Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tiểu luận môn tài chính quốc tế mức giá cố định mô hình mundell fleming

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (570.06 KB, 27 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA TÀI CHÍNH
šš¯šš

Môn: TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
CHƯƠNG 6:

MỨC GIÁ CỐ ĐỊNH:
MÔ HÌNH MUNDELL-FLEMING
GVHD: PGS.TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Nhóm học viên:
1. Vũ Thanh Tùng
2. Lê Thị Ngọc Ánh


Giá cố định: Mô hình Mundell-Fleming

Mục lục

2


Giá cố định: Mô hình Mundell-Fleming

CHƯƠNG 6:
GIÁ CỐ ĐỊNH: MÔ HÌNH MUNDELL-FLEMING

Phần giới thiệu
Trong chương 5, chúng ta đã tìm hiểu cách thức xác định tỷ giá hối đoái khi mức giá
là hoàn toàn linh hoạt. Trong chương này, chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu ở khía cạnh ngược
lại, đó là: Điều gì sẽ xảy ra khi mức giá được cố định hoàn toàn?


Mô hình Mundell-Fleming (M-F) tán thành quan điểm truyền thống của Keynesian,
cho rằng tổng cung có vai trò thụ động trong việc ấn định mức giá, trong khi các biến
động trong tổng cầu xác định mức độ hoạt động của nền kinh tế. Điều này thể hiện rõ nhất
vào những năm 1960, đặc biệt là trong các lĩnh vực hoạch định chính sách, tập trung vào
các câu hỏi liên quan đến sự kết hợp tối ưu giữa các biện pháp tài chính và tiền tệ trong
việc quản lý cầu của một nền kinh tế mở.
Vào thời điểm mô hình M-F đã được phát triển, hệ thống Bretton Woods ít nhiều
vẫn chưa bị bác bỏ, chí ít là trong thị trường tiền tệ (mặc dù hệ thống Bretton Woods chưa
bao giờ được xem là sự hỗ trợ phổ biến cho giới học giả). Không ngạc nhiên khi hầu hết
sự chú ý tập trung vào các kết luận của nó về tỷ giá hối đoái cố định. Trong chương này,
chúng ta sẽ tìm hiểu phân tích M-F ở cả tỷ giá cố định và tỷ giá thả nổi.
Như chúng ta sẽ thấy, phương pháp tiếp cận đặc trưng trong M-F là nhấn mạnh vào
các điều kiện khác nhau trong việc xác định sự cân bằng hiện tại, và trong dòng vốn ròng.
Trong Phần 6.1, đưa ra bối cảnh và các giả định rõ rãng, trong phần tiếp theo, mô tả
sự cân bằng ban đầu. Bốn phần tiếp theo (6,3 đến 6,6) phân tích kết quả của các nghiên
cứu về những chính sách sau: chính sách tiền tệ và tài khóa mở rộng theo tỷ giá thả nổi và
các đánh giá tương tự trong tỷ giá cố định. Phần 6.7 đưa ra các so sánh và các tương phản
giữa mô hình M-F với mô hình tiền tệ.
3


Giá cố định: Mô hình Mundell-Fleming

6.1. Thiết lập các giả định: (Setting)
Mô hình M-F được thiết lập trong bối cảnh của một mô hình kinh tế vĩ mô, chỉ đơn
giản là một trường hợp đặc biệt được tham khảo như của Keynesian trong Chương 4. Vì
lý do đó, chúng ta sẽ giới hạn việc trình bày ở đây để tóm tắt ngắn gọn.
6.1.1. Nền kinh tế trong nước: (Domestic economy)
Chúng ta bắt đầu từ phía cung của nền kinh tế, được giả định như sau:
Giả định 6.1. Đường tổng cung nằm ngang

Ngụ ý ở đây là gánh nặng của việc điều chỉnh các biến động tổng cầu phụ thuộc vào
mức độ hoạt động nền kinh tế (y) chứ không phải ở mức giá (P). Chúng ta đơn giản hóa
các vấn đề bằng cách thiết lập P = 1. Vì vậy, trong suốt chương này, M thể hiện cả cung
tiền danh nghĩa và cung tiền thực.
Điều này có nghĩa là trong khi phân tích chúng ta tập trung vào phía cầu của nền
kinh tế. Trên thực tế, vì sản lượng điều chỉnh thụ động, chúng ta chỉ cần xem xét trong
khuôn khổ IS-LM (xem Phần 4.1) với tổng cầu đã được xác định.
6.1.2. Cán cân thanh toán quốc tế: (Balance of payments)
Nét đặc biệt của mô hình M-F là sự đặc tả các nhân tố bên ngoài của nền kinh tế. Cụ
thể, sự cân bằng hiện tại không phụ thuộc vào tài khoản vốn, do đó để đạt được cân bằng
tổng thể cần phải tiến tới việc điều chỉnh nền kinh tế trong nước.
* Tài khoản vãng lai:
Với tài khoản vãng lai, bắt đầu với giả định như sau:
Giả định 6.2: PPP không có hiệu lực, kể cả trong dài hạn. Thay vào đó, mức độ
thặng dư tài khoản vãng lai phụ thuộc một cách tích cực (đồng biến) vào tỷ giá hối đoái
(thực) và phụ thuộc một cách tiêu cực (nghịch biến) vào thu nhập (thực).
Thặng dư tài khoản vãng lai (B), được tính:
4


Giá cố định: Mô hình Mundell-Fleming
B = B(y,Q) = B(y,S) By<0

BS > 0

(6.1)

Dấu bằng thứ 2 xảy ra bởi vì tỷ giá hối đoái thực và danh nghĩa là giống hệt nhau
(với cả giá trong và ngoài nước).
Khi thu nhập (y) cao hơn, nhu cầu nhập khẩu sẽ tăng, mức độ thặng dư sẽ giảm hoặc

thâm hụt lớn hơn.
Ở giai đoạn này, thể hiện vai trò của thu nhập từ nước ngoài, một sự tác động tích
cực đến mức cân bằng hiện tại thông qua xu hướng nhập khẩu của Hoa Kỳ. Người đọc dễ
dàng suy luận ra mối liên quan giữa sự gia tăng thu nhập của Mỹ có ảnh hưởng gì đến giá
trị của đồng bảng Anh.
Có một số yếu tố ngoại sinh khác có thể được kết hợp vào Phương trình 6.1: những
cú sốc đến thị hiếu quốc tế, những cú sốc đến nhu cầu xuất khẩu.
* Tài khoản vốn:
Lãi suất đóng vai trò trung tâm trong mô hình M-F. Trong trường hợp của cán cân
thanh toán, có hai giả định sau đây:
Giả định 6.3. Các kỳ vọng về tỷ giá hối đoái là không đổi.
Giả định 6.4. Sự luân chuyển vốn kém hoàn hảo.
Trong Chương 3, chúng ta đã xem xét những hàm ý của sự luân chuyển vốn hoàn
hảo. Trong bối cảnh của mô hình Mundell-Fleming, sự luân chuyển vốn hoàn hảo được
coi là một trường hợp đặc biệt. Nói chung, sự khác biệt về lãi suất quốc tế được cho là
nguyên nhân gây ra các dòng vốn đi vào hoặc đi ra khỏi một quốc gia.
Như chúng ta đã thấy trong chương 3, việc luân chuyển vốn không hoàn hảo là điểm
khởi đầu cho nguồn cung giới hạn của các quỹ kinh doanh chênh lệch giá. Có thể lập
luận rằng, với lo ngại rủi ro, dòng tiền chảy vào nước sở tại sẽ làm tăng phần bù rủi ro đối
với chứng khoán bằng đồng nội tệ và đối với dòng tiền ra nước ngoài thì theo chiều
ngược lại.
5


Giá cố định: Mô hình Mundell-Fleming
Nói cách khác, nếu chúng ta ấn định r* (lãi suất nước ngoài), thì ta có:
K = K(r − r*) = K(r)

K′ >0


(6.2)

Điều này chỉ đơn giản nói rằng dòng vốn vào ròng của Anh (K) là một hàm đồng
biến khi lãi suất trong nước lớn hơn lãi suất của Hoa Kỳ, bao gồm bất kỳ mức giảm giá
dự kiến trong giá trị của đồng bảng Anh.
6.1.3. Vị trí cán cân thanh toán: (Balance of payments locus)
Sự cân bằng cán cân thanh toán (BP) được tạo ra khi dòng vốn trên các sàn giao dịch
chỉ đủ để bù đắp cho thâm hụt tài khoản vãng lai.
Theo cơ chế tỷ giá hối đoái thả nổi hoàn toàn, cán cân thanh toán phải luôn ở trạng
thái cân bằng. Điều này có nghĩa là tổng thặng dư của tài khoản vãng lai và tài khoản vốn
phải bằng không, nói cách khác, một thặng dư trong tài khoản này phải được cân bằng bởi
một thâm hụt ở tài khoản kia.
Nếu chúng ta kết hợp hai phương trình 6.1 và 6.2 của tài khoản vãng lai và tài khoản
vốn tương ứng, thì một cơ chế thả nổi hoàn toàn đòi hỏi phải có điều kiện sau trong mọi
thời điểm:
B( y, S) + K(r) = 0

(6.3)

Hoặc được viết lại đầy đủ hơn như sau:
F( y, S, r) = 0

Fy < 0

Fs > 0 Fr > 0

(6.4)

Mối quan hệ này được hiển thị trong hai biểu đồ hình 6.1.
Trong hình 6.1(b), đường BP mô tả sự kết hợp của y và r tương ứng với sự cân bằng

cán cân thanh toán đối với các giá trị khác nhau của S. Các đường này dốc lên, bởi vì thu
nhập tăng tại bất kỳ tỷ giá hối đoái đã cho, tài khoản vãng lai sẽ giảm giá trị do nhu cầu
nhập khẩu tăng lên. Để duy trì trạng thái cân bằng, tài khoản vốn phải được cải thiện. Cần
phải có sự cải thiện dòng tiền ròng trên khắp các sàn giao dịch, điều này chỉ có thể đạt

6


Giá cố định: Mô hình Mundell-Fleming
được nhờ tăng lãi suất ở Anh. Sau đó, thu nhập cao hơn phải gắn với lãi suất cao hơn để
giữ cho cán cân thanh toán cân bằng.

Hình 6.1 chính sách tiền tệ mở rộng theo tỷ giá hôi đoái thả nổi trong mô hình
Mundell-Fleming
Mức độ tăng lãi suất là cần thiết để bù đắp một sự gia tăng nhỏ trong thu nhập, điều
này phụ thuộc vào độ co giãn lãi suất của dòng vốn ròng. Độ co giãn càng lớn, thì độ dốc
càng giảm. Với sự luân chuyển vốn hoàn hảo, một sự gia tăng nhỏ trong lãi suất cũng đủ
để kích thích một dòng vốn dồi dào, khi đó đường BP hoàn toàn nằm ngang.
Mặt khác, sự gia tăng trong S (tức đồng bảng Anh giảm giá) làm tài khoản vãng lai
thặng dư lớn hơn hoặc thâm hụt nhỏ hơn tại bất kỳ mức độ hoạt động (y) của nền kinh tế,
dẫn đến một dòng vốn ròng chảy vào nhỏ hơn, và làm giảm lãi suất. Vì vậy, khi S tăng
7


Giá cố định: Mô hình Mundell-Fleming
làm đường BP dịch chuyển xuống về bên phải. Trường hợp ngoại lệ là khi đường BP nằm
ngang, nó không bị ảnh hưởng bởi những thay đổi trong tỷ giá hối đoái.
Hình 6.1 cũng theo dõi cán cân thanh toán cân bằng trong sơ đồ (a) và (c). Đường
TT là hiển thị của công thức 6.1, nó giống bề ngoài với đường PPP của Chương 5, tuy
nhiên, nó khác ở đây là mức giá không đổi. Tương tự như vậy, đối với nền kinh tế trong

nước, các nhân tố bao gồm thu nhập và tỷ giá hối đoái quyết định mức cân bằng tài khoản
vãng lai. Thu nhập càng cao thì tỷ giá hối đoái cũng phải tăng theo (tức là giá trị của đồng
bảng Anh thấp hơn) để đảm bảo cân bằng tài khoản vãng lai.
Lưu ý rằng ngay cả trong cơ chế thả nổi hoàn toàn, nền kinh tế không cần chú ý đến
đường TT, bởi vì chúng ta không đòi hỏi tài khoản vãng lai tiến tới cân bằng trong ngắn hạn
hoặc dài hạn. Chúng ta chỉ nhấn mạnh rằng bất kỳ thâm hụt (hay thặng dư) tài khoản vãng lai
nào sẽ được bù đắp bởi khoản thặng dư (hoặc thâm hụt) của tài khoản vốn tương đương.
Hình 6.1(a) biểu thị phương trình 6.4 trong không gian (r, S). Cân bằng cán cân
thanh toán liên quán đến lãi suất cao hơn (một tài khoản vốn thuận lợi hơn) với một mức
giá ngoại tệ thấp hơn (và dẫn đến một khu vực nước ngoài kém cạnh tranh hơn). Vì vậy,
đường FF nghiêng xuống ở một mức thu nhập nhất định. Khi thu nhập tăng, nó chuyển
sang bên phải, để đạt trạng thái cân bằng đòi hỏi một sự sụt giảm để bù đắp cho nhu cầu
nhập khẩu.
Một lần nữa, FF là đường thẳng nằm ngang nếu vốn là hoàn toàn di động và do đó
không có sự thay đổi khi thu nhập tăng lên.
6.2. Trạng thái cân bằng: (Equilibrium)
Để thuận tiện, chúng ta bắt đầu ở trạng thái cân bằng trong hình 6.1 tại các điểm A, a
và E.
Tại lãi suất r0 và tỷ giá hối đoái S0, cán cân thanh toán ở trạng thái cân bằng, điểm a
và A nằm trên đường FF và BP tương ứng. Tại tỷ giá hối đoái thực, thị trường hàng hoá

8


Giá cố định: Mô hình Mundell-Fleming
thể hiện ở đường IS(S0), do đó, sự kết hợp (r0, y0) là phù hợp với các cân bằng tổng thể
của nền kinh tế trong nước.
Theo dõi mức thu nhập giảm từ y0 ở đường 45° trong hình 6.1(d) và đối chiếu qua
đường TT, chúng ta thấy tại điểm E không có sự thâm hụt tài khoản vãng lai trong sự kết
hợp giữa tỷ giá - thu nhập này, và không hiện tượng dòng vốn đi ra hay đi vào trong nước.

6.3. Chính sách tiền tệ mở rộng với tỷ giá hối đoái thả nổi: (Monetary
expansion with a floating exchange rate)
Bây giờ xem xét các tác động của chính sách tiền tệ mở rộng, ví dụ như tăng gấp đôi
lượng cung tiền. Điểm đầu tiên cần lưu ý là, vì mức giá được cố định bởi đường tổng
cung nằm ngang, nên sự gia tăng trong cung tiền danh nghĩa là tương đương với một gia
tăng trong cung tiền thực. Do đó, Hình 6.1(b) đường LM dịch chuyển vĩnh viễn sang phải,
dẫn đến lãi suất giảm.
Vậy nó phải giảm đến khi nào? Thoạt nhìn, câu trả có thể là đến vị trí r 2. Nhưng điều
này không chính xác vì một số lý do: Ở điểm C, cấn cân thanh toán không đạt trạng thái
cân bằng bởi vì, với lãi suất thấp hơn, dòng vốn ròng nhỏ hơn so với trước khi mở rộng
cung tiền. Hơn nữa, khi y lớn hơn, mức cân bằng tài khoản vãng lai giảm (làm cho BOP
giảm). Với hai lý do trên, ở điểm C cán cân thanh toán mất cân bằng.
Rõ ràng tỷ giá hối đoái cần phải tăng. Đưa đến kết luận rằng giá trị của đồng bảng
Anh cần phải giảm để làm cho tài khoản vãng lai cân bằng. Tuy nhiên, điều này là
không chính xác vì chúng ta đưa ra các điều kiện để phân tích, với điều kiện ban đầu là số
dư tài khoản vãng lai bằng không – vì vậy không cần điều kiện này để đạt được trạng
thái cân bằng.
Thay vào đó, khi tỷ giá hối đoái (thực và danh nghĩa) tăng, khả năng cạnh tranh của
sản xuất trong nước sẽ tăng và cầu sản lượng của nước Anh tăng lên, dịch chuyển đường
IS sang IS(S1). Cầu tăng mạnh có tác dụng đẩy lãi suất trở về hướng về mức ban đầu r0.
Cuối cùng, nền kinh tế dừng lại ở điểm B, nơi lãi suất ở mức r 1, và các khoản thanh
toán từ bên ngoài nước Anh trở lại cân bằng, thể hiện ở đường BP(S1). Khu vực bên
9


Giá cố định: Mô hình Mundell-Fleming
ngoài được trở lại trạng thái cân bằng, theo hai cơ chế: sự tăng trở lại của lãi suất có tác
dụng giảm bớt thâm hụt tài khoản vốn, thặng dư tài khoản vãng lai được tạo ra bởi sự sụt
giảm trong đồng tiền đủ để bù đắp cho khoản thâm hụt.
Lưu ý rằng thặng dư tài khoản vãng lai (tại F) là kết quả từ một ảnh hưởng tích cực,

từ sự gia tăng S, và một ảnh hưởng tiêu cực từ sự gia tăng trong y. Như vậy, hiệu quả
được giả định từ sức ảnh hưởng mạnh mẽ của cả hai yếu tố
Trong trường hợp hạn chế khả năng luân chuyển vốn hoàn hảo, không thể giảm lãi
suất, do đó toàn bộ gánh nặng của việc điều chỉnh khu vực bên ngoài sẽ ảnh hưởng đến tỷ
giá hối đoái. Kết quả là sự gia tăng cả về thu nhập và giá đồng đô la.
Kết luận 6.1. Trong mô hình M-F với một tỷ giá hối đoái thả nổi, một sự gia tăng
cung tiền gây ra:
- Một sự sụt giảm giá trị đồng nội tệ trong tỷ giá hối đoái
- Một sư gia tăng trong thu nhập
- Một sự giảm trong tỷ lệ lãi suất, vốn cung cấp không hoàn toàn lưu động
- Tài khoản vãng lai được cải thiện (thặng dư) trong cán cân thanh toán.
Chú ý kết luận đầu tiên mang tính định tính giống như trong mô hình tiền tệ, mặc dù
không có lý do để giả định rằng sự sụt giảm sẽ tương ứng với việc tăng cung tiền. Tương
tự như vậy, tăng thu nhập cũng không gây ngạc nhiên.
6.4. Chính sách tài khoá mở rộng với tỷ giá hối đoái thả nổi: (Fiscal expansion
with a floating exchange rate)
Hình 6.2 minh họa tác động của việc mở rộng tài khóa, hay nói cách khác, sự gia
tăng chi tiêu của chính phủ (từ G0 đến G1) với một cung tiền không thay đổi.
Trong trường hợp này, với một cung tiền cố định và mức giá không đổi, đường LM
trong hình 6.2(b) không di chuyển. Việc nới lỏng tài khoá làm thay đổi đường cong IS
sang phải, thông qua việc bơm tiền vào dòng chảy chi tiêu. Tuy nhiên, như chúng ta giả
10


Giá cố định: Mô hình Mundell-Fleming
định tiền in bị loại trừ, chính phủ chỉ có thể tài trợ thêm cho chi tiêu bằng cách đi vay. Vì
thị trường tiền tệ và tín dụng đang trong trạng thái cân bằng, việc vay thêm chỉ có thể thực
hiện được với tỉ lệ lãi suất cao hơn. Cho thấy rằng tác động của chính sách này là để tăng
thu nhập và lãi suất.
Điểm C của hình 6.2(b), nơi IS (G 1,S0) cắt đường LM ban đầu, không phù hợp với

trạng thái cân bằng trong khu vực bên ngoài. Lãi suất cao hơn hàm ý một dòng tiền chảy
vào London, một mức cầu vượt mức đối với đồng bảng Anh. Sự sụt giảm trong tài khoản
vãng lai không hẳn bắt nguồn từ sự gia tăng thu nhập.
Do đó, đồng bảng Anh được đánh giá cao, khi người Mỹ cho chính phủ Anh vay
với lãi suất mới hấp dẫn. Khi tỷ giá hối đoái tăng lên, hàng hóa của Anh trở nên kém hấp
dẫn đối với người nước ngoài, làm dịch chuyển đường IS về phía bên trái và đẩy lãi suất
hướng về mức trước khi nới lỏng tài khoá.
Quá trình kết thúc khi sự kết hợp của tỷ giá hối đoái và lãi suất được khôi phục ở
mức cân bằng trong nước tại điểm B, trên đường IS(G 1,S1) trong Hình 6.2(b). Trong khu
vực bên ngoài (Hình 6.2(c)), kết quả (tại F) là thâm hụt tài khoản vãng lai, nhờ vào tăng
thu nhập, và đặc biệt là tăng giá trị của đồng bảng Anh.

11


Giá cố định: Mô hình Mundell-Fleming

Hình 6.2. Nới lỏng tài khoá dưới cơ chế tỷ giá thả nổi trong mô hình Mundell-Fleming
Trường hợp luân chuyển vốn hoàn hảo đặc biệt thú vị. Khi đường cong BP và FF
đều nằm ngang, đường IS không thể di chuyển được tạm thời. Lý do là cả đường BP và
LM không bị ảnh hưởng bởi sự xáo trộn, sự kết hợp lãi suất và thu nhập cân bằng không
thể thay đổi - hệ thống phải ở điểm A trong sơ đồ IS-LM (Hình 6.2(b)). Xét trên khía cạnh
thị trường tiền tệ, với lãi suất bị ràng buộc bởi các yếu tố ngoại thương, và cung tiền thực
không thay đổi, có một mức thu nhập duy nhất phù hợp với sự cân bằng. Tỷ giá hối đoái
phải thay đổi để giữ đường cong IS không thay đổi, nghĩa là đủ để bù đắp lại hiệu quả nới
lỏng trong tăng chi tiêu của chính phủ.
Do đó, với việc luân chuyển vốn hoàn hảo, hiệu ứng lấn át diễn ra hoàn toàn. Toàn
bộ sự gia tăng trong chi tiêu của chính phủ được trung hoà bởi sự sụt giảm nhu cầu từ khu
vực bên ngoài của nền kinh tế. Nói cách khác, với mức lãi suất được giữ vững trên thị
trường vốn quốc tế, gánh nặng điều chỉnh hoàn toàn dựa vào tỷ giá hối đoái, nó phải đủ

để gây ra thâm hụt tài khoản vãng lai bằng với sự gia tăng chi tiêu ngân sách. Trong giới
hạn của dòng tiền, toàn bộ sự gia tăng chi tiêu của chính phủ được tài trợ bằng vay từ
12


Giá cố định: Mô hình Mundell-Fleming
nước ngoài. Do đó, Cứ mỗi đồng bảng Anh được chính phủ chi thêm sẽ cộng 1 đồng
Bảng vào thặng dư tài khoản vốn, mức cân bằng đòi hỏi phải được bù đắp bởi cùng một
lượng hàng nhập khẩu ròng của hàng hoá và dịch vụ. Cầu được đẩy trở lại mức ban đầu,
và tác động của việc chi tiêu tài chính đến sản lượng là không.
Kết luận 6.2: Trong mô hình M-F với một tỷ giá hối đoái thả nổi, chính sách nới
lỏng tài khoá gây ra:
- Một sự đánh giá cao đồng nội tệ trong tỷ giá hối đoái.
- Một mức tăng trong thu nhập, vốn cung cấp không hoàn toàn lưu động.
- Một sự gia tăng trong lãi suất, vốn cung cấp không hoàn toàn lưu động
- Một sự suy giảm trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán.
Chú ý rằng, theo như cân nhắc các chính sách có liên quan, kết quả của việc nới
lỏng cầu thấp hơn so với việc dự đoán trên cơ sở phân tích nền kinh tế đóng. Lý do, nền
kinh tế khép kín được bổ sung thêm mức gia tăng giá trị của tỷ giá hối đoái trong nước,
làm tăng thêm chi tiêu - lần này là do người nước ngoài xuất khẩu sang Anh.
Kết luận rút ra từ mô hình Mundell –Fleming:trong một cơ chế tỷ giá thả nổi, chính
sách tiền tệ mạnh mẽ hơn so với chính sách tài khóa.
6.5. Chính sách tiền tệ mở rộng với tỷ giá hối đoái cố định: (Monetary
expansion with a fixed exchange rate)
Bây giờ chúng ta chuyển sự chú ý sang chế độ tỷ giá hối đoái cố định, để xem
những kết luận của chúng ta cần phải thay đổi như thế nào.
Trong Hình 6.3(b), cân bằng ban đầu ở A cũng tương tự như trong trường hợp tỷ lệ
thả nổi. Để thấy sự khác biệt, một đường thẳng đứng đã được vẽ tại tỷ giá hối đoái cố
định Q trong cả hai Hình 6.3(a) và (c).
Bây giờ hãy xem xét tác động của chính sách nới lỏng tiền tệ hoàn toàn, hoặc chính

xác hơn là việc mở rộng tín dụng trong nước từ DC0 đến DC1.
13


Giá cố định: Mô hình Mundell-Fleming
Hiệu ứng tác động của việc gia tăng cung tiền là sự dịch chuyển đi xuống của đường
LM trong Hình 6.3(b) (lưu ý rằng đường cong mới được đánh dầu là LM (DC 1, FX0)).
Điểm cân bằng mới (B) là kết quả của sự gia tăng trong nước từ lượng cung tiền và một
lượng dự trữ ngoại tệ không đổi.
Chuỗi thay đổi tiếp theo trở nên rõ ràng. Từ mức cân bằng cán cân thanh toán ban
đầu, sự sụt giảm lãi suất từ r 0 đến r1 làm trầm trọng thêm sự cân bằng tài khoản vốn. Đồng
thời, tăng thu nhập từ y0 đến y1 với tỷ giá hối đoái không thay đổi gây ra sự suy giảm
trong tài khoản vãng lai, như đã thấy ở điểm F trong hình 6.3(c).

Hình 6.3. Chính sách nới lỏng tiền tệ theo cơ chế tỷ giá cố định trong mô hình
Mundell-Fleming

14


Giá cố định: Mô hình Mundell-Fleming
Đây chỉ là điểm dừng tạm thời. Cán cân thanh toán thâm hụt và nguồn cung của
đồng bảng Anh nóng lên, tỷ giá hối đoái cố định chỉ có thể được giữ nguyên bằng cách
giảm dự trữ. Như đã thấy trong Chương 5, nếu không có thêm các chính sách gì, sẽ có sự
sụt giảm dần trong dự trữ ngoại tệ. Quá trình này chỉ kết thúc khi cung tiền và đường LM
trở về vị trí cũ.
Tại điểm cân bằng mới, mọi thứ đều như trước: lãi suất, thu nhập và cán cân thanh
toán đều quay trở lại mức độ trước khi có xáo trộn. Sự khác biệt duy nhất là trong thành
phần của cung tiền, bây giờ được tạo thành từ một lượng ngoại tệ thấp hơn (FX 1, thay vì
FX0) và một lượng tín dụng trong nước lớn hơn (DC1, thay vì DC0).

Trong trường hợp hạn chế, với khả năng lưu chuyển vốn hoàn hảo, cần phải giả định
rằng bất kỳ sự sụt giảm lãi suất nào cũng bị loại trừ (ngay cả trong ngắn hạn) vì nó sẽ kích
hoạt dự trữ ngoại hối ngay lập tức. Vì vậy, trong trường hợp này, quá trình điều chỉnh sẽ
diễn ra nhanh hoặc chậm hơn, với dòng tiền mới chảy thẳng ra thị trường nước ngoài.
Kết luận 6.3. Trong mô hình M-F - tỷ giá hối đoái cố định, tăng cung tiền gây ra:
- Trong ngắn hạn, với vốn không hoàn toàn lưu động, lãi suất giảm, thu nhập tăng và
cán cân thanh toán xấu đi trên cả tài khoản vãng lai và tài khoản vốn.
- Trong dài hạn, có sự giảm sút trong dự trữ ngoại tệ, nhưng không có sự thay đổi
trong thu nhập, lãi suất hoặc cán cân thanh toán.
6.6. Chính sách tài khoá mở rộng với tỷ giá hối đoái cố định: (Fiscal expansion
with a fixed exchange rate)
Cuối cùng, hãy xem xét tác động từ việc chi tiêu của chính phủ bằng cách vay mượn
trong bối cảnh tỷ giá hối đoái cố định (Hình 6.4)
Bắt đầu từ điểm A của hình 6.4(b), tác động của chính sách tài khoá mở rộng làm
đường IS dịch chuyển lên phía trên. Lãi suất tăng khi các chuyên gia cố gắng gia tăng nợ
vay của họ từ thị trường tài chính. Đường IS mới cắt đường LM tại C.

15


Giá cố định: Mô hình Mundell-Fleming
Tuy nhiên, C ko phải là điểm cân bằng trong dài hạn, vì nó nằm phía trên đường BP.
Lãi suất r2 cao hơn sẽ cải thiện tài khoản vốn do sự sụt giảm trong tài khoản vãng lai,
cùng với mức tăng trong thu nhập (y 2). Trong hình 6.4(a), sau khi đường FF dịch chuyển
lên, lãi suất vẫn còn quá cao so với mức cân bằng dài hạn (điểm H).
Giải pháp nằm trong sự thay đổi các thành phần nội sinh của cung tiền (thường xảy
ra khi có một sự dự trữ tích lũy), khi những người nước ngoài cố gắng tận dụng lãi suất
cao ở Anh bằng cách mua đồng bảng Anh và chứng khoán Anh. Khi cung tiền tăng, đẩy
đường LM dịch chuyển xuống dưới tạo ra điểm cân bằng tại B trong hình 6.4(b), khi đó
một sự gia tăng trong thu nhập và giảm trong lãi suất sẽ làm tài khoản vãng lai và tài

khoản vốn cùng xấu đi, mang cán cân thanh toán trở về mức cân bằng (điểm J hình 6.4(a))

Hình 6.4. Chính sách tài khoá mở rộng với tỷ giá hối đoái cố định trong mô hình
Mundell-Fleming
16


Giá cố định: Mô hình Mundell-Fleming
Cán cân thanh toán thể hiện mức thâm hụt đáng kể trong tài khoản vãng lai (điểm D
ở Hình 6.4(c)) được tài trợ bởi dòng vốn đổ vào do lãi suất nội địa tương đối cao.
Với khả năng lưu chuyển vốn hoàn hảo, người nước ngoài có thể được thuyết phục
để gánh vác trách nhiệm tài trợ cho toàn bộ chi tiêu bổ sung mà không cần tăng lãi suất.
Không có sự lấn át, hiệu quả là tăng thu nhập rất đáng kể.
Kết luận 6.4. Trong mô hình M-F với một tỷ giá cố định, việc nới lỏng tài khoá sẽ
gây ra những thay đổi sau đây, với điều kiện nguồn vốn không hoàn toàn di động:
- Trong ngắn hạn, một sự gia tăng trong lãi suất và thu nhập và một thặng dư của cán
cân thanh toán (tăng dự trữ ròng)
- Trong dài hạn, một sự gia tăng nhiều hơn trong thu nhập trong khi có sự điều chỉnh
giảm một khoảng nào đó của lãi suất và toàn bộ thặng dư cán cân thanh toán sẽ được đưa
về bằng 0, để lại một khoản thâm hụt trong tài khoản vãng lai.
6.7. So sánh mô hình tiền tê và mô hình Mundell-Fleming: (The monetary
model and the Mundell–Fleming model compared)
Thật hữu ích khi so sánh mô hình tiền tệ và mô hình Mundell-Fleming một cách trực
tiếp. Sự khác biệt được xem xét dưới ba tiêu chí: mức giá, thu nhập, kỳ vọng và lãi suất.
6.7.1. Mức giá: (Price level)
Trong mô hình tiền tệ, do đường tổng cung luôn thẳng đứng, mức giá là hoàn toàn
linh hoạt. Sau đó, PPP đảm bảo rằng tỷ giá hối đoái thực được duy trì ở mức cân bằng.
Trong mô hình M-F, mức giá chỉ đơn giản là một chỉ số cố định ngoại sinh có thể
không có vai trò gì trong điều chỉnh nền kinh tế vĩ mô trong nước. Nó cũng không đóng
vai trò nào trong việc quyết định mức cân bằng trong khu vực mở.

6.7.2. Thu nhập: (Income)
Trong mô hình tiền tệ, với việc làm đầy đủ và các thị trường hoạt động hoàn hảo,
những thay đổi trong thu nhập thực tế chỉ có thể từ các sự kiện ngoại sinh. Hơn nữa, tiêu
17


Giá cố định: Mô hình Mundell-Fleming
dùng được ngầm hiểu là phụ thuộc vào lãi suất hơn là thu nhập. Theo đó, vai trò duy nhất
còn lại của thu nhập là để giúp xác định cầu về số dư thực tế. Như chúng ta đã thấy, do
thu nhập từ bên ngoài tăng dẫn đến cầu tiền tăng, chúng liên quan đến sự nâng giá tiền tệ.
Ngược lại, thu nhập là một trong ba biến nội sinh của hệ thống M-F, 2 biến còn lại là
lãi suất trong nước và tỷ giá hoái đoái (nếu thả nổi). Tăng thu nhập (nội sinh) có liên quan
đến ba dạng tác động. Thứ nhất, trong chừng mực, nó làm tăng nhu cầu về tiền bạc, dẫn
tới sự gia tăng lãi suất, những thứ khác đều bằng nhau. Thứ hai, bằng cách chi tiêu trở lại,
nó làm tăng nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ. Thứ ba, và đặc biệt hơn, nó có liên quan đến
một tài khoản vãng lai ngày càng trầm trọng hơn thông qua xu hướng nhập khẩu biên,
hoặc tổn thất trong dự trữ hoặc mất giá tiền tệ.
6.7.3. Lãi suất và kỳ vọng: (Expectations and interest rates)
Tính chất độc đáo của mô hình tiền tệ là kỳ vọng được cho là biến ngoại sinh hoặc
phụ thuộc vào một số hình thái phức tạp hơn của các biến khác (xem Chương 13). Hơn
nữa, theo quan điểm truyền thống cổ điển, phương pháp tiền tệ giả định rằng lãi suất thực
được xác định hoàn toàn trong thị trường tiết kiệm. Khi kết hợp với lý thuyết ngang giá
lãi suất, hai cơ sở lý luận này hàm ý rằng lãi suất danh nghĩa không thể dao động tự do để
làm rõ hơn thị trường tiền tệ. Đó là công việc của mức giá. Lãi suất trong nước được gắn
chặt với lãi suất nước ngoài
Cách tiếp cận của Keynes theo hướng thị trường hàng hoá cân bằng phụ thuộc vào
thu nhập, cũng như phụ thuộc lãi suất. Hậu quả là, trong bối cảnh trong nước, lãi suất
được tự do để làm sáng tỏ cả thị trường tiền tệ và hàng hoá. Nhìn từ quan điểm quốc tế,
mối liên hệ với lãi suất nước ngoài hầu như đã bị phá vỡ hoàn toàn. Thay cho UIRP,
chúng ta có một cái gì đó như:

r = r* + ∆set + ρ
Bây giờ nếu phần bù rủi ro bắt buộc tăng lên cùng với số lượng tài sản tín dụng nội
địa đang nắm giữ, thì quy mô dòng vốn tại bất kỳ điểm nào sẽ làm tăng lãi suất trong nước.

18


Giá cố định: Mô hình Mundell-Fleming
Tất cả điều này là rất tốt, trước tiên, giả sử rằng tỷ lệ giảm giá kỳ vọng được thực
hiện khi đối mặt với sự thay đổi chính sách kinh tế vĩ mô đáng kể, và thứ hai là phần bù
rủi ro bắt buộc được xác định độc lập với các biến số khác. Về điểm cuối cùng này, chúng
ta sẽ có nhiều điều để nói hơn trong Chương 14.
Liên quan đến kỳ vọng, có vẻ như biện pháp từ các chính sách được xem xét trong
chương này sẽ làm cho kỳ vọng không thay đổi. Điều này cho thấy kỳ vọng rất có thể phụ
thuộc vào lập trường chính sách của chính phủ, tính logic đằng sau kết luận của M-F dần
sáng tỏ.
6.7.4. Khối vốn và Dòng vốn: (Stocks and flows)
Các phương pháp khác nhau sử dụng để xác định lãi suất trong hai mô hình có liên
quan đến cách tiếp cận tương phản của họ để xác định mức cân bằng.
Theo truyền thống, trạng thái cân bằng trong mô hình tiền tệ (trong cơ chế tỷ giá thả
nổi), là một trạng thái ổn định: cả khối lượng tiền tệ và hàng hóa được nắm giữ hoàn toàn.
Một khi nền kinh tế được điều tiết theo xu hướng nới lỏng tiền tệ, không có lý do gì để
mức cân bằng mới không tồn tại mãi mãi.
Theo mô hình cổ điển:
Savings = I + G + B
Khi chi tiêu ngân sách ròng tăng lên, sẽ có sự gia tăng ở phần bên phải của đồng
nhất thức này. Sự bình đẳng được duy trì như thế nào? Theo quan điểm của Keynes, sự
cân bằng được duy trì bởi sự kết hợp của tăng thu nhập, làm tăng tiết kiệm, và tăng lãi
suất, cũng làm tăng tiết kiệm nhưng điều quan trọng hơn là làm giảm đầu tư. Phân tích MF đi theo những gợi ý về nền kinh tế mở của cơ chế này.
Ngược lại, quan điểm cổ điển là sự gia tăng thâm hụt ngân sách của chính phủ sẽ

mang lại sự tiết kiệm bổ sung cần thiết một cách tự phát. Lý do chỉ đơn giản là các thành
phần kinh tế nhận thấy rằng chi tiêu thêm sẽ phải được thanh toán bằng thuế trong tương

19


Giá cố định: Mô hình Mundell-Fleming
lai, ngay cả khi nó được tài trợ bằng vay mượn tại thời điểm đó. Trước đây, họ muốn tăng
mức tiết kiệm hiện tại của mình với lãi suất nhất định để có thể trả thuế khi đến hạn.
Trên thực tế, có thể chứng minh rằng, với điều kiện thuế chưa làm sai lệch quyết
định tiết kiệm, non myopic agents sẽ vui lòng mua thêm khoản nợ chính phủ phát hành
để tài trợ chi tiêu thêm với mức giá như trước khi thay đổi diễn ra. Họ sẽ làm như vậy vì
lợi nhuận mà họ kiếm được từ nợ, được đo lường đúng mức, sẽ đủ để trang trải cho gánh
nặng thuế bổ sung.
Nếu chúng ta có thể dựa vào cơ chế tương đương Ricardian, chúng ta không cần
phải phân biệt giữa chi tiêu của khu vực tư nhân và khu vực công. Chính phủ chỉ đơn giản
là một cơ quan được tạo ra bởi một quốc gia dân chủ để hành động thay mặt cho các công
dân của mình - vay mượn như mọi thứ khác. Thực tế là một công dân tư nhân thích mua
ngay bây giờ và trả tiền sau đó không tự động tăng lãi suất. Tại sao nó nên làm như vậy
khi anh ta hoặc cô ấy phân phối toàn bộ quá trình (chi tiêu và mượn) thông qua cơ quan
của chính phủ?
Trên cơ sở này và tương tự, người ta mong đợi sự gia tăng G ở phía bên tay phải của
phương trình 6.6 sẽ được tự động kết hợp với sự gia tăng tiết kiệm cần thiết để tài trợ cho
nó. Nói cách khác, Đường cong IS không cần thay đổi do sự thay đổi trong tỷ lệ chi tiêu
giữa các khu vực nhà nước và tư nhân.
Trên thực tế, chắc chắn sẽ có một số vi phạm trong mạch điện từ ngân sách của quốc
gia đến ngân sách gia đình.
Trước tiên, các hộ gia đình có thể đơn giản là không quan tâm đến thị trường về
gánh nặng thuế tương lai đang được áp đặt lên họ. Không thể dễ dàng truy cập được các
thông tin: thay đổi chi tiêu của chính phủ chỉ được công khai dưới dạng số liệu thống kê

chính thức, các tài khoản công nghiệp hoá, giấy tờ trắng và vv. Trong bất kỳ trường hợp
nào, cũng là một điều để hấp thụ thực tế là £ 1 chi tiêu thêm của chính phủ ngày nay sẽ
phải được thanh toán tại một số điểm trong tương lai bằng các khoản thuế bổ sung có giá

20


Giá cố định: Mô hình Mundell-Fleming
trị hiện tại là 1,16 £ Một điều khá khác là chấp nhận rằng tôi hoặc Thậm chí con tôi, nếu
tôi có, sẽ phải trả những khoản thuế đó.
Vào thời điểm gà con trở về nhà: Tôi không còn có thể ở trong mạng lưới thuế: Tôi
có thể đã chết, nghỉ hưu, di cư hoặc thất nghiệp. Hơn nữa, trừ khi các khoản thanh toán
coupon của tôi được miễn thuế thu nhập, việc mua chứng khoán của chính phủ sẽ mang
lại ít hơn tôi cần phải thanh toán hóa đơn thuế khi đến hạn.
Vì những lý do này, kết quả có khả năng nhất đối với một nền kinh tế giống như của
Anh hoặc Mỹ dường như có một mức độ nào đó vượt quá số không (theo Ricardians)
nhưng nhỏ hơn so với các mô hình của Keynes.
Câu hỏi đặt ra là cuối cùng là một kinh nghiệm thực nghiệm và là một, mặc dù nó đã
được nhập khẩu, chưa được giải đáp thỏa đáng.
6.8. Dẫn chứng.
Việc kiểm chứng mô hình M-F được trình bày không mang lại nhìu sự quan tâm, ít
nhất là trong điều kiện tỷ giá thả nổi – có vẻ như sẽ là ko có ý nghĩa gì khi ta cố gắng giải
thích một hiện tượng bằng cách bắt đầu từ những giả định mà ở đó mức giá là cố định.
Mặt khác khi giới thiệu mức giá linh hoạt bằng cách này hay cách khác, nó sẽ làm thay
đổi mô hình một cách rõ rệt như ta sẽ thấy trong chương 7.
Tuy nhiên, một số giai đoạn trong 20 năm qua đã được giải thích bởi một số nhà
kinh tế về cơ chế M-F.
Đặc biệt, một sự tăng trưởng mạnh của cả đồng đôla và lãi suất thực tại Mỹ được ghi
nhận trong nữa đầu thập niên 80s đã hướng sự chú ý của những nhà phân tích đến sự tăng
lên của thâm hụt ngân sách như là một nguyên nhân chính.

Trong những tình huống thực tế, các bằng chứng thường không cụ thể theo bất kì
một định hướng nào. Trong trường hợp hiện tại, lãi suất thực nằm xung quanh mức cao
nhất của toàn bộ thế giới. Hơn nữa, việc đồng đôla tiếp tục giảm đóng vai trò lớn trong

21


Giá cố định: Mô hình Mundell-Fleming
bất kì một dấu hiệu nào cho thấy thậm chí sự thâm hụt của Mỹ có thể ổn định, chưa nói
đến sụt giảm.
Tất nhiên, việc đồng đôla giảm xảy ra sẽ ngay lập tức được những nhà phê bình
nhận định như là một sự phản ứng của thị trường đối với sự thâm hụt trong ngân sách.
Những giải thích này có thể trở nên tức cười. Tuy nhiên, ta nên nhận ra rằng cả 2 có
thể đều đúng và việc dung hòa 2 giải thích đối lập nhau này đưa chúng ta về điểm yếu cơ
bản nhất của mô hình M-F.
Các điểm đã được đề cập đến trong thảo luận về vấn đề lưu chuyển vốn trong phần
khối tiền và dòng tiền. Giả định rằng Mỹ có thể tài trợ 1 khoản vốn bổ sung cho chi tiêu
ngân sách bằng cách mượn từ nước ngoài (chủ yếu từ Nhật) trong giai đoạn đầu những
năm 80s. Đổi lại là 1 mức lợi nhuận đề xuất cao hơn. Tuy nhiên, nếu người Nhật đã hấp
thu đủ số lượng chứng khoán đôla trong khoản giữa thập niên 80s, thì họ sẽ dừng xuất
khẩu vốn đến Mỹ nếu phần bù rủi ro vẫn không tăng hơn nữa. Do đó, đồng USD đã giảm.
Nhà quản lý tiền tệ quốc tế khó có thể bỏ qua thực tế rằng từ vị trí ban đầu là quốc gia cho
vay lớn nhất thế giới (1982), đến năm 1987 họ trở thành con nợ lớn nhất thế giới – và
không có dấu hiệu kết thúc của sự suy thoái tài chính đối ngoại.
Sự hợp lý trong việc nhìn lại quá khứ này (chắc chắn nó không xứng đáng được gọi
là một lời giải thích) làm rõ những thiếu sót của M-F tập trung vào dòng vốn hơn là khối
vốn. Tất nhiên, nó cũng minh hoạ cho sự cần thiết phải cẩn thận về sức mạnh giả mạo của
các lý lẽ hợp lý cũ.
6.9. Kết luận.
Bốn mươi năm sau khi phát triển, phân tích được trình bày trong chương này có vẻ

ngây thơ, có thể vì những biến động diễn ra trên thị trường tiền tệ trong những năm can
thiệp. Tuy nhiên, mô hình tập trung vào các cơ chế gần như chắc chắn vẫn đang hoạt động
với một cái nhìn hay một cái khác ngày nay và trong quá trình cung cấp một số hiểu biết
hữu ích.

22


Giá cố định: Mô hình Mundell-Fleming
Hơn nữa, mặc dù cuốn sách này không chủ yếu liên quan đến các vấn đề thiết kế
chính sách nhưng đáng chú ý là các câu hỏi của Mundell và Fleming đề cập đến việc phân
công cụ chính sách thích hợp vẫn còn thỉnh thỏang. Tuy nhiên, trả lời chúng một cách
thỏa đáng liên quan đến việc phân tích các mô hình phức tạp hơn rất nhiều so với mô hình
được đưa ra ở đây.
Phần lớn các nghiên cứu gần đây phát sinh trực tiếp hoặc gián tiếp từ công việc của
Mundell và Fleming, như chúng ta sẽ thấy. Trong Chương 7, chúng ta sẽ xem xét một mô
hình cố gắng khắc phục hai điểm yếu của mô hình M-F: mức giá liên tục và kỳ vọng tĩnh.
Chương 8 mở rộng mô hình để cung cấp một đặc tả rõ ràng về sự cân bằng thị trường tài
sản.

23


Giá cố định: Mô hình Mundell-Fleming

Tóm lược
Mô hình M-F được thiết lập trong bối cảnh đường tổng cung bằng phẳng (tức là
mức giá liên tục), sự vắng mặt của PPP, sự luân chuyển vốn kém hoàn hảo.
Với tỷ giá hối đoái thả nổi, cân bằng đòi hỏi thị trường tiền tệ và hàng hoá trong
nước phải rõ ràng, như trong mô hình IS-LM, trong khi ở khu vực mở thì tổng số thâm

hụt của tài khoản vãng lai và tài khoản vốn là bằng không. Điều kiện thứ hai đảm bảo cân
bằng về cung và cầu trong thị trường tiền tệ.
Với tỷ giá hối đoái thả nổi, chính sách tiền tệ mở rộng gây ra sự mất giá và giảm lãi
suất, trong khi việc mở rộng tài chính lại có hiệu quả ngược lại.
Với tỷ giá hối đoái cố định, chính sách tiền tệ mở rộng có tác động lâu dài gây ra sự
sụt giảm trong các khoản dự trữ, trong khi mở rộng ngân sách tạo ra tăng thu nhập và lãi
suất với một khoản dự phòng ngắn hạn.
Mô hình M-F tương phản với mô hình tiền tệ ở một số khía cạnh: nhấn mạnh vào
mức độ hoạt động và lãi suất chứ không phải là mức giá, tập trung vào các luồng chi tiêu
và chuyển động vốn chứ không phải là dự trữ tài sản và vai trò cơ bản của nó mang lại
cho cơ chế lấn át.

24


Giá cố định: Mô hình Mundell-Fleming

Hướng dẫn đọc
Trong tác phẩm gốc mà chương này dựa vào, hầu hết truy cập (kỹ thuật và vật lý) là
Mundell (1962) và Fleming (1962). Nếu bạn có thể nắm giữ một bản sao, cuốn sách của
Mundell (1968) rất đáng để đọc, vì nó đi vào một số chi tiết và cung cấp bằng chứng,
generalizations và như vậy.
Để có một đánh giá cập nhật và các tài liệu tham khảo khác, xem Frenkel và Razin
(1988).
Tương đương với Ricardian, tham khảo hiện đại quan trọng nhất là Barro (1974).
Đối với việc điều trị sách giáo khoa, xem Barro (1984), chương 15.
Trang web: www.pearsoned.co.uk/copeland.

Ghi chú
1. Người đọc sẽ được khuyên nên nắm vững về phân tích trong Chương 4 trước

khi bắt đầu chương hiện tại.
2. Lưu ý rằng các siêu kịch bản d (cho nhu cầu) được sử dụng trong chương 4 là
không cần thiết ở đây, bởi vì nhu cầu của các cửa khẩu sẽ tự động giống với thu nhập thực
tế và đầu ra.
3. Ký hiệu Fx có nghĩa là dẫn xuất một phần của hàm F đối với đối số x, tức là ảnh
hưởng của một phút gia tăng biến x về giá trị của hàm, giữ tất cả các đối số khác không
đổi.
Theo quy ước, khi chỉ có một tham số trong F dẫn xuất được viết là F.
4. Trong những năm 1960, quan điểm này về thị trường vốn quốc tế dường như
thực tế hơn so với hiện nay. Vào thời điểm đó, hầu hết các quốc gia khác ngoài Mỹ và
Thụy Sĩ vẫn áp dụng chặt chẽ các hạn chế đối với các hoạt động ngoại hối, thị trường
eurocurrency rất nhỏ so với quy mô hiện tại của họ và có rất ít danh mục đầu tư lớn thuộc
sở hữu bên ngoài thế giới công nghiệp. Ngoài ra, các tổ chức tài chính lớn hiện nay hoạt
động như các chuyên gia kinh doanh chênh lệch giá vào thời điểm đó được điều chỉnh
chặt chẽ hơn và ít cạnh tranh hơn.

25


×