Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Nghiên cứu đề xuất phương án quy hoạch phát triển lâm nông nghiệp tại xã hải vân, huyện như thanh, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (725.05 KB, 91 trang )

B GIáo dục và TO

Bộ nông nghiệp và PTNT

TRường đại học lâm nghiệp

LÊ DUY HƯợNG

Nghiên cứu Đề XUấT PHƯƠNG áN QUY HOạCH PHáT TRIểN
LÂM NÔNG NGHIệP TạI Xã HảI VÂN, HUYệN NHƯ THANH,
TỉNH THANH HOá

LUN VN THC Sỹ KHOA HC Lâm nghiệp

Hà Nội, năm 2008


1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Đất đai là nguồn tài nguyên quý giá của nhân loại, nó là tư liệu sản xuất
không thể thiếu được đối với người nông dân. Đặc biệt là những quốc gia có nền
kinh tế phát triển chủ yếu từ nông lâm nghiệp, như Việt Nam, đất đai lại càng đóng
vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của nông thôn nói riêng và của đất nước
nói chung.
Ngày nay trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nhu cầu về đất đai cho các ngành, các lĩnh vực sản xuất
ngày càng gia tăng và đặt ra nhiều vấn đề phức tạp, gây áp lực đến nguồn tài
nguyên đất đai, làm cho nguồn tài nguyên đất đai ngày càng cạn kiệt. Do vậy quy
hoạch sử dụng đất (QHSDĐ) có vai trò rất quan trọng giúp các ngành sắp xếp sử


dụng đất hợp lý, có hiệu quả, bảo vệ đất lâu bền đang là vấn đề quan tâm hàng đầu
của nước ta. Đặc biệt là QHSDĐ cho phát triển nông lâm nghiệp có vai trò rất quan
trọng, tạo ra những điều kiện cần thiết để tổ chức phát triển sản xuất, trên cơ sở áp
dụng các biện pháp kỹ thuật thâm canh tăng vụ nâng cao hiệu quả sử dụng đất và
các giải pháp bảo vệ đất chống xói mòn, bảo vệ môi trường sinh thái.
Trong thời gian qua công tác QHSDĐ nông lâm nghiệp đã được Đảng và
Nhà nước quan tâm, các ngành, các cấp có nhiều nỗ lực trong công tác triển khai
thực hiện. Tuy nhiên những nội dung và phương pháp QHSDĐ, đặc biệt là cấp xã
vẫn còn một số tồn tại:
- Công tác quy hoạch cấp xã trước đây hầu như chỉ được thực hiện bằng sự
áp đặt từ trên xuống, vai trò của người dân chưa được xem xét và tôn trọng, do đó
chưa quan tâm đến nhu cầu và nguyện vọng của người dân, chưa khai thác được
những kinh nghiệm và tham gia đóng góp ý kiến của người dân và cộng đồng.
- QHSDĐ thường dựa trên chức năng của đất đai, lấy mục đích sử dụng đất
làm đối tượng quy hoạch sản xuất, chưa chú trọng tới việc phân tích đánh giá tiềm
năng thực tế tại cộng đồng. Từ đó việc xác định lựa chọn cơ cấu cây trồng vật nuôi,


2

các hệ thống biện pháp canh tác chưa hợp lý, dẫn đến năng suất, chất lượng chưa
cao, đồng thời việc bảo vệ môi trường sinh thái chưa thực sự ổn định và bền vững.
Hải Vân là một xã miền núi của huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hoá và là một
xã nằm trong vùng đệm của vườn Quốc gia Bến En, đời sống của nhân dân còn
nhiều khó khăn, chủ yếu dựa vào SXNLN, kinh tế chậm phát triển, nông dân thiếu
kiến thức và nguồn vốn đầu tư cho sản xuất. Cán bộ và nhân dân lúng túng trong bố
trí phát triển sản xuất. Để giải quyết vấn đề này, công tác đầu tiên phải tìm ra được
một phương án QHSDĐ lâm nông nghiệp tối ưu, tạo tiền đề cho PTNLN, nhằm
nâng cao thu nhập và đáp ứng nhu cầu ngày một tăng của nhân dân, đồng thời cung
cấp ngày một nhiều và lâu dài các sản phẩm hàng hoá cho thị trường, giảm áp lực

xâm nhập và tác động vào vườn Quốc gia Bến En.
Xuất phát từ những lý do trên, trong khuôn khổ một bản luận văn tốt nghiệp
với hy vọng góp phần nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn của công tác quy
hoạch phát triển SXNLN cấp xã và đề xuất được phương án phát triển SXNLN cho
địa bàn nghiên cứu, tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đề xuất phương án quy
hoạch phát triển lâm nông nghiệp tại xã Hải Vân, huyện Như Thanh, tỉnh
Thanh Hoá”.


3

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Đất đai gắn liền với đời sống và sinh hoạt của con người, nó có vai trò to lớn đối
với SXNLN và các ngành kinh tế nói chung. Tuy nhiên, hiện nay trước sức ép về dân
số tăng nhanh, nhu cầu của con người về mọi mặt ngày càng cao, làm cho các nguồn
tài nguyên cạn kiệt nhanh chóng, và làm cho trái đất ngày càng gần tới hơn khả năng
chịu đựng cuối cùng của nó.
Mất rừng đã dẫn đến các quy luật về thời tiết, khí hậu bị xáo trộn, hiện tượng
hiệu ứng nhà kính, nhiệt độ khí quyển của trái đất ngày càng tăng, thiên tai lũ lụt,
hạn hán thường xuyên xảy ra trên diện rộng, làm cho đất đai bị xói mòn, rửa trôi,
bạc màu, diện tích sa mạc hoá ngày càng lớn,…làm ảnh hưởng trực tiếp tới đời
sống, sinh hoạt, sản xuất,… thậm chí đe doạ đến sự tồn tại của con người nói riêng
và làm ảnh hưởng tới sự sống của toàn cầu nói chung. Những ảnh hưởng và mất
mát này đang trở thành mối quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới. Nhiều chính
sách, chủ trương, công trình, chương trình, dự án nghiên cứu nhằm giải quyết các
mối quan tâm đó, và đã và đang thu hút nhiều chuyên gia đầu ngành của các nước
trên thế giới cùng tham gia.
1.1 Trên thế giới

1.1.1 Những nghiên cứu liên quan đến cơ sở khoa học
Từ những năm của thế kỷ 19 khoa học về đất đã được các nước phát triển bắt
đầu quan tâm nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu trên lĩnh vực này liên tục phát
triển cả về số và chất lượng. Những thành tựu về phân loại đất và xây dựng bản đồ
đất được sử dụng làm cơ sở quan trọng cho việc tăng năng suất và sử dụng đất đai
một cách có hiệu quả. Các công trình nghiên cứu về qui hoạch sử dụng đất đều xuất
phát từ đòi hỏi thực tế khách quan nhằm đáp ứng nhu cầu ngày một tăng của xã hội
loài người.
Hệ thống canh tác (Farming System) là sự bố trí một cách thống nhất và ổn
định các ngành trong nông trại, được quản lý bởi hộ gia đình trong môi trường tự


4

nhiên, sinh học và kinh tế xã hội, phù hợp với các mục tiêu mong muốn và nguồn
lực của hộ (Shaner, Philip và Schemmedli, 1984) [51].
Hệ thống canh tác bao gồm các nguồn lực (đất, lao động, vốn) được sử dụng
cho các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi, nghề phụ để sản xuất các nông sản (lương
thực, nguyên liệu thô, tiền mặt) trong nông trại với điều kiện nhất định (Willem
C.Beet, 1990) [46]
Trên thế giới, mô hình sử dụng đất đầu tiên là du canh, chính là những hệ thống
nông nghiệp trong đó đất được phát quang để canh tác trong một thời gian ngắn hơn là
thời gian bỏ hóa, Cooklin (1957). Du canh được xem là phương thức canh tác cổ xưa
nhất, nó ra đời từ cuối thời kỳ đồ đá mới, khi con người đã tích luỹ được những kiến
thức ban đầu về địa phương. Tuy nhiên cho mãi đến gần đây du canh vẫn còn được vận
dụng ở một số nơi, như trên các rừng Vân sam ở Bắc Âu (Cox và Atkinss, 1979;
Russell, 1968; Ruddle và Manshard, 1981), mặc dù hạn chế ở nhiều mặt về môi trường
sinh thái, song phương thức này vẫn được sử dụng khá phổ biến ở các vùng nhiệt đới.
Tại Mỹ, bang Wiscosin đã ban hành đạo luật về sử dụng đất vào năm 1929,
tiếp theo là xây dựng kế hoạch sử dụng đất đầu tiên cho vùng Oneide của Wiscosin,

kế hoạch này đã xác định các diện tích cho sử dụng lâm nghiệp, nông nghiệp và
nghỉ ngơi giải trí. Năm 1966, hội Đất học và nông dân học Mỹ cho ra đời chuyên
khảo về hướng dẫn điều tra đất, đánh giá khả năng của đất và ứng dụng QHSDĐ.
Tại Đức, tác giả Haber năm 1972 đã xuất bản tài liệu “Khái niệm về sử dụng
đất khác nhau”, đây được coi là lý thuyết sinh thái về QHSDĐ dựa trên quan điểm
về mối quan hệ hợp lý giữa tính đa dạng của hệ sinh thái cũng như sự ổn định của
chúng với năng suất và khả năng điều chỉnh.
Từ năm 1967 hội đồng nông nghiệp Châu Âu đã phối hợp với tổ chức FAO
tổ chức nhiều hội nghị về phát triển nông thôn và QHSDĐ. Các hội nghị này khẳng
định quy hoạch vùng nông thôn trong đó quy hoạch các ngành sản xuất như nông,
lâm nghiệp, chăn nuôi, chế biến nhỏ,… cũng như quy hoạch cơ sở hạ tầng, đặc biệt
là giao thông phải dựa trên cơ sở quy hoạch đất đai.


5

Sự ra đời của các phương thức Taungya ở vùng nhiệt đới được đánh giá như
một dấu hiệu báo trước cho các phương thức sử dụng đất sau này (Nair, 1978) trước
tiên được Brandis vận dụng trong việc tái sinh rừng tếch từ cuối thế kỹ 19, sau đó đã
nhanh chóng được bổ sung hoàn thiện và phổ biến trên toàn thế giới với tên gọi chung
là phương thức nông lâm kết hợp (NLKH), được coi là hệ thống sử dụng đất có hiệu
quả cả về kinh tế và môi trường sinh thái. FAO (1990) thông báo đã có tới 117 quốc
gia trên thế giới áp dụng phương thức này.
Một trong những phương thức sử dụng đất có hiệu quả cao, bền vững ổn định
trên đất dốc đó là mô hình SALT (Sloping Agricultural Land Technology) đã được
Trung tâm đời sống nông thôn ở Bapstit Mindanao Philippin tổng kết, hoàn thiện và
phát triển từ giữa những năm 1970 đến nay [26]. Trong quá trình phát triển và hoàn
thiện cho đến năm 1992 đã có 4 mô hình tổng hợp về kỹ thuật canh tác nông nghiệp
bền vững trên đất dốc được các tổ chức quốc tế ghi nhận đã và đang áp dụng, đó là:
- Mô hình SALT1 (Sloping Agricultural Land Technology) đây là mô hình

tổng hợp dựa trên cơ sở các biện pháp bảo vệ đất với sản xuất lương thực. Kỹ thuật
canh tác nông nghiệp trên đất dốc với cơ cấu 25% cây lâm nghiệp + 25% cây lưu
niên (nông nghiệp) + 50% cây nông nghiệp hàng năm.
- Mô hình SALT2 (Simple Agro - Forest Technology) đây là mô hình kinh tế
nông, lâm, súc kết hợp kết hợp đơn giản với cơ cấu 40% nông nghiệp + 20% lâm
nghiệp + 20% chăn nuôi + 20% làm nhà ở và chuồng trại.
- Mô hình SALT3 (Sustainable Agro - Forest Technology) kỹ thuật canh tác
bền vững. Cơ cấu sử dụng đất là 40% nông nghiệp + 60% lâm nghiệp, mô hình này
đòi hỏi đầu tư cao cả về nguồn lực vốn và kỹ thuật.
- Mô hình SALT4 (Small Agro - Fruit Likelihood Technology) đây là mô
hình kỹ thuật sản xuất nông, lâm nghiệp kết hợp với cây ăn quả quy mô nhỏ. Cơ cấu
sử dụng đất 60% lâm nghiệp + 15% nông nghiệp + 25% cây ăn quả. Đây cũng là
mô hình đòi hỏi đầu tư cao cả về nguồn lực, vốn và kỹ thuật.
Các mô hình canh tác nông nghiệp bền vững trên đất dốc có sự phối hợp hài
hoà giữa cây nông nghiệp, lâm nghiệp và chăn nuôi gia súc đều dựa trên cơ sở có sự


6

nghiên cứu phân bổ các loại đất đai cho các loại cây trồng vật nuôi một cách hợp lý,
khoa học nhằm tạo ra hiệu quả kinh tế cao nhất và bền vững nhất về mặt môi trường
sinh thái.
Kết quả tổng kết các tài liệu nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp tại địa
phương chỉ ra rất nhiều cách tiếp cận, nhưng tựu chung các phương pháp tiếp cận đi
theo hai hướng chính đó là: Tiếp cận từ trên xuống và tiếp cận từ dưới lên. Cách
tiếp cận từ trên xuống, ngày càng bộc lộ ra những hạn chế, kém hiệu quả khi không
có sự tham gia của cộng đồng; Cách tiếp cận từ dưới lên được hình thành khi các
nhà xã hội học chứng minh rằng “sự không thể thiếu được” vai trò cộng đồng nông
thôn trong quản lý tài nguyên cộng đồng Từ đó “Quy hoạch trên cơ sở cộng đồng”
bắt đầu xuất hiện.

Khi nghiên cứu các hệ thống canh tác năm 1990, FAO đã cho ra đời cuốn
“Phát triển hệ thống canh tác”[19]. Công trình đã khái quát phương pháp tiếp cận
nông thôn trước đây là phương pháp tiếp cận một chiều từ trên xuống, không phát
huy được tiềm năng nông trại và cộng đồng nông thôn. Qua đó chỉ ra phương pháp
tiếp cận mới, phương pháp tiếp cận có sự tham gia của người dân, nhằm phát triển
các hệ thống nông trại trong cộng đồng nông thôn trên cơ sở bền vững.
1.1.2. Những nghiên cứu liên quan đến quy hoạch PTNLN cấp vi mô có
sự tham gia
Tại hội thảo quốc tế tại Việt Nam năm 1998 về vấn đề QHSDĐ cấp làng, bản
đã được FAO đề cập một cách khá chi tiết cả về mặt khái niệm lẫn sự tham gia
trong việc đề xuất các chiến lược QHSDĐ và giao đất cấp làng, bản [49].
Tại cuộc Hội thảo năm 1998 giữa trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam và
trường Tổng hợp kỹ thuật Dresden [48], vấn đề QHSDĐ có sự tham gia của người
dân đã được Holm Uibrig đề cập khá đầy đủ. Tài liệu đã phân tích về mối quan hệ
giữa các loại hình canh tác có liên quan như: Quy hoạch rừng, vấn đề phát triển
nông thôn, QHSDĐ, phân cấp hạng đất và phương pháp tiếp cận mới trong QHSDĐ
Nội dung chủ yếu của quy trình QHSDĐ và giao đất lâm nghiệp bao gồm:


7

- Sự tham gia của người dân trong hoạt động thực thi QHSDĐ và giao đất:
Đào tạo cán bộ và chuẩn bị; Hội nghị làng bản và chuẩn bị.
- Điều tra ranh giới làng, khoanh vẽ đất đang sử dụng, điều tra rừng và xây
dựng bản đồ sử dụng đất.
- Thu thập và phân tích số liệu.
- QHSDĐ đai và giao đất.
- Xác định đất canh tác nông nghiệp.
- Sự tham gia của người dân trong hợp đồng hoặc khế ước và chuyển nhượng
đất nông, lâm nghiệp.

- Mở rộng quản lý và sử dụng đất.
- Kiểm tra và đánh giá.
Những tài liệu hướng dẫn trên là phương tiện tốt để tiến hành QHSDĐ cho
cấp xã theo phương pháp cùng tham gia.
1.1.3. Những kết luận rút ra từ kinh nghiệm của thế giới
Qua các tài liệu nghiên cứu và kinh nghiệm QHSDĐ trên thế giới có thể rút
ra kết luận sau:
- Mặc dù có nhiều nghiên cứu, thử nghiệm về quy hoạch, phương pháp
chuyển giao sử dụng đất, song nhìn chung các phương pháp đều phục vụ mục tiêu
phát triển kinh tế, chưa thực sự quan tâm đến lợi ích của người nông dân.
- Việt Nam có thể ứng dụng các thành tựu trên vào quy hoạch, nhưng phải
vận dụng một cách linh hoạt cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của từng cộng đồng
nông thôn. Quy hoạch phát triển SXNLN phải dựa trên nền tảng sử dụng đất, kết
hợp quy hoạch từ trên xuống bằng các định hướng chiến lược và ưu tiên phạm vi
vùng với nhu cầu cộng đồng thông qua quy hoạch phát triển và xây dựng kế hoạch
cấp thôn, bản.
- Phương pháp cùng tham gia, phân tích hệ thống canh tác cần được vận dụng
về đặc điểm kinh tế, văn hoá, xã hội và thể chế chính sách của Việt Nam.
- Hệ thống canh tác trên đất dốc, quan điểm sử dụng đất bền vững là những
giải pháp quan trọng và là cơ sở cho quy hoạch cấp vi mô.


8

1.2. Ở Việt Nam
1.2.1. Những nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn
Quá trình sử dụng đất đã xuất hiện từ khi có phương thức canh tác lúa nước,
nhưng mãi đến thế kỷ 15 kinh nghiệm sử dụng đất mới bắt đầu được chú ý, trong
Vân Đài loại ngữ, Lê Quý Đôn đã khuyên nông dân áp dụng luân canh với cây họ
đậu để tăng năng suất cây lúa.

Vào đầu thế kỷ 18, Nguyễn Công Trứ đã cho dân quai đê lấn biển để lấy đất
canh tác lập nên huyện Tiền Hải – Thái Bình ngày nay.
Trong thời kỳ Pháp thuộc các công trình nghiên cứu đánh giá và QHSDĐ đã
được các nhà khoa học Pháp nghiên cứu phát triển với quy mô rộng.
Từ năm 1955-1975, công tác điều tra phân loại đất đã được tổng hợp một cách
có hệ thống trong phạm vi toàn miền Bắc, nhưng đến năm 1975 các số liệu nghiên cứu
về phân loại đất mới được thống nhất. Xung quanh chủ đề phân loại đất đã có nhiều
công trình nghiên cứu triển khai thực hiện trên các vùng sinh thái (Ngô Nhật Tiến,
1986; Đỗ Đình Sâm, 1994,...) Tuy nhiên những công trình nghiên cứu trên mới chỉ
dừng lại ở nghiên cứu cơ bản, thiếu những đề xuất cho việc sử dụng đất. Những thành
tựu về nghiên cứu đất đai trong các giai đoạn trên là cơ sở quan trọng, góp phần vào
việc bảo vệ, cải tạo, quản lý và sử dụng đất đai một cách có hiệu quả trong cả nước.
Công trình “Sử dụng đất tổng hợp và bền vững” của Nguyễn Xuân Quát
(1996) [39] đã phân tích tình hình sử dụng đất đai cũng như mô hình sử dụng đất
tổng hợp bền vững, mô hình khoanh nuôi và phục hồi rừng ở Việt Nam, đồng thời
cũng bước đầu đề xuất tập đoàn cây trồng thích hợp cho các mô hình sử dụng đất
tổng hợp và bền vững.
Trong công trình “Đất rừng Việt Nam” [1], Nguyễn Ngọc Bình đã đưa ra
những quan điểm nghiên cứu và phân loại đất rừng dựa trên cơ sở những đặc điểm
cơ bản của đất rừng Việt Nam.
Về luân canh, tăng vụ, trồng xen, trồng gối vụ để sử dụng hợp lý đất đai đã
được nhiều tác giả như: Phạm Văn Chiến (1964), Bùi Huy Đáp (1977), Vũ Tuyên
Hoàng (1987), Lê Trọng Cúc (1971), Nguyễn Ngọc Bình (1987), đề cập tới việc lựa


9

chọn hệ thống cây trồng phù hợp trên đất dốc vùng đồi núi phía Bắc Việt Nam cũng
đã được Bùi Quang Toản (1991) và nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu.
Năm 1996, công trình QHSDĐ nông nghiệp ổn định ở vùng trung du miền

núi nước ta của tác giả Bùi Quang Toản đã đề xuất sử dụng đất nông nghiệp vùng
đồi núi và trung du [27]. Hà Quang Khải, Đặng Văn Phụ (1997) trong chương trình
tập huấn hỗ trợ LNXH của trường Đại học Lâm nghiệp đã đưa ra khái niệm về hệ
thống sử dụng đất và đề xuất một số hệ thống và kỹ thuật sử dụng đất bền vững
trong điều kiện Việt Nam [20].
Vấn đề sử dụng đất đai gắn với việc bảo vệ độ phì nhiêu của đất và môi
trường ở vùng đồi núi trung du miền Bắc Việt Nam, đã được Lê Vĩ đề cập tới trên
khía cạnh sau [42]:
- Tăng năng suất vùng trung du.
- Hiện trạng sử dụng đất vùng trung du.
- Các kiến nghị về sử dụng đất bền vững.
Những nghiên cứu hệ thống canh tác ở nước ta được đẩy mạnh hơn sau khi
đất nước thống nhất. Căn cứ vào điều kiện đất đai mà ngành lâm nghiệp Việt Nam
đã phân chia đất toàn quốc thành 7 vùng sinh thái, đó là: Trung du và miền núi Bắc
bộ, Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung bộ, Nam Trung bộ, Tây Nguyên, Đồng Nam
bộ và Đồng bằng sông Cửu Long.
Qua nghiên cứu hệ thống nông nghiệp đồng bằng sông Hồng, Đào Thế Tuấn
đã phát hiện được nhiều tồn tại, nguyên nhân của nó, đề xuất các mục tiêu và giải
pháp khắc phục [28].
Công tác QHSDĐ trên quy mô cả nước giai đoạn 1995-2000 đã được Tổng
cục Địa chính xây dựng vào năm 1994. Trong đó việc lập kế hoạch giao đất nông
nghiệp, lâm nghiệp có rừng để sử dụng vào mục đích khác cũng được đề cấp tới.
Báo cáo đánh giá tổng quát hiện trạng sử dụng đất và định hướng phát triển đến
năm 2000 làm căn cứ để các địa phương và các ngành thống nhất triển khai công tác
quy hoạch và lập kế hoạch sử dụng đất.


10

Phương pháp tiếp cận nông thôn có sự tham gia được đề cập trong chương

trình tập huấn dự án hỗ trợ lâm nghiệp của trường Đại học Lâm nghiệp. Lý Văn
Trọng, Nguyễn Bá Ngãi, Nguyễn Nghĩa Biên và Trần Ngọc Bình (1997) [30] đã
phối hợp với các chuyên gia trong và ngoài nước biên soạn tài liệu với những vấn
đề chính sau:
- Các khái niệm và phương pháp tiếp cận trong quá trình tham gia.
- Các phương pháp, công cụ đánh giá nông thôn có người dân tham gia.
- Tổ chức quá trình đánh giá nông thôn.
Trong tài liệu hướng dẫn công tác QHSDĐ và giao đất lâm nghiệp có sự
tham gia của người dân, Đoàn Diễm (1997) [14] đã tập trung vào những vấn đề sau:
- Phương pháp QHSDĐ và giao đất lâm nghiệp ở Việt Nam.
- Phương pháp QHSDĐ và giao đất lâm nghiệp của dự án
GCP/VIE/024/ITA.
Tài liệu tập huấn về QHSDĐ và giao đất lâm nghiệp có sự tham gia của
người dân của tác giả Trần Hữu Viên (1997) [40] đã kết hợp phương pháp QHSDĐ
trong nước và của một số dự án quốc tế đang áp dụng tại một số vùng có dự án ở
Việt Nam. Trong đó, tác giả đã trình bày về khái niệm và nguyên tắc chỉ đạo
QHSDĐ và giao đất có người dân tham gia.
Chương trình phát triển nông thôn miền núi Việt Nam - Thụy Điển giai đoạn
1996-2001 trên phạm vi của 5 tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang và
Phú Thọ đã tiến hành thử nghiệm công tác cấp xã trên cơ sở kế hoạch phát triển cấp
thôn bản và hộ gia đình. Đến năm 1998 trên toàn vùng Dự án có 78 thôn bản được
QHSDĐ theo phương pháp có người dân tham gia. Phương pháp QHSDĐ trong giai
đoạn này đã căn cứ vào nhu cầu và nguyện vọng của người sử dụng đất với cách
tiếp cận từ dưới lên tạo ra kế hoạch có tính khả thi cao hơn. Tuy nhiên, chưa tạo ra
sự gắn kết chặt chẽ giữa chủ trương của Nhà nước với nhu cầu nguyện vọng của
nhân dân.
Tác giả Vũ Văn Mễ và Desloge năm 1996 [23] đã thử nghiệm phương pháp
QHSDĐ có người dân tham gia tại Quảng Ninh và sau đó là Thừa Thiên Huế, Gia



11

Lai và Sa Đéc đã cho rằng quy hoạch cấp xã phải dựa trên tình trạng sử dụng đất
hiện tại, tiềm năng sản xuất của đất, các quy định của Nhà nước và nhu cầu nghĩa
vụ của nhân dân…
Năm 2000, luận án tiến sĩ khoa học nông nghiệp của Nguyễn Bá Ngãi:
“Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn cho quy hoạch phát triển lâm, nông nghiệp
cấp xã vùng trung tâm miền núi phía Bắc Việt Nam” trong đó tác giả nhấn mạnh vai
trò của người dân địa phương trong việc quy hoạch và nhận định rằng phương pháp
đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia của người dân là công cụ rất tốt, có hiệu quả
và đảm bảo tính khả thi cho bản quy hoạch [25].
Các nhà khoa học trong và ngoài nước điều cho rằng, quan điểm QHSDĐ
nông lâm nghiệp cấp địa phương nên đi theo hướng sau:
- Tiến hành nghiên cứu khả năng chuyển từ quy hoạch nông, lâm nghiệp chủ
yếu dựa trên chức năng sử dụng đất sang dựa trên tiềm năng đất đai.
- Rà soát và xem lại hệ thống chính sách nhằm hướng tới đa mục đích sử
dụng đất bằng, đa dạng hoá các hoạt động sản xuất trong mỗi bản quy hoạch của
cộng đồng.
- Gắn hai quá trình quy hoạch và giao đất, coi đó là hai bộ phận có quan hệ
chặt chẽ để làm cơ sở cho QHSDĐ nông, lâm nghiệp ở mỗi địa phương và mỗi
cộng đồng.
- Nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp cùng tham gia trong quá trình quy
hoạch phát triển SXNLN, xác định và phân bố rõ các chủ thể trong quy hoạch phát
triển sản xuất nông, lâm nghiệp cấp xã.
Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề quy hoạch cấp vi mô đã được đề cập tới
trong nhiều công trình nghiên cứu ở mức độ khác nhau. Cho đến nay những nghiên
cứu trên vẫn còn hết sức tản mạn và chưa có sự phân tích tổng hợp thành cơ sở lý
luận để có thể áp dụng vào thực tiễn. Sự tham gia của người dân trong các công
trình quy hoạch nói chung và sử dụng đất cấp vi mô nói riêng mới được nghiên cứu và
ứng dụng trong những năm gần đây.



12

1.2.2 Một số chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước về công tác
quy hoạch PTNLN gần đây
- Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, tại điều 17
và 18 chương 2 quy định: “Đất đai là của Nhà nước, thuộc quyền sở hữu của toàn
dân. Nhà nước thống nhất quản lý theo quy hoạch và pháp luật, đảm bảo sử dụng
đúng mục đích và hiệu quả cao. Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử
dụng ổn định lâu dài. Các tổ chức các nhân có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ, khai thác
hợp lý, sử dụng tiết kiệm đất,…”.
- Luật đất đai số 13/2003/QH 11 đã được Quốc Hội nước cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26/11/2003 gồm 7
chương và 146 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2004, Luật này thay thế cho
Luật đất đai năm 1993.
- Luật Bảo vệ và Phát triển rừng số 29/2004/QH11 được Quốc Hội nước cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 03/12/2004 bao
gồm 8 chương và 88 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/4/2005.
Vai trò của cấp xã trong trong việc QHSDĐ và quy hoạch đất, cũng như quy
hoạch, kế hoạch quản lý bảo vệ, phát triển rừng được đề cập trong hai bộ luật quan
trọng này. Ngoài ra Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật tạo
điều kiện hành lang pháp lý đến quy hoạch phát triển SXNLN, như:
- Nghị định 181/2004/NĐ-CP hướng đẫn đầy đủ và chi tiết cho công tác quy
hoạch cấp xã bao gồm các hướng dẫn chi tiết về phân loại đất, QHSDĐ chi tiết, kế
hoạch sử dụng đất chi tiết của xã. Trách nhiệm lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất,
tổ chức lấy ý kiến đóng góp của nhân dân đối với QHSDĐ chi tiết. Đây là Nghị định
hướng dẫn thi hành luật đất đai năm 2003 có ý nghĩa quan trọng trong việc hướng dẫn
chỉ đạo công tác quy hoạch đất đai nói chung và QHSDĐ cấp xã nói riêng.
- Nghị định số 23/2006/NĐ-CP quy định cụ thể về quy hoạch, kế hoạch bảo

vệ và triển rừng, giao rừng, cho thuê rừng, thu hồi rừng, chuyển mục đích sử dụng
rừng, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, công nhận đăng ký, cho thuê lại, thế
chấp, bảo lãnh, góp vốn, để thừa kế quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản


13

xuất và rừng trồng, thống kê, kiểm kê, theo dõi diễn biến tài nguyên rừng. Nghị
định 23/2006 cùng với các văn bản pháp luật khác đã tạo ra nền tảng pháp lý và
hướng đi thích hợp trong giai đoạn phát triển mới, được cụ thể hoá bằng việc xây
dựng và chọn lựa phương án QHSDĐ tối ưu phù hợp nhất cho cả nước nói chung và
cho UBND các cấp nói riêng.
- Để hướng dẫn việc thống kê, kiểm kê đất đai và xây dựng bản đồ hiện trạng

sử dụng đất đai của cả nước và tỉnh, huyện, và xã. Bộ Tài nguyên và Môi trường
ban hành thông tư 80/2007TT-BTNMT ngày 02 tháng 08 năm 2007. Kế quả kiểm
kê làm căn cứu điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất và đề xuất các chính sách pháp
luật về đất đai.
- Chỉ thị số 38/2005/CT-TTG ngày 05/12/2005 của Thủ tướng Chính phủ về
rà soát lại 3 loại rừng. Kết quả rà roát này làm căn cứ để lập kế hoạch phát triển sản
xuất lâm nghiệp lâu dài đặc biệt là kế hoạch cho phát triển rừng sản xuất.
- Thông tư số 05/2008/TT-BNN ngày 15 tháng 01 năm 2008 của Bộ Nông
nghiệp &PTNT về hướng dẫn quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng.
1.2.3 Những kết luận rút ra từ nghiên cứu và kinh nghiệm của Việt Nam
về quy hoạch PTNLN
Thông qua đánh giá và phân tích các nghiên cứu và thử nghiệm về QHSDĐ
ở Việt Nam có thể rút ra một số kết luận chủ yếu sau:
- Ở Việt Nam đã có những nhiên cứu khá đầy đủ về QHSDĐ cấp vĩ mô, song
cấp vi mô còn nhiều hạn chế, chưa có các nghiên cứu đầy đủ về QHSDĐ đai ở các
địa phương, đặc biệt là ở cấp xã.

- Phương pháp QHSDĐ còn đang thụ động, thiếu thống nhất, thường chạy
theo những mục đích sử dụng cho hiện tại mà chưa xác lập cho những mục đích của
tương lai lâu dài.
- Phương pháp quy hoạch có sự tham gia của người dân đã được áp dụng ở một
số địa phương, nhưng chưa tổng kết xác định đối tượng cụ thể tham gia và vai trò của họ.
- Trong nội dung quy hoạch vẫn chưa xác định được mối quan hệ giữa quy
hoạch cấp xã với quy hoạch cấp trên, chưa có sự thống nhất và tính riêng rẽ giữa


14

quy hoạch cấp xã với cấp thôn bản. Chủ yếu áp dụng từ trên dẫn đến giải quyết về
vấn đề chưa thỏa đáng. Thiếu sự gắn kết giữa quy hoạch nông, lâm nghiệp và các
ngành khác (Giao thông, thuỷ lợi, xây dựng). Đây là nguyên nhân cơ bản dẫn đến
những mâu thuẫn và chồng chéo trong các nội dung quy hoạch. Các quy hoạch này
thiếu tính dự báo dài hạn, nên nhiều bản quy hoạch phải liên tục bổ sung, điều chỉnh
gây mất ổn định và khó khăn trong công tác chỉ đạo và quản lý.
- Kết quả nghiên cứu về sử dụng đất dốc mới chỉ được áp dụng cho đối tượng
đất sản xuất nơi người dân có trình độ canh tác khá cao, còn ở những nơi vùng sâu,
vùng xa, nơi trình độ dân trí thấp, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn thì
chưa được nghiên cứu đầy đủ.
- Công tác quy hoạch thường dựa vào ý chủ quan của các nhà quy hoạch,
thiếu sự đóng góp và tham gia chủ động của người dân. Vì vậy không khai thác
được kinh nghiệm của người dân địa phương và tính khả thi không cao. Hơn nữa
phương pháp quy hoạch dựa trên thuộc tính của đất đai, ít xét đến tiềm năng của đất
đai, nhu cầu và khả năng của cộng đồng. Cơ sở khoa học cho quy hoạch nông – lâm
nghiệp cấp xã chưa rõ ràng, đồng thời thực tiễn về quy hoạch cấp xã chưa có nhiều
để tổng kết và đánh giá.
- Phương pháp tiếp cận và chuyển giao kỹ thuật còn nặng nề về xây dựng mô
hình, chưa thúc đẩy mạnh mẽ công tác thông tin, tuyên truyền, tập huấn, huấn

luyện, tham quan học tập kinh nghiệm, đồng thời ít chú ý đến các yếu tố phi kỹ
thuật, như tổ chức sản xuất, thị trường tiêu thụ sản phẩm và tiếp thị,… nhằm đảm
bảo cho các tiến bộ kỹ thuật được chuyển giao và trình diễn phát huy tối đa được
hiệu quả.
Từ những hạn chế trên, đề tài sẽ tiến hành nghiên cứu một số vấn đề như
phương pháp tiếp cận có sự tham gia trong quy hoạch, phương pháp đánh giá đất đai,
phân tích hệ thống canh tác, lựa chọn cơ cấu tập đoàn cây trồng, xác định phương
thức, phương pháp và định hướng sử dụng các loại đất, lựa chọn cơ cấu cây trồng vật
nuôi vào quy hoạch PTLNN.


15

Chương 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu
2.1.1. Về lý luận
Xây dựng cơ sở khoa học và phương pháp luận cho việc đề xuất phương án
quy hoạch phát triển SXLNN.
2.1.2. Về thực tiễn
Đề xuất phương án quy hoạch phát triển SXLNN tại xã Hải Vân, huyện Như
Thanh, tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 2008-2017.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
- Các văn bản pháp quy của Nhà nước về đất đai, chính sách phát triển nông,
lâm nghiệp, định mức kinh tế kỹ thuật trong xây dựng cơ bản và lâm sinh.
- Điều kiện tự nhiên, dân sinh kinh tế xã hội và nhân văn của xã.
- Các cơ chế chính sách đã và đang áp dụng ảnh hưởng đến QHSDĐ.
- Các hoạt động đã và đang thực hiện liên quan đến QHSDĐ.
- Một số mô hình sử dụng đất đai tại xã Hải Vân. Trong đó tập trung chủ yếu

về đất cho phát triển SXNLN.
- Thị trường, giá cả khu vực xã Hải Vân.
2.3. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu của đề tài
Do yêu cầu của luận văn tốt nghiệp với điều kiện thời gian có hạn, đề tài chỉ
tiến hành nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn quy hoạch PTLNN tại xã Hải Vân,
huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hoá.
Giới hạn của luận văn là chỉ mới căn cứ vào điều kiện tự nhiên, kinh tế xã
hội, đặc điểm sinh thái của địa phương để cùng người dân xây dựng nên phương án
PTLNN của xã.
2.4. Nội dung
Để đạt được những mục tiêu đề ra đề tài tiến hành nghiên cứu những nội
dung chính sau:


16

2.4.1. Nghiên cứu một số cơ sở ý luận và thực tiễn của quy hoạch PTLNN
2.4.1.1. Cơ sở lý luận
- Quy hoạch PTLNN cấp xã trong hệ thống quy hoạch PTLNN cấp vĩ mô.
- Vai trò tham gia của người dân trong quy hoạch PTLNN cấp xã.
- Quan điểm hệ thống trong quy hoạch PTLNN cấp xã.
- Quan điểm bền vững trong quy hoạch PTLNN cấp xã.
- Quy hoạch PTLNN trong nền kinh tế thị trường.
- Ảnh hưởng của chính sách và pháp luật đến quy hoạch PTLNN
2.4.1.2. Cơ sở thực tiễn
- Cơ sở kinh tế của quy hoạch PTLNN.
- Cơ sở kỹ thuật của quy hoạch PTLNN.
- Thực trạng công tác QHSDĐ và quy hoạch PTLNN cấp xã đã và đang thực
hiện tại địa phương.
2.4.2. Nghiên cứu, phân tích điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội

- Phân tích đánh giá các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của xã.
- Điều tra tình hình quản lý đất đai và SXNLN.
- Điều tra và lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất lâm nông nghiệp xã.
2.4.3. Đề xuất phương án quy hoạch PTLNN xã Hải Vân
- Phân tích hiệu quả của các kiểu sử dụng đất trên địa bàn xã Hải Vân.
- Lựa chọn cơ cấu cây trồng vật nuôi.
- Quy hoạch phân bổ sử dụng đất lâm nghiệp, nông nghiệp.
- Đề xuất các giải pháp kỹ thuật thực hiện phương án quy hoạch.
- Dự tính đầu tư và hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường.
2.5. Phương pháp nghiên cứu
2.5.1. Quan điểm phương pháp luận
Quy hoạch phát triển SXLNN thực chất là bố trí sử dụng các loại đất đai một
cách hợp lý với cơ cấu cây trồng vật nuôi, nhằm khai thác triệt để mọi tiềm năng về
điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và các nguồn lực để thu được những nguồn lợi
tối đa.


17

Quy hoạch phát triển SXLNN là một lĩnh vực đa ngành, có quan hệ mật thiết
với nhiều yếu tố của hoạt động sản xuất kinh doanh, bao gồm chế độ chính sách,
điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và tài nguyên môi trường. Quy hoạch phát triển
SXLNN chỉ có thể thành công khi nó được kết hợp đồng bộ các yếu tố trên nhờ
những hiểu biết về kỹ thuật tiên tiến. Khi những điều kiện này thay đổi, sẽ kéo theo
sự thay đổi của công tác quy hoạch.
Quy hoạch phát triển SXLNN hợp lý khi nó đạt được cả những mục tiêu trước
mắt và mục tiêu lâu dài, phải phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội
trong toàn khu vực. Muốn vậy, khi quy hoạch cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa
hiện tại và tương lai, cục bộ và toàn diện, chi tiết và tổng thể, giữa cung và cầu.
2.5.2. Phương pháp thu thập số liệu

2.5.2.1. Phương pháp kế thừa có chọn lọc các tài liệu thứ cấp
Sử dụng phương pháp kế thừa có chọn lọc các nguồn tài liệu thứ cấp tại địa
phương và các cơ quan hữu quan như:
- Tài liệu về địa lý, đất đai, thổ nhưỡng, khí hậu thuỷ văn.
- Tài liệu về dân sinh kinh tế xã hội, quản lý thôn, bản.
- Tài liệu phân loại rà soát 3 loại rừng và các loại đất đai khác.
- Tình hình SXNLN của xã từ năm 2007 về trước.
- Phương án QHSDĐ trước đây.
- Bản đồ hiện trạng sử dụng đất, bản đồ về tài nguyên rừng,...
- Tài liệu về lĩnh vực nông lâm nghiệp.
- Tài liệu khuyến nông, khuyến lâm,... và các tài liệu khác có liên quan.
- Thông tin thị trường và tiêu thụ sản phẩm trong địa bàn xã và xung quanh
khu vực nghiên cứu.
- Các số liệu thống kê về đất đai, cơ sở hạ tầng, kết quả SXNLN, thị trường
giá cả…được thu thập tại phòng Thống kê, phòng Nông nghiệp huyện.
- Các tài liệu liên quan tới hoạt động đất đai như: QHSDĐ; quy hoạch tổng
thể phát triển kinh tế xã hội của huyện, tỉnh; các loại bản đồ sử dụng đất, giao đất;
phương pháp quy hoạch và sử dụng đất đai đã và đang áp dụng tại Thanh Hoá.


18

- Phương hướng, đường lối chính sách, chủ trương của tỉnh đối với hoạt động
sử dụng đất, hoạt động SXLNN.
Ngoài các nguồn tài liệu trên, đề tài còn tiến hành thu thập một số quy trình,
quy phạm của ngành, các hướng dẫn kỹ thuật canh tác, QHSDĐ và do các tổ chức,
các chương trình và dự án đề xuất.
2.5.2.2. Phương pháp điều tra nhanh nông thôn
Bằng các công cụ phỏng vấn và tiếp xúc lãnh đạo các ban ngành liên quan tại
tỉnh và huyện, xã, thôn và hộ nông dân, để thu thập những thông tin cơ bản của địa

phương, xác định sơ bộ các vấn đề để xây dựng đề cương nghiên cứu và phương
pháp thu thập số liệu.
2.5.2.3. Phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân
- Sử dụng các công cụ phân tích lịch mùa vụ cho các cây trồng hàng năm, sử
dụng lao động ở phạm vi xã và thẩm định cho các thôn.
- Sử dụng công cụ phân tích xu hướng cho các loài cây trồng chính cấp thôn.
- Sử dụng sơ đồ Venn để phân tích hệ thống tổ chức và mối quan hệ giữa các
tổ chức với đối tượng quy hoạch.
- Sử dụng phương pháp phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức
(SWOT) để đánh giá hiện trạng quản lý sử dụng đất và quy hoạch PTLNN.
- Họp thôn để trình bày, thảo luận và củng cố thông tin.
2.5.2.4. Phương pháp điều tra chuyên đề
Việc điều tra chuyên đề thực hiện để bổ sung các thông tin chưa được thu
thập trong quá trình PRA, cụ thể là:
- Lĩnh vực trồng trọt điều tra các chỉ tiêu: Cơ cấu cây trồng, tình hình giao
đất nông nghiệp, các thông tin chung về sinh trưởng, phát triển, năng suất sản lượng
cây trồng của xã, đầu tư thâm canh, sâu bệnh, tổn thất cây trồng, thông tin khuyến
lâm, khuyến nông…
- Lĩnh vực chăn nuôi điều tra các chỉ tiêu: Tình hình chăn nuôi của xã, các
chủng loại giống, bãi chăn thả, dịch bệnh, khả năng đầu tư, cải tạo giống, thông tin
về khuyến lâm khuyến nông thôn bản.


19

- Lĩnh vực lâm nghiệp điều tra các chỉ tiêu: Tình hình sử dụng đất lâm
nghiệp, tình hình giao đất lâm nghiệp, tình hình quản lý rừng, tình hình đầu tư phát
triển rừng, tình hình quản lý bảo vệ rừng.
2.5.2.5. Phương pháp đánh giá đất đai
Tài nguyên đất của xã Hải Vân được điều tra, đánh giá dựa trên bản đồ tài

nguyên đất tỷ lệ 1/10.000 kết hợp với điều tra bổ sung tại thực địa.
2.5.2.6. Chọn điểm và hộ gia đình điều tra
Trong xã chọn 3 thôn đại diện, thôn này đại diện đặc trưng cho xã về các
mặt: Dân cư và phân bố dân cư, dân tộc, vị trí thôn, điều kiện tự nhiên có đầy đủ
hoặc gần đủ các kiểu sử dụng đất. Tiến hành phỏng vấn mỗi thôn 10 hộ để bổ sung
vào kết quả PRA. Việc phỏng vấn hộ gia đình được tập trung vào các thông tin kinh
tế, xã hội và chính sách. Tại thôn cũng tổ chức thảo luận nhóm để đánh giá các yếu
tố về chính sách, tổ chức, văn hóa.
2.5.3. Tổng hợp và phân tích số liệu
2.5.3.1. Tổng hợp và phân tích thông tin cơ bản về điều kiện tự nhiên,
kinh tế xã hội
Trên cơ sở những số liệu thu thập được, tiến hành kiểm tra thông tin chọn
lọc, loại bỏ những số liệu lạc hậu không đúng với thực tế, tiến hành được tổng hợp
và phân tích theo nhóm sau:
- Các thông tin liên quan đến điều kiện tự nhiên như: Vị trí địa lý, địa hình
địa vật, khí hậu thủy văn, thổ nhưỡng, thực vật tự nhiên được thu thập chắt lọc từ
các tài liệu gốc của địa phương.
- Các thông tin về điều kiện kinh tế xã hội như: Dân cư (dân số, lao động,
thành phần dân tộc…), cơ cấu xã hội (xã, thôn, nhóm hộ, hộ gia đình), nghề nghiệp
và việc làm, dịch vụ xã hội và cơ sở hạ tầng (y tế, giáo dục, giao thông, thông tin
liên lạc, thị trường giá cả…) được tổng hợp theo yêu cầu của nội dung đề tài.
- Hệ thống thông tin liên quan đến tổ chức và thể chế được tổng hợp và phân
tích bằng phương pháp SWOT. Phương pháp phân tích tập trung vào các chỉ tiêu:


20

Tổ chức cộng đồng, dịch vụ khuyến nông, quản lý và bảo vệ rừng, dịch vụ thú y,
hoạt động tín dụng cộng đồng…
2.5.3.2. Tổng hợp và phân tích thông tin điều tra chuyên đề

- Thông tin thu thập được để phục vụ cho quy hoạch phát triển SXLNN được
tổng hợp theo phương án tối ưu hóa mục tiêu và phân tích đa tiêu chuẩn áp dụng
cho việc xây dựng kế hoạch. Bài toán phân tích kinh tế được sử dụng cho việc lựa
chọn các phương án.
- Thông tin được tổng hợp cho phân tích các hệ thống canh tác theo hệ thống
bảng, bản đồ hiện trạng sử dụng đất và tài nguyên rừng, bản đồ quy hoạch tỷ lệ
1/10.000 được xây dựng kết hợp giữa khảo sát hiện trường và tính toán nội nghiệp.
- Trong quá trình xử lý tài liệu, các thông tin được chỉnh lý và sắp xếp theo
thứ tự ưu tiên, mức độ quan trọng của vấn đề, phân tích các ý kiến, quan điểm để
lựa chọn và tìm giải pháp.
- Thực trạng của công tác quy hoạch SXNLN đã và đang thực hiện đánh giá
phân tích theo sơ đồ SWOT.
2.5.3.3. Phương pháp phân tích hiệu quả kinh tế
Phương pháp CBA được vận dụng phân tích hiệu quả kinh tế các mô hình
sản xuất, trên cơ sở đó để lựa chọn các mô hình sử dụng đất có hiệu quả kinh tế nhất
để tiến hành quy hoạch sản xuất. Các số liệu được tổng hợp và phân tích bằng các
hàm kinh tế trong chương trình Excel 7.0 trên máy tính cá nhân PC. Các chỉ tiêu sau
đây được vận dụng trong phân tích CBA.
a. Tính giá trị hiện tại của thu nhập ròng (NPV) : Là giá trị hiện tại của lợi
nhuận đạt được trong cả chu kỳ đầu tư. Nó được tính toán theo công thức (2-1)

Bt  Ct
t
t  0 (1  r)
n

NPV

 


Trong đó:
NPV: Giá trị hiện tại của thu nhập ròng (đồng).
Bt: Giá trị thu nhập ở năm t (đồng)

(2-1)


21

Ct: Giá trị chi phí ở năm t (đồng)
r: Tỷ lệ chiết khấu hay lãi suất (%)
t: Thời gian thực hiện các hoạt động sản xuất (năm)
n


t 0

: Tổng giá trị hiện tại của thu nhập ròng từ năm thứ 0 đến năm thứ n

Tiêu chuẩn đánh giá theo NPV: NPV > 0: Mô hình có lãi, NPV<0: Mô hình
bị thua lỗ, NPV = 0: Mô hình hoà vốn. Hoạt động nào có NPV càng lớn thì hiệu quả
càng cao.
b. Tỷ suất giữa thu nhập và chi phí (BCR)
BCR là hệ số sinh lãi thực tế, nó phản ánh chất lượng đầu tư và cho biết mức thu
nhập trên một đơn vị chi phí sản xuất. Nó được thể hiện theo công thức (2-2)
n

Bt

 (1 r )


t

BCR 

t 0
n


t 0

Ct
t
(1 r )



BPV
CPV

(2-2)

Trong đó:
BCR: Tỷ suất giữa thu nhập và chi phí (đồng)
BPV: Giá trị hiện tại của thu nhập (đồng)
CPV: Giá trị hiện tại của chi phí (đồng).
Nếu mô hình sản xuất nào có BCR>1 thì mô hình đó có hiệu quả kinh tế,
BCR càng lớn thì hiệu quả kinh tế càng cao và ngược lại BCR≤1 thì việc sản xuất
không có hiệu quả.
c. Tỷ lệ thu hồi nội bộ (IRR):

Là chỉ tiêu thể hiện tỷ suất lợi nhuận thực tế của một chương trình đầu tư, tức
là nếu vay vốn với lãi suất bằng chỉ tiêu này thì chương trình đầu tư hòa vốn. IRR
thể hiện lãi suất thực của một chương trình đầu tư, lãi suất này bao gồm 2 bộ phận:
- Trang trải lãi vay ngân hàng.
- Phần lãi của nhà đầu tư.


22

IRR thể hiện mức lãi suất vay vốn tối đa mà chương trình đầu tư có thể chấp
nhận được mà không bị lỗ vốn.
IRR dùng để đánh giá hiệu quả kinh tế và khả năng thu hồi của các hoạt động
sản xuất có kể đến yếu tố thời gian thông qua tính chiết khấu. IRR chính là tỷ lệ
chiết khấu khi tỷ lệ này làm cho NPV=0, tức là khi đó tỷ lệ chiết khấu i được xác
định là tỷ lệ thu hồi nội bộ (NPV=0 thì i=IRR). Nếu IRR càng lớn thì hiệu quả càng
cao, khả năng thu hồi vốn càng sớm.
Nếu IRR>r là có lãi ; IRRVới r là lãi suất ngân hàng.
Tỷ lệ chiết khấu được tính theo lãi suất ngân hàng tại thời điểm tính toán.
2.5.3.4. Phương pháp phân tích hiệu quả tổng hợp
Hiệu quả tổng hợp của các phương thức canh tác có nghĩa là một phương thức
canh tác phải có hiệu quả kinh tế nhất, mức độ chấp nhận của xã hội cao nhất (hiệu quả
xã hội) và góp phần gìn giữ bảo vệ môi trường sinh thái (hiệu quả sinh thái).
Áp dụng phương pháp tính chỉ số hiệu quả tổng hợp các phương thức canh
tác (Ect) của W. Rola (1994):



 1
Ect   f 1 hoÆc f min   ....   f n hoÆc f min  x

 f max
 f max
f 1 
f n  n

(2-3)

Trong đó:
Ect là chỉ số hiệu quả tổng hợp. Nếu Ect = 1 thì phương thức canh tác có
hiệu quả tổng hợp cao nhất. Phương thức nào có Ect càng gần 1 thì hiệu quả tổng
hợp càng cao.

f: Là các đại lượng tham gia vào tính toán (NPV, CPV, IRR...)
n là số đại lượng tham gia vào tính toán.


23

Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

3.1 . Cơ sở lý luận và thực tiễn của quy hoạch PTLNN xã Hải Vân
QHSDĐ là cơ sở quan trọng để xây dựng kế hoạch PTNLN. Để phát huy
hiệu quả của quy hoạch PTNLN và phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương,
cũng như các ưu tiên của Chính phủ, khi xây dựng phương án quy hoạch PTNLN
phải dựa trên cơ sở của QHSDĐ nhằm đảm bảo các nguyên tắc sau:
Về mặt lý luận QHSDĐ cấp xã phải được xây dựng dựa trên những nguyên
tắc cơ bản sau:
- Phải nằm trong hệ thống QHSDĐ cấp vĩ mô.
- Có sự tham gia tích cực của người dân tại chỗ.

- Được xây dựng trên quan điểm hệ thống.
- Phù hợp với yêu cầu và phát triển lâu dài.
- Có thị trường tiêu thụ rộng lớn và ổn định.
- Phù hợp với pháp luật và các chính sách hiện hành.
Trên quan điểm thực tế QHSDĐ cấp xã phải thoả mãn các yêu cầu sau:
- Phù hợp với yêu cầu tự nhiên, kinh tế xã hội.
- Phát huy cao nhất tiềm năng của các loại đất đai.
- Đem lại hiệu quả cao nhất.
- Đảm bảo an toàn về mặt môi trường.
- Được đông đảo người dân trong cộng đồng chấp nhận.
- Có khả năng thực thi cao.
Sau đây là những kết quả phân tích và nghiên cứu bước đầu về những cơ sở trên.
3.1.1. Cơ sở lý luận
3.1.1.1. Quy hoạch PTLNN cấp xã trong hệ thống quy hoạch PTNLN
Hiện nay hệ thống quy hoạch của cả nước bao gồm cấp quốc gia, cấp tỉnh,
cấp huyện (gọi là cấp vĩ mô). Cấp thôn bản, cấp hộ gia đình (gọi là cấp vi mô). Cấp
xã là cấp phối hợp giữa cấp vi mô và cấp vĩ mô. Bởi vì cấp xã vừa là cấp cơ sở (vi


24

mô) có chức năng hành pháp về quản lý nhà nước vừa là cấp quản lý kế hoạch sử
dụng đất, kế hoạch sản xuất tại địa phương theo định hướng phát triển quy hoạch
chung (vĩ mô). Vì vậy cấp xã phải kết hợp hài hoà quy hoạch vĩ mô và vi mô, nghĩa
là vừa quy hoạch định hướng, vừa quy hoạch quản lý sản xuất.
Quy hoạch PTNLN cấp xã chịu tác động của cấp quy hoạch cao hơn thể hiện
qua việc chấp hành thực thi quy hoạch cấp huyện, tỉnh, vùng và Trung ương, đồng thời
đề xuất với cấp trên về kế hoạch sử dụng đất của địa phương.
Quy hoạch PTNLN cấp xã tác động với cấp dưới như thôn, bản, hộ gia đình
thông qua việc hướng dẫn cấp thôn bản lập và điều phối kế hoạch sử dụng đất, đồng

thời hướng dẫn và hỗ trợ để các cộng đồng tự xây dựng kế hoạch sử dụng đất, đảm
bảo kết hợp hài hoà giữa nhu cầu của người dân và ưu tiên của Chính phủ trong sử
dụng đất đai.
Nội dung của QHSDĐ các cấp được đề cập là tương tự, nhưng ở mức độ giải
quyết theo chiều sâu, chiều rộng có khác nhau. Nội dung trong quy hoạch cấp vĩ mô
có tính chất định hướng nguyên tắc và luôn gắn với ý đồ phát triển kinh tế của cấp
quản lý lãnh thổ. Quy hoạch cấp xã, thôn bản là các cấp thấp bên dưới. Trong đó đã
được coi là đơn vị cơ bản quản lý và tổ chức SXLNN của thành phần kinh tế tập thể
và tư nhân. Vì vậy, cấp xã là cấp quản lý hành chính thấp nhất yêu cầu giải quyết
các nội dung, biện pháp kỹ thuật, kinh tế xã hội và cần ước tính được cả về đầu tư,
nguồn vốn, hiệu quả, thời gian thu hồi vốn một cách cụ thể.
3.1.1.2. Quy hoạch PTNLN có sự tham gia của người dân
Phát triển kinh tế mà đặc biệt là phát triển kinh tế nông thôn đang là nhiệm
vụ ưu tiên hàng đầu của các nước đang phát triển ở Châu Á và Châu Phi, trong đó
có Việt Nam.
Những năm trước đây, việc phát triển sản xuất ở nông thôn vẫn áp dụng
phương pháp tiếp cận từ trên xuống, thiếu vai trò tham gia của người dân địa
phương. Do đó việc tiếp cận nông thôn có sự tham gia của người dân là một bước
tiến mới trong công cuộc xây dựng chiến lược phát triển nông thôn hiện nay, vừa


×