Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Điều tra, đánh giá hiện trạng nguồn lâm sản ngoài gỗ làm cơ sở đề xuất một số giải pháp nhằm quản lý bảo vệ rừng bền vững tại một số xã vùng đệm (xuân trạch và phúc trạch) vườn quốc gia phong nha kẻ bàng, tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (696.74 KB, 60 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
---------------------

ĐẶNG MINH HÙNG

“ĐIỀU TRA, ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG NGUỒN LÂM SẢN
NGOÀI GỖ LÀM CƠ SỞ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP
NHẰM QUẢN LÝ BẢO VỆ RỪNG BỀN VỮNG TẠI MỘT SỐ
XÃ VÙNG ĐỆM (XUÂN TRẠCH VÀ PHÚC TRẠCH) VƯỜN
QUỐC GIA PHONG NHA-KẺ BÀNG, TỈNH QUẢNG BÌNH”

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

HÀ NỘI, NĂM 2010


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
---------------------

ĐẶNG MINH HÙNG

“ĐIỀU TRA, ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG NGUỒN LÂM SẢN
NGOÀI GỖ LÀM CƠ SỞ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP


NHẰM QUẢN LÝ BẢO VỆ RỪNG BỀN VỮNG TẠI MỘT SỐ
XÃ VÙNG ĐỆM (XUÂN TRẠCH VÀ PHÚC TRẠCH) VƯỜN
QUỐC GIA PHONG NHA-KẺ BÀNG, TỈNH QUẢNG BÌNH”
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN RỪNG
MÃ SỐ:
60.62.68

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS. TRẦN MINH HỢI

HÀ NỘI, NĂM 2010


MỤC LỤC
Nội dung

Trang

Lời cám ơn . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

i

Bảng các chữ viết tắt . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

ii

Danh mục các bảng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

iii


Đặt vấn đề . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

1

Chương 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

3

1.1. Khái niệm về Lâm sản ngoài gỗ (LSNG) . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

3

1.2. Tình hình nghiên cứu LSNG . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

4

1.2.1. Tình hình nghiên cứu LSNG trên thế giới . . . . . . . . . . . . . . . . . .

4

1.2.2. Tình hình nghiên cứu về LSNG ở Việt Nam . . . . . . . . . . . . . . . .

10

Chương 2. Đối tượng, mục tiêu và phương pháp nghiên cứu . . . . . . . . .

18

2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .


18

2.1.1. Đối tượng nghiên cứu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

18

2.1.2. Phạm vi nghiên cứu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

18

2.2. Mục tiêu nghiên cứu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

18

2.3. Nội dung nghiên cứu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

18

2.3.1. Đánh giá hiện trạng tài nguyên LSNG tại hai xã vùng đệm
(Xuân Trạch và Phúc Trạch VQG Phong Nha-Kẻ Bàng . . . . . . . . . . . .

18

2.3.2. Tình hình khai thác LSNG của người dân tại 2 xã vùng đệm
(Xuân Trạch và Phúc Trạch) VQG Phong Nha-Kẻ Bàng . . . . . . . .

18

2.3.3. Đề xuất một số giải pháp quản lý bền vững LSNG tại hai xã


18

vùng đệm (Xuân Trạch và Phúc Trạch VQG Phong Nha-Kẻ Bàng . . . .
2.4. Phương pháp nghiên cứu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

19

2.4.1. Phương pháp thu thập số liệu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

19

2.4.2. Phương pháp kế thừa . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

19

2.4.3. Phương pháp nghiên cứu LSNG theo tuyến điều tra . . . . . . . . . .

19


2.4.4. Phương pháp điều tra xã hội học . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

19

2.4.5. Phương pháp xử lý số liệu và viết báo cáo . . . . . . . . . . . . . . . . . .

20

Chương 3. Đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội khu vực nghiên
cứu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .


21

3.1. Điều kiện tự nhiên . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

21

3.1.1. Vị trí địa lý . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

21

3.1.2. Diện tích . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

22

3.1.3. Địa hình . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

23

3.1.4. Địa chất . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

24

3.1.5. Thổ nhưỡng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

25

3.1.6. Khí hậu - Thuỷ văn . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

25


3.1.7. Tài nguyên rừng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

26

3.2. Điều kiện kinh tế-xã hội. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

28

3.2.1. Dân số các xã vùng đệm . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

28

3.2.2. Thành phần dân tộc . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

29

3.2.3. Cơ sở hạ tầng khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng . . . . . . . . . . . . . . . .

30

Chương 4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

33

4.1. Hiện trạng tài nguyên LSNG tại hai xã vùng đệm Xuân Trạch và

33

Phúc Trạch VQG Phong Nha-Kẻ Bàng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

4.1.1. Nhóm cây làm thuốc . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

33

4.1.2. Nhóm cây ăn được . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

34

4.1.3. Nhóm cây làm cảnh và cây cho bóng mát . . . . . . . . . . . . . . . . . .

36

4.1.4. Nhóm cây cho tinh dầu và dầu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

37

4.1.5. Nhóm cây cho tannin và làm thuốc nhuộm . . . . . . . . . . . . . . . . .

39

4.1.6. Nhóm song mây . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

39

4.2. Tình hình khai thác LSNG tại hai xã vùng đệm (Xuân Trạch và
Phúc Trạch VQG Phong Nha-Kẻ Bàng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

42



4.3. Đề xuất một số giải pháp quản lý bền vững LSNG tại hai xã vùng
đệm Xuân Trạch và Phúc Trạch VQG Phong Nha-Kẻ Bàng . . . . . . . . .

45

4.3.1. Bảo vệ và phát triển bền vững nguồn LSNG tại hai xã vùng đệm
Xuân Trạch và Phúc Trạch. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

45

4.3.2. Bảo tồn các loài LSNG quý hiếm. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

47

4.3.3. Phát triển các loài LSNG có tiềm năng kinh tế. . . . . . . . . . . . . . .

50

4.3.3.1. Những cây trồng chủ đạo hiện nay của địa phương . . . . . . . . . .

50

4.3.3.2. Các loại cây có giá trị kinh tế cao được đề xuất phát triển . . . .

51

Chương 5. Kết luận và kiến nghị . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

52


5.1. Kết luận . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

52

5.2. Kiến nghị . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

52

Tài liệu tham khảo . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Phụ lục: - Danh sách nguồn LSNG tại Xuân Trạch và Phúc Trạch,
huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
- Hình ảnh một số loài LSNG tại Phúc Trạch và Xuân Trạch..


BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT
LSNG: Lâm sản ngoài gỗ
NTFP: Non timber forest products (LSNG)
VQG: Vườn Quốc gia
BTTN: Bảo tồn thiên nhiên
IUCN: Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên quốc tế
SĐVN: Sách đỏ Việt Nam
NĐ 32/NĐ-CP/ 2006: Nghị định 32 của Chính phủ ngày 30/03/2006


DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng

Nội dung

Trang


Bảng 4.1

Các nhóm LSNG tại Phúc Trạch và Xuân Trạch . . . . . . . .

33

Bảng 4.2

Các loài chứa tinh dầu tại Phúc Trạch và Xuân Trạch . . . .

37

Bảng 4.3

Thành phần Song mây tại Phúc Trạch và Xuân Trạch . . . .

39

Bảng 4.4

Nhóm người và hộ khai thác LSNG 2007 tại Phúc Trạch
và Xuân Trạch . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Bảng 4.5

Mục đích khai thác LSNG của các hộ gia đình tại Phúc
Trạch và Xuân Trạch . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Bảng 4.6


Bảng 4.7

43

44

Thời vụ khai thác LSNG từ rừng tại Phúc Trạch và Xuân
Trạch . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

44

Tần suất khai thác LSNG tại Phúc Trạch và Xuân Trạch . .

45


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại Trường Đại học Lâm nghiệp,
tôi luôn nhận được sự quan tâm dạy dỗ và chỉ bảo ân cần của các thầy giáo, cô giáo.
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Ban Giám hiệu nhà trường,
Khoa đào tạo Sau đại học, quý thầy cô giáo cùng toàn thể cán bộ Trường Đại học
Lâm nghiệp Việt Nam.
Tôi xin được bày tỏ sự chân thành cảm ơn tới PGS.TS. Trần Minh Hợi, Viện
Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, người hướng dẫn khoa học và tạo mọi điều kiện
tốt nhất cho tôi trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Giáo sư, Tiến sĩ, lãnh đạo và cán bộ công
nhân viên Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật đã giúp đỡ tôi trong quá trình giám
định và phân tích mẫu các loài thực vật.
Tôi xin cảm ơn Chi cục Kiểm lâm Quảng Bình, các phòng, ban của UBND

huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình; Ban Giám đốc Vườn Quốc gia Phong Nha-Kẻ
Bàng; Lãnh đạo UBND các xã Xuân Trạch và Phúc Trạch và người dân trong 2 xã
đã giúp đỡ tôi trong việc điều tra nghiên cứu thực tế để hoàn thành luận văn này.
Tôi vô cùng biết ơn sự quan tâm, giúp đỡ, động viên của gia đình, người thân và
bạn bè đồng nghiệp trong quá trình thực hiện luận văn. Trong quá trình nghiên cứu
thực hiện luận văn, do điều kiện hạn chế về thời gian, nhân lực, tài chính và nội
dung nghiên cứu của đề tài còn tương đối rộng, nên không tránh khỏi những thiếu
sót. Tôi mong muốn nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô
giáo, các nhà khoa học và bạn bè đồng nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn ./.
Xuân Mai, ngày .... tháng .... năm 2010
Tác giả luận văn

Đặng Minh Hùng


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ hơn thập kỷ trở lại đây, lợi ích của nguồn lâm sản ngoài gỗ đã thu hút
nhiều sự quan tâm trên thế giới. Hiện nay đã có những giải pháp lớn về đầu
tư, khảo sát tiềm năng nguồn lâm sản này nhằm cung cấp nguồn lợi cho người
dân địa phương trong khi nguồn tài nguyên rừng vẫn được bảo tồn. Nguồn
lâm sản ngoài gỗ nhiều hơn gỗ và có vai trò quan trọng đối với đời sống của
người dân trong vùng và vùng lân cận; đây là nguồn cung cấp thực phẩm,
dược phẩm và các nguyên liệu khác; là nơi tạo công ăn, việc làm và thu nhập,
đặc biệt là trong những thời kỳ khó khăn. Việc khai thác, kinh doanh các lâm
sản ngoài gỗ tăng lên góp phần làm tăng giá trị của rừng nhiệt đới ở cả cấp địa
phương và quốc gia, có tác dụng khuyến khích nhân dân bảo vệ rừng thay vì
phá rừng lấy đất trồng trọt hoặc chăn nuôi [41][46]. Nguồn tài nguyên thực

vật nước ta rất đa dạng và phong phú, có giá trị khoa học và kinh tế cao
[2][4][5][13]. Do chưa được điều tra, nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống nên
chỉ mới là tiềm năng chưa phát huy được tác dụng tích cực đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới.
Do đó, việc điều tra, nghiên cứu những cây tài nguyên, đặc biệt là
nguồn tài nguyên ngoài gỗ làm cơ sở khoa học kỹ thuật cho khai thác, sử
dụng hợp lý, bảo vệ và phát triển lâu bền nguồn tài nguyên, phát hiện những
cây kinh tế mới, phục vụ chuyển dịch cơ cấu cây trồng, góp phần bảo vệ và
phục hồi rừng, bảo vệ tính đa dạng sinh học là việc làm hết sức cần thiết.
Kết quả điều tra Đa dạng sinh học trong thời gian qua của một số cơ
quan và các nhà khoa học tại Vườn Quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng đã ghi
nhận được sự đa dạng cao về các loài động vật và thực vật, bao gồm các loài
đặc hữu núi đá vôi cho vùng này của miền Trung Việt Nam và Trung Lào
[13][14][34].
Bên cạnh đó các loài thực vật cho lâm sản ngoài gỗ (LSNG) là một bộ
phận quan trọng cấu trúc nên tổ thành rừng. Sự đa dạng về LSNG ở một mức
độ nào đó chính là sự đa dạng về sinh học. Bởi vậy, nếu nguồn LSNG thường
xuyên có nguy cơ bị tác động, có nghĩa là nguồn tài nguyên của VQG cũng bị
tác động bởi áp lực của người dân trong vùng. Nếu không có những biện pháp
hữu hiệu cần thiết can thiệp kịp thời, nguồn tài nguyên của VQG sẽ bị mai


2

một trong tương lai là một điều khó tránh khỏi. Từ thực trạng trên, được sự
quan tâm của các ngành, các cấp, các tổ chức, các nhà khoa học trong và
ngoài nước, đã có một số công trình nghiên cứu, đi sâu phân tích những yêu
tố ảnh hưởng đến công tác quản lý sử dụng và phát triển tài nguyên rừng của
VQG và các xã vùng đệm. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, các khuyến
nghị và các giải pháp được đưa ra cho vấn đề phát triển bền vững LSNG chưa

được đề cập nhiều, hiệu quả đem lại chưa cao và chưa giải quyết được vấn đề
một cách toàn diện và lâu dài.
Từ những lý do trên, việc nghiên cứu, đánh giá hiện trạng tiềm năng
của nguồn tài nguyên LSNG để làm cơ sở cho việc đề xuất một số giải pháp
chính trong việc phát triển, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên này đối với các
xã vùng đệm VQG Phong Nha-Kẻ Bàng, nhằm giảm bớt các áp lực vào VQG
và các khu rừng còn lại của các xã là yêu cầu hết sức cần thiết. Xuất phát từ
yêu cầu thực tế trên chúng tôi thực hiện đề tài: “Điều tra, đánh giá hiện trạng
nguồn lâm sản ngoài gỗ làm cơ sở đề xuất một số giải pháp nhằm quản lý bảo
vệ rừng bền vững tại một số xã vùng đệm (Xuân Trạch và Phúc Trạch) VQG
Phong Nha-Kẻ Bàng, tỉnh Quảng Bình”.


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khái niệm về lâm sản ngoài gỗ (LSNG)
Hiện nay trên thế giới có nhiều định nghĩa khác nhau về LSNG:
LSNG là tất cả những sản phẩm có nguồn gốc sinh vật không kể gỗ,
cũng như những dịch vụ có được từ rừng và đất rừng (Dịch vụ trong định
nghĩa này là những hoạt động từ du lịch sinh thái, làm dây leo, thu gom nhựa
và các hoạt động liên quan đến thu hái và chế biến các sản vật này (FAO,
1995) [17][21][37][41].
LSNG, ngoài những sản phẩm trên, theo một khái niệm khác, còn có
thể bao gồm những sản vật nhỏ thân gỗ, không phải gỗ để sản xuất công
nghiệp hoặc bột giấy (thí dụ như ghế nhỏ, trống, đồ thủ công mỹ nghệ).
LSNG bao gồm “tất cả sản phẩm sinh vật (trừ gỗ tròn công nghiệp, gỗ
làm dăm, gỗ làm bột giấy) có thể lấy ra từ hệ sinh thái tự nhiên, rừng trồng
được dùng trong gia đình, mua bán, hoặc có ý nghĩa tôn giáo, văn hóa hoặc xã

hội. Việc sử dụng hệ sinh thái cho mục đích giải trí, bảo tồn thiên nhiên, quản
lý vùng đệm.... thuộc về lĩnh vực dịch vụ của rừng” (Wickens,1991).
Trong hội nghị các chuyên gia LSNG của các nước vùng Châu Á, Thái
Bình Dương họp tại Bangkok, Thái Lan từ ngày 5-8/11/1991 đã thông qua
định nghĩa về LSNG như sau:
LSNG (Non wood forest products) bao gồm tất cả các sản phẩm cụ thể,
có thể tái tạo, ngoài gỗ củi và than. LSNG được khai thác từ rừng, đất rừng
hoặc từ các cây thân gỗ. Vì vậy, các sản phẩm như cát, đá, nước, du lịch sinh
thái không phải là các LSNG.
LSNG theo de Beer, J. H. và Mc Dermott, M. J. (1989) [41] là nguồn tài
nguyên sinh vật ngoài gỗ, được khai thác từ rừng để phục vụ cho con người.
Chúng bao gồm: các bộ phận của cây (hoa, quả, hạt,…), nhựa, dầu, gôm, cây


4

làm thuốc, cây hương liệu, cây làm cảnh, cây cho tanin, cây cho sợi, tre nứa,
song mây,… động vật hoang dã trong rừng, trong rừng ngập mặn.
J.H. de Beer (1996) [49] đã đưa ra định nghĩa về LSNG như sau:
Lâm sản ngoài gỗ (NTFP-Non timber forest products) bao gồm các
nguyên liệu có nguồn gốc sinh vật, không phải là gỗ, được khai thác từ rừng
để phục vụ con người. Chúng bao gồm thực phẩm, thuốc, gia vị, tinh dầu,
nhựa, nhựa mủ, tanin, thuốc nhuộm, cây cảnh, động vật hoang dã (động vật
sống hay các sản phẩm của chúng), củi và các nguyên liệu thô như tre nứa,
song mây, gỗ nhỏ và sợi.
Định nghĩa của J.H. de Beer là đơn giản, dễ sử dụng, nhưng khác với hầu
hết các định nghĩa trước đây là ông đã đưa củi, gỗ nhỏ vào nhóm lâm sản
ngoài gỗ.
Định nghĩa LSNG do Hội đồng Lâm nghiệp Tổ chức FAO thông qua
1999 (Thông dụng hơn cả):

LSNG (NTFP hoặc NWFP) bao gồm những sản phẩm có nguồn gốc sinh
vật, loại trừ gỗ lớn, được khai thác từ rừng, đất có rừng và từ cây gỗ ở ngoài
rừng (FAO, 1999).
1.2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu lâm sản ngoài gỗ
1.2.1. Tình hình nghiên cứu lâm sản ngoài gỗ trên thế giới
Trải qua nhiều thế kỷ, sản phẩm rừng đã và đang cung cấp cho các nước
một nguồn thu nhập lớn lao. Sản phẩm rừng có thể được chia thành 2 nhóm:
Gỗ và ngoài gỗ. Giá trị sử dụng rộng lớn của gỗ trong các ngành công nghiệp
xây dựng và nội thất dường như đã làm cho con người nhiều khi quên mất giá
trị của những lâm sản ngoài gỗ. Thực tế về buôn bán, trao đổi lâm sản ngoài
gỗ trên thị trường đã cung cấp cho người dân sống ở vùng rừng và các doanh
nghiệp địa phương một nguồn thu nhập đáng kể [17][21][37][41].
Bắt đầu từ năm 1984, nhà môi trường học Marius Jacobs (Hà Lan) đã


5

thực hiện nghiên cứu về các lâm sản ngoài gỗ. Tác giả cho biết rừng mưa
nhiệt đới chứa đựng sự đa dạng kỳ diệu của các loài thực vật được con người
sử dụng như gỗ, lương thực, thuốc men, nguyên liệu công nghiệp và gia vị.
Trong đó lâm sản ngoài gỗ đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế nội địa
của đất nước. Tuy nhiên, sự tồn tại của chúng đang bị đe doạ do hoạt động
khai thác gỗ và chuyển đổi canh tác - hai hoạt động này gây lãng phí và tàn
phá tự nhiên - kết quả dẫn đến sự biến mất một số loài đáng kể. Để bảo vệ
rừng mưa nhiệt đới nói chung và lâm sản ngoài gỗ nói riêng, cần có phương
pháp bảo tồn mới. Đó là tập trung nghiên cứu nhiều hơn nữa về giá trị sử
dụng của các loài lâm sản ngoài gỗ, đồng thời khuyến khích sử dụng bền
vững các loài cả ở phạm vi trong và ngoài rừng [55].
Kết quả nghiên cứu của Ajay Mahapatra và C. Paul Mitchell (1997) [37]
về phát triển bền vững lâm sản ngoài gỗ ở Ấn Độ cho thấy khai thác bền vững

nguồn tài nguyên ngoài gỗ vừa bảo tồn được nguồn tài nguyên rừng vừa tạo
thu nhập cho người dân. Để đạt được cả hai mục tiêu này, cần phải hiểu rõ
cách thức khai thác và vai trò của thị trường nguồn lâm sản ngoài gỗ. Các
nhân tố ảnh hưởng tới sản lượng lâm sản ngoài gỗ có giá trị kinh tế được xác
định thông qua một trường hợp nghiên cứu cụ thể ở Ấn Độ và sự thiếu hụt
chiến lược marketing đã được phân tích.
Jianbang Gan và cộng sự (1998) đã đánh giá giá trị sản phẩm gỗ và
ngoài gỗ của các khu rừng trồng Thông trầm hương (Pinus taeda) ở Vườn
Quốc gia Tuskegee. Giá trị của sản phẩm gỗ được đánh giá theo sản lượng gỗ
theo mô hình SE TWIGS. Giá trị của lâm sản ngoài gỗ được đánh giá theo
phương pháp Contingent. Hai trăm hộ gia đình lựa chọn ngẫu nhiên từ 3 hạt
(thị xã) sống gần Vườn Quốc gia đã được phỏng vấn. Kết quả khảo sát đã chỉ
ra rằng đa số (62%) người được phỏng vấn cho rằng Vườn Quốc gia cần phải
quản lý cả nguồn lâm sản ngoài gỗ và sản phẩm gỗ. Khi giá trị của sản phẩm


6

gỗ và ngoài gỗ được quan tâm, sẽ thỏa mãn được tất cả mong muốn của các
nhóm có lợi ích khác nhau hoặc thậm chí đối nghịch nhau [50].
Lấy ví dụ với loài Asimina triloba, các nhà khoa học người Mỹ, L.F.R.
León và Alfredo Nava-Tudela (1998) đã nghiên cứu cải thiện hệ thống rừng
đệm ven sông bằng các loài lâm sản ngoài gỗ. Các tác giả cho rằng việc sử
dụng cây này là một trong những lựa chọn cho khu vực được phép khai thác ở
vùng đệm. Trong mô hình thử nghiệm, một dải rừng vùng đệm trồng cây này
rộng 5 ha, người trồng không có tiền công, quả được bán với giá 0,99 US$/1
quả, vậy giá trị của cả dải rừng là 26.396 US$ [46].
Năm 1998, Kevin Gould, Andrew F. Howard và Gustavo Rodriguéz thực
hiện nghiên cứu khai thác bền vững các loài cây cho chất nhuộm tự nhiên ở
Petén (Guatemala). Hoạt động khai thác lâm sản ngoài gỗ ở Petén là một mô

hình của chương trình phát triển và bảo tồn lâm sản ngoài gỗ. Chương trình
này đã tạo ra một sản phẩm ngoài gỗ mới gọi là Gatherings T M, đó là hỗn
hợp tạo hương thơm bao gồm hạt, hoa và lá cây. Các nhà khoa học đã dùng
phương pháp để thử tính bền vững của hoạt động khai thác cây có chất màu
dùng nhuộm cho hỗn hợp tạo hương thơm đó. Kết quả cho thấy có 2 loài cây
có chất nhuộm màu bị khai thác quá mức trong vòng 10 năm và việc sản xuất
sản phẩm GatheringsTM không mang lại lợi nhuận trực tiếp cho khu rừng
[51].
Để đánh giá sinh khối và năng lượng của nguồn lâm sản ngoài gỗ, M. K.
Misra và S. S. Dash (2000) đã tiến hành điều tra tại các bộ lạc của 3 làng vùng
phía Đông Ghat của Ấn Độ là Rajikakhola, Nediguda và Badruguda. Kết quả
thu được sản lượng lâm sản ngoài gỗ ở mỗi làng là 253,55 GJ, trong đó sản
lượng tiêu thụ là 190,57 GJ. Tổng năng lượng bỏ ra để khai thác lâm sản
ngoài gỗ ở mỗi làng là 16,1 GJ, trong đó đàn ông đóng góp 37,3%, phụ nữ


7

53,8% và trẻ em 8,9%. Tỷ lệ đầu vào - đầu ra năng lượng lâm sản ngoài gỗ là
16,56 [57].
Nghiên cứu thủ tục chính sách lâm sản ngoài gỗ ở Nêpan, H.O. Larsen,
C.S. Olsen và T.E. Boon (2000) đã dựa trên 400 cuộc phỏng vấn với 1.000
người quản lý trong giai đoạn 1992 - 1998. Kết quả cho thấy, việc xây dựng
và thực thi chính sách về lâm sản ngoài gỗ không có sự liên kết chặt chẽ với
thực tế: công cụ thực thi chính sách không phù hợp với mục tiêu của chính
sách, điều kiện thực tế của vùng quản lý không được đề cập đến. Do đó, cần
một số thay đổi khi ban hành luật, quy chế về lâm nghiệp nhằm nâng cao đời
sống của người dân địa phương [44].
Lâm sản ngoài gỗ có phù hợp với mục tiêu phát triển và bảo tồn rừng
nhiệt đới hay không? Đó là nội dung nghiên cứu của J. E. Michael Arnold và

M. Ruiz Pérez (2001). Những giá trị mà lâm sản ngoài gỗ mang lại cho người
dân địa phương cùng với việc khai thác chúng ít gây mất cân bằng sinh thái so
với khai thác gỗ đã tạo niềm tin rằng việc tăng cường quản lý các loài lâm sản
ngoài gỗ này có thể đảm bảo cả hai mục tiêu là bảo tồn và phát triển, và dẫn
tới việc mở rộng khai thác lâm sản ngoài gỗ. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu
chỉ ra rằng việc “bảo tồn thông qua thương mại hoá” này cần được xem lại.
Thực tế, nhu cầu của thị trường và thậm chí sự phân phối không công bằng
giá trị sử dụng của tài nguyên có thể làm nguồn tài nguyên bị biến đổi và suy
thoái. Vì vậy, cần phải nỗ lực đạt tới một sự cân bằng thực sự giữa bảo tồn và
phát triển [56].
Nhằm tăng cường nhận thức về lâm sản ngoài gỗ, năm 2002, Emery
Marla R. và Rebecca J. McLain đã xuất bản cuốn sách “Non-timber forest
products” trong đó liệt kê và mô tả công dụng các loài cây làm thuốc, các loài
nấm, các loài cây ăn được, cây có hạt và các sản phẩm tự nhiên khác từ rừng
[44].


8

Aditi Sinha và Kamaljit S. Bawa (2002) đã nghiên cứu kỹ thuật khai thác
hai loài lâm sản ngoài gỗ ở Ấn Độ là loài cây bán ký sinh và cây ăn quả. Xuất
phát từ vấn đề nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm ngoài gỗ tăng lên dẫn tới việc
khai thác làm tăng lợi ích kinh tế trước mắt mà không chú ý đến hậu quả sinh
thái lâu dài. Tác giả đã đánh giá tác động sinh thái gây ra bởi kỹ thuật khai
thác ở nhóm người dân tộc Soligas (miền nam Ấn Độ). Đặc biệt là 2 loài
Phyllanthus emblica và P. indofischeri. Kết quả cho thấy kỹ thuật khai thác
của họ có tác động tiêu cực đến 2 loài trên. Biện pháp tối đa hoá lợi nhuận
bằng cách xén cành hoặc cắt bỏ cây đã làm giảm tỷ lệ sống sót của quần thể.
Do đó việc áp dụng các phương pháp khai thác mới là cần thiết để bảo tồn các
loài Phyllanthus [35].

Theo Peter C. Boxall và đồng nghiệp (2003), các sản phẩm ngoài gỗ khai
thác từ rừng phương bắc của Canađa là những cơ hội phát triển kinh tế mới
cho vùng đất này, đặc biệt là những vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Tác
giả đã tiến hành đánh giá tiềm năng thị trường sản phẩm mứt làm từ quả
mọng hoang dại do người dân phương bắc cung cấp. Kết quả cho thấy những
sản phẩm này có thể đạt giá cao hơn 100% so với giá thị trường quốc tế [60].
Cũng liên quan tới thị trường lâm sản ngoài gỗ, năm 2003, Patricia
Shanley và cộng sự [59] đã xuất bản cuốn sách “Tapping the Green MarketCertification and Management of Non-timber Forest Products”. Nội dung của
cuốn sách hướng tới phát triển thị trường lâm sản ngoài gỗ, đó là tiền đề để
quản lý và phát triển bền vững nguồn tài nguyên này.
E. M. Nakazono, E. M. Bruna và R. C. G. Mesquita (2004) đã tiến hành
thử nghiệm 3 năm khai thác loài lâm sản ngoài gỗ Ischnosiphon polyphyllus ở
miền Trung Amazon, E.M. Nakazono theo phương thức chủ yếu khai thác
thân - phương thức khai thác truyền thống của người dân để làm rổ, chiếu và
các sản phẩm thủ công khác. Kết quả cho thấy mức độ hồi phục của cây rất


9

chậm, tức là phương thức khai thác hiện tại không đủ an toàn để bảo tồn sự
sống sót của quần thể cây về lâu dài [57].
Theo kết quả nghiên cứu của A. K. Mahapatra và D. D. Tewari (2005)
về tầm quan trọng của các sản phẩm ngoài gỗ từ các khu rừng khô rụng lá
trong nền kinh tế ở Ấn Độ, giá trị kinh tế của các sản phẩm ngoài gỗ ít khi
được tính đến trong giá trị của rừng. Thực tế giá trị thu nhập tinh từ lâm sản
ngoài gỗ được ước tính khoảng 1.016 US$/ha rừng ở vùng ven biển và 1.348
US$/ha rừng trong đất liền, cao hơn đáng kể so với cách khai thác đất khác.
Thậm chí còn cao hơn giá trị từ sản phẩm gỗ (268 US$/ha) [36].
Để đánh giá tác động của việc phát triển các sản phẩm ngoài gỗ đối với
cấu trúc của quần xã thực vật và thành phần hệ sinh thái rừng ẩm nhiệt đới ở

miền Nam Mêxico, C. Trauernicht và T. Ticktin (2005) đã tiến hành nghiên
cứu thử nghiệm với loài Cọ (Chamaedorea hooperiana Hodel). Kết quả cho
thấy việc loại bỏ các loài thực vật ngoài gỗ có thể tạo ra sự đứt gãy hoặc mất
mát các quần thể ở tầng dưới và tầng giữa [60].
Lấy ví dụ về loài Cọ (Sabal yapa) ở vùng Maya của Mêhicô, Maria T.
Pulido và Javier Caballero (2006) đã đánh giá tác động của việc chuyển đổi
hoạt động nông nghiệp đến các lâm sản ngoài gỗ. Lá già của loài Cọ này đã
từng được sử dụng rộng rãi để lợp mái nhà; năm 2000, ở Quintana gần 90.000
người dùng loài Cọ S. yapa và ở bán đảo Ycatán là 360.000 người. Tuy nhiên
khi người dân chuyển đổi đất rừng nơi ở của loài này để trồng ngô, số lượng
của quần thể này đã bị giảm rất mạnh [54].
Các nhà khoa học Mỹ, D. A. Scott, J. A. Burger và Barbara Crane (2006)
đã thực hiện nghiên cứu nâng cao hiệu quả sử dụng nhằm đảm bảo chức năng
của các khu rừng lâm sản ngoài gỗ. Những nghiên cứu trước đây chủ yếu tập
trung nâng cao sinh khối và không đề cập đến khả năng cung cấp các sản
phẩm và dịch vụ khác của rừng. Hướng quan tâm tới lợi ích của cả lâm sản gỗ


10

và lâm sản ngoài gỗ sẽ giúp chúng ta đưa ra chiến lược hợp lý để đa dạng hoá
sản phẩm và dịch vụ từ rừng [38].
Thị trường tiêu thụ lâm sản ngoài gỗ có vai trò rất quan trọng, vì vậy D.
W. Velde và cộng sự (2006) đã tìm hiểu vai trò của các thương gia trong mắt
xích thị trường. Tác giả cho biết việc đánh giá đúng vai trò của các thương gia
là rất quan trọng. Việc đề ra chính sách để thương mại hoá các sản phẩm
ngoài gỗ cần phải tính đến mỗi mắt xích trong mạng lưới thị trường [42].
Theo ước tính khoảng chừng 200 đến 300 triệu người trên trái đất, trong
đó các nuớc Đông Nam Á chiếm 29 triệu người có cuộc sống phụ thuộc rất
nhiều vào nguồn tài nguyên ngoài gỗ. Lợi nhuận hàng năm thu được từ lâm

sản ngoài gỗ của các nước trong khu vực Đông Nam Á lên tới vài tỷ đô la
Mỹ, trong đó riêng thu nhập từ những mặt hàng song mây đã chiếm khoảng 3
tỷ đô la. Như vậy, ở các nước Đông Nam Á thì giá trị về kinh tế của lâm sản
ngoài gỗ đóng vai trò quan trọng trong kinh tế địa phương và trung ương.
Lâm sản ngoài gỗ đáp ứng nhu cầu về nguyên liệu cho các ngành sản xuất,
tạo thu nhập kinh tế và công ăn việc làm cho các cộng đồng và các doanh
nghiệp địa phương.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu lâm sản ngoài gỗ ở Việt Nam
Nước ta có nguồn tài nguyên rừng, biển, đất ngập nước phong phú và đa
dạng, trong đó LSNG có ý nghĩa quan trọng cả về mặt kinh tế, xã hội và môi
trường. Đa dạng sinh học của Việt Nam đã hình thành nên những di sản tự
nhiên vô giá cho quốc gia và quốc tế. Ở những vùng có rừng, lâm sản ngoài
gỗ đã đem lại việc làm cho hàng trăm ngàn người, trong đó phần đông là phụ
nữ.
Một loạt các sản phẩm ngoài gỗ được khai thác từ rừng hoặc từ các mô
hình nông lâm kết hợp để phục vụ sử dụng trong gia đình, đáp ứng nhu cầu
thị trường trong nước và xuất khẩu như: nấm, cây thuốc và cây tinh dầu, hoa


11

quả và rau ăn, mật ong, sợi, tre nứa, song mây, phong lan, nhựa, gôm, chất
nhuộm, cá, rắn, rùa, tôm… Cùng với các sản phẩm gây trồng trên trang trại và
vườn đồi, lâm sản ngoài gỗ từ rừng đã cung cấp cho người dân địa phương
sống ở trong và xung quanh vùng rừng nguồn thực phẩm, dược liệu, thức ăn
cho gia súc, củi đun, nguyên liệu cho xây dựng và nguyên liệu thô cho các
ngành công nghiệp nhỏ, đồng thời tạo ra thu nhập bổ sung cho kinh tế gia
đình. Hiện tại lâm sản ngoài gỗ đóng vai trò quan trọng trong kinh tế, phúc lợi
của người dân ở các cộng đồng và có tiềm năng rộng lớn cho phát triển tương
lai [17][21][61][62][63].

Cùng với sản phẩm nông nghiệp, lâm sản ngoài gỗ tham gia đảm bảo an
ninh lương thực, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, là nguyên liệu để xây dựng,
làm thức ăn cho gia súc và là nguồn tạo ra thu nhập. Tác động về mặt tài
chính của lâm sản ngoài gỗ thậm chí còn lớn hơn cả các hoạt động lâm nghiệp
khác. Theo ước tính, nước ta có khoảng 25 triệu người sống ở vùng rừng,
chiếm tới 30% dân số và khoảng 320.000 người tham gia vào sản xuất lâm
sản ngoài gỗ.
Việt Nam hiện có khoảng 30/64 tỉnh có hoạt động gây trồng và thu hái
LSNG từ rừng, trong đó diện tích thu hái LSNG từ rừng tự nhiên là gần 1,2
triệu ha và diện tích LSNG được gây trồng là gần 500.000 ha. Các loài cây
chủ yếu được gây trồng hoặc thu hái là Tre trúc, song mây, Thông lấy nhựa,
Quế, Hồi, Thảo quả, Bời lời đỏ… Thực trạng khai thác còn mang tính tự phát,
phân tán, chưa có quy hoạch, kỹ thuật giống và lâm sinh còn lạc hậu.
Các loài cây lâm sản ngoài gỗ chủ yếu là tre, nứa, trúc 769.411 ha
(chiếm 47%); song, mây 381.936 ha (22,4%), thông nhựa 255.718 ha
(15,6%), quế 80.991 ha (4,9%); các cây lâm sản nggoài gỗ khác chiếm tỉ lệ
không đáng kể [17].
Một số tỉnh có diện tích lâm sản ngoài gỗ lớn với sản phẩm đặc trưng.


12

Tuy nhiên, chỉ có 5/30 tỉnh có diện tích lâm sản ngoài gỗ trên 100.000
ha (Thanh Hoá, Kon Tum, Lâm Đồng, Phú Yên, Bình Thuận). Có 5 vùng sinh
thái tập trung nhiều lâm sản ngoài gỗ nhất là: Bắc Trung Bộ, Duyên Hải
Trung Bộ và Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Đông Bắc Bộ, Tây Bắc Bộ.
Trong thời gian gần đây, cùng với việc mở rộng quy mô hội nhập kinh tế
quốc tế đã mở rộng trao đổi buôn bán hàng hoá trên thị trường ngoài nước,
làm phong phú chủng loại và tăng nhanh nhu cầu hàng hoá lâm sản ngoài gỗ,
tạo nên những cơ hội cho các doanh nghiệp, hộ gia đình, làng nghề truyền

thống chế biến và kinh doanh lâm sản ngoài gỗ.
Vào cuối những năm 80, xuất khẩu lâm sản ngoài gỗ của nước ta chỉ đạt
giá trị khoảng 10 triệu USD. Nhưng tổng kim ngạch xuất khẩu lâm sản ngoài
gỗ năm 2004 đã đạt gần 200 triệu USD, riêng hàng mây tre đan là 138 triệu
USD. Nhóm mặt hàng mây tre đan chiếm tỉ lệ lớn nhất trong cơ cấu mặt hàng
xuất khẩu (72,34%), từ năm 2003 giá trị xuất khẩu từ 100-130 triệu USD; sau
đó là mật ong: 8,40%, quế hồi: 7,87%. Nhìn chung tốc độ tăng trưởng xuất
khẩu khá cao, bình quân khoảng 15-25%/năm (xấp xỉ tăng trưởng xuất khẩu
cả nước). Một số mặt hàng lâm sản ngoài gỗ xuất khẩu tăng mạnh như: sản
phẩm mây tre đan có tốc độ tăng trưởng bình quân 31,25%/năm; mật ong tốc
độ tăng trưởng cao [17][21].
Hiện nay, Lâm sản ngoài gỗ của Việt Nam xuất khẩu sang gần 90 nước
và vùng lãnh thổ; song do phần lớn các cơ sở chế biến LSNG đều có quy mô
nhỏ, không gắn với vùng nguyên liệu ổn định, công nghệ và thiết bị lạc hậu,
chất lượng sản phẩm thấp, mẫu mã bao bì còn hạn chế nên tính cạnh tranh
trên thị trường quốc tế chưa cao. Thị trường Nhật Bản và Đài Loan chiếm thị
phần cao và ổn định, thị trường Mỹ mới có từ năm 2001 nhưng có mức tăng
trưởng nhanh, có triển vọng là thị trường tiềm năng.
Rất khó có thể thống kê chính xác về số lượng lâm sản ngoài gỗ đã được


13

thu hoạch ở nước ta nhưng người ta ước tính sản lượng hàng năm của một số
sản phẩm như bảng dưới đây.
Sản lượng khai thác hàng năm của một số
Sản phẩm ngoài gỗ ở Việt Nam
Sản phẩm

TT


Sản lượng khai thác hàng năm (tấn)

1

Tre

400 triệu cây

2

Trúc

100 triệu cây

3

Song

250 triệu cây

4

Mây

7.000

5

Mật ong rừng


200-400

6

Mắc ken

70-134

7

Nhựa thông

4.500

8

Nhựa trám

100-150

9

Nhựa trai

500

10

Tinh dầu Hồi


2.000

11

Quế

2.000

12

Tinh dầu Pơ mu

50

13

Tinh dầu Xá xị

10

14

Tinh dầu Long não

100

15

Tinh dầu Tràm


50

16

Tinh dầu Màng tang

30

17

Dầu Trẩu

18

Dầu Sở

19

Tanin

20

Cánh kiến

21

Hạt điều

200


22

Sa nhân

50

23

Thiên niên kiện

200

1.00-4.00
100
8
90-140


14

24

Thảo quả

80-150

25

Hà thủ ô


50

26

Đẳng sâm

50

Nguồn: Dự án Lâm sản ngoài gỗ, 2004.
Sau Hội thảo quốc gia ngày 20/3/2003 tại Hà Nội giới thiệu về Dự án hỗ
trợ chuyên ngành Lâm sản ngoài gỗ tại Việt Nam (gọi tắt là Dự án lâm sản
ngoài gỗ), đã có 2 cuộc họp tư vấn về tổ chức mạng lưới lâm sản ngoài gỗ
Việt Nam. Kết quả đã dự thảo mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và hoạt
động của Mạng lưới Lâm sản ngoài gỗ Việt Nam (tên giao dịch quốc tế là
Vietnam NTFP Network). Đây là tổ chức phi chính phủ, không lợi nhuận, tự
nguyện của các đơn vị, cá nhân trong và ngoài nước có quyền lợi, nghĩa vụ
hoặc quan tâm tới hoạt động nghiên cứu, bảo tồn, sản xuất, chế biến, thị
trường, chính sách xã hội về lâm sản ngoài gỗ Việt Nam. Mục tiêu của Mạng
lưới nhằm khuyến khích, tăng cường hợp tác và chia sẻ thông tin giữa các tổ
chức, cá nhân, cộng đồng trong và ngoài nước có liên quan đến lâm sản ngoài
gỗ để góp phần bảo tồn và phát triển bền vững lâm sản ngoài gỗ Việt Nam.
Mạng lưới lâm sản ngoài gỗ hiện có gần 50 tổ chức thành viên, gồm các cơ
quan nghiên cứu và đào tạo liên quan đến lâm sản ngoài gỗ, các chương trình
dự án, tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nuớc có hoạt động liên quan đến
lâm sản ngoài gỗ, sở NN và PTNT và chi cục lâm nghiệp một số tỉnh có tiềm
năng về lâm sản ngoài gỗ, và một số doanh nghiệp [17].
Theo Mạng lưới Lâm sản ngoài gỗ Việt Nam, Việt Nam hiện có nguồn
lâm sản ngoài gỗ đa dạng về chủng loài, trong số khoảng 11.000 loài thực vật
có mạch (trong đó trên 5.000 loài có ích trực tiếp đối với cuộc sống), 1.000

loài rêu, 2.500 loài tảo, trên 820 loài nấm và hàng ngàn loài chim thú khác
nhau. Nguồn lâm sản ngoài gỗ có thời gian thu hoạch ngắn ngày, đạt giá trị


15

kinh tế cao hơn so với các loại nông sản, thị trường tiêu thụ rộng, dễ phát triển
nếu quản lý bảo vệ tốt [21].
Với sự tài trợ của Đại sứ quán Vương Quốc Hà Lan, tổ chức bảo tồn
thiên nhiên thế giới (IUCN) và Chính phủ Việt Nam, Trung tâm Nghiên cứu
lâm đặc sản - Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam đã hoàn thành 2 pha dự
án “Hỗ trợ chuyên ngành Lâm sản ngoài gỗ Việt Nam”, dự án đã thực sự
đóng góp lớn vào công cuộc xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống cho
người dân sống dựa vào rừng. Mô hình trồng các loại lâm sản quý hiếm như
Trám, Ba kích, Phong lan đã được dự án thực hiện thành công. Ngoài mô hình
trồng các loại cây trên, dự án còn hỗ trợ các hộ dân một số các mô hình khác
như nuôi tắc kè, trồng mây, thanh mai. Cho đến nay, dự án đã xây dựng được
hơn 20 mô hình thử nghiệm tại các điểm hiện trường với tổng số 951 hộ dân
vùng Bắc Trung Bộ và 88 hộ dân vùng Bắc Bộ tham gia thực hiện. Dự án đã
phối hợp tổ chức cho 47 khoá đào tạo, tập huấn cho 722 người về nâng cao
nhận thức về phát triển bền vững lâm sản ngoài gỗ [12][13].
Ngày 11/06/2007, tại Hà Nội đã diễn ra Hội nghị quốc tế về “Vai trò của
Lâm sản ngoài gỗ trong Xoá đói giảm nghèo và Bảo tồn đa dạng sinh học”.
Tại Hội nghị, các đại biểu đã chia sẻ những phương pháp, cách tiếp cận, thông
tin sản phẩm - thị trường và các bài học kinh nghiệm khác từ các sáng kiến
bảo tồn và phát triển LSNG. Bên cạnh đó, Hội nghị cũng tạo cơ hội cho các
nhà sản xuất LSNG trưng bày các sản phẩm của họ và gặp gỡ những khách
hàng tiềm năng thông qua Hội chợ thương mại được tổ chức vào ngày thứ 4
của Hội nghị [17][21][61][62][63].
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phê duyệt Đề án Bảo tồn và

phát triển LSNG Quốc gia đến năm 2020. Đề án được xây dựng với 2 mục
tiêu: Xây dựng ngành lâm sản ngoài gỗ phát triển bền vững và bảo tồn đa
dạng sinh học, môi trường sinh thái; tạo nghề rừng thu hút cộng đồng thôn


16

bản vào gây trồng sản xuất, kinh doanh lâm sản ngoài gỗ phục vụ xoá đói
giảm nghèo, phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn. Trung tâm phối hợp
với các địa phương quy hoạch vùng nguyên liệu lâm sản ngoài gỗ gắn với
phát triển công nghiệp chế biến lâm sản; xác định các tập đoàn cây trồng lâm
sản ngoài gỗ chủ lực, phù hợp với các vùng sinh thái; khuyến khích nhân rộng
mô hình gây nuôi sinh sản động thực vật hoang dã trong cộng đồng dân cư;
đẩy mạnh các hoạt động khuyến lâm. Trung tâm cũng đang nghiên cứu, đề
xuất Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hình thành cơ quan quản lý Nhà
nước chuyên ngành về lâm sản ngoài gỗ từ cấp Bộ đến địa phương và hoàn
thiện quy chế khai thác, sử dụng bền vững lâm sản ngoài gỗ [12][13].
Việt Nam phấn đấu đến năm 2020 đưa lâm sản ngoài gỗ trở thành một
phân ngành sản xuất trong lâm nghiệp, đạt giá trị xuất khẩu từ 700-800 triệu
USD, chiếm hơn 20% giá trị sản xuất lâm nghiệp; đồng thời tạo việc làm ổn
định cho 1,5 triệu lao động nông thôn miền núi vào việc thu hái, sản xuất kinh
doanh lâm sản ngoài gỗ.
Để đạt được mục tiêu này, Cục Lâm nghiệp đã tăng cường các biện
pháp bảo vệ các quần thể và các loài lâm sản ngoài gỗ trong các khu rừng đặc
dụng; đồng thời đẩy mạnh biện pháp bảo vệ các loài lâm sản ngoài gỗ đang
đứng trước nguy cơ tuyệt chủng cao trong các vườn thực vật, vườn thú và các
trung tâm cứu hộ. Đối với việc khai thác lâm sản ngoài gỗ, Cục lâm nghiệp đã
xây dựng các quy chế, hướng dẫn rất cụ thể và nghiêm ngặt để người dân biết
cách khai thác hợp lý và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên này. Bên cạnh
đó, Cục Lâm nghiệp còn khuyến khích người dân tham gia các hoạt động tái

tạo lâm sản ngoài gỗ trong rừng tự nhiên, trồng cây lâm sản trong cơ cấu cây
trồng rừng phòng hộ, rừng sản xuất, kể cả việc trồng thuần hóa lâm sản ngoài
gỗ trên diện tích đất nông nghiệp. Trong đó ưu tiên phát triển nhóm sản phẩm
từ song mây, tre trúc, tinh dầu, nhựa, dược liệu... Đối với các cơ sở sản xuất


17

kinh doanh lâm sản ngoài gỗ, Cục Lâm nghiệp yêu cầu phải hình thành các
vùng nguyên liệu với quy mô hợp lý gắn với cơ sở chế biến để phát huy lợi
thế của các vùng sinh thái, tạo ra sản phẩm đặc trưng cho từng vùng và phù
hợp với nhu cầu của thị trường, vừa đảm bảo sử dụng nguồn tài nguyên này
một cách bền vững [12][13].
Đến năm 2020, diện tích gây trồng tái tạo cây lâm sản ngoài gỗ ít nhất
phải tăng gấp 2 lần so với năm 2004 (tương đương 3 triệu ha - tăng bình quân
hàng năm 10% diện tích). Diện tích rừng tự nhiên có khả năng khai thác, thu
hái lâm sản ngoài gỗ đạt khoảng 2,2- 2,5 triệu ha. Rừng trồng lâm sản ngoài
gỗ đạt khoảng 700-800 ngàn ha./.


×