là 5.000 ha, được
trồng ở tất cả các xã nhưng tập trung liền khoảng ở Kiên Thành, Y Can,
Quy Mông… [27.tr.38].
10
- Hệ thống nhà máy bao gồm nhà máy chế biến chè, nhà máy chế biến
giấy, và sản xuất bột giấy từ nguyên liệu sợi dài (tre, nứa, vầu) được xây dựng
ở Cổ Phúc, Hưng Khánh và Minh Quân. Sản phẩm giấy và bột giấy là mặt
hàng xuất khẩu quan trọng đối với thị trường Đài Loan. Phía Nam huyện đã
hình thành 2 khu công nghiệp, khu công nghiệp Văn Tiến có nhà máy sản
xuất bột đá vôi xuất khẩu cho thị trường Thái Lan [27, tr.39].
Trong giai đoạn năm 1996 - 2015 nền kinh tế của huyện Trấn Yên (Yên Bái)
đã có bước tăng trưởng như sau:
- Tăng trưởng kinh tế:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế thời kỳ năm 1996 - 2000:
Tốc độ tăng trưởng bình quân nền kinh tế thời kỳ 2001-2015: 11,0%/năm
(Trong đó thời kỳ 2001 - 2005: 10,0%/ năm, 2006-2010: 12,0%/ năm): năm
2011 - 2015: 11%/năm).
Tăng trưởng bình quân ngành nông lâm nghiệp thời kỳ 2001-2010:5,5%/năm
(Trong đó thời kỳ 2001 - 2005: 5,4%/ năm, 2006-2010: 5,6%/năm, 20112015 5,6% /năm).
Tăng trưởng bình quân ngành công nghiệp - xây dựng thời kỳ 2001-2015:
19,5%/năm.
(Trong đó thời kỳ 2001-2005: 19,0%/ năm, 2006-2010: 20,0%/năm, 20112015: 20,0%/năm).
Tăng trưởng bình quân ngành dịch vụ thời kỳ 2001 - 2015: 10,0%/năm.
(Trong đó thời kỳ 2001 - 2005: 9,5%/ năm, 2006 - 2010: 10,5%/năm, 2011 2015: 9,5%/ năm).
Thu nhập bình quân đầu người (tính theo triệu đồng) đã tăng theo từng năm,
năm 2005 đạt 5,132 đến năm 2010 đạt 9,845.
Kinh tế phát triển tạo đà để Trấn Yên quan tâm đầu tư hơn cho các lĩnh
vực văn hoá, giáo dục y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân trên địa bàn. Các vấn
đề an sinh xã hội cũng đã được quan tâm thực hiện có hiệu quả. Sự nghiệp
giáo dục đào tạo từng bước được đổi mới căn bản và toàn diện theo hướng
11
nâng cao chất lượng đáp ứng với yêu cầu giáo dục trong giai đoạn hiện nay,
hiện Trấn Yên có 16 trường đạt chuẩn quốc gia, 22/22 xã thị trấn đạt phổ cập
giáo dục tiểu học, trung học cơ sở và mầm non cho trẻ 5 tuổi. Lĩnh vực y tế
cũng đã đáp ứng tốt nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Phong trào
“toàn dân đoàn kết xây dựng đờì sống văn hóa” được quan tâm đẩy mạnh,
100% thôn bản ra mắt xây dựng làng bản, khu phố văn hóa, phong trào văn
hóa văn nghệ - thể dục thể thao được phát triển rộng khắp, từng bước đi vào
chiều sâu. Các địa phương đã lồng ghép nhiều chương trình chính sách để
thực hiện giảm nghèo nhanh và bền vững như giải quyết việc làm, đào tạo
nghề, cho vay vốn chuyển giao khoa học kỹ thuật… Thu nhập bình quân đầu
người đạt 25 triệu đồng.
1.2.2. Đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của huyện Trấn Yên
Đời sống tín ngưỡng vô cùng phong phú chủ yếu là văn hóa phi vật thể
bao gồm văn hóa tinh thần của người Kinh với những tinh hoa văn hóa đồng
bằng và trung du Bắc Bộ, văn hóa tinh thần giàu bản sắc của đồng bào Tày,
Dao, Mường, Cao Lan, H’mông. Đặc biệt đây là vùng giao thoa văn hóa giữa
miền núi Đông Bắc với vùng miền núi Tây Bắc, giữa miền xuôi với miền
ngược, đã tạo nên vườn hoa văn hóa phong phú sắc màu.
Văn hóa tinh thần huyện Trấn Yên được hình thành từ lịch sử lâu dài
dựng nước và giữ nước, phản ánh quá trình chế ngự thiên nhiên và mối quan
hệ giữa con người với con người trong đời sống xã hội. Là một bộ phận của
nền văn hóa sông Hồng, yếu tố cơ bản của nền văn minh nông nghiệp.
Trong đời sống tinh thần có những tín đồ suốt đời mang nặng niềm tin về
Chúa, về Phật.
Nhìn chung tín ngưỡng tôn giáo huyện Trấn Yên là thờ cúng tổ tiên, thờ
mẫu, thờ thần và những người có công. Mỗi tộc người có cách thể hiện khác
nhau nhưng đều có điểm chung là hậu thế luôn hoài vọng, nhớ về nguồn cội, về
các thế hệ đã sinh thành, dưỡng dục, về chính quê hương bản quán của mình.
12
Hai tôn giáo có vị trí đáng kể trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân
dân là đạo Phật và đạo Thiên Chúa.
Đạo Phật vào Trấn Yên từ thời Trần và phát triển trong thời Lê, thời
Nguyễn. Đến kháng chiến chống Pháp hầu hết chùa chiền bị tàn phá, nhiều
nơi cả đình đền cũng thành phế tích, số được khôi phục lại không đáng kể.
Chùa ở Trấn Yên hầu hết là chùa nhỏ, làm theo kiểu nhà thông thường,
phân biệt các cung thờ bằng ban bệ xây gạch hoặc làm bằng gỗ. Chùa thờ
Phật theo Phật giáo Đại Thừa - ý nghĩa như một cỗ xe lớn có thể chở được
nhiều chúng sinh tới cõi Niết Bàn.
Từ cuối thế kỷ XVII, việc mở rộng truyền đạo lên vùng Tây Bắc của các
giáo sỹ phương Tây được thực hiện cùng với việc đặt ách thống trị của quân
đội viễn chinh Pháp vì thế đối với người Trấn Yên đạo Thiên Chúa mới được
du nhập vào khoảng 1 thế kỷ. Những nhà thờ sớm được xây dựng từ năm
1898 đến năm 1930 là nhà thờ Yên Bái, nhà thờ họ làng Sặt, nhà thờ Bảo
Long, nhà thờ Nụ Điền, nhà thờ Âu Lâu, nhà thờ Nga Quán… Đọc kinh, cầu
nguyện, đi nhà thờ là một nhu cầu thuộc về đời sống tâm linh của đồng bào
theo đạo Thiên Chúa.
Có những người không theo một tôn giáo chính thống nào nhưng vẫn
đến lễ Phật để cầu bình yên hoặc đến nhà thờ Thiên Chúa để xem hành lễ như
sự sinh hoạt văn hóa văn nghệ bình thường. Người Mường có tục thờ Phật
(Ông Bụt); Người Tày cổ thờ vật linh giáo… [27, tr.34].
Văn hóa sẽ ảnh hưởng và tác động rất lớn đền truyền thống giáo dục của
người dân huyện Trấn Yên.
1.3. Thực trạng giáo dục của huyện Trấn Yên trƣớc năm 1996
Từ năm 1986 - 1990 Huyện ủy chỉ đạo đầu tư xây dựng nhiều thiết chế
văn hóa mới. Hội trường huyện làm nơi hội họp tập trung. Nhà văn hóa 500
chỗ ngồi và tổng hợp được xây dựng bằng vốn của huyện và sự đầu tư xây
13
dựng của nhà nước. Toàn huyện có hai trường phổ thông cấp III, một trường
đặt ở trung tâm huyện lỵ, một trường đặt ở khu kinh tế mới Hưng Khánh. Bên
cạnh đó văn hóa huyện được quan tâm phòng văn hóa thông tin quản lý 1 đội
thông tin lưu động, 1 nhà văn hóa trung tâm, 2 đội chiếu bóng, 34 đội văn
nghệ, 27 đội bóng chuyền, 19 đôi bóng đá ở cơ sở.
Nghị quyết đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVI đề ra 4 chương trình kinh tế
- xã hội lớn thực hiện từ năm 1991 - 1995. Trong đó cũng nêu lên nhiệm vụ cần
thiết về giáo dục đào tạo là xây dựng kết cấu cơ sở hạ tầng, trường học, trang
thiết bị cần thiết. Mục tiêu đến năm 1995 thì 70% số xã có trường học xây bằng
gạch ngói. [27, tr.277].
Đảng bộ huyện Trấn Yên cũng tích cực nhấn mạnh nâng cao công tác
giáo dục đào tạo trong toàn huyện. Tuy nhiên thời kỳ trước năm 1996 huyện
Trấn Yên cũng gặp nhiều khó khăn và thách thức do tình hình chung của cả
nước. Nhưng với sự nỗ lực của Đảng bộ và nhân dân trong huyện Trấn Yên
đã vượt qua nhiều khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ chính trị của ngành.
1.4. Chủ trƣơng của Đảng bộ huyện Trấn Yên trong việc lãnh đạo công
tác giáo dục đào tạo trong năm 1996- 2000
1.4.1. Những chủ trương lớn của Đảng và Đảng bộ huyện Trấn Yên về
đổi mới giáo dục đào tạo năm 1996 - 2000
Nhân loại bước vào thế kỷ XXI, thế kỷ của nền văn minh trí thức, từ một
nền kinh tế chủ yếu dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên sang nền kinh tế dựa
vào con người. Khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
làm thay đổi sâu sắc bộ mặt thế giới. Những thành tựu của khoa học công nghệ
thể hiện ở các lĩnh vực Internet, vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ vũ
trụ… đã đặt ra những yêu cầu đổi mới với giáo dục và đào tạo ở nước ta.
Đánh giá đúng đắn thực trạng giáo dục Việt Nam và yêu cầu đặt ra đối
với sự nghiệp phát triển giáo dục, phục vụ đắc lực mục tiêu, chiến lược phát
14
triển kinh tế - xã hội của đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI nhấn
mạng mục tiêu của giáo dục là nhằm hình thành và phát triển toàn diện nhân
cách xã hội chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, đào tạo đội ngũ lao động có kỹ thuật,
đồng bộ về ngành nghề, phù hợp với yêu cầu phân công lao động xã hội. Phấn
đấu để đạt mục tiêu nói trên, Đại hội nhấn mạnh đó là “trách nhiệm chung của
ngành giáo dục, của cấp ủy đảng và chính quyền các cấp” [17, tr.526].
Đại hội VII của Đảng (6 - 1991) đã khẳng định giáo dục và đào tạo, khoa
học công nghệ “là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người, động
lực phát triển của sự phát triển” [19, tr.121] và đóng vai trò then chốt trong
toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, là một động
lực đưa đất nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến
của thế giới” [19, tr.79]. Do đó mục tiêu giáo dục và đào tạo là nhằm nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài hình thành đội ngũ lao động
có trí thức và có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng
tạo, có đạo đức cách mạng, có tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Nhà
trường đào tạo thế hệ trẻ theo hướng toàn diện và có năng lực chuyên môn
sâu, có ý thức và khả năng tự tạo việc làm trong nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần [19, tr.81].
Quan điểm trên của Đảng thể hiện rõ sự đổi mới về tư duy giáo dục.
Trước đây, các quan điểm của Đảng và nhà nước đều coi trọng sự nghiệp giáo
dục và đào tạo, song thực tế nhiều khi giáo dục và đào tạo chỉ được xem là
phúc lợi xã hội, là lĩnh vực phi sản xuất, là gánh nặng cho kinh tế. Nhưng nay,
Đảng ta đã xác định rõ giáo dục đào tạo là một động lực trực tiếp của sự phát
triển, phải được xem là quốc sách hàng đầu để phát huy nguồn lực con người
- mục tiêu, chiến lược phát triển của đất nước.
Đẩy mạng sự nghiệp giáo dục, ngày 12 - 08 - 1991, Quốc hội nước cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua luật phổ cập giáo dục tiểu học và
15
luật chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em. Đây là bộ luật mở đầu về công tác
giáo dục ở nước ta. Tiếp đó tại kỳ họp thứ XI, Quốc hội khóa VIII thông qua
hiến pháp nước cộng hòa XHCN Việt Nam (năm 1992) một lần nữa khẳng
định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhà nước phát triển giáo dục
nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; Nhà nước thống
nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung,
kế hoạch giáo dục, tiểu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử và hệ thống văn bằng;
Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục, khuyến khích các nguồn đầu tư khác,
đồng thời nhà nước mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực văn
hóa, thông tin, văn hóa, nghệ thuật, giáo dục, y tế, thể dục thể thao.
Quán triệt sâu rộng mục tiêu giáo dục và đào tạo do Đại Hội VII của
Đảng đề ra, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 4 (khóa VII) tháng 1 - 1993, lần đầu tiên trong lịch sử Đảng ta, đã ra một nghị quyết
chuyên đề “Về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo”.
Hội nghị đã đề ra 4 quan điểm chỉ đạo cho quá trình đổi mới sự nghiệp
giáo dục và đào tạo:
Thứ nhất, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực thúc
đẩy, là điều kiện cơ bản đảm bảo việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội,
xây dựng và bảo vệ đất nước. Phải coi đầu tư cho giáo dục là một việc chính
của đầu tư phát triển.
Thứ hai, mục tiêu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, đào tạo những con người có kiến thức văn hóa, khoa học, có kỹ năng
nghề nghiệp… Mở rộng quy mô, đồng thời chú trọng nâng cao chất lượng,
hiệu quả giáo dục gắn học với hành, tài với đức.
Thứ ba, gắn chặt yêu cầu phát triển đất nước và phù hợp với xu thế tiến
bộ của thời đại.
Thứ tư, đa dạng hóa các hình thức đào tạo, thực hiện công bằng xã hội
giáo dục.
16
Ngoài 4 quan điểm chỉ đạo trên, nghị quyết Trung ương 4 (khóa VII) còn
đề ra các chủ trương, chính sách và biện pháp lớn nhằm đổi mới sự nghiệp
giáo dục và đào tạo. Trong đó giáo dục phổ thông, nghị quyết cũng nêu rõ:
- Tiếp tục hoàn chỉnh cơ cấu của hệ thống giáo dục quốc dân như: Củng
cố các trường công, không mở trường lớp tư thục ở giáo dục phổ thông.
Khuyến khích tự học, đảm bảo cho mọi công dân trong khuôn khổ pháp luật
có quyền được học, được thi, được chọn trường, chọn nghề, được học tập ở
trong nước và đi học ở nước ngoài.
- Sắp xếp lại hệ thống các trường nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư, sử
dụng cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên. Hình thành từng bước các trường
lớp trọng điểm có chất lượng cao, mở rộng hệ thống trường, lớp năng khiếu ở
phổ thông.
- Phấn đấu đến năm 2000 thanh toán nạn mù chữ ở người lao động trong
độ tuổi từ 15 - 35, tích cực thu hẹp diện người mù chữ ở độ tuổi khác, hoàn
thành phổ cập giáo dục trung học trước hết đối với trẻ em trong độ tuổi 6 - 14.
Đẩy mạnh thực hiện phổ cập giáo dục cấp II, nhất là ở khu đô thị.
- Hình thành bậc trung học mới nhằm chuẩn bị cho một bộ phận học sinh
tiếp tục học lên và đa số tốt nghiệp có thể vào đời. Giáo dục kỹ năng lao động
hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông theo hình thức liên kết giáo
dục phổ thông và giáo dục chuyên nghiệp.
- Xác định lại mục tiêu, thiết kế lại chương trình, kế hoạch, nội dung
phương pháp giáo dục và đào tạo cụ thể đối với học sinh từng bậc học, cấp học.
- Đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học, bậc học. Kết hợp
tốt học với hành, học với lao động sản xuất, gắn nhà trường với xã hội.
- Củng cố phát triển giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số và những vùng
khó khăn. Thực hiện ngay một số biện pháp cấp bách nhằm ngăn chặn tình
trạng xa sút về giáo dục ở miền núi; coi trọng công tác đào tạo cán bộ cho các
vùng dân tộc thiểu số từ Trung ương đến địa phương.
17
Tăng cường sự lãnh đạo các cấp ủy Đảng đối với sự nghiệp giáo
dục. Chú trọng xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục
như: Thực hiện chính sách khuyến khích về vật chất và tinh thần đối với
giáo viên; ưu đãi tiền lương, phụ cấp đối với những nơi khó khăn thuộc
vùng cao, vùng sâu, hải đảo và một số vùng miền núi; thực hiện tốt công
tác sắp xếp giáo viên theo chức danh và tiêu chuẩn; kết hợp đào tạo giáo
viên mới với bồi dưỡng thường xuyên giáo viên đang làm việc.
Từ những quan điểm chỉ đạo của Đảng và một số chủ trương, chính sách
biện pháp lớn nhằm đổi mới sự nghiệp giáo dục nêu trên, cần phải thấm
nhuần các yếu tố, các mặt của giáo dục. Quán triệt tinh thần đó một số thông
tư, quyết định, chỉ thị của nhà nước và Bộ giáo dục, tiếp tục triển khai sâu
rộng, đưa sự nghiệp giáo dục nước nhà không ngừng đi lên.
Qua 5 năm thực hiện nghị quyết đại hội VII và nghị quyết Trung ương 4
(khóa VII) sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã có nhiều phát triển tiến bộ đạt
nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên những kết quả đó vẫn thấp so với yêu
cầu phát triển của đất nước, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Về chất lượng và hiệu quả giáo dục và đào tạo còn nhiều hạn
chế về cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên, về chương trình
sách giáo khoa… còn nhiều bất cập.
Để khắc phục những hạn chế đó, đại hội đại biểu toàn quốc lần thức VII
của Đảng (tháng 6 - 1996) đã nêu ra quan điểm và phương hướng phát triển
giáo dục và đào tạo trong những năm tới với những nội dung cơ bản sau:
Trước hết Đảng phải xác định: Giáo dục và đào tạo, cùng với khoa học và
công nghệ phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Phải coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển,
tạo điều kiện cho giáo dục đi trước và phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế xã hội. Huy động toàn xã hội làm giáo dục dưới sự quản lý của nhà nước.
18
Bằng nhiều hình thức đa dạng đảm bảo cho mọi người được học, nhất là
người nghèo và con em các gia đình thuộc diện chính sách. Động viên phong
trào toàn dân thi đua xóa mù chữ, hoàn thành phổ cập tiểu học trong cả nước và
phổ cập trung học cơ sở ở những nơi có điều kiện như những thành phố lớn,
khu công nghiệp tập trung. Đến năm 2000 đảm bảo đại bộ phận trẻ em 5 tuổi
được hưởng chương trình giáo dục mầm non, thanh toán nạn mù chữ ở những
người trong độ tuổi từ 15 đến 35, thu hẹp diện người mù chữ ở độ tuổi khác.
Xây dựng hệ thống trường chuyên, trường trọng điểm, trung tâm chất
lượng cao ở các bậc học. Cải tiến chất lượng dạy và học, khắc phục những
tiêu cực, yếu kém trong ngành giáo dục để hoàn thành tốt việc đào tạo, bồi
dưỡng nguồn lực con người cho công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Cùng
với đổi mới nội dung giáo dục theo hướng cơ bản, hiện đại, phải tăng cường
giáo dục công dân, giáo dục lòng yêu nước và thế giới quan khoa học. Đổi
mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên và các bộ quản lý giáo dục.
Tổng kết cải cách giáo dục; xây dựng chiến lược phát triển giáo dục và đào
tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đât nước. Xây dựng và hoàn
thiện hệ thống luật pháp và chính sách của nhà nước về giáo dục và đào tạo.
Nâng dần tỉ trọng chi ngân sách, động viên đúng mức sự đóng góp của từng
cá nhân, gia đình và toàn thể xã hội cho giáo dục và đào tạo. Đẩy mạnh hợp
tác quốc tế trong giáo dục và đào tạo.
Để quán triệt cụ thể hóa những quan điểm, phương hướng của Đại hội
VIII, hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương khóa VII (tháng 12 1996) đã có nghị quyết “Về định hướng chiến lược và phát triển giáo dục và
đào tạo trong thời kỳ công nghiệp, hóa hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm
2000”. Nghị quyết đã nêu tư tưởng chỉ đạo sau:
Một là: Giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong giáo dục và đào tạo.
Trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng ta luôn gương cao hai
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Bởi vậy nhiệm vụ và mục tiêu
19