Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Khảo sát triển khai thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở địa phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.95 KB, 16 trang )

Khảo sát triển khai thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở địa phương
A- Mở đầu
Dân chủ luôn luôn là khát khao của mọi người dân Việt Nam, điều đó được thể
hiện rất rõ ràng khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Trong Tuyên ngôn
độc lập 1945 do Bác Hồ viết, đã khẳng định quyền tự do dân chủ của tất cả người
dân Việt Nam.
Như vậy, ngay từ khi thành lập nước, tự do dân chủ đã trở thành ưu tiên hàng
đầu, là mục tiêu phấn đấu. Tất cả các cuộc chiến tranh sau này dành thống nhất đất
nước, cũng là để đảm bảo sự tự do, độc lập của đất nước, đảm bảo quyền dân chủ
của nhân dân.
Để thực hiện mục tiêu “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn
minh” đối với nước ta hiện nay vấn đề đó đã được xây dựng và thảo luận sôi nổi
trong các diễn dàn, đặc biệt là việc áp dụng dân chủ cụ thể ở các địa phương, cơ
quan đơn vị. Muốn hiểu bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa chúng ta cần tìm
hiểu những vấn đề như sau:
B- Nội dung
I.Lý luân chung về dân chủ và dân chủ XHCN
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê Nin về dân chủ nhân dân XHCN
Dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, dân chủ được tổ chức dưới hình
thức nhà nước, ở đó nhà nước được nhân dân ủy quyền nắm và thực thi quyền lực.
Trong nhà nước đó thừa nhận sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân vào
công việc quản lý nhà nước. Mức độ phạm vi tham gia thực sự của quần chúng
nhân dân vào công việc quản lý nhà nước, phản ánh được trình độ phát triển của
nền dân chủ.
Ngay từ thời Hy Lạp cổ đại, khi có ngôn ngữ, chữ viết con người đã biết
diễn đạt nội dung, dân chủ. Trong xã hội Cộng sản nguyên thủy, con người đã biết
“cử ra và phế bỏ người đứng đầu” là do quyền và sức lực của người dân. Nghĩa là
dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân.
Nhưng trong các thời kỳ khác nhau của xã hội có phân chia giai cấp, dân chủ
không còn giữ nguyên nghĩa ban đầu của nó là quyền lực thuộc về nhân dân, mà bị
chi phối bởi quan điểm lập trường, thái độ chính trị của giai cấp cầm quyền trong


xã hội. Nó trở thành một hình thức nhà nước của một giai cấp thống trị nhất định
trong xã hội. Giai cấp thống trị cũ đã nhân danh cộng đồng, nhân danh lợi ích
chung định ra pháp luật, thao túng mọi quyền hành, tước quyền làm chủ của nhân
dân. Bằng chứng là: trong xã hội chiếm hữu nô lệ, giai cấp chủ nô lập ra nhà nước,
lấy tên là nhà nước dân chủ - tức nhà nước dân chủ chủ nô thống trị đại đa số
người lao động là giai cấp nô lệ. Khi đó nhà nước chủ nô mới chính thức sử dụng
danh từ “dân chủ”, tiếng Hy Lạp còn gọi là “Demos”, là “dân” và “Kratos”, là
“quyền lực” hoặc “sức mạnh”. Có nghĩa là nhà nước dân chủ chủ nô có quyền lực
-1Phú Hải

Trường CT Quảng Nam, Thực hiện: Phạm


của dân. Nhưng “dân” lúc này theo quy định của pháp luật gồm có giai cấp chủ nô,
tăng lữ, thương gia, một số trí thức và người tự do, còn đại đa số nhân dân trở
thành nô lệ thì không được coi là dân.
Đến chế độ phong kiến, mặc dù khát vọng về dân chủ của người dân vẫn
cháy bỏng nhưng chế độ phong kiến không được thừa nhận là một chế độ dân chủ,
(dẫu chỉ là hình thức) mà đó là một chế độ quân chủ.
Trong chế độ TBCN, dù chế độ này có nhiều thành tựu to lớn, có mang tên
chế độ dân chủ, nhà nước dân chủ thì về thực chất vẫn không phải là nhà
nước thực hiện quyền lực thực sự của nhân dân mà chỉ là nhà nước của giai cấp
Tư Sản.
Chỉ đến khi CNXH ra đời, nhân dân lao động dành lại chính quyền và TLSX
thì quyền lực thực sự của nhân dân mới trở lại với nhân dân. Tức là nhà nước
XHCN đã thiết lập nền dân chủ XHCN để thực hiện quyền lực của nhân dân. Vì
vậy dân chủ XHCN là nền dân chủ cao nhất, đầy đủ nhất, gấp triệu lần dân chủ TS.
Tóm lại : Nhân loại từ lâu đời đã có quan niệm về dân chủ và quan niệm đó
là việc thực thi quyền lực của nhân dân.
Quan điểm của Chủ nghĩa Mác -Lê Nin về dân chủ thể hiện ở những quan

điểm sau:
Chủ nghĩa Mác – Lê Nin kế thừa những nhân tố hợp lý, những hoạt động
thực tiễn và nhận thức của nhân loại về dân chủ. Đặc biệt tán thành quan điểm :
Dân chủ là một nhu cấu khách quan của nhân dân lao động, dân chủ là quyền lực
thuộc về nhân dân.
Khi xã hội có giai cấp và nhà nước – Tức là một chế độ dân chủ thể hiện chủ
yếu qua nhà nước thì khi đó không có dân chủ chung chung, phi gia cấp siêu giai
cấp, “dân chủ thuần túy”. Trái lại, mỗi chế độ dân chủ gắn với nhà nước đều mang
bản chất giai cấp thống trị xã hội. Nên dân chủ trong xã hội có giai cấp nó mang
tính giai cấp, gắn liền với các giai cấp đã thiết lập nên nền dân chủ đó, như : Dân
chủ chủ nô, dân chủ TS, dân chủ vô sản (dân chủ XHCN). Do đó từ khi có chế độ
dân chủ thì dân chủ luôn luôn tồn tại với tư cách một phạm trù lịch sử, phạm trù
chính trị.
Từ khi có nhà nước dân chủ thì dân chủ còn với ý nghĩa là một hình thức
nhà nước, trong đó chế độ bầu cử, bãi miễn các thành viên của nhà nước, có quản
lý xã hội theo pháp luật nhà nước và thừa nhận ở nhà nước đó “quyền lực thuộc về
nhân dân” (còn dân là ai thì do giai cấp thống trị quy định) gắn liền với một hệ
thống chuyên chính của xã hội.
Với một chế độ dân chủ và nhà nước tương ứng đều do một giai cấp thống
trị cầm quyền chi phối tất cả các lĩnh vực của toàn xã hội, do vậy, tính giai cấp
thống trị cũng gắn liền và chi phối tính dân tộc, tính chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội… ở mỗi quốc gia, dân tộc cụ thể.
2.Bản chất của dân chủ XHCN
-2Phú Hải

Trường CT Quảng Nam, Thực hiện: Phạm


Chủ nghĩa Mác- Lê nin cho rằng, chuyên chính vô sản và XHCN về căn bản
là thống nhất. Từ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta thống nhất gọi

chuyên chính VS là nên dân chủ XHCN(vẫn thực hiện nội dung cơ bản của chuyên
chính VS vì Đảng ta quan niệm: “chuyên chính VS là quyền làm chủ tập thể
của nhân dân lao động được thực hiện bằng nhà nước dưới sự lãnh đạo của
Đảng”) .
Bản chất của dân chủ XHCN được thể hiện ở những điểm sau :
Bản chất chính trị: Chủ nghĩa Mác –Lê nin chỉ rõ, bản chất chính trị của nền
dân chủ XHCN là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân thông qua Đảng của
nó đối với toàn xã hội nhưng không phải chỉ để thực hiện quyền lực và lợi ích
riêng cho giai cấp công nhân mà chủ yếu để thực hiện quyền lực và lợi ích của toàn
thể nhân dân, trong đó có giai cấp công nhân. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ : trong chế độ
dân chủ XHCN thì bao nhiêu quyền lực đều là của dân, bao nhiêu sức mạnh đều ở
nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều là vì dân …Chế độ dân chủ XHCN, nhà nước
XHCN…Do đó, về thực chất là của nhân dân, do dân và vì nhân dân.
V.I. Lê Nin còn nhấn mạnh rằng : dân chủ xã hội là chế độ mà nhân dân
ngày càng tham gia nhiều vào công việc nhà nước. do vậy, dân chủ XHCN vừa
mang bản chất giai cấp công nhân, vừa mang tính chất nhân dân rỗng rãi và tính
dân tộc sâu sắc.
Bản chất kinh tế :Dân chủ XHCN có cơ sở kinh tế là quan hệ sản xuất
XHCN đảm bảo, dựa trên chế độ công hữu về TLSX chủ yếu, đáp ứng sự phát
triển ngày càng cao của LLSX trên cơ sở khoa học, công nghệ hiện đại, nhằm thỏa
mãn ngày càng cao nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động.
Bản chất kinh tế của nền dân chủ XHCN dù khác về bản chất kinh tế của các chế
độ tư hữu, áp bức, bóc lột nhưng cũng như toàn bộ nền kinh tế XHCN nó cũng là
sự kế thừa và phát triển mọi thành tựu nhân loại đã tạo ra trong lịch sử đồng thời
loại bỏ những nhân tố lạc hậu, tiêu cực, kìm hãm của các chế độ kinh tế trước đó,
nhất là bản chất tư hữu, áp bức, bóc lột…
Thực hiện dân chủ trong kinh tế là tiền đề, cơ sở để thực hiện dân chủ về
chính trị và văn hóa – tư tưởng. Thực hiện dân chủ trên lĩnh vực kinh tế có ý nghĩa
cơ bản.
Bản chất tư tưởng văn hóa: Nền dân chủ XHCN lấy chủ nghĩa Mác- Lê nin

làm nền tảng tư tưởng, đồng thời kế thừa, phát huy những tinh hoa, văn hóa, tư
tưởng của nhân loại, do đó, đời sống tư tưởng - văn hóa của nền dân chủ CNXH rất
phong phú, đa dạng, toàn diện và ngày càng trở thành một nhân tố hành đầu, thành
mục tiêu và động lực cho quá trình phát xây dựng CNXH. Bởi nó phát huy cao độ
tính tự giác và sức sang tạo to lớn của con người trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ XHCN
Dân chủ là khát vọng muôn đời của con người. Quan niệm về dân chủ được
diễn đạt qua hai mệnh đề: “Dân là chủ” và “Dân làm chủ”.
-3Phú Hải

Trường CT Quảng Nam, Thực hiện: Phạm


Dân là chủ: nói đến vị thế của dân. Dân làm chủ: đề cập đến năng lực và
trách nhiệm của dân. Cả hai đi đôi với nhau, thể hiện vị trí, vai trò, quyền và trách
nhiệm của dân. Người nói :“Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nhà nước do nhân
dân làm chủ”; “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm chủ”;“Nước ta
là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”.
Phản ánh đúng nội dung bản chất về dân chủ. Quyền hành và lực lượng đều
thuộc về nhân dân. Xã hội đảm bảo điều đó được thực thi thì đó là một xã hội thực
sự dân chủ.
Dân chủ thể hiện ở việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân, thể
hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong đó lĩnh vực
chính trị là quan trọng nhất nổi bật nhất và được biểu hiện tập trung trong hoạt
động của nhà nước.
Dân chủ còn biểu hiện ở phương thức tổ chức xã hội thì phải có cấu tạo
quyền lực xã hội mà ở đó người dân cả trực tiếp, cả gián tiếp qua dân chủ đại diện,
một hệ thống chính trị do “dân cử ra” và “do dân tổ chức nên”.
Hồ Chí Minh chú trọng đảm bảo quyền lực của các giai cấp, tầng lớp, các
cộng đồng dân tộc trong thể chế chính trị nước ta:

+ Đối với giai cấp công nhân: công nhân có quyền thực sự trong các xí
nghiệp, làm chủ về tư liệu sản xuất, quản lý, phân phối sản phẩm lao động.
+ Đối với nông dân: nông thôn, nông dân thật sự nắm chính quyền, nông dân
phải được giải phóng thì mới có dân chủ thực sự.
+ Đối với tầng lớp trí thức: Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò của trí thức
trong tiến trình dân chủ hóa ở Việt Nam và cho rằng họ có nhiệm vụ rất quan trọng
trong sự nghiệp kháng chiến kiến quốc.
+ Đối với phụ nữ: Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới vấn đề giải phóng phụ
nữ, để phụ nữ bình đẳng với nam giới, thực sự tham gia tích cực vào các công việc
xã hội.
+ Đối với thanh thiếu niên: Hồ Chí Minh đề cao vai trò làm chủ đất nước
của thanh thiếu niên.
+ Đối với nhân dân tất cả các dân tộc: Hồ Chí Minh quan tâm đến việc đảm
bảo quyền làm chủ của nhân dân, của các dân tộc, phải làm cho các dân tộc làm
chủ đất nước nhằm phát triển kinh tế, văn hóa và thực hiện các dân tộc bình đẳng
về mọi mặt.
Xây dựng các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị xã hội vững mạnh để bảo đảm dân chủ trong xã hội.
Trong việc xây dựng nền dân chủ, Hồ Chí Minh chú trọng đến xây dựng
Đảng với tư cách là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo toàn xã hội;
xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân; xây dựng Mặt trận với vai trò là liên
minh chính trị tự nguyện của tất cả các tổ chức chính trị xã hội vì mục tiêu chung
của sự phát triển của đất nước; xây dựng các tổ chức chính trị xã hội rộng rãi khác
của nhân dân:
-4Phú Hải

Trường CT Quảng Nam, Thực hiện: Phạm


+ Đảng trở thành hạt nhân chính trị của toàn xã hội và là nhân tố tiên quyết
để bảo đảm tính chất dân chủ của xã hội. Do đó, dân chủ trong Đảng trở thành yếu

tố quyết định tới trình độ dân chủ của toàn xã hội.
+ Nhà nước thể hiện chức năng quản lý xã hội của mình qua việc bảo đảm
thực thi ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đối với sự phát triển
của đất nước. Nhà nước thể chế hóa toàn bộ bản chất dân chủ của chế độ.
+ Các tổ chức mặt trận và đoàn thể nhân dân thể hiện quyền làm chủ và
tham gia quản lý xã hội.
Tất cả các tổ chức đó đều có một mục tiêu chung là đạt tới trình độ dân chủ
cao, dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đó cũng là động lực cơ bản nhất để các giai cấp,
tầng lớp trong xã hội phấn đấu trong sự nghiệp cách mạng. Thực hành dân chủ
rộng rãi là trên nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc nòng cốt là liên minh
công - nông - trí thức.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân là quan điểm tư
tưởng nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là kim chỉ nam định hướng cho toàn
bộ quá trình tổ chức, xây dựng và hoạt động của Nhà nước ta. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân là bước phát
triển mới và sự vận dụng sáng tạo của chủ nghĩa Mác - Lê nin kết hợp chủ nghĩa
yêu nước, truyền thống văn hóa Việt Nam, tinh hoa văn hóa phương Đông và
phương Tây.
Nhà nước của dân, do dân và vì dân theo Hồ Chí Minh là Nhà nước thực
hiện quyền lực của nhân dân, dựa vào sức mạnh của nhân dân, trước hết là nhân
dân lao động. Nhân dân theo quan niệm của Hồ Chí Minh là toàn dân, là tất cả đàn
ông, đàn bà, người già người trẻ , không phân biệt giai cấp, dân tộc, đảng phái, tôn
giáo, Người cho rằng “ trong bầu trời không có gì quí bằng nhân dân. Trong thế
giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”
Trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta (1946) do đích thân Chủ tịch Hồ
Chí Minh soạn thảo, ngay từ Điều 1 đã khẳng định: "Tất cả quyền binh trong nước
là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo,
giai cấp, tôn giáo". Xuất phát từ lòng tin sâu sắc vào truyền thống tốt đẹp của nhân
dân ta, cho dù trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn sau khi cách mạng mới thành công
- giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm đang hoành hành; Người đề nghị Chính phủ

lâm thời "tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu
phiếu...", “Tổng tuyển cử là dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người
có tài, có đức để gánh vác công việc Nước nhà. Trong cuộc tổng tuyển cử hễ là
những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là công dân thì đều
có quyền đi bầu cử…Do bầu cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội, Quốc hội sẽ cử ra
Chính phủ, Chính phủ đó thật là chính phủ của toàn dân”. Tức là Người đã thực
hiện ngay dân chủ trực tiếp, điều mà nền dân chủ tư sản phải trải qua mấy trăm
năm mới đạt được, mà không đợi đến lúc có đủ những điều kiện về kinh tế - xã hội
cho phép.
-5Phú Hải

Trường CT Quảng Nam, Thực hiện: Phạm


Sự thành lập bộ máy nhà nước do dân cử bằng phổ thông đầu phiếu là sự
kiện đầu tiên trong lịch sử nhà nước của Việt Nam. Một Chính phủ như vậy nhất
định thể hiện được truyền thống đoàn kết dân tộc, thể hiện ý chí thống nhất cao của
toàn dân; Người nói: “Tôi có thể tuyên bố trước Quốc hội rằng, Chính phủ này tỏ
rõ tinh thần quốc dân liên hiệp, là một Chính phủ chú trọng thực tế và sẽ nỗ lực
làm việc, để tranh thủ quyền độc lập và thống nhất lãnh thổ, cùng xây dựng một
nước Việt Nam mới. Chính phủ này là chính phủ toàn quốc có đủ tài Trung, Nam,
Bắc tham gia” . Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ngay từ khi ra đời là Nhà nước dân chủ kiểu mới – Nhà nước của dân, do dân
vì dân. Cơ sở xã hội của Nhà nước đó là toàn thể dân tộc Việt Nam, dựa nền tảng
liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Đó là Nhà nước thực hiện chức năng
chuyên chính vô sản nhằm bảo vệ thành quả cách mạng và xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Xây dựng một Nhà nước của dân theo Bác Hồ nghĩa là: Tất cả quyền binh
đều thuộc về nhân dân, những vấn đề quan hệ đến vận mệnh quốc gia do nhân dân

phán quyết; tức là nhân dân phải là người thực hiện quyền lực, hoặc trực tiếp, hoặc
gián tiếp thông qua các đại biểu của mình “Chính quyền từ xã đến chính phủ Trung
ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên” . Đó là
những hình thức cơ bản của nền dân chủ; dân chủ vừa là thành quả đấu tranh cách
mạng của dân tộc, vừa là giá trị văn hóa, do đó theo Người: Nhà nước ta phải phát
triển quyền dân chủ sinh hoạt chính trị toàn dân... làm cho mọi người công dân
Việt Nam thực sự tham gia vào công việc của Nhà nước. Như vậy, nền tảng xã hội
sâu rộng, ý thức chính trị và khả năng tham gia vào đời sống chính trị của nhân dân
là yếu tố đảm bảo cho nền dân chủ mới. Người coi yếu tố đầu tiên của dân chủ là:
Có việc gì thì ai cũng được bàn, cũng phải bàn. Khi bàn rồi thì bỏ thăm, ý kiến nào
nhiều người theo hơn thì được, ấy là dân chủ.
Nhà nước do dân bởi vì “ lực lượng bao nhiêu là nhờ dân hết”. Nhà nước
muốn điều hành quản lý xã hội có hiệu quả thì phải dựa vào dân, Chủ tịch Hồ Chí
Minh nói: “dân như nước mình như cá”; phải “đem tài dân, sức dân, của dân làm
lợi cho dân…Chính phủ chỉ giúp kế hoạch cổ động”. Vì vậy Đảng ta luôn chủ
trương dựa vào dân, tạo điều kiện để nhân dân phát huy cao nhất quyền làm chủ,
tham gia tích cực vào việc quản lý Nhà nước.
Nhà nước vì dân, theo Hồ Chí Minh có nghĩa là mọi hoạt động của Nhà
nước đều phải xuất phát và vì lợi ích của nhân dân; việc gì có lợi cho dân thì phải
làm cho kỳ được; việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh. Người chỉ rõ: chế
độ ta là chế độ dân chủ, nhân dân là chủ, Chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Cho
nên chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc
gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì tránh. Xây dựng một Nhà nước
vì dân là một nhà nước không đặc quyền, đặc lợi, phục vụ nhân dân tận tụy, một
nhà nước trong sạch, chí công vô tư. Bác đã dạy rằng: Phải xây dựng một nền
-6Phú Hải

Trường CT Quảng Nam, Thực hiện: Phạm



chính trị liêm khiết, kiên quyết đấu tranh với ba thứ giặc nội xâm là: tham ô, lãng
phí, quan liêu. Một mặt Nhà nước phải thực hành dân chủ rộng rãi với nhân dân
mặt khác phải thực hành chuyên chính với mọi hành động xâm hại đến lợi ích của
tổ quốc, quyền làm chủ của nhân dân. Trong hàng loạt vấn đề được đề cập, Hồ Chí
Minh thường nhấn mạnh vấn đề bản chất xã hội chủ nghĩa, tính dân chủ, tính nhân
dân, tính nhân đạo của Nhà nước mà nhân dân ta xây dựng.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về một nhà nước của dân và vì dân còn phải là
nhà nước “công bộc của dân, gánh vác công việc chung của dân chứ không phải để
đè đầu cưỡi cổ dân như thời Pháp, Nhật” . Người chỉ rõ: bất kỳ ở địa vị nào, làm
công tác gì, chúng ta đều là đầy tớ của nhân dân. Cơm chúng ta ăn, áo chúng ta
mặc, vật liệu chúng ta dùng đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy
chúng ta phải đền đáp xứng đáng cho nhân dân. Người dạy, để thực sự là “đầy tớ
của dân”, các cơ quan nhà nước từ trung ương đến cơ sở phải thực sự gần dân, biết
lắng nghe ý kiến nguyện vọng của nhân dân, làm việc gì cũng bàn bạc kỹ và học
hỏi kinh nghiệm của nhân dân, thực sự yêu dân kính dân, tin cậy và trọng dân, ăn ở
công bằng với dân và thực sự cần kiệm, liêm chính chí công vô tư.
Nhà nước của dân, do dân phải là một nhà nước được tổ chức và hoạt động
trong khuôn khổ của hiến pháp và pháp luật, thể hiện cho ý chí và nguyện vọng
của nhân dân. Theo Người: “Pháp luật là phép của dân, dùng để ngăn cản những
hành động có hại cho dân, để bảo vệ lợi ích chung của đại đa số nhân dân” .
Mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa nhưng những tư tưởng của Người về
xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân vẫn còn nguyên giá trị.
Giá trị trường tồn của những luận điểm đó không chỉ soi sáng mà còn là sự tiếp sức
quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình xây dựng Nhà nước
Pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
3. Quan điểm Đảng công sản về dân chủ XHCN
Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tổng kết thực tiễn quá
trình cách mạng Việt Nam, nhất là trong hai mươi năm đổi mới, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã hình thành một quan niệm tổng quát về xã hội xã hội chủ nghĩa. “Xã
hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội

dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền
kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt
Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.

-7Phú Hải

Trường CT Quảng Nam, Thực hiện: Phạm


Có thể xem đây là mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Những đặc
trưng trong mô hình vừa phản ánh tính phổ biến theo tinh thần học thuyết Mác-Lê
nin về xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa thể hiện tính đặc thù của dân tộc, có tính
đến các đặc điểm của thời đại. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục
nghiên cứu sâu và cụ thể hoá.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) xác định dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh và do nhân dân làm chủ là 2 trong 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân ta xây dựng.
Việc Đại hội XI của Đảng xác định dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của
chế độ ta bắt nguồn từ chỗ ở nước ta tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân
dân, mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều
thể hiện lợi ích của nhân dân. Đảng và Nhà nước gắn bó chặt chẽ với nhân dân,
phục vụ nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Mọi cán bộ, công chức đều
phải tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, có trách nhiệm hoàn thành tốt
chức trách và nhiệm vụ được nhân dân giao phó. Mọi hành vi vi phạm quyền làm

chủ của nhân dân và lợi dụng dân chủ làm tổn hại lợi ích của nhân dân và Tổ quốc
đều phải được phê phán và nghiêm trị.
Dân chủ được Đại hội XI của Đảng xác định là một nội dung quan trọng và
cần thiết trong hệ các mục tiêu chung của công cuộc đổi mới xuất phát từ những
thành tựu và hạn chế, thời cơ và thách thức trong quá trình thực hiện dân chủ ở
nước ta những năm qua. Trong những thành tựu, trước hết phải nói đến sự phát
triển và hoàn thiện quan điểm của Đảng ta về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Năng lực nhận thức và thực hành dân chủ của cán bộ, đảng viên và nhân
dân ngày càng được nâng cao. Chúng ta đã tạo được những chuyển biến tích cực
và tương đổi ổn định trong nhận thức, phương pháp và phong cách làm việc, ứng
xử của cán bộ đảng viên và nhân dân theo hướng dân chủ. Yêu cầu và điều kiện
thực hiện dân chủ của các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội ngày càng rộng
lớn. Ý thức xã hội về vị thế, quyền hạn và trách nhiệm của cá nhân và cộng đồng
cũng như mối tương quan với các tổ chức, các thiết chế trong việc xây dựng và
hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng sâu sắc. Các giá trị mới trong
văn hoá chính trị, văn hoá dân chủ, kỹ năng giao tiếp, ứng xử ngày càng cao. Dân
chủ không dừng lại ở quan điểm và định hướng mà còn trở thành phương pháp làm
việc, phong cách giao tiếp và thái độ ứng xử của cán bộ, đảng viên và công chức
với nhân dân cũng như của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên và công chức.
Các thể chế và cơ chế dân chủ ngày càng bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân, tính tích cực chính trị của công dân ngày tăng, không khí dân chủ
ngày càng lành mạnh và sự quan tâm và tham gia chính trị, tham gia quản lý nhà
nước của nhân dân ngày càng rộng rãi. Nhân dân ý thức rõ ràng và cụ thể hơn về
quyền và trách nhiệm công dân của mình trước pháp luật, thực hiện đầy đủ hơn
-8Phú Hải

Trường CT Quảng Nam, Thực hiện: Phạm


quyền và trách nhiệm của mình trong sản xuất và đời sống. Các quyền dân chủ của

nhân dân - từ tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất, kinh doanh đến trao đổi,
phân phối và hưởng thụ kết quả lao động; từ tự do làm ăn đến tự do ngôn luận
ngày càng hiện thực hoá. Các quyền đề cử, ứng cử và lựa chọn của nhân dân trong
các cuộc bầu cử mỗi ngày một đầy đủ và hoàn thiện hơn.
Nội dung và hình thức, phương pháp và công cụ thực hiện dân chủ ngày
càng sâu sắc và đa dạng. Về nội dung, quá trình thực hiện dân chủ ngày càng mở
rộng và phát triển đến về các lĩnh vực, các ngành, các cấp; cụ thể và chi tiết về tiêu
chí và chuẩn mực. Về hình thức, trong quá trình thực hiện dân chủ ngày càng tìm
kiếm và khẳng định được những quy tắc, quy định và quy trình mới cho dân chủ ở
cả hình thức dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp. Về tính chất, quá trình thực
hiện dân chủ ngày càng toàn diện và triệt để, thiết thực và hiệu quả. Cùng với việc
hoàn thiện các hình thức dân chủ gián tiếp, nhất là đổi mới và hoàn thiện tổ chức
và hoạt động các cơ quan dân cử, là quá trình xúc tiến mạnh mạnh mẽ các hình
thức dân chủ trực tiếp, nhất là ở cơ sở.
Hệ thống các thể chế, cơ chế dân chủ hình thành và phát triển hơn, tạo nền
tảng pháp lý cho quá trình thực hiện dân chủ. Thực hiện dân chủ ngày càng trở
thành quá trình xác định và thực hiện các cơ chế và thể chế về các quyền và lợi ích
của Nhà nước và của nhân dân. Đời sống xã hội ngày càng được tổ chức và vận
hành trên cơ sở các thể chế; tính ổn định của hệ thống ngày càng cao; tính chủ
quan, duy ý chí của các tổ chức và người lãnh đạo, quản lý được giảm thiểu. Trong
chủ trương và đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, nội
dung và chương trình hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã
hội, vấn đề thể chế và xây dựng thể chế ngày càng được chú trọng. Thể chế, cơ chế
quy định tổ chức và hoạt động của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội,
các tổ chức xã hội, nghề nghiệp ngày càng hiện hữu và phát huy tác dụng. Thể chế,
quy chế quy định quyền hạn và trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân trong các
mối quan hệ chính trị và xã hội làm cho dân chủ ngày càng được xác định, ngày
càng được lượng hoá, ngày càng được trở nên hiện thực.
Với việc xây dựng các quy chế và pháp lệnh dân chủ cơ sở, dân chủ không
còn dừng lại ở những nguyên tắc chung, trừu tượng, mà được cụ thể hóa ở từng

cấp, ngành, địa phương và đơn vị. Dân chủ ngày càng thoát ra khỏi tính hình thức
để trở nên thực chất hơn. Dân chủ ngày càng thiết thực, thật sự và có kết quả rõ
ràng. Dân chủ và nhất là dân chủ ở cơ sở đang là chiếc chìa khoá vạn năng để giải
quyết mọi vần đề khó khăn và bức xúc trong sản xuất và đời sống, trong xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Sau hơn 25 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự đoàn kết
toàn dân, đất nước ta đã vươn lên giành nhiều thắng lợi mới. Cùng với sự phát triển
không ngừng của đất nước, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa hội
nhập kinh tế quốc tế, cuộc sống của người dân ngày càng được nâng cao. Trong thế
-9Phú Hải

Trường CT Quảng Nam, Thực hiện: Phạm


và vận hội mới Đảng tiếp tục lãnh đạo nhân dân xây dựng một xã hội “Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
II.Thực trạng về việc triển khai thực hiện qui chế dân chủ cơ sở
1. Tình hình chung
Trong những năm qua việc thực hiện dân chủ trong doanh nghiệp nhà nước
nói chung và thực hiện dân chủ đối với doanh nghiệp tôi đang công tác nói riêng
đã được triển khai thực hiện. Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số
07/1999/NĐ-CP ngày 13/2/1999 về Ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở doanh
nghiệp nhà nước và Nghị định số 87/2007/NĐ-CP ngày 28/5/2007 về việc ban
hành Qui chế thực hiện dân chủ ở công ty cổ phần, công ty TNHH thì việc thực
hiện dân chủ lại càng được thực hiện chặt chẽ hơn. Hiện tai cơ quan gồm 44
CBCNV, gồm một tổ Văn phòng và 04 cụm trực thuộc nằm trên huyện Thăng
Bình.
Việc thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp nhà nước nhằm mục đích:
- Cụ thể hóa phương châm ''dân biết, dân làm, dân kiểm tra'', phát huy quyền
dân chủ thông qua tổ chức công đoàn và dân chủ trực tiếp của người lao động, phát

huy sáng tạo của tập thể và cá nhân để nâng cao hiệu quả hoạt động, bảo toàn và
phát triển vốn nhà nước, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham
nhũng,chống vi phạm dân chủ, vi phạm kỷ luật, gây rối nội bộ, phát huy vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Tạo động lực mạnh mẽ để phát triển doanh nghiệp nhà nước bền vững trên
cơ sở gắn bó chặt chẽ trách nhiệm giữa Giám đốc và công nhân, viên chức trong
chăm lo đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, tăng thu cho ngân sách nhà
nước, cải thiện đời sống, tạo thêm việc làm cho người lao động; phân định rõ ràng
vềquyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của Giám đốc và công nhân, viên
chức đối với kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; tạo môi
trường thuận lợi để tăng cường đoàn kết, thực hiện tự phê bình và phê bình, kiểm
tra, giám sát lẫn nhau giữa Giám đốc và công nhân, viên chức cũng như trong nội
bộ công nhân, viên chức, giữa cán bộ lãnh đạo quản lý với nhau; bảo đảm hài hòa
lợi ích của nhà nước, của doanh nghiệp, của Giám đốc và của ngườilao động tương
ứng với kết quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
2. Nội dung thực hiện
Thực hiện Nghị định số 07/1999/NĐ-CP ngày 13/2/1999 của Chính phủ về
Ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp nhà nước và Nghị định số
87/2007/NĐ-CP ngày 28/5/2007 về việc ban hành Qui chế thực hiện dân chủ ở
công ty cổ phần, công ty TNHH cơ quan tôi đã thực hiện đối với từng nội dung
như sau:
+Đối với Chi ủy chi bộ:
Khi tổ chức đại hội Chi bộ thực hiện theo đúng Điều 11, 12, 13 Điều lệ Đảng
cộng sản Việt Nam. Thông qua đại hội ban hành Nghị quyết để thực hiện trong
-10Phú Hải

Trường CT Quảng Nam, Thực hiện: Phạm


suốt nhiệm kỳ, sau khi đại hội, xây dựng và ban hành Qui chế làm việc của Chi bộ

trong đó nêu rõ sự lãnh đạo của Cấp ủy chi bộ với cơ quan, đoàn thể, trách nhiệm
của Bí thư, phó Bí thư và chi ủy trong Chi bộ, trách nhiệm và quyền hạn của đảng
viên trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ chuyên môn.
Căn cứ vào Qui chế đã được xây dựng và thông qua trước Chi bộ, sự thống
nhất cao của toàn thể đảng viên đó là định hướng để thực hiện trong nhiệm kỳ.
Việc xây dựng mối quan hệ giữa Bí thư và Thủ trưởng cơ quan được cụ thể như
sau: Bí thư thay mặt cấp ủy phối hợp với thủ trưởng đơn vị lãnh đạo thực hiện
trách nhiệm, quyền hạn được giao. Thủ trưởng đơn vị có trách nhiệm bảo đảm và
tạo điều kiện để Chi bộ thực hiện Quy định này. Bí thư chủ động phối hợp với Ban
Giám đốc xây dựng và lãnh đạo thực hiện các quy định, quy chế phối hợp, trong đó
xác định rõ mối quan hệ công tác, bảo đảm vai trò lãnh đạo chính trị của tổ chức
đảng, chức năng tập hợp, vận động, giáo dục quần chúng và chủ động, sáng tạo
trong chỉ đạo, điều hành sản xuất, kinh doanh của lãnh đạo đơn vị.
Bí thư chi bộ phải chịu trách nhiệm trước tổ chức đảng về tổ chức và hoạt
động của tổ chức đảng, công tác xây dựng đảng, các đoàn thể chính trị-xã hội trong
Chi nhánh; Thủ trưởng đơn vị phải chịu trách nhiệm trước pháp luật khi để xảy ra
các vi phạm chính sách, pháp luật, tham nhũng, lãng phí trong tổ chức hoạt động
của đơn vị; trong việc thực hiện chế độ, chính sách đối với người lao động và các
tiêu cực khác.
+ Đối với cơ quan:
Vào đầu năm cơ quan tiến hành đại hội CBCNV với nội dung báo cáo tình
hình thực hiện kế hoạch của năm trước và triển khai việc thực hiện nhiệm vụ kế
hoạch của năm đến. CBCNV tham gia thảo luận bàn biện pháp thực hiện; bầu ban
thanh tra nhân dân.. Công đoàn đề ra chương trình hành động, vận động CBCNV
người lao động thực hiện nhiện vụ kế hoạch giao.
Ban lãnh đạo cơ quan phối hợp với Ban chấp hành công đoàn xây dựng Qui
chế dân chủ trong cơ quan, bản cam kêt trách nhiệm giữa thủ trưởng cơ cuan và
BCH công đoàn để phối hợp thi hiện nhiệm vụ; nhằm phát huy quyền dân chủ
trong CBCNV. Trong đó nêu rõ trách nhiệm của thủ trưởng, trách nhiệm của cán
bộ công chức, công chức tham gia kiểm tra giám sát quá trình thưc thi nhiệm vụ

sản suất.
3. Phương hướng, đề nghị
- Tăng cường hơn nữa vai trò trách nhiệm cửa Ban chấp hành Công đoàn
trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động.
- Tiếp tục triển khai việc thực hiên Qui chế dân chủ trong cơ quan, để Ban
thanh tra nhân dân, CBCNV cùng tham gia vào công tác kiểm tra, giám sát tại đơn
vị.
-11Phú Hải

Trường CT Quảng Nam, Thực hiện: Phạm


- Ban thanh tra nhân dân tại cơ quan là những đồng chí làm việc kiêm
nhiệm, chưa được qua các lớp tập huấn về nghiệp vụ, trong thời gian đến đề nghị
cấp trên tổ chức tập huấn về chuyên môn để vận dụng thực hiên tại đơn vị.
- Tổ chức cho CBCNV học tập nắm nội dung văn bản liên quan đến việc
thực hiện qui chế dân chủ trong cơ quan.
C- Kết luận chung
Dân chủ XHCN ở nước vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất
nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy đòi hỏi tất cả quyền lực nhà nước phải thuộc
về nhân dân. Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã chỉ rõ một trong
những nguyên tắc cơ bản để chỉ đạo đổi mới là xây dựng nền dân chủ XHCN, phát
huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sau khi thực hiện qui chế dân chủ tại đơn vị đã tác động sâu sắc đến các lĩnh
vực tư tưởng tại đơn vị, CBCNV an tâm công tác, thấy rõ được quyền lợi và trách
nhiệm trong lĩnh vực được giao nhiệm vụ, khơi dậy tinh thần và khí thế thi đua sôi
nổi trong các tổ sản xuất. Mặc dù vẫn còn những hạn chế cần phải được khắc phục
trong thời gian tới, nhưng đơn vị xác định việc thực hiện qui chế dân chủ có một
vai trò quan trọng để khơi dậy sức mạnh của tập thể CBCNV, phát huy nội lực,

góp phần trong việc phục vụ sản xuất của nhân dân./.
Thăng Bình ngày 20tháng 12năm 2012
NGƯỜI VIẾT

Phạm Phú Hải

-12Phú Hải

Trường CT Quảng Nam, Thực hiện: Phạm


1.Khái quát
Thăng Bình là một huyện phía Đông tỉnh Quảng Nam, huyện lỵ là thị
trấn Hà Lam. Về phía đông Thăng Bình giáp biển Đông; phía tây giáp huyện Hiệp
Đức và huyện Quế Sơn; phía nam giáp thành phố Tam Kỳ; phía bắc giáp
huyện Quế Sơn và huyện Duy Xuyên. Thăng Bình ở toạ độ 15030’ đến 15059’ vĩ
độ Bắc và từ 10807’ đến 108030’ kinh độ Đông. Theo số liệu điều tra đến ngày
31/12/2011; Diện tích 385,6 ha; dân số 178.746 nhân khẩu.
Thăng Bình có khí hậu nhiệt đới gió mùa, với độ ẩm trung bình năm vượt
quá 80%, lượng mưa trung bình năm đạt trên 2.000 mm. Khí hậu chia thành 2 mùa
rõ rệt trong năm. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 năm trước đến tháng 2 năm sau với
những trận mưa có cường suất lớn, thời lượng mưa kéo dài gây úng ngập trên diện
rộng các xã phía Đông của huyện. Mùa khô bắt đầu từ tháng 2 và kết thức vào
tháng 8 với nắng nóng, độ ẩm thấp gây khô hạn. Thời tiết các xã vùng cát như Bình
Sa, Bình Triều, Bình Nam, Bình Hải, Bình Dương trở nên ngột ngạt vào mùa này.
2. Những kết quả đạt được trong quá trình triển khai Qui chế dân chủ cơ sở
Quy chế dân chủ thực hiện ở huyện Thăng Bình 10 năm qua được xem như
là một phong trào hành động cách mạng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an
ninh quốc phòng, có tác động tích cực đến đời sống xã hội làm cho bộ mặt nông
thôn ngày càng khởi sắc.

Trong quá trình thực hiện qui chế dân chủ ở cơ sở cho thấy cán bộ và nhân
dân tin tưởng, phấn khởi là được tự do bàn bạc, tham gia góp ý một cách cởi mở
dân chủ về một số vấn đề có liên quan như xây dựng kết cấu hạ tầng, công khai
kinh tế tài chính, nghĩa vụ và quyền lợi công dân đồng thời nhận thức tốt hơn
quyền làm chủ của mình trong việc tham gia xây dựng phát triển kinh tế xã hội ở
địa phương, đơn vị mình.Thực hiện qui chế dân chủ, nhân dân được tham gia góp ý
xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, tham gia ý kiến nhận xét về cán bộ đảng
viên qua đó ý thức tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân trong cán bộ đảng viên
được nâng cao, phương thức lãnh đạo điều hành của các cấp uỷ, chính quyền có sự
đổi mới tích cực hơn. Mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền với nhân dân ngày
càng mật thiết với nhiều biện pháp cụ thể gắn với lợi ích của nhân dân, gần dân, sát
dân hơn.
Với điều kiện kinh tế còn thấp, kết cấu hạ tầng kém phát triển, thiên tai hạn
hán luôn luôn rình rập, đe doạ cho nên khi thực hiện qui chế dân chủ các xã, thị
trấn trong huyện đã lựa chọn những nội dung cụ thể bức xúc nhất, có liên quan đến
-13Phú Hải

Trường CT Quảng Nam, Thực hiện: Phạm


lợi ích thiết thực của người dân để công khai cho nhân dân biết chủ truơng chính
sách của Đảng và Nhà nước,cùng nhân dân bàn bạc và tổ chức thực hiện. Theo
lãnh đạo UBND huyện Thăng Bình : “ Khâu cốt lõi của việc thực hiện qui chế dân
chủ ở cơ sở đó là Chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chủ trương của
địa phương dân phải biết – còn nếu dân mà không biết thì coi như không thể thực
hiện qui chế dân chủ”.
Những vấn đề cụ thể nhân dân được bàn bạc như xây dựng đường giao
thông nông thôn, bê tông hoá kênh mương nội đồng, xây dựng nhà sinh hoạt thôn,
xây dựng nhà tình nghĩa, giúp đỡ người nghèo, gia đình bị thiên tai, v.v…Với
phương châm “Nhân dân làm, Nhà nước hỗ trợ”, từ năm 1998 đến nay Huyện

Thăng Bình đã làm được hơn 436 km đường giao thông nông thôn, trong đó có
223 km đuờng bê tông, còn lại là thâm nhập nhựa và cấp phối với tổng trị giá trên
107 tỷ đồng, thì dân đã đóng góp hơn 40 tỷ đồng. Riêng tuyến đường thảm nhựa
ĐT613 dài 2km qua nội thị trấn Hà lam, 310 hộ dân ven đường đã tự nguyện hiến
5000m2 trị giá trên 14 tỷ đồng tạo điều kiện thuận lợi cho Nhà nước thi công hoàn
chỉnh tuyến đường đúng tiến độ. Năm 1998, khi bắt đầu thực hiện qui chế dân chủ,
nhiều xã trong huyện đã tiến hành bê tông hoá các tuyến đường giao thông liên
thôn liên xã bằng cách : nhân dân góp công vận chuyển đất đá và trực tiếp thi công,
nhà nước hỗ trợ xi măng. Tiêu biểu cho phong trào này là Bình Tú, Bình Chánh,
Bình Nguyên, Bình Phục, Bình Dương và Thị trấn Hà Lam. Mới đây 443 hộ dân
của 2 xã Bình Trị, Bình Định Bắc cũng đã không nhận tiền đền bù trên
400.000m2 đất mà ông bà, tổ tiên để lại trị giá 14,6 tỷ đồng để Nhà nước đầu tư
xây dựng hồ chứa nước Đông Tiễn phục vụ nước tưới cây trồng và sinh hoạt cho
nhân dân của hai xã. Toàn huyện có 121 thôn, tổ dân phố thì đến nay đã có 72 thôn
đã xây dựng nhà văn hoá cộng đồng trị giá 720 triệu đồng, trong đó nhân dân đã
vận động đóng góp một nửa.
Trong khi nhà văn hóa Trung tâm huyện gần ba năm qua đóng cửa không
hoạt động thì các nhà văn hoá thôn lại là địa điểm sinh hoạt hội họp rất hiệu quả
đối với nhân dân, nhất là các địa phương xa xôi. Mười năm qua Thăng Bình đã huy
động 3,480 tỷ đồng “quỹ vì người nghèo” từ cán bộ, công nhân viên chức và nhân
dân trên địa bàn huyện, cộng với sự giúp đỡ tài trợ của các nhà hảo tâm, các doanh
nghiệp huyện đã xây dựng 1.138 ngôi nhà tình nghĩa, 700 ngôi nhà đại đoàn kết
cho các đối tượng gặp khó khăn.
Những vấn đề nhân dân tham gia ý kiến để chính quyền quyết định đó là xây
dựng công trình chợ, trường học, công trình điện, dồn điền đổi thửa, cơ cấu giống
cây trồng và con vật nuôi. Phong trào chuyển đổi giống cây trồng, con vật nuôi từ
diện tích trồng lúa có năng suất thấp sang một số giống cây trồng cạn có năng suất
cao hơn, giá trị canh tác trên 01 ha đạt từ 15-20 triệu đồng, đến nay đã có trên
1.500 ha cho thu nhập bình quân 40-50 triệu đồng/1 ha.Gia súc gia cầm tuy xẩy ra
dịch bệnh thường xuyên nhưng vẫn duy trì được tổng đàn,tổng sản lượng đánh bắt

hải sản hàng năm đều đạt và vượt kế hoạch đề ra. Việc nuôi trồng thuỷ sản phát
triển, đáng chú ý là các mô hình nuôi ếch, baba, cá đã mang lại hiệu quả kinh tế
-14Phú Hải

Trường CT Quảng Nam, Thực hiện: Phạm


cao cho một số địa phương có điều kiện. Phong trào “tầng hoá” trường học được
đẩy mạnh, hầu hết các trường học trong huyện có cơ ngơi khang trang kiên cố,
đảm bảo cho việc dạy và học khi mùa mưa bão, tiến tới xây dựng trường đạt
“chuẩn quốc gia”. Đến nay cả huyện đã có 6 xã thực hiện việc dồn điền đổi thửa,
trong đó Bình Tú là địa phương thực hiện tốt việc chia đát và hướng dẫn chuyển
đổi cơ cấu cây trồng được nhân dân đồng tình ủng hộ.
Tại các xã thị trấn, nhân dân đã tham gia giám, kiểm tra các hoạt động của
chính quyền, nghị quyết của HĐND, tham gia nghiệm thu các công trình do nhân
dân đóng góp, giám sát việc sử dụng đất đai tại địa phương, giám sát cán bộ đảng
viên sinh hoạt nơi cư trú. Phương thức hoạt động của chính quyền đã đáp ứng được
nhu cầu của nhân dân, tạo điều kiện cho nhân dân phát huy tinh thần làm chủ của
mình tham gia thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân. Thực hiện qui chế
dân chủ, tất cả 22 xã thị trấn trong huyện đã thực hiện cải cách thủ tục hành chính
theo cơ chế một cửa, công khai niêm yết các thủ tục hành chính trên nhiều lĩnh
vực; Thực hiện tốt công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại tố cáo của dân, giải
quyết theo thẩm quyền, tình trạng đơn thư khiếu kiện ngày càng giảm dần. Đối với
các cơ quan, doanh nghiệp trên địa bàn huyện việc triển khai qui chế dân chủ gắn
liền với việc thực hiện pháp lệnh công chức và cải cách thủ tục hành chính. Hầu
hết các cơ quan, doanh nghiệp đều xây dựng qui chế hoạt động gắn với qui chế chi
tiêu nội bộ, công khai nhiệm vụ chính trị, sản xuất kinh doanh, chế độ chính sách
có liên quan đến người lao động, công nhân viên chức.
Kết luận chung
Hơn mười năm thực hiện qui chế dân chủ ở Thăng Bình đã tác động sâu sắc

đến các lĩnh vực kinh tế -xã hội, an ninh quốc phòng tại địa phương, qua đó huy
động được mọi nguồn lực tại chỗ góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính
trị đã đề ra, khơi dậy tinh thần và khí thế thi đua sôi nổi trong mọi tầng lớp nhân
dân. Mặc dù vẫn còn nhiều hạn chế cần phải được khắc phục trong thời gian tới,
nhưng huyện Thăng Bình xác định việc thực hiện qui chế dân chủ có một ưu thế
quan trọng để khơi dậy sức dân, phát huy nội lực cùng chính quyền xây dựng quê
hương ngày càng phát triển hơn.

-15Phú Hải

Trường CT Quảng Nam, Thực hiện: Phạm


-16Phú Hải

Trường CT Quảng Nam, Thực hiện: Phạm



×