Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ, ĐỒ THỊ NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC PHẦN LỊCH SỬ THẾ GIỚI CẬN ĐẠI SGK LỊCH SỬ 10 CƠ BẢN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 102 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

ĐỖ VĂN DŨNG

XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ, ĐỒ THỊ
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC PHẦN LỊCH SỬ THẾ GIỚI CẬN ĐẠI
SGK LỊCH SỬ 10 - CƠ BẢN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Thái Nguyên, năm 2013


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

Thái Nguyên, tháng 05 năm 2011
ĐỖ VĂN DŨNG

XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ, ĐỒ THỊ
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG
DẠY HỌC PHẦN LỊCH SỬ THẾ GIỚI CẬN ĐẠI
SGK LỊCH SỬ 10 - CƠ BẢN

Trang bìa phụ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học lịch sử


Giáo viên hướng dẫn khoa học : Tạ Tương Chân

Thái Nguyên, năm 2013

i


MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ......................................................................................................i
Mục lục..............................................................................................................ii
Danh mục các từ viết tắt...................................................................................iv

ii


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Viết là:

Đọc là:

CM

Cách mạng

CMTS

Cách mạng tư sản

CĐPK


Chế độ phong kiến

CNTB

Chủ nghĩa tư bản

ĐHSP

Đại học sư phạm

ĐHQG

Đại học quốc gia

GCTS

Giai cấp tư sản

Nxb

Nhà xuất bản

LSTG

Lịch sử thế giới

PPDH

Phương pháp dạy học


SGK

Sách giáo khoa

TBCN

Tư bản chủ nghĩa

THPT

Trung học phổ thông

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

iii


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền
tảng và động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Với cuộc cách mạng về khoa học công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm
vi toàn cầu hiện nay, khoa học và công nghệ đã thực sự trở thành “lực lượng
sản xuất trực tiếp”, trong đó tri thức và thông tin là yếu tố quan trọng, là
nguồn tài nguyên đặc biệt, có giá trị cao. Ở đó, yếu tố trí tuệ có vai trò quyết
định nhất trong mối tương quan với các yếu tố tài nguyên thiên nhiên, vốn và
sức lao động. Đồng thời, cũng chính yếu tố trí tuệ đã hình thành nên nguồn

lực nội sinh cho sự phát triển bền vững của quốc gia, dân tộc.
Xuất phát từ nhu cầu phát triển của đất nước, Đảng Cộng Sản Việt Nam
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc “Bồi dưỡng thế hệ trẻ
cách mạng cho đời sau”. Tại Đại hội lần thứ VIII của Đảng (1996) khẳng
định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Cho tới nay, Nghị quyết Đại hội XI
(01/2011) tiếp tục xác định: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân
trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát
triển đất nước, xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam. Phát triển giáo
dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng
đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển” [23, tr52]. Sinh
thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh có nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” –
điều đó đã được lịch sử chứng minh và thực tiễn cách mạng Việt Nam kiểm
nghiệm. Nhận thấy rõ tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo, Người luôn
chú trọng xây dựng một nền giáo dục mới - nền giáo dục mà mục tiêu, nội
dung và phương pháp phải hướng đến việc phát triển con người toàn diện,
cũng như động viên mọi lực lượng tham gia sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Kế thừa và phát huy quan điểm ấy, Điều 2, Luật giáo dục 2005 nêu rõ “Mục
tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức,

1


tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất
và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ tổ quốc”. Để đạt được mục tiêu đó, ngoài sự đóng góp, trách nhiệm của
toàn xã hội thì nhà trường được xem là vị trí trung tâm, có vai trò quan trọng
thông qua các môn học của mình, trong đó có môn lịch sử.
Trong hệ thống các môn học ở trường phổ thông, lịch sử với tư cách là
một môn khoa học không chỉ cung cấp hệ thống kiến thức khoa học về lịch sử

nhân loại, lịch sử dân tộc cho học sinh mà còn góp phần to lớn trong việc giáo
dục tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, óc thẩm mỹ, hình thành tư duy
logic, kỹ năng, kỹ xảo cho các em; đồng thời, giúp các em thấm nhuần truyền
thống yêu nước, niềm tự hào về quá khứ anh hùng của dân tộc, tin yêu vào
cuộc sống hiện tại và tương lai, tin yêu chủ nghĩa xã hội. Nó góp phần to lớn
vào việc giáo dục con người phát triển một cách toàn diện. G.Tsecnưspexki –
Nhà văn dân chủ người Nga thế kỷ XIX có viết: “Có thể không biết, không
cảm thấy say mê học toán, tiếng Hy Lạp hoặc chữ Latinh, hoá học, có thể biết
hàng nghìn môn học khác, nhưng dù sao đã là một con người có giáo dục mà
không yêu thích lịch sử thì có thể là một con người không phát triển đầy đủ trí
tuệ”.
Nhìn chung, bên cạnh một số thành tựu đáng khích lệ đã đạt được, công
tác dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế, bất
cập. Đại hội Đảng XI (2011) chỉ rõ: “Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa
đáp ứng được yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ
cao vẫn còn hạn chế;...Chương trình, nội dung, PPDH còn lạc hậu, đổi mới
chậm;...Chất lượng giáo dục toàn diện giảm sút, chưa đáp ứng được yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá...”[23, tr51]. Sở dĩ có tình trạng
như vậy, là do nhiều học sinh, phụ huynh và thậm chí không ít giáo viên cho
rằng lịch sử là “môn phụ”. Thêm vào đó, thời lượng lên lớp dành cho môn sử
là không nhiều, mà khối lượng kiến thức có trong chương trình lại rất lớn,
2


điều này cũng gây tâm lý, gây áp lực nặng nề cho học sinh trong quá trình học
tập. Chính vì vậy, chất lượng dạy và học môn lịch sử chưa đáp ứng được yêu
cầu. Có thể nói, ngoài vấn đề nhận thức sai lầm từ phía học sinh, gia đình và
xã hội cũng phải kể tới yếu tố từ phía giáo viên. Do nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan, khiến giáo viên chưa tích cực cải tiến, đổi mới PPDH mà
vẫn mang nặng lối dạy theo kiểu “Thầy đọc, trò chép”, “Dạy chay”, không

hiệu quả. Bởi vậy, vấn đề đổi mới PPDH theo hướng tích cực, “Lấy người học
làm trung tâm” đã và đang được đặt ra, và cần triển khai một cách triệt để, có
hiệu quả. Coi đây là “cuộc cách mạng” trong nhận thức về công tác dạy học
hiện nay.
Để đáp ứng mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh, cũng như mục tiêu
giáo dục bộ môn hiện nay, việc dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói
riêng cần phải đổi mới, nâng cao hơn nữa về cả nội dung cũng như phương
pháp dạy học. Trong đó, cần phát huy được tính tích cực học tập của học sinh,
biến các em trở thành chủ thể của quá trình nhận thức, không bị gò bó, thụ
động. Điều này sẽ giúp học sinh tìm thấy động lực khát khao trong việc lĩnh
hội tri thức mới, hình thành các kỹ năng, kỹ xảo cần thiết, tránh áp đặt kiến
thức cho học sinh, làm ảnh hưởng rất xấu đến quá trình nhận thức của các em.
Như Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng căn dặn giáo viên: “Dạy sử cũng
như dạy bất cứ môn học nào, đòi hỏi giáo viên phải khơi gợi trí thông
minh...Làm sao ngay ở nhà trường ta phải bắt buộc học sinh dùng trí thông
minh, trí khôn, sự suy nghĩ để hiểu biết rộng ra và nhờ đó đến lúc vào đời
mới phát huy được tài năng”[9, tr29].
Trong dạy học lịch sử, đồ dùng trực quan nói chung và các loại đồ dùng
trực quan quy ước nói riêng đóng vai trò quan trọng trong việc truyền tải nội
dung kiến thức cho học sinh, đồng thời, còn làm cho giờ học lịch sử trở nên
sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn hơn, giúp các em nhớ kỹ, hiểu sâu kiến thức và
biết vận dụng vào thực tiễn.

3


Để góp phần nâng cao chất lượng dạy học lịch sử ở trường THPT, và
việc học tập của sinh viên khoa lịch sử ở trường đại học sư phạm trong việc
rèn luyện kỹ năng xây dựng và sử dụng các loại đồ dùng trực quan quy ước
với việc phát huy tính tích cực của học sinh, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Xây

dựng và sử dụng sơ đồ, biểu đồ, đồ thị nhằm phát huy tính tích cực của học
sinh trong dạy học phần lịch sử thế giới cận đại SGK lịch sử 10 - cơ bản”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề sử dụng đồ dùng trực quan đóng vai trò quan trọng trong việc
nâng cao chất lượng dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Đồ dùng trực quan
giúp cho học sinh hiểu một cách sâu sắc sự kiện, hiện tượng lịch sử, là
phương tiện rất có hiệu lực để hình thành khái niệm lịch sử cho học sinh;
đồng thời, cũng khiến cho giờ học trở nên sinh động, hấp dẫn, tạo cho các em
sự hứng thú và yêu thích môn lịch sử hơn. Bởi vậy, việc sử dụng đồ dùng trực
quan trong DHLS nhằm phát huy tính tích cực của học sinh được nhiều nhà
nghiên cứu khoa học, giáo dục trong và ngoài nước đề cập tới. Xin dẫn ra
dưới đây một số công trình nghiên cứu mà tôi đã tiếp cận được.
2.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
N. G. Đairi trong cuốn “Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào?” [6] đã
tập trung nghiên cứu quá trình chuẩn bị và các bước tiến hành bài học lịch sử
ở trường phổ thông. Trong đó, ông cũng đặc biệt nhấn mạnh việc cần tiến
hành sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử.
I.F.Khalamốp với tác phẩm “Phát huy tính tích cực học tập của học
sinh như thế nào?” [13] tác giả đã trình bày một số vấn đề lý luận, trên cơ sở
đó ông đã đưa ra những biện pháp, kinh nghiệm cụ thể về việc phát huy tính
tích cực học tập khi trình bày bài mới, củng cố kiến thức, ôn tập kiến thức cũ,
hay tổ chức công tác tự học cho học sinh. Trong đó, ông đã khẳng định việc
sử dụng đồ dùng trực quan có hiệu quả lớn trong dạy học.

4


K.Đ.Usinxki trong cuốn “Dạy học nêu vấn đề” [24] đã đi sâu nghiên
cứu và đề xuất phương pháp dạy học nêu vấn đề nhắm phát huy tính tích cực
học tập của học sinh. Qua đó, ông đã nêu lên tác dụng to lớn của việc sử dụng

đồ dùng trực quan trong dạy học: chính nhờ trực quan mà hình ảnh thu được
gắn chặt trong trí nhớ học sinh.
2.2. Các công trình nghiên cứu trong nước
Cuốn “Đổi mới việc dạy, học lịch sử lấy học sinh làm trung tâm” của
Hội giáo dục Lịch sử Việt Nam, khẳng định rằng muốn nâng cao chất lượng
dạy học thì trước hết phải tiến hành đổi mới mục tiêu giáo dục, chương trình,
nội dung giáo dục trong đó hướng vào đổi mới PPDH từ quan điểm “Lấy thầy
làm trung tâm” sang “Lấy người học làm trung tâm” mà thực chất là phát huy
tính tích cực của học sinh. Ví dụ, trong bài báo cáo của GS. Phan Ngọc Liên
“Nhận thức và hành động trong đổi mới việc dạy, học lịch sử lấy học sinh làm
trung tâm” có viết: “...Lấy học sinh làm trung tâm trong công tác giáo dục
phổ thông không hề hạ thấp, làm giảm vai trò của giáo viên, không kích thích
tính tự phát của học sinh mà chính là giáo dục, hướng dẫn, phát huy tính chủ
động, năng lực tư duy, sáng tạo của học sinh trong tiếp thu và vận dụng kiến
thức đã học có hiệu quả...” [12, tr23]
Nguyễn Thị Côi – Trịnh Đình Tùng với cuốn “Rèn luyện kỹ năng
nghiệp vụ sư phạm môn lịch sử”[4], đã trình bày một cách chi tiết, có hệ
thống về những kỹ năng sư phạm cần thiết trong dạy học lịch sử. Trong đó,
khẳng định kỹ năng sử dụng đồ dùng trực quan được coi là yếu tố quan trọng
trong dạy học lịch sử. Trong đó có viết: “Sơ đồ lịch sử nhằm cụ thể hoá nội
dung một biến cố hay một hiện tượng lịch sử để học sinh nắm được những nét
chủ yếu, các logic vận động, phát triển của lịch sử. Trên cơ sở ấy các em nắm
vững được các đặc trưng có bản, cấu tạo nội hàm của khái niệm” [4, tr55]

5


GS. Phan Ngọc Liên (Chủ biên) trong cuốn “Phương pháp dạy học lịch
sử” (tập 2) đã trình bày khái quát những vấn đề cơ bản về phương pháp sử
dụng đồ dùng trực quan trong giờ học lịch sử.

Nguyễn Hà Giang (2004), Phát huy tính tích cực học tập của học sinh
trong dạy học khoá trình lịch sử thế giới cận đại (SGK lịch sử 10 - THPT)
[10], luận văn cử nhân, ĐHSP Thái Nguyên đã viết khá cụ thể về các phương
pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học khoá
trình lịch sử thế giới cận đại. Trong đó, có đề cập tới việc sử dụng đồ dùng
trực quan.
Nguyễn Thuý Hằng với luận văn cử nhân khoa học (2008) “Xây dựng
và sử dụng sơ đồ, biểu đồ, niên biểu trong dạy học khoá trình lịch sử thế giới
cận đại, SGK lịch sử 10 – THPT (Chương trình chuẩn)” [11], Đại học sư
phạm Thái Nguyên đã đề ra một số biện pháp xây dựng và sử dụng sơ đồ,
biểu đồ, niên biểu trong dạy học khoá trình lịch sử thế giới cận đại khá đầy
đủ, nhưng chưa nhấn mạnh vào việc phát huy tính tích cực trong học tập của học
sinh, cũng như chưa đưa ra một cách cụ thể các bước xây dựng sơ đồ, biểu đồ, đồ
thị. Trong đó có viết về cách xây dựng sơ đồ: “...Khi xây dựng các sơ đồ có thể
dùng các hình học đơn giản như hình vuông, hình chữ nhật, hoặc hình tròn, trong
đó có ghi nội dung các sự kiện, hiện tượng lịch sử...” [11, tr40]
Xét thấy, các công trình nghiên cứu trên thực sự là những tài liệu vô cùng
quý giá cho chúng tôi tham khảo để hoàn thành công trình nghiên cứu này.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là việc xây dựng và sử dụng sơ đồ, biểu đồ, đồ thị
trong bài nội khoá và ngoại khoá nhằm phát huy tính tích cực của học sinh
trong dạy học phần lịch sử thế giới cận đại SGK lịch sử 10 - cơ bản.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong đề tài, chúng tôi tập trung nghiên cứu tìm hiểu cơ sở lý luận, cơ sở
thực tiễn, nội dung của việc xây dựng và sử dụng sơ đồ, biểu đồ, đồ thị nhằm

6



phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học nội khoá, ngoại khoá phần
lịch sử thế giới cận đại SGK lịch sử 10 - cơ bản.
4. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trước hết là nhằm mục đích nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường
phổ thông. Bởi vì, trong quá trình chuẩn bị bài giảng và lên lớp, yêu cầu
người giáo viên không chỉ biết xác định cách xây dựng sơ đồ, biểu đồ, đồ thị
mà còn phải có phương pháp sử dụng phù hợp sáng tạo để phát huy tính tích
cực học tập của học sinh.
Nghiên cứu đề tài này, là cơ sở giúp bản thân tác giả đề tài tích luỹ thêm
được nhiều kinh nghiệm cho bản thân trong việc nghiên cứu khoa học; đồng
thời, cũng mong góp một phần nhỏ sáng kiến của mình làm phong phú hơn
phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
5. Phương pháp nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
5.1. Phương pháp nghiên cứu
5.1.1. Nghiên cứu lý luận
Dựa trên cơ sở phương pháp luận sử học Mácxit, lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng có liên quan; kết
hợp với phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic trong nghiên cứu các tài
liệu phục vụ cho đề tài.
Từ đó, chúng tôi tập trung nghiên cứu các nguồn tài liệu: Tâm lý – Giáo
dục học, phương pháp dạy học lịch sử, các tài liệu lịch sử có liên quan, SGK
lịch sử 10 (cơ bản), thiết kế bài giảng ở trường THPT, và nhiều tài liệu tham
khảo khác.
5.1.2. Nghiên cứu thực tiễn
Tiến hành điều tra thực tế dạy học lịch sử ở trường THPT (qua sổ điểm,
trao đổi, dự giờ của giáo viên, điều tra qua phiếu...).

7



- Với học sinh: tiến hành điều tra qua sổ điểm, tìm hiểu hứng thú học tập,
và suy nghĩ của các em về môn sử học sinh (kiểm tra, trắc nghiệm, phỏng vấn
trực tiếp...).
- Với giáo viên: tìm hiểu tình hình giảng dạy môn sử ở trường THPT.
Quan niệm của giáo viên về đổi mới phương pháp dạy học lịch sử nhằm phát
huy tính tích cực của học sinh thông qua trao đổi trực tiếp, dự giờ...
5.2. Nhiệm vụ
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực tiễn, yêu cầu trong quá trình thực
hiện nghiên cứu đề tài phải đề ra các biện pháp cụ thể trong việc xây dựng và
sử dụng sơ đồ, biểu đồ, đồ thị nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong
dạy học phần lịch sử thế giới cận đại SGK lịch sử 10 - cơ bản. Cuối cùng, là
đề xuất kết luận theo mục đích nghiên cứu đã đề ra.
6. Ý nghĩa của đề tài
* Ý nghĩa khoa học: Đề tài nghiên cứu góp phần nâng cao lý luận dạy học
bộ môn lịch sử, rèn luyện kỹ năng xây dựng và sử dụng sơ đồ, biểu đồ, đồ thị
nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học phần lịch sử thế giới
cận đại SGK lịch sử 10 - cơ bản.
* Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần khẳng định tầm
quan trọng và ý nghĩa việc xây dựng và sử dụng sơ đồ, biểu đồ, đồ thị nhằm
phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THPT. Đề
tài nhiên cứu sẽ giúp bản thân người nghiên cứu nâng cao lý luận dạy học bộ
môn, rèn luyện kỹ năng xây dựng và sử dụng sơ đồ, biểu đồ, đồ thị. Đồng
thời, thông qua các biện pháp sư phạm được đề xuất cũng nhằm phục vụ cho
quá trình học tập, nghiên cứu của sinh viên khoa sử ở trường ĐHSP, và bước
đầu vận dụng vào dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
7. Giả thuyết khoa học của đề tài

8



Trong quá trình dạy học, không có một phương pháp dạy học nào là vạn
năng. Vì vậy, ta phải biết phối hợp nhịp nhàng, linh hoạt và sáng tạo hệ thống
các phương pháp, nhằm nâng cao hiệu quả của bài học. Trong đó, cần chú
trọng phương pháp xây dựng và sử dụng sơ đồ, biểu đồ, đồ thị nhằm phát huy
tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử.
Đề tài thành công, sẽ góp phần nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn, đáp
ứng những đòi hỏi của mục tiêu giáo dục hiện nay.
8. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, thì nội dung chính
gồm 2 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng và sử dụng sơ
đồ, biểu đồ, đồ thị trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
Chương II: Một số biện pháp xây dựng và sử dụng sơ đồ, biểu đồ, đồ
thị trong dạy học phần lịch sử thế giới cận đại SGK lịch sử 10 - cơ bản.

9


NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC XÂY DỰNG
VÀ SỬ DỤNG SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ, ĐỒ THỊ TRONG DẠY HỌC
LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh
1.1.1.1. Tầm quan trọng của việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh
Trong công cuộc đổi mới giáo dục – đào tạo hiện nay, đổi mới PPDH là
một yêu cầu được đặt ra thường xuyên, cấp bách và có ý nghĩa quan trọng.
Bởi vì, theo mục tiêu giáo dục của Đảng và nhà nước thì con người được đào
tạo ra phải là người lao động làm chủ, có trình độ văn hoá cơ bản, đáp ứng

được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, thông minh, sáng tạo, có phẩm chất
đạo đức, có lý tưởng cách mạng...Họ phải được rèn luyện trong quá trình đào
tạo, và tự đào tạo.
Trong suốt một thời gian dài trước đây, việc dạy học ở trường THPT
luôn nhấn mạnh vai trò của người giáo viên, coi “Giáo viên là trung tâm” của
quá trình dạy học. Việc dạy học lấy giáo viên làm trung tâm là nhấn mạnh vai
trò chủ thể, độc quyền trong việc cung cấp kiến thức và đánh giá học sinh của
giáo viên; còn học sinh, chỉ thụ động ghi chép, học thuộc lòng và lặp lại
những gì đã nghe giảng, hoặc đọc trong SGK. Điều này, dẫn tới phương pháp
độc giảng, nhồi nhét kiến thức, khiến học sinh trở thành “con rối” của quá
trình nhận thức, hạn chế sự phát triển trí thông minh, óc sáng tạo trong học
tập. Đây là “Cách dạy học lấy động lực từ bên ngoài (Giáo viên) để phát triển
học sinh, lấy giáo viên làm trung tâm, đã tồn tại từ rất lâu đời, hạn chế sự
phát triển của bản thân người học” [13, tr19]. Thực trạng trên nếu còn tiếp
tục kéo dài, sẽ gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng và sản phẩm của giáo dục
và đào tạo. Vì vậy, yêu cầu cấp thiết đặt ra là cần phải thay đổi tình trạng nêu

10


trên. Nghị quyết Trung ương Đảng lần 2, khoá VIII chỉ rõ: “Đổi mới mạnh mẽ
phương pháp giáo dục – đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn
luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các biện
pháp tiên tiến và PPDH vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời
gian tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp toàn dân, nhất là thanh
niên” [7, tr49].
Với định hướng trên, việc đổi mới PPDH nói chung, dạy học lịch sử nói
riêng ở trường phổ thông, đòi hỏi chúng ta chuyển từ mô hình dạy học “Lấy
giáo viên làm trung tâm” sang mô hình “Lấy học sinh làm trung tâm”. Thực
chất của việc dạy học lấy học sinh làm trung tâm chính là phát huy tính tích

cực của học sinh.
Tích cực là chủ động, hăng hái, nhiệt tình với nhiệm vụ được giao. Tính
tích cực là phẩm chất vốn có của con người trong đời sống xã hội. Để tồn tại
và phát triển, con người luôn tìm tòi, khám phá, cải biến môi trường để phục
vụ cho cuộc sống của mình. Theo Thái Duy Tuyên thì “Tích cực hoá là một
tập hợp các hoạt động nhằm làm chuyển biến vị trí của người học từ thụ động
sang chủ động, từ đối tượng tiếp nhận sang chủ thể tìm kiếm tri thức để nâng
cao hiệu quả học tập” [22, tr269]. Tính tích cực của học sinh có hai mặt tự
giác và tự phát. Mặt tự giác biểu hiện ở sự tò mò, hiếu động, sôi nổi trong
hoạt động vốn có của các em. Mặt tự giác của tính tích cực thể hiện ở óc quan
sát, sự phê phán, nhận xét trong tư duy, tò mò khoa học. Đây chính là trạng
thái tâm lý tích cực có mục đích và đối tượng rõ rệt, có hoạt động cụ thể để
chiếm lĩnh đối tượng đó.
Phát huy tính tích cực học tập của học sinh tức là làm cho các em trở
thành chủ thể của quá trình nhận thức, là “trung tâm” của quá trình dạy học,
chủ động, hăng hái trong việc tự chiếm lĩnh tri thức, dưới sự tổ chức, hướng
dẫn, điều khiển của giáo viên. Như vậy, vai trò của người thầy không những
không bị gạt bỏ, mà ngược lại đòi hỏi người thầy phải giỏi về chuyên môn,
vững về phương pháp.

11


Việc học tập của học sinh là quá trình nhận thức đặc thù với tính gián
tiếp, tính lãnh đạo và tính giáo dục. Như vậy, tính tích cực học tập chính là
tính tích cực của nhận thức. Tính tích cực nhận thức là trạng thái hoạt động
nhận thức của học sinh thể hiện trong khát vọng học tập, cố gắng trí tuệ và có
nghị lực cao trong quá trình lĩnh hội tri thức. Hoạt động nhận thức tích cực có
ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả dạy học, giáo dục và phát
triển toàn diện học sinh. Trước hết, tính tích cực trong nhận thức giúp các em

lĩnh hội và khắc sâu kiến thức; đồng thời, còn là phương tiện tốt để hình thành
tri thức, khơi dậy những cảm xúc lịch sử, kích thích hứng thú học tập, tạo cơ
sở để giáo dục tư tưởng, đạo đức, tình cảm cho học sinh. Ngoài ra, tính tích
cực trong nhận thức còn là phương thức tốt góp phần phát triển các năng lực
nhận thức, năng lực thực hành, kỹ năng, kỹ xảo cho học sinh; tạo hứng thú
học tập và rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh.
Để phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh đòi hỏi bản
thân giáo viên phải vững về trình độ chuyên môn, giỏi về năng lực sư phạm,
vận dụng sáng tạo và linh hoạt các phương pháp dạy học trong quá trình giảng
dạy. Theo đó, giáo viên phải thường xuyên trau dồi trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ; không ngừng tiếp thu những thành tựu khoa học mới...Mặt khác,
phải thay đổi nhận thức về học sinh, coi các em thực sự là chủ thể của hoạt
động học, khơi gợi khả năng tư duy, sáng tạo, ham học hỏi của các em trong
quá trình lĩnh hội tri thức. Trên cơ sở đó, tạo được sự lôi cuốn, hứng thú của
học sinh trong giờ học lịch sử, góp phần nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn.
1.1.1.2. Nguyên tắc phát huy tính tích cực học tập của học sinh
Nguyên tắc phát huy tính tích cực của học sinh thể hiện ở quan niệm coi
học sinh là chủ thể của quá trình nhận thức. Có nghĩa là, dưới sự hướng dẫn,
tổ chức, điều khiển của giáo viên, học sinh được phát huy cao độ khả năng
lĩnh hội, tự khám phá kiến thức, tự các em thông qua các hoạt động của mình
mà hình thành nhân cách, phát triển trí thông minh, sáng tạo theo mục tiêu và
nhiệm vụ của bộ môn đề ra.

12


Thực hiện nguyên tắc phát huy tính tích cực của học sinh tức là trong
quá trình học tập phải giúp các em thấm nhuần quan điểm “Dựa vào sức mình
là chính”, tăng cường hoạt động tư duy, hướng tới sự độc lập trong quá trình
nhận thức. Học sinh tự phát hiện ra vấn đề, tự giải quyết vấn đề trong quá

trình tìm kiếm cái mới chưa biết, lĩnh hội tri thức một cách sáng tạo, và vận
dụng chúng một cách linh hoạt, có hiệu quả vào thực tiễn.
Để đạt được mục tiêu giáo dục bộ môn, đòi hỏi phải phát huy tính tích
cực của học sinh. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là phó mặc để học sinh
tuỳ tiện, tự chiếm lĩnh nguồn tri thức rộng lớn, mà cần có sự hướng dẫn, tổ
chức và điều khiển của giáo viên. Ở đó, có mối quan hệ tương tác giữa giáo
viên với học sinh chan hoà, thân ái, hợp tác thông hiểu lẫn nhau; làm giảm
dần mối quan hệ điều khiển, chỉ huy và bị điều khiển, bị chỉ huy một chiều.
Muốn thực hiện có hiệu quả việc phát huy tính tích cực của học sinh, yêu
cầu phải đảm bảo thực hiện các nguyên tắc sau:
Một là, tránh dạy học theo lối “Thầy đọc, trò ghi” mang tính giáo điều,
“nhồi sọ”, biến giáo viên thành người thuyết trình, giảng giải và học sinh thụ
động tiếp nhận những điều đã được ghi, được nghe, không tích cực suy nghĩ,
đặt vấn đề và giải quyết vấn đề. Hậu quả của việc làm này là khiến học sinh
dễ rơi vào tình trạng “học vẹt”, chỉ nắm máy móc sự kiện, mà không hề đi vào
tìm hiểu bản chất của sự kiện, không thể hiểu và vận dụng những tri thức đó
vào thực tiễn cuộc sống. Nhà giáo dục Đức Đixteve đã nói: “Người giáo viên
tồi truyền đạt chân lý, người giáo viên giỏi dạy cách tìm ra chân lý”. Nghĩa
là, người giáo viên không nên coi việc cung cấp cho học sinh những kiến thức
có sẵn, để các em học thuộc lòng, rồi kiểm tra việc ghi nhớ của học sinh như
thế nào, mà phải khơi gợi, nêu ra vấn đề để các em bám vào đó nghiên cứu
các nguồn tài liệu, vận dụng những tri thức đã có mà tự tìm ra và lĩnh hội nó
một cách sáng tạo. Phải cho học sinh hiểu rõ rằng, không nên coi những điều
giáo viên cung cấp là tuyệt đối đúng và đầy đủ, mà chỉ nên coi đây là một
trong những “kênh” thông tin, là hướng gợi mở cho các em chủ động, tích cực
13


nắm bắt các nguồn tài liệu tham khảo khác để bổ sung cho vấn đề, làm sâu
sắc, phong phú sự hiểu biết của bản thân. Có như vậy, tri thức mới thực sự là

của các em, khó phai mờ, giúp cho việc vận dụng những tri thức ấy vào thực
tiễn cuộc sống trở nên linh hoạt và sáng tạo.
Hai là, tăng cường hoạt động trao đổi, đàm thoại trong giờ học. Đây là
công việc mà giáo viên xây dựng và sử dụng một hệ thống câu hỏi để học sinh
nghiên cứu trả lời. Đồng thời, học sinh có thể trao đổi với nhau dưới sự chỉ đạo
của giáo viên. Điều này rất có ưu thế trong việc hình thành kiến thức trên cơ sở
hoạt động tư duy tích cực, độc lập của học sinh. Qua trao đổi, các phẩm chất
cần thiết của hoạt động nhận thức như: Tính tích cực, độc lập, sáng tạo, óc phê
phán...được hình thành ở học sinh. Đồng thời, cũng rèn cho các em tính kiên
nhẫn trong học tập, tạo không khí sôi nổi trong giờ học, cuốn hút hứng thú học
tập của học sinh, giúp các em lĩnh hội kiến thức sâu sắc, vững chắc hơn.
Ba là, nguồn tài liệu cung cấp tới học sinh phải phong phú, tránh việc
làm cho học sinh cho học sinh thấy mệt mỏi, nhàm chán khi phải làm việc
quá lâu với một loại tài liệu. Đồng thời, cần phải kết hợp nhuần nhuyễn,
linh hoạt và sáng tạo các PPDH khác nhau như: tường thuật, miêu tả, sử
dụng đồ dùng trực quan...nhằm giúp các em hiểu được bản chất của sự
kiện lịch sử, tạo sự hấp dẫn lôi cuốn học sinh vào giờ học.
Bốn là, vận dụng thường xuyên, linh hoạt và sáng tạo việc dạy học nêu
vấn đề, bởi đây là nguyên tắc chỉ đạo việc tiến hành nhiều PPDH. Dạy học
nêu vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với việc hình thành kiến thức, trên
cơ sở hoạt động tư duy độc lập của học sinh. Đồng thời, trong quá trình dạy
học, giáo viên cần phải quan tâm đến trình độ nhận thức của toàn lớp và cả
những học sinh khá, giỏi. Từ đó, đề ra việc lựa chọn nội dung, PPDH và cách
tổ chức quá trình nhận thức của học sinh, đảm bảo tính vừa sức trong dạy học
lịch sử ở trường phổ thông.
1.1.2. Một số vấn đề về xây dựng và sử dụng sơ đồ, biểu đồ, đồ thị trong dạy
học lịch sử ở trường phổ thông
14



1.1.2.1. Vai trò, ý nghĩa việc xây dựng và sử dụng sơ đồ, biểu đồ, đồ thị trong
dạy học lịch sử ở trường phổ thông
Sơ đồ, biểu đồ, đồ thị là các loại đồ dùng trực quan quy ước được sử
dụng thường xuyên trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông, nhằm minh
hoạ, cụ thể hoá kiến thức trong SGK. Đó còn là nguồn cung cấp kiến thức
mới, củng cố, ôn tập kiến thức đã học, phát triển tư duy, khả năng hoạt động
độc lập của học sinh. Sơ đồ, biểu đồ, đồ thị giúp các em lĩnh hội được tri thức
một cách nhanh nhất, có hệ thống nhất; đồng thời, cũng tránh được sự quá tải,
nhồi nhét kiến thức cho học sinh.
* Sơ đồ, biểu đồ, đồ thị là công cụ đắc lực cho việc tạo biểu tượng lịch sử
Quá trình học tập nói chung, học tập lịch sử nói riêng luôn tuân theo quy
luật: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến
thực tiễn”. Khoa học lịch sử có những đặc trưng riêng với tính quá khứ, tính
không lặp lại, tính cụ thể,...Nên quá trình nhận thức lịch sử cũng mang những
nét độc đáo so với quá trình nhận thức các môn học khác. Đó là, trong quá
trình nhận thức, học sinh không thể trực tiếp quan sát sự kiện, nhân vật lịch sử
mà chỉ được tiếp xúc với tri thức lịch sử một cách gián tiếp qua lời giảng của
giáo viên, các nguồn tài liệu và đồ dùng trực quan. Vì vậy, giai đoạn trực quan
sinh động là bước khởi đầu quan trọng trong quá trình nhận thức, làm cơ sở
hình thành biểu tượng lịch sử. Để có được điều này, ngoài việc cung cấp sự
kiện, giáo viên cần phải biết cách xây dựng và sử dụng một cách linh hoạt
các loại đồ dùng trực quan quy ước (trong đó có sơ đồ, biểu đồ, đồ thị) vào
quá trình dạy học.
Như ta đã biết, học sinh không thể trực quan sinh động quá khứ lịch sử,
nên việc tạo biểu tượng lịch sử là một yêu cầu quan trọng trong DHLS. “Biểu
tượng lịch sử là những hình ảnh về sự kiện, nhân vật lịch sử, điều kiện địa
lý...được phản ánh trong đầu óc học sinh với những nét chung nhất, điển hình
nhất” [18, tập 1-tr189]. Nội dung của một sự kiện lịch sử, được học sinh nhận

15



thức, thông qua việc tạo nên hình ảnh về quá khứ, bằng những hoạt động của
các giác quan: Thị giác tạo nên hình ảnh trực quan, thính giác đem lại hình
ảnh về quá khứ, thông qua lời giảng của giáo viên. Ở đây, sơ đồ, biểu đồ, đồ
thị góp phần làm tăng tính chính xác, cụ thể của bài học, hình thành nên biểu
tượng lịch sử. Đây cũng là cơ sở quan trọng để hình thành nên khái niệm lịch
sử, giúp các em “biết” để “hiểu” lịch sử, từ đó rút ra được bài học kinh
nghiệm, quy luật lịch sử, biết vận dụng những kiến thức đó vào thực tiễn một
cách hiệu quả.
* Sơ đồ, biểu đồ, đồ thị khái quát được bản chất của sự kiện lịch sử
Quá trình nhận thức của học sinh chỉ thực sự có hiệu quả khi học sinh
không chỉ “biết” về sự kiện mà phải “hiểu” về sự kiện đó một cách sâu sắc.
Như Bác đã từng căn dặn đồng bào ta:
“Dân ta phải biết sử ta.
Cho tường gốc tích, nước nhà Việt Nam”.
“Tường” ở đây là yêu cầu phải hiểu sử, chứ không phải chỉ dừng lại ở việc
biết sử. Bởi vì, khi ta có hiểu được sự kiện lịch sử thì ta mới có thể lý giải, khôi
phục lại bức tranh quá khứ đúng như nó đã từng tồn tại; trên cơ sở đó, rút ra bài
học, quy luật lịch sử mà vận dụng linh hoạt vào thực tiễn cuộc sống.
Bản chất của sự kiện lịch sử được hiểu là nội dung cơ bản nhất, đặc
trưng và sâu sắc nhất của sự kiện, hiện tượng lịch sử. Chỉ khi, nắm chắc được
bản chất sự kiện thì học sinh mới nhớ kỹ, hiểu sâu sự kiện và biết vận dụng
vào thực tiễn một cách có hiệu quả.
Quá trình học sinh khái quát được bản chất của sự kiện lịch sử chính là
quá trình hình thành khái niệm lịch sử. “Khái niệm lịch sử là sự phản ánh
khái quát hoá quá trình lịch sử; nó phản ánh những mối liên hệ khách quan
của hiện tượng và quy luật lịch sử” [18, tập 1-tr200]. Nếu biểu tượng là hình
ảnh trực quan thì khái niệm là sự phản ánh đặc trưng và thuộc tính bản chất
của sự vật, hay hiện tượng khác nhau của hiện thực khách quan, những mối

liên hệ và quan hệ giữa chúng với nhau. Điều này được thể hiện rõ qua những
đặc trưng vốn có của sơ đồ, biểu đồ, đồ thị.

16


* Sử dụng sơ đồ, biểu đồ, đồ thị có tác dụng phát huy tính tích cực học
tập của học sinh
Đồ dùng trực quan (trong đó có sơ đồ, biểu đồ, đồ thị) không chỉ có tác
dụng minh hoạ, cụ thể hoá bài học, mà còn là một nguồn kiến thức lịch sử
quan trọng giúp học sinh tìm ra bản chất, quy luật của sự kiện lịch sử. Sơ đồ,
biểu đồ, đồ thị còn có tác dụng rèn luyện, thúc đẩy các kỹ năng tư duy phát
triển như: phân tích, so sánh, giải thích, tổng hợp...đồng thời gây hứng thú,
say mê, hình thành ý thức tự giác học tập cho học sinh.
* Xây dựng và sử dụng sơ đồ, biểu đồ, đồ thị có ý nghĩa giáo dục lớn đối
với giáo viên và học sinh
Việc xây dựng và sử dụng các loại đồ dùng trực quan quy ước đòi hỏi
phải chính xác và khoa học, qua đó sẽ rèn luyện tính cẩn thận, sự tỉ mỉ trong
giảng dạy và học tập. Hơn nữa, thông qua việc xây dựng và sử dụng sơ đồ,
biểu đồ, đồ thị của giáo viên cũng giáo dục tính thẩm mĩ, biết yêu cái đẹp của
học sinh.
Ngoài ra, việc xây dựng và sử dụng sơ đồ, biểu đồ, đồ thị còn có tác
dụng to lớn trong việc phát triển tư duy lôgic, năng lực quan sát, trí tưởng
tượng, tư duy, ngôn ngữ, đặc biệt có hiệu lực với các cơ quan cảm giác trong
quá trình nhận thức của học sinh. Về điều này, KĐ Usinxki có nói: “Người
giáo viên nào có kỳ vọng phát triển trí tuệ cho trẻ em, thì trước hết, cần phải
luyện tập năng lực quan sát của chúng, dẫn chúng đi từ sự tri giác tổng hợp
đến sự tri giác định hướng, phân tích” [24, tr106]. Cùng với đó, sơ đồ, biểu
đồ, đồ thị còn có tác dụng to lớn trong việc cung cấp kiến thức mới, củng cố,
ôn tập những kiến thức đã học, khắc sâu tri thức vào đầu óc học sinh.

Tóm lại, sơ đồ, biểu đồ, đồ thị là những loại tài liệu cơ bản, trung thực,
chính xác về quá khứ, giúp ta khôi phục lại bức tranh sinh động về những sự
kiện, nhân vật lịch sử. Bởi vậy, việc xây dựng và sử dụng sơ đồ, biểu đồ, đồ
thị sẽ góp phần phát huy tính tích cực học tập của học sinh, nâng cao chất
lượng, hiệu quả dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
1.1.2.2. Nguyên tắc xây dựng và sử dụng sơ đồ, biểu đồ, đồ thị để phát huy tính
tích cực học tập của học sinh trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông

17


Việc xây dựng và sử dụng các loại đồ dùng, thiết bị dạy học nói chung,
xây dựng và sử dụng sơ đồ, biểu đồ, đồ thị nói riêng không được phép tuỳ
tiện, nếu ta không thận trọng dễ dẫn đến việc phản tác dụng trong quá trình
dạy học. Bởi vậy, việc xây dựng và sử dụng sơ đồ, biểu đồ, đồ thị cũng phải
tuân thủ những nguyên tắc nhất định, cụ thể như sau:
Một là, phải đảm bảo phù hợp với mục tiêu đào tạo, chương trình cấp
học và nội dung SGK
Trên cơ sở nắm vững mục tiêu, nội dung chương trình SGK lịch sử, giáo
viên tiến hành xây dựng hệ thống sơ đồ, biểu đồ, đồ thị phù hợp với mục tiêu từng
bài, từng tiết học và từng bước hoàn chỉnh cho cả chương hay cả khoá trình.
Hai là, phải đảm bảo tính khoa học
Tính khoa học là một nội dung quan trọng của phương pháp luận sử học.
Tính khoa học của sơ đồ, biểu đồ, đồ thị được thể hiện ở chỗ nó được xây
dựng trên cơ sở những kiến thức lịch sử cơ bản, chính xác, từ đó giúp học
sinh nhận thức đúng đắn, khách quan nội dung lịch sử, góp phần thực hiện
chức năng, nhiệm vụ bộ môn. Tuy nhiên, trong quá trình dạy học bộ môn, do
“tính ổn định tương đối” của SGK nên giáo viên có thể và cần thiết khai thác,
sử dụng những nguồn kiến thức mới đã được thẩm định mà chưa kịp đưa vào
SGK để xây dựng hệ thống sơ đồ, biểu đồ, đồ thị đảm bảo tính cập nhật với

sự phát triển của khoa học lịch sử.
Ba là, phải đảm bảo tính hiện đại, tiện lợi và thẩm mỹ
Hiện nay, trước sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin thì việc
ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói
riêng là một biện pháp hỗ trợ tích cực góp phần nâng cao hiệu quả dạy học.
Các phần mềm như Power point, Violet...chính là công cụ hữu ích giúp giáo
viên có thể xây dựng hệ thống sơ đồ, biểu đồ, đồ thị một cách dễ dàng, tiện
lợi và đẹp mắt, hơn hẳn phương pháp kẻ, vẽ bằng tay trước đây. Để làm được
điều này, yêu cầu giáo viên cần phải không ngừng học tập, trau dồi các kỹ
năng sử dụng công nghệ thông tin, đồng thời cũng phải biết khai thác triệt để
những tiện ích đó, phục vụ cho quá trình giảng dạy đạt kết quả cao nhất.

18


Khi xây dựng sơ đồ, biểu đồ, đồ thị yêu cầu giáo viên cần phải có kiến
thức có hiểu biết về hình khối, màu sắc cần thiết để xây dựng sơ đồ, biểu đồ,
đồ thị đẹp mắt và đạt hiệu quả sử dụng cao trong dạy học bộ môn. Việc bố trí
các hình khối, mũi tên, đường kẻ thể hiện mối quan hệ giữa các đối tượng
cũng phải chính xác, lôgic. Màu sắc phải hài hoà, trang nhã, dễ nhìn (nền màu
nhạt, chữ màu đậm). Nếu thiếu hiểu biết, hoặc tuỳ tiện trong việc xây dựng hệ
thống sơ đồ, biểu đồ, đồ thị sẽ dẫn đến hậu quả phản giáo dục.
Việc xây dựng hệ thống sơ đồ, biểu đồ, đồ thị phải đảm bảo tính tiện lợi,
hiệu quả giúp cho học sinh thấy dễ dàng, thuận lợi trong hoạt động nhận thức nội
dung lịch sử, hình thành những biểu tượng lịch sử làm cơ sở cho việc hình thành
khái niệm và rút ra bài học kinh nghiệm, quy luật của sự phát triển lịch sử.
Bốn là, phải phát huy tính tích cực của học sinh.
Sơ đồ, biểu đồ, đồ thị không chỉ để minh hoạ, cụ thể hoá bài học mà còn
là một nguồn kiến thức lịch sử giúp học sinh tìm ra bản chất, quy luật của sự
kiện lịch sử. Do vậy, việc xây dựng sơ đồ, biểu đồ, đồ thị cần phải hướng đến

mục đích giúp học sinh tiếp thu hiệu quả kiến thức bài học ngay ở trên lớp
một cách chủ động, tích cực. Nhằm hướng tới việc rèn luyện, thúc đẩy kỹ
năng tư duy phát triển như: Phân tích, so sánh, giải thích, tổng hợp...Đồng
thời, phải gây hứng thú, say mê, hình thành ý thức tự giác trong hoạt động
học tập của học sinh. Để nâng cao tính tích cực của học sinh, thì việc xây
dựng và sử dụng sơ đồ, biểu đồ, đồ thị phải được kết hợp chặt chẽ với các
PPDH khác, đặc biệt là hệ thống câu hỏi có vấn đề. Qua việc nêu vấn đề của
giáo viên, giúp học sinh có phương hướng, cách thức suy nghĩ đúng đắn để
hiểu được bản chất của sơ đồ, biểu đồ, đồ thị và tự rút ra nhận xét cho mình.
Năm là, phải đảm bảo tính sư phạm
Việc xây dựng sơ đồ, biểu đồ, đồ thị nhằm mục đích phục vụ hoạt động
dạy học lịch sử, vì vậy cần phải đảm bảo tính sư phạm. Trên cơ sở đó, giáo
viên mới có điều kiện thuận lợi để tiến hành các hoạt động sư phạm hướng
dẫn, tổ chức, điều khiển học sinh lĩnh hội tri thức: Tạo tình huống có vấn đề
để gợi mở sự tò mò, kích thích khả năng tư duy độc lập của các em; nhận thức
những nội dung chủ yếu và mối quan hệ giữa chúng với một sự kiện lịch
19


sử...Học sinh có thể chủ động tiến hành các hoạt động tư duy như phân tích,
liên hệ, so sánh.
Đảm bảo tính sư phạm còn đòi hỏi sơ đồ, biểu đồ, đồ thị phải có nội
dung khoa học, kiến thức phù hợp, phong phú, đảm bảo tính thẩm mỹ; phù
hợp với nội dung chương trình và trình độ nhận thức của người học, phù hợp
với điều kiện cụ thể của nhà trường và địa phương; biết tận dụng triệt để
những thành tựu công nghệ thông tin vào quá trình giảng dạy.
Sáu là, phải xác định thời điểm sử dụng phù hợp
Việc sử dụng sơ đồ, biểu đồ, đồ thị phải được xây dựng trong kế hoạch
sư phạm của giáo viên trước khi lên lớp. Hình thức sử dụng phải căn cứ vào
nội dung, yêu cầu. Về thời điểm sử dụng, cần phải linh hoạt trong việc cung

cấp kiến thức mới, củng cố hay ôn tập.
Phải sử dụng sơ đồ, biểu đồ, đồ thị trên khổ giấy lớn treo tường (loại này
cần phải chuẩn bị trước ở nhà) nếu lớp rộng và đông học sinh để tất cả các em
đều có thể quan sát được. Khi sử dụng, phải treo đúng nơi quy định, tiện cho
quá trình giảng dạy và theo dõi của học sinh. Yêu cầu, giáo viên cần có
phương tiện hỗ trợ (thước, đèn laze) để chỉ dẫn cho học sinh, tránh sử dụng
một cách tuỳ tiện.
Đối với những loại sơ đồ, biểu đồ, đồ thị có kích thước nhỏ, giáo viên vẽ
nhanh lên bảng cho các em tiện theo dõi, hoặc yêu cầu các em theo dõi trong
SGK (nếu có), hoặc in sẵn ra giấy phát cho các em, trên cơ sở đó hướng dẫn
học sinh nghiên cứu nội dung bài học. Yêu cầu, phải luôn đảm bảo cho tất cả
học sinh trong lớp đều có thể tiếp cận được với sơ đồ, biểu đồ, đồ thị, có điều
kiện thuận lợi để học tập, tránh việc sử dụng một cách hình thức, đối phó.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Đặc điểm tâm, sinh lý học sinh THPT
Lứa tuổi học sinh THPT bao gồm những em có độ tuổi từ 14 đến 18 tuổi,
đó là những học sinh đang theo học lớp 10, 11,12 ở các trường THPT. Các
nhà tâm lý học lứa tuổi còn gọi độ tuổi này là tuổi thanh niên mới lớn, và đây
cũng được coi là thời kỳ đặc biệt quan trọng của cuộc đời. Là thời kỳ kết thúc
căn bản quá trình trưởng thành và phát triển lâu dài của đứa trẻ về tâm, sinh
20


lý. Là thời kỳ năng lực trí tuệ, nhân sinh quan, thế giới quan, lý tưởng và toàn
bộ nhân cách con người đang biến đổi và phát triển về chất. Ở độ tuổi này,
hầu hết các em đã phát triển, hoàn thiện về mọi mặt, cả về thể chất và tâm lý.
Có thể nói, nhân cách của các em đã được định hình về cơ bản.
Cùng với sự phát triển về các mặt như: Chiều cao, trọng lượng cơ thể, hệ
xương, hệ cơ, các chức năng sinh lý được hoàn thiện thì sự phát triển của hệ
thần kinh cũng có những thay đổi quan trọng, do cấu trúc bên trong của bộ

não phức tạp và các chức năng của não phát triển. Cấu trúc của tế bào bán cầu
đại não có những đặc điểm như trong cấu trúc của não người lớn. Số lượng
dây thần kinh liên hợp tăng lên, liên kết các phần của vỏ não lại. Điều đó tạo
tiền đề cần thiết cho sự phức tạp hoá hoạt động phân tích, tổng hợp của vỏ
bán cầu đại não trong quá trình học tập và tư duy. Tính chủ động, tích cực, tự
giác được thể hiện rõ rệt ở tất cả các quá trình nhận thức. Có thể nói, năng lực
tư duy, tưởng tượng và các năng lực khác ở các em được hoàn thiện nhanh
chóng và có chất lượng cao. Các quá trình cảm giác và tri giác đạt tới mức độ
hoàn thiện và tinh tế. Việc ghi nhớ có chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt
động trí tuệ của các em. Đồng thời, khả năng ghi nhớ lôgic trừu tượng, ghi
nhớ ý nghĩa ngày một tăng lên rõ rệt.
Ở độ tuổi này, tư duy của các em đã có những thay đổi quan trọng. Tư
duy trừu tượng phát triển mạnh và chiếm ưu thế trong mọi hoạt động, đặc biệt
là hoạt động học tập. Khả năng tư duy lý luận, tư duy độc lập, sáng tạo rất
phát triển. Việc vận dụng các thao tác tư duy khá nhuần nhuyễn và đạt hiệu
quả cao. Song đôi khi, các em còn kết luận vội vàng nên chưa phát huy được
năng lực độc lập, suy nghĩ của mình.
Lứa tuổi THPT có quá trình tự ý thức, tự giáo dục, tu dưỡng diễn ra sôi
nổi, mạnh mẽ, sâu sắc và toàn diện hơn ở tuổi thiếu niên rất nhiều. Các em
không chỉ có nhu cầu tự đánh giá, mà còn có khả năng đánh giá sâu sắc các
phẩm chất của những người sống xung quanh, của chính mình. Thêm vào đó,
đời sống tình cảm của học sinh THPT vô cùng phong phú, đa dạng, phức tạp
21


×