Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Đánh giá một số mô hình trồng cây lâm sản ngoài gỗ do dự án danida xây dựng tại vườn quốc gia xuân sơn, tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.8 MB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
-----------------------------

NGUYỄN VĂN TUẤN

ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ MÔ HÌNH TRỒNG CÂY
LÂM SẢN NGOÀI GỖ DO DỰ ÁN DANIDA XÂY DỰNG
TẠI VƯỜN QUỐC GIA XUÂN SƠN, TỈNH PHÚ THỌ

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Hà Nội, 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
-----------------------------

NGUYỄN VĂN TUẤN

ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ MÔ HÌNH TRỒNG CÂY LÂM SẢN NGOÀI GỖ
DO DỰ ÁN DANIDA XÂY DỰNG TẠI VƯỜN QUỐC GIA XUÂN SƠN,
TỈNH PHÚ THỌ


Chuyên ngành: Quản lý bảo vệ tài nguyên rừng
Mã số: 60.62.68

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. VÕ ĐẠI HẢI

Hà Nội, 2011


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng mang lại nhiều giá trị, từ xưa tới nay, khi nhắc tới giá trị kinh tế của
rừng người ta thường nói “Giá trị của rừng bao gồm giá trị gỗ và lâm sản
ngoài gỗ”. Tuy đây là một cách hiểu chưa đầy đủ về những giá trị của rừng
nhưng có thể thấy con người đã rất coi trọng giá trị cung cấp LSNG của rừng.
Ở Việt Nam, LSNG đã được khai thác, sử dụng nhiều từ thời cổ đại và nhiều
loại LSNG được coi là những sản vật quý của đất nước như Linh chi, Nhân sâm,...
LNSG có ý nghĩa rất quan trọng đối với nhiều cộng đồng, đặc biệt là cộng đồng các
dân tộc miền núi. Giá trị LSNG của rừng được thể hiện như rừng cung cấp lương
thực (củ Mài, củ Gạo,…), thực phẩm (Nấm, măng, rau rừng,…), cung cấp thảo
dược chữa bệnh (Nhân sâm, Hà thủ ô, Linh chi,…), cung cấp nguyên vật liệu xây
dựng, làm đồ gia dụng, đan lát (các loại tre nứa, song mây),...
Nhận thức được vai trò và vị trí của các loài LSNG đối với phát triển kinh
tế, xã hội của đất nước, Nhà nước đã có nhiều chính sách quan tâm hỗ trợ để bảo
tồn và phát triển các loài cây LSNG, trong đó Quyết định số 2366/QĐ-BNN-LN
ngày 17/8/2006 của Bộ NN&PTNT về việc phê duyệt đề án bảo tồn và phát
triển lâm sản ngoài gỗ giai đoạn 2006 - 2020 là một trong những chính sách

quan trọng thể hiện sự quan tâm của Nhà nước tới vấn đề này, theo đó đến năm
2020, lâm sản ngoài gỗ trở thành một phân ngành sản xuất trong lâm nghiệp, đạt
được một số chỉ tiêu: giá trị sản xuất lâm sản ngoài gỗ chiếm trên 20% trong giá
trị sản xuất lâm nghiệp; giá trị xuất khẩu tăng bình quân 10-15%, đến năm 2020
đạt 700-800 triệu USD/năm (bằng 30-40% giá trị xuất khẩu gỗ); thu hút 1,5 triệu
lao động nông thôn miền núi vào việc thu hái, sản xuất, kinh doanh lâm sản
ngoài gỗ; thu nhập từ lâm sản ngoài gỗ chiếm 15-20% trong kinh tế hộ gia đình
nông thôn miền núi.
Vùng lõi VQG Xuân Sơn nằm gọn trong địa giới hành chính của xã Xuân
Sơn và một phần của xã Kim Thượng, Xuân Đài, Đồng Sơn với 10 thôn bản,


2

522 hộ dân cùng 2.730 nhân khẩu. Số dân cư này chủ yếu là đồng bào dân tộc
thiểu số chủ yếu là người Dao và người Mường. Các dân tộc này đã sống ở đây
từ rất lâu đời và cuộc sống của họ chủ yếu dựa vào rừng, phần lớn các hộ gia
đình đều ở mức đói nghèo (xã Xuân Sơn có tỷ lệ số hộ nghèo cao nhất trong
huyện Tân Sơn). Trong những năm qua, tình hình vi phạm trái phép của cộng
đồng vào tài nguyên rừng như tình trạng đốt nương làm rẫy, săn bắn động vật
hoang dã, khai thác gỗ trái phép thường xuyên xảy ra gây nguy hại rất lớn tới
công tác bảo tồn của VQG. Mặc dù cộng đồng cũng ý thức được việc làm của
mình là vi phạm pháp luật và làm tổn hại tới tài nguyên rừng nhưng vì cuộc sống
đói nghèo lại không có công việc gì có thể đảm bảo cuộc sống nên họ vẫn thực
hiện các hành vi vi phạm.
Nhận rõ được những thách thức đó, nhằm tạo ra một nguồn sinh kế
mới cho người dân các xã quanh VQG Xuân Sơn từ đó giảm áp lực vào
tài nguyên rừng và đảm bảo quản lý rừng bền vững dự án DANIDA với sự
tài trợ của Đại sứ quán Vương quốc Đan Mạch tại Việt Nam đã xây dựng
được 5 mô hình trồng cây LSNG với các loài cây chủ yếu như: Rau Sắng,

khoai Tầng, Chuối phấn,… Dự án được triển khai thực hiện từ năm 2008
trên địa bàn 2 xã vùng đệm là Minh Đài, Xuân Đài và xã Xuân Sơn thuộc
vùng lõi Vườn quốc gia Xuân Sơn - huyện Tân Sơn - tỉnh Phú Thọ. Sau hơn 3
năm triển khai thực hiện, kết quả bước đầu cho thấy các mô hình này đã có
tác động tích cực trong việc cải thiện sinh kế và nhận thức cho cộng đồng địa
phương. Tuy nhiên, cho tới nay, vẫn chưa có một đánh giá, tổng kết các mô
hình này làm cơ sở cho việc đề xuất mở rộng.
Xuất phát từ những lý do đó, đề tài “Đánh giá một số mô hình trồng
cây lâm sản ngoài gỗ do dự án DANIDA xây dựng tại Vườn Quốc gia Xuân
Sơn, tỉnh Phú Thọ” được thực hiện là thực sự cần thiết, nhằm lựa chọn được
loài cây, kỹ thuật trồng cây LSNG có triển vọng nhất cho khu vực.


3

Chương 1:
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khái niệm lâm sản ngoài gỗ
Đã có nhiều những tên gọi khác nhau về lâm sản ngoài gỗ đang được sử
dụng rộng rãi hiện nay như: lâm sản phụ, lâm sản phi gỗ, sản phẩm rừng không
phải là gỗ... Hầu hết mọi người đều có cùng quan điểm coi các khái niệm trên là
đồng nhất, để chỉ các sản phẩm của rừng không phải là gỗ như: động vật rừng,
các cây dược liệu, các sản phẩm từ cây rừng không phải là gỗ, các sản phẩm phụ
từ khai thác gỗ (cành, lá, gốc, rễ,...).
Có nhiều tài liệu viết về lâm sản ngoài gỗ, nhưng chỉ ở những phạm vi
hẹp của một loài hoặc một nhóm loài nhất định. Nhưng chưa có một công trình
nào đưa ra được một khái niệm chính xác về lâm sản ngoài gỗ này.
+ Khái niệm về Lâm sản ngoài gỗ được đề cập chính thức vào năm 1989
do W.W.F. Theo khái niệm này: “Lâm sản ngoài gỗ bao hàm tất cả các vật liệu
sinh học khác gỗ, được khai thác từ rừng tự nhiên phục vụ mục đích của con

người. Bao gồm các sản phẩm là động vật sống, nguyên liệu thô và củi, song
mây, tre nứa, gỗ nhỏ và sợi” (The Economic value of Non-timber Forest
products in Southeast asia - W.W.F - 1989).
Hiện nay trên thế giới có nhiều định nghĩa khác nhau về LSNG nhưng
thông dụng hơn cả là định nghĩa do Hội đồng Lâm nghiệp Tổ chức Nông Lương
của Liên Hiệp quốc (FAO) thông qua năm 1999: “Lâm sản ngoài gỗ (Non timber forest products - NTFP, hoặc Non - wood forest products - NWFP) bao
gồm những sản phẩm có nguồn gốc sinh vật, khác gỗ, được khai thác từ rừng,
đất có rừng và từ cây gỗ ở ngoài rừng”.
Như vậy, lâm sản ngoài gỗ bao gồm tất cả các vật liệu sinh học khác gỗ
được khai thác từ rừng (cả rừng tự nhiên và rừng trồng) phục vụ mục đích của con
người. Có thể kể ra một số LSNG chính như các loài thực vật, động vật dùng làm


4

thực phẩm, làm dược liệu, tinh dầu, nhựa sáp, nhựa dính, nhựa dầu, cao su, tanin,
màu nhuộm, chất béo, song mây, tre nứa, cây cảnh, nguyên liệu giấy, sợi...
1.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu về LSNG
1.2.1. Trên thế giới
1.2.1.1. Nghiên cứu về phân loại, bảo tồn LSNG
Công trình “Nghiên cứu về tre trúc” của Munro (1868) được coi là một
trong những nghiên cứu về tre trúc đầu tiên (dẫn theo Đỗ Văn Bản, 2005) [3].
Trong công tác này tác giả đã khái quát được một cách tổng quan về họ phụ tre
trúc trên thế giới.
Khi nghiên cứu về “Các loại tre trúc” Gamble (1896) đã đề cập tương đối
chi tiết về phân bố, hình thái và một số đặc điểm sinh thái của 151 loài tre trúc
(dẫn theo Đỗ Văn Bản, 2005) có ở các nước Ấn Độ, Pakistan, Miến Điện,
Malaysia và Indonesia.
I. T. Haig, M.A Hubermen và U Aung Din de F.A.D (1963) với công
trình “Rừng tre nứa” đã nghiên cứu một số đặc điểm sinh thái của tre trúc nứa

Ấn Độ, Pakistan liên quan đến thổ nhưỡng, khí hậu và một số biện pháp xử lý
lâm học, tái sinh, khai thác.
S. Dransfield and E.A. Widjaja (1995) [21] đã tiến hành mô tả đặc điểm
hình thái, sinh thái, phân bố, gây trồng, sử dụng cho 75 loài tre trúc thông dụng,
có giá trị ở vùng Đông Nam Á.
Nhìn chung, các nghiên cứu phân loại hiện nay mới chỉ tập trung chủ yếu
vào các loài LSNG có diện tích phân bố với số lượng lớn là Tre trúc, các nghiên
cứu về Song mây và một số cây thuốc, cay lấy dầu nhựa,… hầu như chưa được
đề cập đến.
1.2.1.2. Nghiên cứu về chọn giống, nhân giống và kỹ thuật gây trồng
Zhou Fangchun (2000) [22] có đề cập đến nhân giống của một số loài tre
trúc khác nhau ở Trung Quốc làm cơ sở cho việc gây trồng phát triển tre trúc.


5

Ở Malaysia bước đầu đã nghiên cứu tạo giống mây bằng phương pháp nuôi
cây mô, đã tiến hành thí nghiệm trồng song mây dưới tán các loại rừng với các
mật độ khác nhau. Malaysia và Indonesia đã xây dựng rừng mây giống phục vụ
cho gieo trồng trên quy mô lớn (dẫn theo Vũ Văn Dũng và cộng sự, 2002) [7].
Xiao Jianghua (1996) đã xác định những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình
sinh măng, sinh trường và phát triển của thân khí sinh là độ ẩm, nhiệt độ, dinh
dưỡng, cấu trúc rừng, biện pháp lâm sinh, sâu bệnh. Đây là những nhân tố cần
phải được quan tâm khi áp dụng các biện pháp thâm canh tăng năng suất măng
và thân khí sinh (dẫn theo Nguyễn Quang Hưng, 2008) [11].
Zhou Fangchun (2000) [22] đã cho thấy nhiệt độ, lượng mưa và độ ẩm có
ảnh hưởng khá rõ đến quá trình phát sinh, phát triển măng,… của nhiều loài tre
trúc khác nhau, đó là những cơ sở để áp dụng các biện pháp thâm canh nhằm
thúc đẩy sinh măng trái vụ ở Trung Quốc.
Theo J. Dransfield và N.Manokaran, 1998 việc trồng mây nếp đã phát

triển trên quy mô lớn ở Trung Quốc, phổ biến là trồng theo phương thức nông
lâm kết hợp, trồng xen trong các khu rừng phục hồi và rừng trồng, cây non được
trồng 1 hoặc 2 cây/cụm. Tại Quảng Đông, mây nếp được trồng thử nghiệm ở
sườn đồi, thu hoạch vào năm thứ 7 cho năng suất khoảng 1,2 tấn/ha (dẫn theo Vũ
Văn Dũng và cộng sự, 2002) [7].
Những năm gần đây, một số nhà khoa học đã nghiên cứu về đặc điểm sinh
thái học, kỹ thuật gây trồng, chế biến và tổng kết đánh giá kết quả trồng một số
loài LSNG có giá trị ở các nước nhiệt đới như Việt Nam, Trung Quốc,
Brazils,…. (Peter Zuidema, 2001;… Marinus J.A. Werger, 2000; FAO, 2000;…)
Nhìn chung, việc nghiên cứu về phân loại, mô tả hình thái, sinh thái, công
dụng, tầm quan trọng cũng như đánh giá các mô hình gây trồng và phát triển LSNG
trên thế giới đã có nhiều kết quả. Các kết quả đều khẳng định việc gây trồng, phát
triển, sử dụng hợp lý và bền vững thì LSNG sẽ có vai trò to lớn trong việc tạo thu


6

nhập cho người dân miền núi, nhiều nơi còn làm nguồn thu nhập chính, góp phần
xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống, đảm bảo an ninh lương thực, ổn định xã hội
đồng thời đóng góp rất lớn trong quá trình bảo vệ và phát triển rừng.
1.2.1.3. Nghiên cứu về thi ̣ trường LSNG
Các nghiên cứu chỉ ra rằ ng, mă ̣c dù LSNG có giá tri ̣ to lớn, nhưng nhiề u
người sản xuấ t LSNG la ̣i thu được hiê ̣u quả rấ t thấ p là do sự ha ̣n chế trong viê ̣c
tiế p câ ̣n thông tin thi ̣trường mô ̣t cách có tổ chức hoă ̣c thiế u những giải pháp kỹ
thuật phù hợp để nâng cao chấ t lượng sản phẩm theo đòi hỏi của thi ̣ trường. Để
góp phầ n giải quyế t những vấ n đề trên, vào năm 1992, chương trình rừng, cây và
con người (FTPP) đã phát triể n các bản hưỡng dẫn cho viê ̣c ta ̣o ra các hê ̣ thố ng
thông tin thi ̣trường LSNG ở mức điạ phương và giới thiê ̣u mô ̣t số kinh nghiê ̣m
về kỹ thuâ ̣t nuôi trồ ng , canh tác và phát triể n thực vâ ̣t ngoài gỗ, như phát triển
rừng cung cấ p dược thảo ở Nepan, rừng cung cấ p cây ho ̣ dầ u, Tanin, cau rừa ở

vùng Amazon – Brazil, rừng cung cấ p song mây ở Malaixia (dẫn theo Vũ Văn
Dũng và cộng sự, 2002) [7].
1.2.1.4. Các nghiên cứu về vai trò của LSNG
Phần lớn LSNG đã trở thành sản phẩm hàng hóa nên đã mở ra triển vọng
cho việc quản lý sử dụng bền vững nguồn tài nguyên rừng. Cùng với việc kinh
doanh gỗ, nó đem lại nhiều lợi ích cho việc bảo vệ rừng (Wim Bergmans, 1989).
Thấy rõ được vai trò của LSNG trong kinh tế và bảo vệ rừng, trên thế giới đã có
nhiều công trình nghiên cứu khoa học nhằm phát hiện các sản phẩm ngoài gỗ.
Phần lớn các công trình nghiên cứu được thực hiện ở các nước đang phát triển
trong khu vực nhiệt đới, là những nơi có tiềm năng LSNG nhất trên thế giới,
nhưng lại có áp lực phá rừng mạnh mẽ nhất.
Giá trị kinh tế - xã hội của LSNG thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau, từ
cung cấp lương thực, thực phẩm, vật liệu xây dựng, nguyên liệu thủ công mỹ
nghệ, đến tạo việc làm, phát triển ngành nghề thủ công nghiệp,… Tầm quan


7

trọng của LSNG đối với các nước nhiệt đới đã được thừa nhận, như ở Thái Lan,
trong năm 1987 đã xuất khẩu LSNG đạt giá trị 23 triệu USD và ở Indonesia
cũng trong năm đó đạt tổng giá trị xuất khẩu LSNG lên tới 238 triệu USD
(Tenne, 1987).
Các tổ chức quốc tế như FAO (1997) [20], UICN (1999) [12] đã đưa ra
bảng giá trị của LSNG so với các giá trị khác của rừng được thể hiện ở bảng 01.
Bảng 1.1. Giá trị của rừng và LSNG ở một số quốc gia trên thế giới
Quốc gia

Giá trị lâm sản (%)

Giá trị sinh thái

(%)

Toàn bộ

Lâm sản gỗ

LSNG

Nhật bản

96,0

4,0

2,0

2,0

CHLB Đức

93,0

7,0

4,1

2,9

LB Nga


70,0

30,0

20,1

9,9

Phần Lan

76,0

24,0

13,4

10,6

Việt Nam

75,0

25,0

12,5

12,5

Ấn Độ


80,0

20,0

10,0

10,0

Lào

80,0

20,0

10,0

10,0

Trung Quốc

93,0

7,0

4,0

3,0

Nguồn: FAO (1997), UICN (1999)
Như vậy, giá trị LSNG ở nhiều quốc gia được ước tính xấp xỉ bằng so với

giá trị của gỗ. Do đó, nếu chỉ coi gỗ là nguồn thu nhập duy nhất từ rừng thì
chúng ta đã bỏ lỡ một nguồn lợi khác tương đương với nó. Dưới đây là một số
nghiên cứu chứng minh điều này:
- Nghiên cứu của Mayer (1980) cho thấy, 60% tổng sản phẩm phi gỗ
được tiêu thụ bởi người dân địa phương và không bao giờ được tính ra tiền mặt.
- Ở Ấn Độ (1982) LSNG chiếm gần 40% giá trị lâm sản và 60% giá trị
lâm sản xuất khẩu. Ở Indonesia (1989) thu được 436 triệu USD từ LSNG.


8

- Padoch (1988), Bele (1989) qua nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Rừng nhiệt
đới có vai trò quan trọng trong cuộc sống của người dân địa phương một phần là
ở khả năng cung cấp LSNG. Mayer (1988) đã tính toán rằng, một khu rừng nhiệt
đới có diện tích 50.000 ha nếu được quản lý tốt sẽ cung cấp đều đặn 200
USD/ha/năm. Peter và cộng sự (1989) đã tính toán thu nhập từ gỗ và LSNG trên
một ha rừng nhiệt đới vùng Amazon đạt 6.820 USD/ha/năm [19].
1.2.1.5. Các nghiên cứu về tiềm năng và giải pháp nâng cao vai trò của
LSNG
Hệ sinh thái rừng nhiệt đới là một hệ sinh thái hoàn hảo và đầy đủ với khu
hệ động vật và thực vật phong phú và đa dạng nhất hành tinh (Van Steenis,
1956). Vì vậy, việc tận dụng triệt để mọi tiềm năng của rừng nhiệt đới ẩm để
kinh doanh toàn diện, lợi dụng tổng hợp, trong đó có kinh doanh và lợi dụng
LSNG là hết sức cần thiết.
Rừng nhiệt đới tuy chỉ chiếm 7% bề mặt trái đất nhưng trong đó chứa
đựng gần 90% tổng số loài thực vật của trái đất (Mc Nell et al, 1990).
Năm 1987, Wilson đã tìm thấy quanh một gốc cây họ đậu ở Peru có tới 43
loài kiến, thuộc 26 giống, bằng toàn bộ khu hệ kiến có mặt ở nước Anh.
Tại Đông Nam á, rừng nhiệt đới và đặc biệt là rừng mưa có mức độ đa
dạng sinh học rất cao. Tại Malaysia có ít nhất 40.000 loài thực vật, Indonesia có

khoảng 20.000 loài, Thái Lan có 12.000 loài, số loài thực vật ở Đông Dương
(Việt Nam, Lào, Campuchia) là 15.000 loài.
Nhằm nâng cao vai trò của LSNG một số tổ chức quốc tế tiêu biểu trong
hoạt động nghiên cứu LSNG như: Tổ chức nông lương thế giới (FAO), Trung
tâm nghiên cứu Lâm nghiệp quốc tế (CIFOR), Trung tâm Nông lâm kết hợp
quốc tế (ICRAF),… đã tập trung nghiên cứu vào nhóm các nghiên cứu sau:


9

- Khảo sát tình hình nhằm nắm được những hiểu biết chung về việc sử
dụng LSNG và tầm quan trọng của LSNG ở các mức độ khác nhau (hộ gia đình,
địa phương, quốc gia và quốc tế);
- Phát triển công nghệ để cải thiện quá trình chế biến và sử dụng LSNG;
- Nghiên cứu về canh tác LSNG;
- Nghiên cứu về kinh tế, xã hội bao gồm cả nghiên cứu về thị trường
LSNG.
Việc quan tâm tới công nghệ sau thu hoạch thường ít ỏi, vì vậy gây lãng
phí cả về số lượng và chất lượng trong quá trình thu hái, vận chuyển và cất trữ
sản phẩm LSNG (FAO, 1995) [19]. Một số vấn đề nổi cộm trong sản xuất, chế
biến LSNG ở các nước đang phát triển là hạn chế kỹ thuật khai thác và xử lý sau
thu hoạch; thiếu các nghiên cứu về phát triển giống các loài cây cao sản; kỹ thuật
chế biến kém hiệu quả; thiếu các giải pháp điều chỉnh chất lượng; khó khăn về
thị trường và thiếu cán bộ được đào tạo,…
Năm 1992 Chương trình Rừng, cây và con người (FTPP) đã phát triển các
bản hướng dẫn cho việc tạo ra các hệ thống thôn tin thị trường LSNG ở mức địa
phương. Phương pháp này đã được kiểm nghiệm ở Bangladesh và Uganda năm
1993 và cho thấy tính hiệu quả thiết thực của nó trong việc nắm bắt thông tin về
thị trường cây LSNG ở mức địa phương từ đó có kế hoạch lựa chọn, điều chỉnh
loài cây LSNG gây trồng, khai thác và sử dụng cho phù hợp [17].

1.2.2. Ở Việt Nam
1.2.2.1. Nghiên cứu về phân loại, bảo tồn LSNG
Nhận thức được tầm quan trọng của LSNG, ngay từ những năm đầu thế
kỷ XX, Lecomte - một nhà nghiên cứu của Pháp đã đề cập, xác định được nhiều
loài LSNG có giá trị trong cuốn “Thực vật chí đại cương Đông Dương” trong đó
có ở Việt Nam.


10

Đỗ Tất Lợi (1977) [14] trong “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” tái bản lần 3 có sửa đổi bổ sung đã mô tả nhiều loài cây LSNG làm thuốc, trong
đó có nhiều bài thuốc hay từ những loài LSNG này.
Vũ Văn Dũng và cộng sự (2002) [7], các tác giả đã đưa ra định nghĩa, phân
loại LSNG, giới thiệu về một số nhóm LSNG có giá trị ở Việt Nam, tổ chức và
quản lý LSNG, những thuận lợi, khó khăn trong quá trình phát triển LSNG,….
Theo Lê Viết Lâm và cộng sự (2005) ở Việt Nam có thể có đến 200 loài
tre trúc, bước đầu xác định có 22 chi với 122 loài đã được giảm định tên, trong
đó có rất nhiều loài có giá trị sử dụng và kinh tế cao cần được nghiên cứu phát
triển. Tác giả đã giới thiệu 40 loài tre trúc thông dụng về phân bổ, đặc điểm hình
thái, sinh thái và công dụng để làm cơ sở tham khảo cho nghiên cứu và sản xuất.
Nguyễn Hoàng Nghĩa (2006) [15] cũng đã mô tả đặc điểm hình thái, sinh
thái phân bổ và công dụng của 194 loài tre ở Việt Nam và 3 giống: Bát độ, Điềm
trúc và Tạp giao có xuất xứ từ Trung Quốc.
Năm 2006, Bộ NN&PTNT đã phê duyệt đề án “Bảo tồn và phát triển
LSNG trong giai đoạn 2006 – 2020” [1]. Năm 2007, Bộ NN&PTNT tiếp tục phê
duyệt Kế hoạch hành động bảo tồn và phát triển LSNG ở Việt Nam [2].
Triệu Văn Hùng cùng các tác giả khác (2007) [9], đã mô tả hình thái, phân
bố, công dụng, kỹ thuật gây trồng, thu hoạch, chế biến và bảo quản của 299 loài
LSNG. Trong đó phân ra thành 6 nhóm: Nhóm cây có sợi (35 loài tre nứa, 2 loài
mây và 8 loài khác); Nhóm cây làm thực phẩm (40 loài cây ăn được, 12 loài

nấm); Nhóm cây thuốc (76 loài); Nhóm cây cho dầu nhựa (60 loài); Nhóm
Tanin, thuốc nhuộm (19 loài); Nhóm cây bóng mát (23 loài cây hoa, 13 loài cây
cảnh, 11 loài cây cảnh và cây bóng mát thân gỗ).
1.2.2.2. Nghiên cứu về chọn giống, nhân giống và kỹ thuật gây trồng
Nhân giống Hồi bằng phương pháp giâm hom với thuốc kích thích ra rễ là
IBA (1%), hom lấy từ cây 2 tuổi có tỷ lệ ra rễ khá cao đạt từ 66 - 69%; Phương


11

pháp ghép nêm và ghép áp cho hồi cũng có tỷ lệ sống khá cao, sau 3 tháng đạt
hơn 79%, sau 5 tháng còn gần 74% và sau 14 tháng có thể xuất vườn còn gần
46%. Tỷ lệ sống của cây ghép hầu như không phụ thuộc vào tuổi cây mẹ cho
cành ghép mà phục thuộc rất rõ rệt vào từng dòng cây mẹ cho cành ghép.
(Nguyễn Huy Sơn, Nguyễn Tuấn Hưng – 2003).
Xử lý bằng IBA (1%) trong thời kỳ đầu hè để giâm hom Quế đạt tỷ lệ ra
rễ cao và sử dụng phương pháp ghép nêm ngọn Quế cho tỷ lệ sống cao nhất so
với ghép mắt và ghép cành (70 - 77%) (Phạm Văn Tuấn, 2005).
Khi nghiên cứu chọn tạo giống Quế có năng suất tinh dầu cao Nguyễn
Huy Sơn, Phạm Văn Tuấn (2006) đã chọn được 122 cây trội theo các chỉ tiêu
sinh trưởng, 79 cây theo sinh trưởng và hàm lượng tinh dầu, 45 cây theo cả sinh
trưởng, hàm lượng và chất lượng tinh dầu ở Yên Bái, Quảng Nam và Quảng
Ngãi. Về nhân giống, đề tài cũng đã chỉ ra được tuổi cây lấy hom, giá thể và loại
hom có ảnh hưởng đến tỷ lệ ra rễ của hom, tốt nhất là lấy hom cành hay hom
chồi vượt ở cây dưới 7 năm tuổi, giâm hom trong giá thể cát vào đầu vụ hè là tốt
nhất. Đối với ghép, đề tài cũng đưa ra 3 phương pháp nhưng đạt hiệu quả cao
nhất vẫn là ghép nêm ngọn, cành ghép tốt nhất là lấy ở cây dưới 7 năm tuổi và
nên ghép vào vụ thu. Các tác giả đã dùng cây ghép để xây dựng vườn giống kết
hợp khảo nghiệm hậu thế đối với loài cây này.
Nguyễn Ngọc Bình (1964) đã chỉ ra rằng Luồng sinh trưởng tốt nơi đất

chua pH(KC1): 4,2 – 5,0. Cũng theo Nguyễn Ngọc Bình (2001) khi nghiên cứu
đặc biệt đất trồng rừng Tre Luồng và ảnh hưởng của các phương thức trồng rừng
tre Luồng đến đất cho rằng trồng Luồng theo phương thức hỗn giao, thích hợp
nhất là hỗn giao với cây họ đậu như Keo để tránh cho đất bị suy thoái [5], [6].
Ngô Quang Đê (1994) cũng đã giới thiệu kỹ thuật gây trồng tre trúc cho 3
loài: Luồng, Mạy sang và Vầu đắng gồm các khâu ươm giống, kỹ thuật gây
trồng, chăm sóc, khai thác và sử dụng.


12

Triệu Văn Hùng, Nguyễn Xuân Quát, Hoàng Chương (2002) [10] đã giới
thiệu điều kiện gây trồng, nguồn giống, kỹ thuật trồng, chăm sóc, khai thác và
chế biến cho một số loài cây lâm sản ngoài gỗ có giá trị.
Nguyễn Tử Kim, Lê Thu Hiền, Lưu Quốc Thành (2004) đã trồng Song mật
và Mây nếp dưới tán một số trạng thái rừng phục hồi ở Phú Thọ và Hoà Bình kết
quả cho thấy: Mây nếp sau 42 tháng tuổi ở Cầu Hai (Phú Thọ), với phương pháp
xử lý thực bì theo lỗ trống, trồng theo cụm (250 cụm/ha), mỗi cụm 3 hố, 1 cây/hố
đã cho sinh trưởng về chiều cao và tỷ lệ đẻ nhánh cao nhất (h = 136cm, 65,3% số
cây đẻ từ 1 – 3 nhánh). Cũng với phương pháp xử lý như ở Cầu Hai (Phú Thọ),
Mây nếp sau 30 tháng tuổi tại Hoà Bình đã cho sinh trường về chiều cao và tỷ lệ
đẻ nhánh cao nhất (h = 201cm, 68,1% số cây đẻ từ 1 – 3 nhánh).
Đỗ Văn Bản và các cộng sự (2005) [3], [4] đã tuyển chọn 3 loài tre nhập
nội trồng để lấy măng: Điềm trúc (Dendrocalamus latiflorus), Lục trúc
(Bambusa oldhamii) và Tạp giao với 13,5 ha mô hình thực nghiệm tại Phú Thọ
và Thanh Hoá. Đề tài đã đưa ra được một số biện pháp thâm canh cho mô hình
trồng thuần loài: Mật độ trồng, phân bón, điều chỉnh cây mẹ, đồng thời đã xây
dựng hướng dẫn kỹ thuật trồng thâm canh, kỹ thuật khai thác măng và một số
biện pháp sơ chế bảo quản măng.
Trong một công trình nghiên cứu khác Đỗ Văn Bản (2005) [4] cũng đã

thống kê được hiện nay nước ta có 4 loài tre nhập nội lấy măng đang được gây
trồng gồm Điềm trúc, Lục trúc, Tạp giao và Mạnh tông. Đề tài đã thống kê được
diện tích trồng Điềm trúc tính đến năm 2003 là 2.700 ha. Ngoài ra, đề tài còn
cung cấp những thông tin về đặc tính sinh thái, hình thái, kỹ thuật gây trồng,
chăm sóc và kinh nghiệm gây trồng của nhân dân.
Nguyễn Huy Sơn, Phạm Văn Tuấn (2006) đã chỉ ra mật độ trồng rừng ảnh
hưởng rất rõ đến sinh trưởng của Quế, các tác giả cũng đưa ra mật độ từ 300
cây/ha đến 5000 cây/ha là mật độ thích hợp cho Quế 18 tháng tuổi.


13

Ngoài một số công trình điển hình ở trên, còn rất nhiều công trình của các
nhà khoa học khác thuộc các ngành Y tế, môi trường,… đã tham gia nghiên cứu
và có kết quả đáng chú ý như công trình của Viện Dược liệu (2005), Viện sinh
thái và tài nguyên sinh vật (2001); Trần Công Khánh (2000); Nguyễn Ngọc Lân
(1999); Nguyễn Văn Tập (2001), Trần Văn Ơn (2002), các công trình của các
địa phương;… Đặc biệt là các công trình nghiên cứu về kỹ thuật trồng Giổi xanh
của Nguyễn Bá Chất (1984), kỹ thuật trồng Hồi của Nguyễn Thị Bích (1998),
Kỹ thuật trồng Trám trắng của Phạm Đình Tam (1998),…
1.2.2.3. Nghiên cứu về thi ̣ trường LSNG
Dương Tín Đức (2009) trong công trình nghiên cứu “Nghiên cứu các giải
pháp phát triển trồng rừng sản xuất tại Công ty Lâm nghiệp Nam Nung, tỉnh
Đăk Nông” đã chỉ ra rằng thị trường nhựa mủ cao su của Công ty hiện nay là
chưa rộng, chưa mang lại hiệu quả kinh tế cao vì Công ty mới chỉ dừng lại ở việc
bán nhựa mủ thô cho các nhà máy chế biến ở trong tỉnh và khu vực Tp. Hồ Chí
Minh. Qua đó, tác giả đề xuất Công ty cần đẩy mạnh việc xây dựng nhà máy chế
biến nhựa mủ Cao su để từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh [8].
Phạm Văn Phong trong đề tài nghiên cứu “Đánh giá thực trạng gây trồng
và phát triển lâm sản ngoài gỗ tại vườn Quốc gia Xuân Sơn, tỉnh Phú Thọ” kết

quả nghiên cứu cho thấy, tại vườn Quốc gia Xuân Sơn các loài LSNG như Măng
bát độ, Vầu đắng do người dân gây trồng mới chỉ được bán tại địa phương với
lượng tiêu thụ không lớn, một số ít được bán cho khách du lịch, riêng đối với thị
trường nhựa mủ Sơn ta thì tư thương tới tận nhà để thu mua và sau đó bán cho thị
trường tiêu thụ trong nước và bán sang Trung Quốc. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ
ra rằng, để đẩy mạnh việc gây trồng và phát triển cây LSNG tại khu vực thì công
tác đẩy mạnh phát triển thị trường ra các tỉnh khác là hết sức cần thiết [16].


14

Nguyễn Thị Loan khi nghiên cứu về kiến thức bản địa trong gây trồng và
phát triển cây LSNG tại VQG Tam Đảo đã cho thấy, tại vùng đệm VQG Tam
Đảo, có 3 kênh thị trường tiêu thụ LSNG phổ biến là:
+ Người dân vùng đệm khai thác bán trực tiếp cho người sản xuất và chế
biến.
+ Người dân vùng đệm khai thác bán cho người thu mua trung gian sau
đó mới tới tay người sản xuất và chế biến.
+ Người dân vùng đệm khai thác bán cho người trung gian, đại lý thu mua
và cuối cùng là người sản xuất và chế biến.
Qua kết quả nghiên cứu tác giả cho rằng, việc không thông qua sơ chế,
chế biến mà bán trực tiếp cây LSNG thô làm giảm nhiều giá trị thu được của
người dân. Sự trải qua quá nhiều khâu trung gian dẫn tới giá cả LSNG người dân
bán thường bị ép giá với giá bán ngoài thị trường. Do vậy, cần đẩy mạnh các
khâu chế biến và đưa trực tiếp sản phẩm tới tay nhà sản xuất và người tiêu dùng
sẽ mang lại hiệu quả cao [13].
1.2.2.4. Các nghiên cứu về vai trò của LSNG
Phan Văn Thắng và cộng sự (2000) khi nghiên cứu đánh giá vai trò của
LSNG ở tỉnh Cao Bằng và Bắc Kạn cho rằng LSNG ở đây có vai trò rất quan
trọng, chúng là nguồn thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình, chiếm trung

bình 20 – 30% tổng thu nhập kinh tế của hộ/năm. Đặc biệt một số nơi, người dân
sống chủ yếu dựa vào LSNG như ở Nguyên Bình – Cao Bằng thu nhập chủ yếu
từ cây trúc sào.
Christian Rake và cộng sự (1993) khi nghiên cứu về LSNG tại ba tỉnh
Hoà Bình, Sơn La và Lai Châu đã cho rằng LSNG có vai trò rất quan trọng trong
đời sống người dân ở 3 tỉnh này. Trong đó, tre nứa, sa nhân, trẩu và song mây là
những loài có tiềm năng phát triển. Tuy nhiên, hiện nay người dân chủ yếu là
khai thác tự nhiên nên nguồn tài nguyên này ngày càng cạn kiệt.


15

Gilman, Nguyễn Văn Sản (1999) trong công trình nghiên cứu của mình
cho thấy, gần 200 tấn dược liệu được khai thác ở VQG Ba Vì vào năm 1997 1998, ước tính gần 60% người dân tộc Dao ở Ba Vì khai thác nguồn tài nguyên
này và nguồn thu nhập đứng thứ 3 sau lúa và sắn.
Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Lân (1999) cho thấy, 100% số hộ ở khu
bảo tồn Pù Mát sống dựa vào việc khai thác gỗ và LSNG, 22% số hộ thường
xuyên khai thác cây Met, Nứa, Song, Mây,…; 11,75% số hộ thường xuyên khai
thác mọc nhĩ. Thu nhập bình quân khoảng 20.000 đồng/ngày và 8,3% số hộ
thường xuyên khai thác củi bán lấy tiền mua lương thực và trong những ngày
giáp hạt trên 90% số hộ ở bản Châu Sơn vào rừng đào củ Mài, củ Chuối, củ Nâu
và hái rau rừng để ăn.
1.2.2.5. Các nghiên cứu về tiềm năng và giải pháp nâng cao vai trò của
LSNG
Theo kết quả nghiên cứu của Viện dược liệu thì đã phát hiện được 1863
loài cây dùng để làm thuốc ở Việt Nam thuộc 1033 chi, 236 họ và 101 Bộ, 17
lớp, 11 ngành thực vật. Theo Võ Văn Chi, con số này lên tới 3000 loài. Chúng
đóng vai trò vô cùng quan trọng trong công việc chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Nghiên cứu của Christian Rate và cộng sự năm 1993 đã đề cập tới tiềm
năng của LSNG tại Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu. Các tác giả đã thống kê diện

tích rừng Tre nứa ở 3 tỉnh là 26.000 ha. Bình quân một năm khai thác khoảng 13
tỷ cây, trong đó 90% được bán cho nhà máy giấy Bãi Bằng, đồng bằng sông
Hồng và xuất khẩu [18].
Năm 1978 Trung tâm nghiên cứu đặc sản rừng được thành lập (thực chất
là nghiên cứu về LSNG) với nhiệm vụ nghiên cứu phát triển LSNG, phương
pháp chế biến, gây trồng lâm sản có giá trị.
Phạm Văn Điển trong công trình nghiên cứu “Một số giải pháp kinh tế xã
hội phát triển thực vật cho LSNG tại vùng hồ thủy điện Hòa Bình” đã đưa ra một


16

số giải pháp chính bao gồm: Quy hoạch sử dụng đất, phát triển rừng và LSNG;
hoàn thiện chính sách giao đất lâm nghiệp; hỗ trợ gạo cho người dân vùng hồ;
thu hút và xác định trách nhiệm của nhà máy thủy điện Hòa Bình trong việc xây
dựng và tái tạo vốn rừng; thay đổi phương pháp khuyến lâm,….
1.3. Nhận xét, đánh giá chung
Điểm qua các công trình nghiên cứu ở cả trên thế giới và ở Việt Nam đều
có thể nhận thấy, giá trị LSNG từ rừng rất được quan tâm nghiên cứu. Các công
trình nghiên cứu đi sâu vào nhiều lĩnh vực, từ việc phân loại LSNG, chọn giống,
nhân giống và kỹ thuật gây trồng nhiều loài LSNG, thị trường tiêu thụ, xác định
tiềm năng, vai trò của LSNG đối với cộng đồng đặc biệt là cộng đồng dân cư
sống gần rừng. Các kết quả nghiên cứu là cơ sở quan trọng để xác định được giá
trị và là căn cứ để phát triển các loài cây LSNG. Mặc dù ở Việt Nam, các nghiên
cứu được thực hiện khá muộn so với thế giới, tuy nhiên các nghiên cứu cũng đã
đạt được những thành tựu đáng kể.
Ở Việt Nam, tiềm năng cây LSNG là rất lớn, đa dạng cả về chủng loại, số
lượng lẫn phân bố. Tuy nhiên, do chỉ chú ý tới khâu khai thác tự nhiên nên tới
nay hầu hết rừng tự nhiên của nước ta chỉ còn rất ít cây LSNG có giá trị, người
dân sinh sống gần rừng bắt đầu khai thác và xâm lấn trái phép tài nguyên LSNG

ở các khu rừng quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên để phục vụ cho sử dụng tại chỗ
và sử dụng làm hàng hóa buôn bán gây tác động nghiêm trọng tới công tác bảo
tồn và phát triển rừng đặc biệt là hiện nay, nhu cầu của thị trường trong và ngoài
nước đối với nhiều loại LSNG quý, hiếm như Linh chi, Hà thủ ô,... là rất lớn.
Như vậy, để có thể giảm áp lực vào tài nguyên rừng tự nhiên của nước ta, đồng
thời tạo sinh kế, phát triển kinh tế địa phương thì việc tìm kiếm loài cây, biện
pháp kỹ thuật để xây dựng các mô hình LSNG có giá trị là hết sức cần thiết đặc
biệt đối với cộng đồng dân cư sống quanh vùng đệm của các vườn quốc gia, khu
bảo tồn thiên nhiên.


17

Vùng lõi VQG Xuân Sơn nằm gọn trong địa giới hành chính của xã Xuân
Sơn và một phần của xã Kim Thượng, Xuân Đài, Đồng Sơn với 10 thôn bản,
522 hộ dân cùng 2.730 nhân khẩu. Số dân cư này chủ yếu là đồng bào dân tộc
thiểu số chủ yếu là người Dao và người Mường. Các dân tộc này đã sống ở đây
từ rất lâu đời, do đặc điểm là vùng đồi núi có nhiều dãy núi, đất canh tác nông
nghiệp ít, không có nghề phụ để phát triển nên cuộc sống của họ chủ yếu dựa
vào rừng, phần lớn các hộ gia đình đều ở mức đói nghèo (xã Xuân Sơn có tỷ lệ
số hộ nghèo cao nhất trong huyện Tân Sơn). Mặc dù vườn quốc gia đã có nhiều
chỉ thị ngăn cấm, thực hiện công tác tuyên truyền, vận động người dân nhưng vì
để đảm bảo cuộc sống người dân cũng không còn cách nào khác là vẫn buộc
phải xâm lấn tài nguyên rừng, đi sâu vào vùng lõi của VQG để khai thác LSNG
gây ra sự bất ổn và khó khăn rất lớn cho công tác bảo tồn và phát triển rừng. Như
vậy, để giảm tác động của cộng đồng vào rừng thì không còn phương thức nào
khác là cần phải tìm kiếm ra nguồn sinh kế thay thế cho cộng đồng, đảm bảo
việc làm và cuộc sống cho họ. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn đó, đề tài “Nghiên
cứu xây dựng một số mô hình trồng cây lâm sản ngoài gỗ tại Vườn Quốc gia
Xuân Sơn, tỉnh Phú Thọ” được đặt ra là hết sức có ý nghĩa đối với cả công tác

bảo vệ phát triển rừng của VQG và phát triển kinh tế địa phương.


18

Chương 2:
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá được một số mô hình trồng cây LSNG do dự án DANIDA
xây dựng tại VQG Xuân Sơn, tỉnh Phú Thọ.
- Đề xuất được loài cây, mô hình và kỹ thuật trồng cây LSNG có triển
vọng tại VQG Xuân Sơn.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
5 mô hình trồng cây LSNG do dự án DANIDA xây dựng tại VQG
Xuân Sơn, tỉnh Phú Thọ.
2.3. Giới hạn nghiên cứu
2.3.1. Về địa bàn nghiên cứu: Địa bàn nghiên cứu và đánh giá các mô hình
trồng cây LSNG được giới hạn trong 3 xã Minh Đài, Xuân Đài và Xuân Sơn
thuộc vườn Quốc gia Xuân Sơn, tỉnh Phú Thọ.
2.3.2. Về nội dung nghiên cứu
- Các mô hình trồng cây LSNG được giới hạn trong 5 mô hình sau:
+ Mô hình trồng: Chuối phấn + Khoai tầng + Rau sắng + Trám trắng
ghép.
+ Mô hình trồng mới Sơn ta trên đất trống.
+ Mô hình Trồng Sơn trên đồi chè.
+ Mô hình cải tạo chè Shan.
+ Mô hình cải tạo và nâng cấp mô hình: Chè Shan + Trúc Quân Tử +
Vầu đắng.
2.4. Nội dung nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, đề tài đặt ra những nội dung nghiên cứu
như sau:


19

- Đánh giá tiềm năng và thực trạng gây trồng và phát triển cây lâm sản
ngoài gỗ tại vườn quốc gia Xuân Sơn.
- Khái quát chung về dự án DANIDA và các mô hình trồng cây LSNG
do dự án DANIDA đã xây dựng tại VQG Xuân Sơn.
- Đánh giá kết quả xây dựng các mô hình trồng cây LSNG do dự án
DANIDA xây dựng tại Vườn Quốc Gia Xuân Sơn.
- Đề xuất loài cây, kỹ thuật gây trồng một số loài cây LSNG có triển
vọng tại Vườn Quốc Gia Xuân Sơn.
2.5. Phương pháp nghiên cứu
2.5.1. Quan điểm và cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu
a. Quan điểm nghiên cứu
- Nghiên cứu phát triển LSNG trong vùng Vườn quốc gia Xuân Sơn cần
được đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với đời sống thường ngày của người dân
địa phương như các hoạt động khai thác, sử dụng, gây trồng và phát triển,...
- Chú trọng nghiên cứu, tổng kết các biện pháp kỹ thuật đã có, các giống
mới, chuyển giao công nghệ, kết hợp với nghiên cứu nhu cầu thị trường, khả năng
tiếp nhận của người dân (chú trọng cả yếu tố kinh tế và kỹ thuật).
- LSNG cần được coi là một giải pháp quan trọng và có hiệu quả cao
trong việc cải thiện sinh kế người dân địa phương, hướng tới công tác quản lý
rừng bền vững của VQG Xuân Sơn.
- Phát triển kỹ thuật có sự tham gia (PTD): Lấy người dân làm trung
tâm.
b. Cách tiếp cận của đề tài
- Nghiên cứu phát triển LSNG nhằm góp phần cải thiện đời sống của

người dân sống trong và ngoài VQG Xuân Sơn cần có cách tiếp cận tổng hợp.
- Cách tiếp cận có sự tham gia của các đối tượng khác nhau: người dân,
cán bộ thôn, xã, huyện, vườn quốc gia,...


20

- Do thời gian nghiên cứu ngắn nên cách tiếp cận chủ yếu sẽ là kế thừa
tối đa các số liệu và thông tin đã có.
Các bước giải quyết vấn đề của đề tài được cụ thể hóa qua sơ đồ sau:
Thu thập các thôn tin, số
liệu, tài liệu, báo cáo
khoa học có liên quan

Khảo sát toàn bộ khu
vực nghiên cứu, lựa
chọn địa điểm điều tra

Vườn quốc gia Xuân Sơn,
tỉnh Phú Thọ

Tiềm năng và
thực trạng gây
trồng và phát
triển các loài
cây LSNG tại
VQG Xuân
Sơn, tỉnh Phú
Thọ


Khái quát về
dự án DANIDA
và các mô hình
trồng cây
LSNG do Dự
án xây dựng tại
VQG Xuân
Sơn

Đánh giá kết
quả xây dựng
mô hình trồng
cây LSNG do
dự án DANIDA
xây dựng tại
VQG Xuân
Sơn

Phân tích, xử lý số liệu

Đề xuất giải pháp

Hình 2.1. Sơ đồ các bước nghiên cứu của đề tài
2.5.2. Phương pháp nghiên cứu
2.5.2.1. Phương pháp kế thừa số liệu, tài liệu
Từ các tài liệu đã có của Vườn quốc gia, UBND các xã, các mô hình đã
triển khai để thu thập các thông tin, số liệu có liên quan.


21


Các tài liệu thu thập gồm:
- Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu, trong đó chú
trọng đến các số liệu về kinh tế - xã hội như dân số, lao động, thu nhập, tình
hình sản xuất nông lâm nghiệp, cơ sở hạ tầng,...
- Đặc điểm tài nguyên rừng VQG Xuân Sơn, đặc biệt là các tài liệu
điều tra về tài nguyên rừng, tài liệu về các loài LSNG trên địa bàn; phân bố,
diện tích các loại rừng, công tác tổ chức quản lý bảo vệ rừng, tình hình giao
khoán bảo vệ rừng,...
- Định hướng quản lý rừng của VQG Xuân Sơn ở khu vực các xã vùng
dự án gồm: Xuân Sơn, Xuân Đài và Minh Đài.
- Các thôn tin, tài liệu, số liệu, báo cáo có liên quan tới việc triển khai
Dự án DANIDA tại VQG Xuân Sơn.
- Các chương trình, dự án có liên quan đến LSNG và cải thiện sinh kế
người dân đã thực hiện tại 3 xã Xuân Sơn, Xuân Đài và Minh Đài.
Ngoài ra, còn thu thập các tài liệu nghiên cứu đã có về lâm sản ngoài
gỗ: loài cây, phân bố, biện pháp kỹ thuật gây trồng, giá trị sử dụng, thị trường,
tiềm năng phát triển,... thu thập các thông tin, kết quả nghiên cứu khác về thị
trường LSNG, kỹ thuật và kết quả gây trồng một số loài LSNG có giá trị ở
những khu vực khác có điều kiện tương tự.
2.5.2.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
2.5.2.2.1. Phương pháp đánh giá tiềm năng, thực trạng gây trồng và
phát triển cây LSNG tại VQG Xuân Sơn
- Tiềm năng phát triển cây LSNG được đề tài đánh giá bao gồm:
+ Tiềm năng về đất đai phát triển cây LSNG.
+ Tiềm năng về lao động.
+ Kinh nghiệm thu hái và gây trồng cây LSNG của cộng đồng.
+ Loài cây trồng, nguồn giống, kỹ thuật.



22

+ Thị trường tiêu thụ.
- Thực trạng phát triển cây LSNG được đề tài đánh giá bao gồm:
+ Diện tích gây trồng.
+ Số mô hình, loài cây, biện pháp kỹ thuật áp dụng.
+ Tình hình khai thác, sử dụng, chế biến.
+ Tình hình tiêu thụ các mặt hàng LSNG,...
Phương pháp chủ đạo được đề tài sử dụng là sử dụng bộ công cụ PRA
để tiến hành điều tra phỏng vấn các đối tượng có liên quan. §iều tra phỏng
vấn các đối tượng sau:
+ Cán bộ huyện Tân Sơn: 1 Phó chủ tịch, 2 cán bộ khuyến nông khuyến lâm.
+ Cán bộ của VQG Xuân Sơn: Giám đốc, 2 cán bộ kỹ thuật (1 phó
phòng kỹ thuật và 1 nhân viên kỹ thuật nắm rõ nhất tình hình phát triển cây
LSNG trên địa bàn).
+ Cán bộ xã vùng dự án: Chủ tịch hoặc phó chủ tịch, cán bộ khuyến
lâm - khuyến nông, cán bộ hội phụ nữ. Mỗi xã 4 người/xã.
+ 6 Thầy lang có sử dụng, buôn bán các loại cây LSNG trên địa bàn
(mỗi xã 2 người).
+ Các tiểu thương, đại lý thu mua cây LSNG trên địa bàn 3 xã (Mỗi xã
5 người).
+ Người dân trên địa bàn 3 xã vùng dự án mỗi xã phỏng vấn 10 hộ. Đối
tượng được phỏng vấn phải đảm bảo:
Đại diện cho các thành phần dân tộc khác nhau.
Đại diện cho các mô hình trồng cây LSNG, quy mô diện tích gây trồng,
mức độ đầu tư thâm canh là khác nhau.
Đại diện cho mức thu nhập: Khá, trung bình, nghèo.
2.5.2.2.2. Phương pháp nghiên cứu về khái quát dự án DANIDA và các
mô hình trồng cây LSNG do dự án xây dựng



23

Phương pháp chủ đạo đề tài sử dụng là kế thừa các thông tin, tài liệu,
báo cáo, văn kiện của dự án có liên quan.
2.5.2.2.3. Phương pháp đánh giá kết quả xây dựng các mô hình trồng
cây LSNG tại Vườn Quốc Gia Xuân Sơn
- Điều tra, đo đếm các mô hình LSNG đã xây dựng, thông qua đó nắm
được các thông tin về:
+ Tỷ lệ cây sống của từng loài
+ Chiều cao vút ngọn
+ Đường D1,3
+ Tình hình sâu bệnh
+ Đánh giá tình hình sinh trưởng, chất lượng rừng
+ Năng suất, sản lượng mô hình, hiệu quả kinh tế (chi phí, thu nhập).
- Đánh giá triển vọng các mô hình.
2.5.2.2.4. Đề xuất loài cây, kỹ thuật gây trồng một số loài cây LSNG có
triển vọng tại Vườn Quốc Gia Xuân Sơn
Từ các kết quả nghiên cứu, đánh giá về các mô hình lâm sản ngoài gỗ
đã được xây dựng, đề tài đề xuất một số loài cây và kỹ thuật trồng các loài
cây như sau: Mô hình trồng, loài cây trồng, thời vụ trồng, tiêu chuẩn cây con,
kỹ thuật đào hố, bón phân, chăm sóc, khai thác thu hái,...
2.5.3. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
- Sử dụng phương pháp phân tích SWOT (điểm mạnh, điểm yếu, cơ
hội, thách thức) để phân tích và đánh giá tiềm năng và phát triển LSNG trên
địa bàn các xã trong vùng Vườn quốc gia Xuân Sơn.
- Các số liệu thu thập về sinh trưởng, tỷ lệ sống của các mô hình đưa ra
đánh giá được xử lý bằng các hàm thống kê toán học trên phầm mềm excel
5.0.



×