Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Truyền thuyết và lễ hội dân gian ở kiến thụy, hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 115 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
------------

MAI KIM THANH

TRUYỀN THUYẾT VÀ LỄ HỘI DÂN GIAN
Ở KIẾN THỤY, HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Thái Nguyên: 2017


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
--------------

MAI KIM THANH

TRUYỀN THUYẾT VÀ LỄ HỘI DÂN GIAN
Ở KIẾN THỤY, HẢI PHÒNG

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Hằng Phương

Thái Nguyên: 2017



i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều
trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn

Mai Kim Thanh


ii

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn
Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Văn – Xã hội, Trường Đại học Khoa học
– Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ
trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng
dẫn PGS.TS. Nguyễn Hằng Phương đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong
suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã giúp
đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn

Mai Kim Thanh



iii

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................ 2
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu .................................................................... 8
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ............................................................. 8
5. Phạm vi nghiên cứu ......................................................................................... 10
6. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 10
7. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 10
NỘI DUNG ......................................................................................................... 12
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TẾ CỦA VIỆC TÌM HIỂU .................. 12
TRUYỀN THUYẾT VÀ LỄ HỘI DÂN GIAN Ở KIẾN THỤY, HẢI PHÒNG .... 12
1.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên, xã hội và văn hóa ở Kiến Thụy, Hải Phòng ....... 12
1.1.1. Điều kiện tự nhiên ..................................................................................... 12
1.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội .......................................................................... 13
1.1.3. Điều kiện lịch sử - văn hóa ....................................................................... 14
1.2. Một số vấn đề lí luận .................................................................................... 16
1.2.1. Truyền thuyết ............................................................................................. 16
1.2.2. Lễ hội ......................................................................................................... 21
1.3. Tổng quan về văn học dân gian ở Kiến Thụy, Hải Phòng ........................... 24
1.3.1. Khái quát về các thể loại văn học dân gian ở Hải Phòng ....................... 24
1.3.2. Vài nét về truyền thuyết và lễ hội dân gian ở Kiến Thụy, Hải Phòng ...... 25
Chương 2: TRUYỀN THUYẾT Ở KIẾN THỤY, HẢI PHÒNG ...................... 28
2.1. Phân loại truyền thuyết ở Kiến Thụy, Hải Phòng ........................................ 28
2.1.1. Truyền thuyết về nhân vật lịch sử ............................................................. 28
2.1.2. Truyền thuyết về những nhân vật sáng tạo văn hóa ................................. 29

2.1.3. Truyền thuyết về các địa danh .................................................................. 30
2.2. Nội dung truyền thuyết ở Kiến Thụy ........................................................... 31


iv

2.2.1. Ca ngợi công lao của những người anh hùng có công khai phá, giữ gìn,
mở mang vùng đất ............................................................................................... 31
2.2.2. Ca ngợi công lao của những người giúp dân sinh kế và sáng tạo văn hóa
dân gian ............................................................................................................... 39
2.2.3. Truyền thuyết về lịch sử các địa danh, các kiến trúc cổ ........................... 43
2.3. Nghệ thuật của các truyền thuyết ở Kiến Thụy, Hải Phòng ........................ 48
2.3.1. Nghệ thuật tạo dựng cốt truyện................................................................. 48
2.3.2. Mô tip nghệ thuật ...................................................................................... 49
2.3.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .................................................................. 50
2.3.4. Thời gian và không gian nghệ thuật ......................................................... 53
Chương 3: LỄ HỘI DÂN GIAN VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA TRUYỀN
THUYẾT VỚI LỄ HỘI Ở KIẾN THỤY, HẢI PHÒNG .................................... 57
3.1. Các lễ hội dân gian ở Kiến Thụy, Hải Phòng .............................................. 59
3.1.1. Lễ hội dân gian về các anh hùng lịch sử................................................... 59
3.1.2. Lễ hội dân gian về các anh hùng sáng tạo văn hóa .................................. 66
3.1.3. Lễ hội dân gian của làng nghề, làng văn hóa ........................................... 72
3.2. Mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội dân gian ở Kiến Thụy, Hải Phòng ...... 81
3.2.1. Truyền thuyết là cơ sở phát sinh lễ hội ..................................................... 82
3.2.2. Mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội ................................................ 87
Tiểu kết ................................................................................................................ 89
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 93
PHỤ LỤC ............................................................................................................ 97
PHỤ LỤC 1. ........................................................................................................ 97

PHỤ LỤC 2 ....................................................................................................... 107
PHỤ LỤC 3…………………………………………………………………...110


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo dòng thời gian, xã hội ngày càng phát triển không ngừng trong sự
giao thoa hội nhập, tiếp thu các thành tựu văn hóa của các nước trên thế giới, tuy
nhiên các tác phẩm dân gian vẫn cứ tồn tại bền bỉ như dòng sông chảy mãi đến vô
tận. Cất lên từ cuộc sống và phát triển qua bao thăng trầm lịch sử, văn học dân
gian vẫn luôn là một bộ phận quan trọng trong nền văn học nước nhà; trong đó
phải kể đến truyền thuyết. Truyền thuyết với cái cốt lõi là sự thực lịch sử, nó gắn
bó chặt chẽ với lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc; với những địa danh
thắng cảnh nổi tiếng; với nền văn hóa nghìn đời. Truyền thuyết là một thể loại
văn học dân gian. Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng, có nguồn
gốc phát sinh và phát triển gắn với sự phát triển của dân tộc Việt Nam.
Truyền thuyết, lễ hội, mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội đã được các
nhàn ghiên cứu quan tâm tìm hiểu. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu mới chỉ
xem xét mối quan hệ đó ở phạm vi văn học dân gian và lễ hội của người Việt nói
chung và ở một số địa bàn văn hóa cụ thể.
Hải Phòng là một vùng đất giàu truyền thống, nơi đây cất giữ nhiều di sản
văn hóa quý báu của dân tộc. Các truyện kể dân gian gắn với những lễ hội độc
đáo cũng không nằm ngoài di sản ấy. Đặc biệt, truyền thuyết về các lễ hội dân
gian ở Kiến Thụy, Hải Phòng rất đa dạng, phong phú, tô điểm thêm cho diện mạo
truyền thuyết vùng đất cảng giầu truyền thống văn hóa này.
Tổ chức lễ hội và đi lễ đầu năm từ lâu đã là nét văn hóa truyền thống của
người dân Việt Nam với mong ước cầu an, may mắn, sức khỏe cho gia đình và
bản thân trong năm mới. Với mong muốn cung cấp thêm tư liệu về các truyền

thuyết và lễ hội văn hóa dân gian ở Kiến Thụy, Hải Phòng góp phần làm sáng tỏ
những giá trị văn hóa tinh thần của một vùng đất, chúng tôi tiến hành nghiên cứu
đề tài này.


2

Là một người con của quê hương Kiến Thụy, Hải Phòng, tôi vô cùng tự hào
về điều đó và tha thiết mong thông qua đề tài này đóng góp phần nào vào việc bảo
tồn, phát huy giá trị văn hóa dân gian truyền thống của quê hương nói riêng và
dân tộc nói chung. Thực hiện đề tài này cũng là cơ hội để tôi trau dồi thêm tri thức
về văn hóa, văn học của chính quê hương mình, đồng thời ứng dụng những kiến
thức đã học vào thực tiễn nghiên cứu một vấn đề cụ thể.
Trên cở sở những lý do trên, tôi chọn đề tài “Truyền thuyết và lễ hội dân
gian ở Kiến Thụy, Hải Phòng” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Nghiên cứu về truyền thuyết
Theo sử sách ghi chép lại, ngay từ thời Bắc thuộc, các học giả phương Bắc
đã ghi lại truyền thuyết về thời Hùng Vương qua các sách: Giao châu ngoại vực
kí (thế kỉ IV), Việt Nam chí (thế kỉ V). Khoảng thế kỷ X đến thế kỉ XIV có các
sách ghi chép truyền thuyết như Báo cực truyện, Ngoại sử kí của Đỗ Thiện (nay
đã thất truyền). Các công trình sưu tầm, tuyển tập văn học dân gian Việt Nam như:
Việt điện u linh 越甸幽靈 của Lí Tế Xuyên, Lĩnh Nam chích quái 嶺南摭怪 của
Trần Thế Pháp, Truyền kì mạn lục 傳奇漫錄 của Nguyễn Dữ, Nam Ông mộng lục
南翁夢錄,v.v. là những minh chứng: truyền thuyết đã được các tác giả văn học,
học giả quan tâm nghiên cứu từ lâu.
Đến thế kỉ thứ XV thì truyền thuyết dân gian mới được ghi chép nhiều hơn.
Ngô Sĩ Liên có ghi chép lại các truyền thuyết ở phần ngoại kỉ trong cuốn Đại Việt
sử kí toàn thư. Truyền thuyết đã được nhà sử học sưu tầm, ghi chép, sắp xếp và
hệ thống hóa lại.

Tuy nhiên, trong những tác phẩm vừa dẫn, truyền thuyết mới được quan
tâm, sưu tầm, tuyển chọn để lưu giữ, truyền lại cho đời sau. Đó chưa phải các


3

công trình nghiên cứu truyền thuyết với tư cách là những tác phẩm văn học dân
gian, gắn với môi sinh của chúng.
Các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam từng tranh luận về khái niệm truyền
thuyết. Một số tác giả phủ nhận sự tồn tại của truyền thuyết với tư cách là thể loại
văn học dân gian độc lập như Nguyễn Đổng Chi, Đinh Gia Khánh... Ngược lại,
Đỗ Bình Trị, Kiều Thu Hoạch và nhiều nhà nghiên cứu khác quan niệm truyền
thuyết là một thể loại tự sự dân gian.
Trong cuốn giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam (Bùi Văn Nguyên chủ
biên), Đỗ Bình Trị xếp truyền thuyết bên cạnh thần thoại, và định nghĩa: “truyền
thuyết là những truyện có dính líu đến lịch sử mà lại có sự kỳ diệu – là lịch sử
hoang đường – hoặc là những truyện tưởng tượng ít nhiều gắn với sự thực lịch
sử. Tính chất thể loại của truyền thuyết bắt đầu được khẳng định rõ.”
Cuốn sách Truyền thống anh hùng dân tộc trong loại hình tự sự dân gian
Việt Nam (1971) là công trình của nhiều tác giả, trong đó tuyển tập các bài viết
nghiên cứu về truyền thuyết đã xuất bản. Các tác giả cuốn sách này đều khẳng
định truyền thuyết là một thể loại văn học dân gian. Đáng chú ý là tác giả Kiều
Thu Hoạch nhận định: “Truyền thuyết là một thể tài truyện kể truyền miệng nằm
trong loại hình tự sự dân gian; nội dung cốt truyện của nó là kể lại truyện tích
các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong vật theo quan niệm
nhân dân, biện pháp nghệ thuật phổ biến của nó là khoa trương phóng đại, đồng
thời nó cũng sử dụng những yếu tố hư ảo, thần kỳ như cổ tích và thần thoại…”
Tại mục từ truyền thuyết trong cuốn Từ điển văn học do Chu Xuân Diên
(chủ biên, 1980) cũng khẳng định: truyền thuyết là một trong những thể loại tự sự
dân gian, có quan hệ gần gũi với các thể loại tự sự dân gian khác như thần thoại

và truyện cổ tích.
Các cuốn giáo trình Văn học dân gianViệt Nam của tác giả Hoàng Tiến Tựu,
Văn học dân gianViệt Nam của tác giả Lê Chí Quế (chủ biên), Văn học dân gian


4

của tác giả Phạm Thu Yến (chủ biên) đều có một chương nghiên cứu về truyền
thuyết với tư cách là một thể loại văn học độc lập.
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu về truyền thuyết kể trên mới dừng
lại ở việc nghiên cứu bản thân các câu chuyện truyền thuyết mà chưa đặt chúng
vào trong mối quan hệ hữu cơ với các hoạt động sinh hoạt văn hóa dân gian của
cộng đồng, mà cụ thể là lễ hội.
- Ở địa phương duy nhất có cuốn Kiến Thụy xưa và nay(2009), Nhà xuất
bản Lao động có tài liệu nghiên cứu về các truyền thuyết của các lễ hội.
2.2. Nghiên cứu về lễ hội dân gian
Trong bài viết “Bảo tồn, phát huy lễ hội dân gian là góp phần bảo tồn di
sản văn hóa các dân tộc” đăng trên Báo Văn hóa các dân tộc, số 3/2006, Dạ Minh
cho biết: các dân tộc Việt Nam, trong đó 53 tộc thiểu số có nhiều lễ hội dân gian.
Mục đích của các lễ hội dân gian của các dân tộc thiểu số hầu hết là cúng thần
linh và giao lưu tình cảm, vui chơi giải trí. Bài viết cũng nhấn mạnh: “Lễ hội dân
gian là nơi lưu trữ nhiều giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc. Phải tích
cực, thường xuyên có kế hoạch bằng nhiều hình thức, biện pháp với phương châm
xã hội hóa.” Tác giả cũng nhấn mạnh: “Bảo tồn lễ hội dân gian là một trong những
giải pháp tốt nhất để bảo tồn và phát huy di sản văn hóa các dân tộc nói chung và
dân tộc thiểu số nói riêng.”
Trước đây, các công trình nghiên cứu về văn hóa dân gian nói chung và
nghiên cứu về lễ hội dân gian nói riêng còn rất khiêm tốn và sơ lược. Có thể kể
đến một vài công trình như: Phan Kế Bính với Việt Nam phong tục; Đào Duy Anh
với Việt Nam văn hoá sử cương; Nguyễn Văn Huyên với Góp phần nghiên cứu

văn hoá Việt Nam.
Vào thời kì nửa cuối thế kỉ XX, các công trình nghiên cứu về lễ hội ở hai
miền Nam – Bắc bắt đầu được chú ý sưu tầm. Ở miền Nam, có thể kể đến các
công trình: Lễ tế xuân hay Đám rước thần nông của Nguyễn Bửu Kế, Nhớ lại hội


5

hè đình đám của Nguyễn Toại, Mùa xuân với đời sống tình cảm Việt Namvà Trẩy
hội hành hương của Nguyễn Đăng Thục, Nếp cũ hội hè đình đám của Toan Ánh.
Ở miền Bắc có các công trình Một số tục cổ và trò chơi Việt Nam trong tết nguyên
đán và mùa xuân của Nguyễn Đổng Chi, Hà Nội nghìn xưa của Trần Quốc Vượng,
v.v.
Từ 1975 đến nay đã có nhiều học giả quan tâm nghiên cứu sâu sắc về lễ
hộidưới góc độ văn hóa học, như: Đất lề quê thói của Nhất Thanh; Lễ hội truyền
thống và hiện đại của Thu Linh và Đặng Văn Lung, 60 lễ hội truyền thống Việt
Nam của Thạch Phương và Lê Trung Vũ; Lễ hội Việt Nam của Lê Trung Vũ và
Lê Hồng Lý; Lễ hội cổ truyền do Lê Trung Vũ chủ biên, Lễ hội truyền thống trong
đời sống xã hội hiện đại của Đinh Gia Khánh và Lê Hữu Tầng, v.v… Các công
trình trên đã miêu tả một cách có hệ thống, sinh động, nguồn gốc, sự hình thành
và phát triển, quá trình lưu truyền các lễ hội dân gian Việt Nam, đồng thời khái
quát những nét đặc sắc của lễ hội các vùng miền.
Tiêu biểu cho các công trình nghiên cứu này là các tác giả và các công trình
sau: Nguyễn Quang Lê với “Khảo sát thực trạng văn hóa lễ hội truyền thống của
người Việt ở đồng bằng Bắc bộ trong xã hội hiện nay”; (Viện nghiên cứu văn hoá
dân gian, Hà Nội, 1999). Tác giả đã nêu khái quát chung về thực trạng văn hoá lễ
hội truyền thống trong lịch sử dân tộc Việt Nam và thực trạng một số lễ hội tiêu
biểu ở đồng bằng Bắc Bộ.
Trong luận văn Lễ hội Việt Nam trong sự phát triển du lịch (Trường Đại
học văn hoá Hà Nội, 2004), tác giả Dương Văn Sáu với đã nghiên cứu tổng quan

về lễ hội Việt Nam, các loại hình lễ hội, đặc điểm tính chất, các hoạt động diễn ra
và tác động của lễ hội đến du lịch.
Luận văn Du lịch lễ hội Việt Nam (Trường Đại học Văn hoá Hà Nội, 2006)
của tác giả Lê Thị Tuyết Mai đã giới thiệu những địa điểm du lịch nổi tiếng trên
khắp đất nước và các lễ hội truyền thống tiêu biểu của Việt Nam. Tuy nhiên, công


6

trình này chủ yếu chỉ thống kê giới thiệu khái quát chung về lễ hội mà chưa đề
cập sâu đến mối quan hệ giữa lễ hội và du lịch.
Cũng nhằm giới thiệu một cách tổng quan về các di tích và lễ hội, tác giả
Trần Mạnh Thường trong cuốn Việt Nam văn hóa và du lịch (2005) đã miêu tả
khá tường tận về các lễ hội tiêu biểu của 64 tỉnh thành trong cả nước.
Tác giả Lê Thanh Tùng có bài viết “Vai trò của lễ hội dân gian với sự phát
triển du lịch văn hóa trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Trong bài
nghiên cứu này, tác giả đã khẳng định: lễ hội là “một phong tục lớn, một nét văn
hoá không thể thiếu trong đời sống của người Việt.”. Tác giả cũng phân loại lễ
hội theo quy mô toàn quốc hay lễ hội ở phạm vi địa phương; theo ý nghĩa, lễ hội
được chia thành: ý nghĩa kinh tế, ý nghĩa lịch sử và ý nghĩa văn hóa giải trí. Bài
viết cũng cho biết, hiện nay ước tính toàn quốc có hơn 800 lễ hội hàng năm. Lễ
hội ngày càng gắn liền với nhu cầu tâm linh của người Việt. “Lễ hội là những sinh
hoạt văn hoá, tôn giáo, nghệ thuật truyền thống của cộng đồng. Thông qua lễ hội,
có thể hiểu được giá trị tinh thần và những triết lý sâu sắc của nền văn hoá của
một quốc gia.” Vì thế, bài viết khẳng.0 định vai trò quan trọng của lễ hội đối với
phát triển du lịch văn hóa.
2.3. Nghiên cứu về mối quan hệ giữa truyền thuyết với lễ hội
Trong Luận văn thạc sĩ Văn học dân gian Mối quan hệ giữa truyền thuyết
dân gian và lễ hội về người anh hùng lịch sử của dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc
(2012), tác giả Hà Xuân Hương đã làm sáng tỏ những đặc điểm của truyền thuyết

và lễ hội về người anh hùng lịch sử của dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc, đặc biệt là
làm sáng tỏ mối quan hệ giữa hai vi hệ văn hoá này trên các phương diện: quan
hệ tương tác, hỗ trợ của hai vi hệ văn hoá này đến sự hình thành và phát triển của
nhau, đến việc phản ánh người anh hùng lịch sử và sự biến đổi của mối quan hệ
này trong cuộc sống hiện nay. Tác giả cũng chứng minh rằng truyền thuyết có sự
ảnh hưởng lớn tới sự nảy sinh và phát triển của lễ hội về người anh hùng lịch sử


7

của dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc. Đến lượt mình, lễ hội lại giúp hiện thực hoá
niềm tin trong truyền thuyết, bảo lưu truyền thuyết. Cả truyền thuyết và lễ hội đều
phản ánh người anh hùng lịch sử nhưng theo những cách riêng, khác nhau và
mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc, vùng miền.
Tác giả Bùi Thị Bích Loan (2012) trong Khóa luận tốt nghiệp Truyền thuyết
và lễ hội đền Vua Bà, miếu Đức Ông ở Sơn Động, Bắc Giang đã nghiên cứu những
giá trị nội dung và nghệ thuật của truyền thuyết Vua Bà, Đức Ông từ đó làm sáng
tỏ mối quan hệ giữa truyền thuyết với lễ hội ở đền và miếu Vua Bà, Đức Ông tại
huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang.
Đề tài khoa học Nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội dân gian ở Thái Nguyên
theo hướng bảo tồn và phát triển bền vững của tác giả Nguyễn Hằng Phương
(2015) là một công trình nghiên cứu chuyên sâu, trong đó tập trung tìm hiểu mối
quan hệ hữu cơ giữa lễ hội và truyền thuyết. Từ việc khẳng định lễ hội và truyền
thuyết song song tồn tại, gắn bó mật thiết và tương hỗ lẫn nhau, tác giả đưa ra
những giải pháp khoa học cho việc bảo tồn và phát triển những giá trị văn học,
văn hóa dân gian ở Thái Nguyên nói riêng và toàn quốc nói chung.
Cuốn “Kiến Thụy xưa và nay” [Nhà xuất bản Lao động, 2009], được xem
là cuốn sách nghiên cứu đầy đủ nhất về các lễ hội ở Kiến Thụy, Hải Phòng. Tuy
nhiên, đây là công trình khảo cứu và miêu tả, phục dựng bức tranh tổng quát về
các lễ hội, lịch sử vùng đất Kiến Thụy dưới góc nhìn văn hóa, chứ chưa có nội

dung nào đi sâu phân tích truyền thuyết, giải thích mối quan hệ giữa truyền thuyết
với các lễ hội tại địa phương.
Các công trình trên đã trình bày, đề cập đến truyền thuyết và lễ hội với
nhiều nội dung, nhiều hướng nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên chưa có công trình
nào nghiên cứu hệ thống về truyền thuyết và mối quan hệ giữa truyền thuyết với
lễ hội ở Kiến Thụy, Hải Phòng. Việc nghiên cứu và tìm hiểu về truyền thuyết, mối
quan hệ giữa truyền thuyết với các lễ hội dân gian ở Hải Phòng nói chung cũng


8

như ở Kiến Thụy nói riêng chưa được quan tâm. Chủ yếu các công trình nghiên
cứu tập trung khai thác khía cạnh lễ hội, phần truyền thuyết và mối quan hệ giữa
truyền thuyết với các lễ hội hầu như bị bỏ qua hoặc có nhắc đến cũng rất sơ lược.
Kế thừa, tiếp thu công trình nghiên cứu của các học giả đi trước, trong luận
văn này chúng tôi tiến hành điền dã, sưu tầm các tư liệu truyền thuyết, lễ hội ở
Kiến Thụy, Hải Phòng, từ đó phân tích truyền thuyết, mối tương hỗ giữa truyền
thuyết với lễ hội của vùng đất giàu truyền thống văn hóa này.
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là: truyền thuyết và các lễ hội dân
gian ở Kiến Thụy, Hải Phòng.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Khảo cứu các truyền thuyết ở Kiến Thụy, Hải Phòng để thấy được giá trị
nội dung và nghệ thuật của thể loại văn học độc đáo này.
- Tìm hiểu lễ hội dân gian, mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội dân
gian ở Kiến Thụy, Hải Phòng để thấy vai trò của nó trong đời sống tâm linh người
dân địa phương nói riêng, cộng đồng người Việt nói chung.
- Góp phần giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa phi vật thể của địa phương và
của dân tộc; đặc biệt trong thời đại hội nhập như ngày nay.

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, chúng tôi xác định nhiệm vụ nghiên cứu
của luận văn là:
- Nghiên cứu những cơ sở lí luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài làm
cơ sở cho việc nghiên cứu.


9

- Khảo sát truyền thuyết về các lễ hội dân gian ở Kiến Thụy, Hải Phòng
trên phương diện nội dung, nghệ thuật; phân tích mối quan hệ giữa truyền thuyết
và lễ hội dân gian để thấy được vai trò của văn học dân gian trong đời sống sinh
hoạt của nhân dân.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi đã sử dụng những phương pháp sau:
- Phương pháp điền dã văn học dân gian: đây là phương pháp có thể hiểu
là điều tra thực tế, tức là người nghiên cứu sẽ phải đi tiếp xúc với người thật, việc
thật để tìm kiếm tư liệu cho nghiên cứu của mình. Phương pháp này được áp dụng
trong rất nhiều ngành khoa học xã hội như: xá hội học, ngôn ngữ học, nhân học,…
đặc biệt trong nghiên cứu văn học dân gian thì đây là một phương pháp điều tra
rất quan trọng.
- Phương pháp thống kê: là một hệ thống các phương pháp: thu thập và xử
lý số liệu, điều tra chọn mẫu, nghiên cứu mối liên hệ giữa các hiện tượng nghiên
cứu nhằm phục vụ cho quá trình phân tích, dự đoán và ra quyết định.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: đây là hai phương pháp có quan hệ mật
thiết với nhau tạo thành thể thống nhất không thể tách rời; Phân tích đối tượng
trên cơ sở những mặt, những bộ phận,những mối quan hệ, tư đó tổng hợp lại thành
một hệ thống, một phạm trù, một chỉnh thể đầy đủ và sâu sắc về đối tượng nghiên
cứu.

- Phương pháp so sánh, đối chiếu: phương pháp so sánh đối chiếu được coi
là hương pháp nghiên cứu của Folklore học, với những thao tác nghiên cứu và hệ
vấn đề nghiên cứu của nó, đã hình thành từ lâu đời. Phương pháp nghiên cứu này
có thể có nhiều dạng thức khác nhau, tùy theo tính chất của những hiện tượng
được dùng làm đơn vị so sánh (mô típ, cốt truyện, cấu trúc thể loại,…), tùy theo
cấp độ và quy mô so sánh (giữa các địa phương, các dân tộc,…), tùy theo mục
đích của việc nghiên cứu so sánh,…


10

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội
dân gian cần sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành của các ngành có
liên quan như văn hóa học, xã hội học, sử học… để tìm hiểu truyền thuyết và lễ
hội với tư cách là những thực thể văn học văn hóa đang tồn tại và vận động trong
đời sống dân gian.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi tư liệu nghiên cứu:
+ Các tư liệu đã xuất bản và đưa vào sử dụng.
+ Các bài viết trên Internet, sách báo.
+ Các tư liệu sưu tầm trong dân gian.
- Phạm vi vấn đề nghiên cứu:
Nghiên cứu về truyền thuyết các lễ hội dân gian ở Kiến Thụy, Hải Phòng
và mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội dân gian.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo; Phần
Nội dung của luận văn được triển khai trong ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận, thực tế của việc tìm hiểu truyền thuyết và lễ hội
dân gian ở Kiến Thụy, Hải Phòng
Chương 2: Truyền thuyết dân gian ở Kiến Thụy, Hải Phòng

Chương 3: Lễ hội dân gian trong mối quan hệ với truyền thuyết ở Kiến
Thụy, Hải Phòng
7. Đóng góp của luận văn
- Là công trình ghiên cứu một cách tương đối toàn diện, hệ thống về truyền
thuyết và các lễ hội dân gian ở Kiến Thụy, Hải Phòng,


11

- Nghiên cứu về truyền thuyết và các lễ hội dân gian liên quan để mọi người
có được cái nhìn toàn vẹn hơn đời sống văn hóa tinh thần của địa phương.
- Khơi dậy lòng say mê khám phá các giá trị độc đáo ở một địa bàn văn hóa
tiêu biểu có lượng truyền thuyết và lễ hội phong phú, đa dạng.
- Góp phần giữ gìn, phát huy vốn văn hóa dân gian cổ truyền của quê hương
và dân tộc.


12

NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TẾ CỦA VIỆC TÌM HIỂU
TRUYỀN THUYẾT VÀ LỄ HỘI DÂN GIAN Ở KIẾN THỤY, HẢI PHÒNG
Những mạch nguồn văn học dân gian đã thấm đẫm và nuôi dưỡng bao cái
hay, cái đẹp cho tâm hồn muôn triệu con người hôm qua, hôm nay và đến mãi mai
sau. Qua bao năm tháng truyền thuyết gắn với các lễ hội dân gian đã đi vào đời
sống tâm linh của những người con trên quê hương Kiến Thụy. Sức sống bền bỉ
ấy được nảy sinh trên một nền tảng kinh tế, văn hóa, xã hội phong phú, đa dạng
của địa phương. Tìm hiểu những yếu tố về kinh tế, văn hóa, xã hội trên giúp chúng
ta phần nào lí giải được cội nguyền dân gian của truyền thuyết nói chung và truyền

thuyết gắn với các lễ hội tại địa phương nói riêng.
1.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên, xã hội và văn hóa ở Kiến Thụy, Hải Phòng
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Huyện Kiến Thụy nằm về phía Đông Nam và cách trung tâm thành phố
Hải Phòng 20 km. Huyện có diện tích là 10.753 héc - ta, gồm 18 đơn vị hành
chính xã, thị trấn. Phía bắc và tây bắc huyện giáp quận Dương Kinh và quận Kiến
An; phía đông và đông nam giáp quận Đồ Sơn và vịnh Bắc Bộ; phía nam và tây
nam giáp huyện Tiên Lãng; tây giáp huyện An Lão. Huyện lị đóng tại thị trấn Núi
Đối.
Từ xưa, do điều kiện tự nhiên thuận lợi, có đủ sông biển, núi đồi, gò đống,
đồng bằng với nguồn nước mặn, nước lợ, nước ngọt dồi dào nên các cộng đồng
cư dân Việt đã khai khẩn và sinh sống tập trung tại nhiều nơi trên mảnh đất này.
Kiến Thụy là một huyện đồng bằng ven biển có cả sông và núi tạo nên nét
riêng đặc biệt ở vùng duyên hải Bắc Bộ, nằm gọn trong đại nội chí tuyến. Nằm
trong vành đai nhiệt đới, Kiến Thụy có nhiều kiểu thời tiết. Hơn nữa biển có ảnh


13

hưởng toàn diện, mạnh mẽ và sâu sắc tới bản chất và đặc thù của các yếu tố tự
nhiên khu vực, đặc biệt là ảnh hưởng tới khí hậu.
Vùng đất ven biển này trong một năm chịu hai loại gió mùa: gió mùa đông
(trùng với gió Đông Bắc) và gió mùa hạ (trùng với gió Đông Nam). Vì là huyện
ven biển nên các loại gió khi ảnh hưởng đến Kiến Thụy có tốc độ khá lớn. Đây
cũng là mảnh đất “đầu sóng ngọn gió”. Huyện thường xuyên bị đe dọa và hứng
chịu những cơn bão lớn trước khi đổ bộ vào đất liền.
Cùng với sự đe dọa của thiên tai, mảnh đất này cũng là đất tiền tiêu, đối
mặt với các cuộc xâm lăng của giặc phương Bắc theo đường biển. Huyện Kiến
Thụy có địa thế phòng thủ biển cực kì quan trọng do có các cửa sông lớn đổ ra
biển và bao trọn bán đảo Đồ Sơn.

Nằm gần biển nên độ ẩm quanh năm tương đối cao 85%, ngay cả các tháng
mùa đông chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc khô lạnh độ ẩm vẫn xấp xỉ 80%,
còn các tháng mùa hạ có thể đạt 85% - 90%. Lượng mưa phong phú, trên 1600mm,
lượng mưa phân bố tho mùa khá sâu sắc, tập trung từ tháng 5 đến tháng 10.
Sự luân phiên tranh chấp của các khối khí cơ bản khác nhau làm cho thời
tiết và khí hậu thường xuyên bị biến động. Nằm trong địa phận hẹp và các thành
tạo địa chất khá đơn giản, Kiến Thụy không có mỏ khoáng sản quan trọng nào,
trừ các mỏ vật liệu xây dựng có quy mô nhỏ và nước ngầm trữ lượng hạn chế.
Các sông lớn chảy qua huyện đều là những nhánh sông của hệ thống sông
Thái Bình, có độ uốn khúc lớn. Sông Văn Úc và nhánh sông Đa Độ phù sa đã hình
thành nên một dải đồng bằng màu mỡ nhưng không lớn lắm.
1.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
Kiến Thụy là huyện ven biển, nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và thủy
sản. Qua các thời kì thành phố luôn đầu tư mọi nguồn lực, kể cả cán bộ để xây
dựng Kiến Thụy thành huyện có kinh tế - xã hội phát triển, an ninh quốc phòng


14

vững mạnh. Những năm đầu của thế kỉ XXI, kinh tế của huyện luôn đạt tốc độ
tăng trưởng cao, bình quân 13,8%/năm; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng
tích cực, nông nghiệp 27%, công nghiệp xây dựng 48%, dịch vụ 25%, văn hóa xã
hội có nhiều tiến bộ mới. Kinh tế không ngừng phát triển, thu nhập bình quân đầu
người ngày càng tăng, thu nhập bình quân đầu người đạt 9,4 triệu đồng. Cơ sở hạ
tầng điện, đường, trường, trạm, hiện nay đang được đầu tư khá đồng bộ theo
hướng đô thị hóa, từng bước đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn.
Tuy vậy, Kiến Thụy vẫn là một huyện kém phát triển về cơ cấu sản xuất
kinh tế, dịch vụ. Sự giao lưu, kết nối về kinh tế, dịch vụ nghề biển, du lịch, sản
xuất và thương mại của vùng đất này còn rất hạn chế. Tuy nhiên, dường như đối

lập với kinh tế, văn hóa dân gian, trong đó các truyền thuyết và lễ hội dân gian lại
rất đa dạng, phong phú.
1.1.3. Điều kiện lịch sử - văn hóa
Kiến Thụy từ lâu đã được coi là mảnh đất địa linh nhân kiệt. Kiến Thụy
được thiên nhiên ban tặng điều kiện đất đai trù phú, núi Đối, sông Đa quanh co
uốn khúc tạo nên một vùng phong cảnh sơn thủy hữu tình. Con người Kiến Thụy
cần mẫn mà sáng tạo, tự do phóng khoáng mà hiền hòa nhân ái. Mảnh đất hội tụ
khí thiêng sông núi này đã đi vào lịch sử của tất cả các thời kì cổ, trung, cận, hiện
và đương đại không riêng gì của riêng thành phố cảng Hải Phòng mà của cả quê
hương Việt Nam.
Theo phả tích, Kiến Thụy xưa thuộc bộ Thang Tuyền thời Hùng Vương,
một trong 15 bộ của nước Văn Lang; thời Tần thuộc Tượng Quận; thời Hán thuộc
quận Giao Chỉ; thời Lý – Trần thuộc Hồng Lộ, sau gọi là Hải Đông. Năm 1469,
Lê Thánh Tông cắt một phần đất huyện An Lão để lập huyện Nghi Dương; địa
bàn huyện này tương ứng với địa bàn huyện Kiến Thụy, quận Đồ Sơn và phường
Đồng Hòa của quận kiến An bây giờ. Đất huyện Nghi Dương chính là vùng đất


15

của huyện Kiến Thụy và 3 quận mới: Kiến An, Dương Kinh và Đồ Sơn ngày nay.
Năm 1837, vua Minh Mạng lập phủ Kiến Thụy gồm 3 huyện Nghi Dương, An
Lão và An Dương. Thời Pháp thuộc, Kiến Thụy thuộc tỉnh Kiến An, những năm
sau này Kiến Thụy lúc thì “se duyên” cùng An lão thành huyện An Thụy, rồi ẩn
mình một thời trong huyện Đồ Sơn, đến năm 1988 lại trở về với tên gọi cũ có từ
Nhà Nguyễn: Kiến Thụy. Năm 2008, một lần nữa huyện lại được chia tách thành
Dương Kinh và Kiến Thụy bây giờ.
Là vùng đất cổ, nên Kiến Thụy lưu giữ được nhiều lễ hội dân gian cũng là
điều dễ hiểu. Trong đó hội Đền Mõ ở xã Ngũ Phúc được coi là một trong những
lễ hội nổi bật nhất của huyện. Đây là xã nằm ở cuối của huyện, giáp với các xã

An Thái và An Thọ của huyện An Lão, cách huyện Tiên Lãng một chuyến đò qua
sông Văn Úc. Trước năm 1945, Ngũ Phúc là trung tâm của tổng Nghi Dương
(trùng với tên huyện cũ) gồm cả các xã Kiến Quốc và Du Lễ ngày nay. Hiện tại
Ngũ Phúc có khoảng 6.500 nhân khẩu thì có tới 155 dòng họ, quây quần đầm ấm
trong 5 thôn: Nghi Dương, Mai Dương, Xuân Chiếng, Xuân Đông và Xuân Đoài.
Không chỉ có đất thiêng, Kiến Thụy còn là nơi hội tụ của văn hóa và con
người đặc sắc. Từ lâu, Kiến Thụy đã được coi là một trong những nơi du nhập
đạo Phật sớm nhất nước ta, từ những thế kỉ trước Công nguyên với trung tâm Phật
giáo Nê Lê (Đồ Sơn ngày nay). Tháp Tường Long do vua Lí Thánh tông (1023 1072), vị vua thứ 3 rất sùng đạo phật của triều Lí đứng ra chủ trì việc xây dựng.
Tháp được khởi dựng năm 1058. Vào thời Mạc với tên Dương Kinh, Kiến Thụy
thời đó cũng là một trung tâm Phật giáo lớn.
Kiến Thụy từ lâu đã là mảnh đất có truyền thống về văn hóa, học vấn và tri
thức. Trải qua các thời đại cho tới ngày nay lúc nào Kiến Thụy cũng có người đỗ
đạt cao, những học giả nổi tiếng. Thời phong kiến, huyện có 14 người đỗ tiến sĩ,
trong đó có Bùi Đình Dự, người Nãi Sơn đỗ Đình nguyên Hoàng Giáp. Kiến Thụy
cũng là miền đất thượng võ mà biểu tượng là Trương Nữu, Vũ Hải, Mạc Đang


16

Dung, Vũ Hộ,… Nơi đây còn là căn cứ cuộc khởi nghĩa nông dân do Quận He –
Nguyễn Hữu Cầu lãnh đạo chống lại triều đình Lê – Trịnh.
Truyền thống chống giặc ngoại xâm là biểu hiện cao đẹp của ý thức dân tộc
mà nhân dân Kiến Thụy hàng ngàn năm nay đã hun đúc, rèn luyện nên. Truyền
thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm có mặt quan hệ chặt chẽ đến cả nước, đến
vùng đất Hải Tần phòng thủ, song đáng ghi nhận là người Kiến Thụy luôn có mặt
trên tuyến đầu ở nhiều thời điểm nóng bỏng của lịch sử. Kiến Thụy nổi danh với
Kim Sơn kháng Nhật thắng lợi, nơi giành chính quyền về tay nhân dân sớm nhất
vùng duyên hải Bắc Bộ (12/7/1945). Quân dân Kiến Thụy trực tiếp góp phần cùng
bộ đội chủ lực tỉnh Kiến An làm nên một chiến thắng Cát Bi rực lửa, phá hủy 59

máy bay của địch. Do có thành tích đặc biệt xuất sắc trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mĩ, quân và dân Kiến Thụy được nhà nước phong tăng danh
hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Từ một huyện nghèo, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, thiên tai uy hiếp
thường xuyên, Đảng bộ và nhân dân huyện Kiến Thụy liên tục vượt qua mọi khó
khăn, thách thức, đoàn kết nhất trí, đồng tâm hiệp lực, lập nên nhiều thành tựu to
lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới.
Phát huy truyền thống anh hùng, toàn Đảng bộ và nhân dân Kiến Thụy đang ngày
đêm nỗ lực, quyết tâm xây dựng quê hương ngày một phồn vinh, văn minh, hạnh
phúc xứng đáng là quê hương Dương Kinh một thuở.
1.2. Một số vấn đề lí luận
1.2.1. Truyền thuyết
1.2.1.1. Khái niệm
Văn học dân gian Việt Nam cũng như văn học dân gian của nhiều nước
trên thế giới là hệ thống các thể loại vô cùng phong phú, phản ánh cuộc sống theo
những nội dung và cách thức khác nhau. Kho tàng văn học ấy nhằm giải thích các


17

hiện tượng thiên nhiên, thể hiện khát vọng chinh phục tự nhiên. Để phản ánh quá
trình sáng tạo văn hóa của con người thời cổ đại, người ta đã tạo nên thể loại thần
thoại. Dần dần theo quá trình hình thành của lịch sử, ông cha ta nhận ra thần thoại
không thể phản ánh hiện thực ngày càng phức tạp, họ đã sáng tạo ra một thể loại
mới đó là truyền thuyết. Đây là tác phẩm tự sự dân gian kể về sự kiện và nhân vật
lịch sử trong đó có xu hướng lí tưởng hóa, qua đó thể hiện sự ngưỡng mộ và sự
tri âm của nhân dân đói với những người có công với đất nước, dân tộc hoặc cộng
đồng dân cư một vùng.
Truyền thuyết là một bộ phận quan trọng của văn học dân gian. Truyền
thuyết đã được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Quan niệm về truyền thuyết

của các nhà nghiên cứu cũng khác nhau. Dưới đây chúng tôi điểm lại những quan
điểm cơ bản.
Khái niệm truyền thuyết đang được dùng phổ biến hiện nay tương đương
với thuật ngữ "legend" của tiếng Anh hay "légende" của tiếng Pháp.
Theo Từ điển tiếng Việt: “Truyền thuyết là một thể loại truyện dân gian
truyền miệng về các nhân vật và sự kiện có liên quan đến lịch sử, thường mang
nhiều yếu tố thần kỳ”. [24,tr.1053].
Các tác giả cuốn Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: “Truyền thuyết là
một thể loại truyện dân gian mà chức năng chủ yếu là phản ánh và lý giải các
nhân vật và sự kiện lịch sử có ảnh hưởng quan trọng đối với một thời kì, một bộ
tộc, một dân tộc, một quốc gia hay một địa phương”. [12, tr.367]
Kiều Thu Hoạch trong Truyền thuyết anh hùng trong loại hình tự sự dân
gian đã chỉ ra rằng: “Truyền thuyết là một thể tài chuyện kể truyền miệng nằm
trong loại hình tự sự dân gian. Nội dung cố truyện kể lại truyền tích các nhân vật
lịch sử hoặc giải thích các phong vật địa phương theo quan điểm của nhân
dân”.[ 9,tr.145-176].


18

Định nghĩa truyền thuyết của Lê Chí Quế: Truyền thuyết là một thể loại
trong loại hình từ sự dân gian phản ánh những sự kiện, nhân vật lịch sử hay di
tích cảnh vật địa phương thông qua sự hư cấu nghệ thuật thần kỳ [3]. [3] Lê Chí
Quế (chủ biên) – Văn học dân gian Việt Nam – NXB Đại học Quốc gia HN –
H.1998
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về truyền thuyết, nhưng tựu trung
lại, quan điểm của ba nhà nghiên của Lê Chí Quế, Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng
Vĩ dưới đây thâu tóm được những tiêu chí cơ bản về thể loại của truyền thuyết.
Quan điểm này cũng được đa số các nhà nghiên cứu chấp nhận:
“Truyền thuyết là một thể loại trong loại hình tự sự dân gian, phản ánh

những sự kiện, nhân vật lịch sử, danh nhân văn hóa hay nhân vật tôn giáo hay di
tích cảnh vật địa phương thông qua sự hư cấu nghệ thuật thần kì”.
Qua định nghĩa trên, có thể khái quát nên hai đặc điểm cơ bản của thể loại
truyền thuyết, đó là:
- Truyền thuyết có lõi là sự kiện lịch sử.
- Nhưng truyền thuyết không phải là lịch sử vì các sự kiện được phản ánh
không có thật như chính sử mà là một dạng ngoại sử, sử kí hay sử truyện. Đó là
lịch sử đã được tái tạo theo tư tưởng, tình cảm của nhân dân. Trong truyền thuyết
có cả thái độ yêu, ghét, tôn kính, sùng bái của nhân dân. Vì thế mà truyền thuyết
thường có yếu tố hư cấu, thậm chí có cả những chi tiết hoang đường như thần
thoại.
Truyền thuyết bao gồm rất nhiều tiểu loại, như: truyền thuyết anh hùng
chống giặc ngoại xâm, truyền thuyết người anh hùng sáng tạo văn hóa, truyền
thuyết địa danh, v.v.

1.2.1.2. Phân loại truyền thuyết


19

Ngay từ buổi đầu khi mà con người có ý thức sưu tầm, ghi chép lại truyền
thuyết, người ta đã đặt ra việc phân loại chúng. Việc phân loại dựa vào các hệ tiêu
chí khác nhau. Ở Việt Nam, hiện nay phổ biến các cách phân loại cơ bản dưới đây:
+ Căn cứ vào nội dung của thời kì lịch sử được truyền thuyết phản ánh, có
các nhóm truyền thuyết sau:
- Truyền thuyết về “Họ Hồng Bàng” và thời kì Văn Lang - Âu Lạc
- Truyền thuyết về thời Bắc thuộc
- Truyền thuyết thời phong kiến tự chủ
- Truyền thuyết thời kì cận hiện đại
+ Dựa vào chủ đề nội dung phản ánh, nhân vật, kết cấu của truyện, có cách

phân loại truyền thuyết sau:
- Truyền thuyết địa danh (về tên gọi của các địa danh)
- Truyền thuyết lịch sử (về nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử)
- Truyền thuyết phổ hệ (về nguồn gốc lịch sử của các dòng họ, các ngành
nghề, các tôn giáo…)
Hoặc cụ thể hơn
- Truyền thuyết về sự hình thành dân tộc
- Truyền thuyết về các vị anh hùng trong chiến đấu
- Truyền thuyết về những vị anh hùng trong lao động và sáng tạo văn hoá
- Truyền thuyết về địa danh và đền chùa
1.2.1.3. Kết cấu của truyền thuyết
Kết cấu của truyền thuyết là kết cấu trực tuyến, kết cấu theo thời gian vật
lí, diễn biến của sự việc, không có sự đồng hiện và không có sự xen kẽ thời gian
hiện tại - quá khứ. Kết cấu của truyền thuyết thường gồm ba phần: phần một là
hoàn cảnh xuất hiện nhân vật hoặc nguồn gốc địa danh; phần hai kể về sự nghiệp
của nhân vật hoặc quá trình diễn biến lịch sử của địa danh; phần ba là phần kết


×