Tải bản đầy đủ (.pdf) (159 trang)

Tín ngưỡng dân gian trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 159 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

QUÁCH THỊ DIỆU

TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN TRONG
TRUYỀN KỲ MẠN LỤC CỦA NGUYỄN DỮ

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Thái Nguyên - 2017


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

QUÁCH THỊ DIỆU

TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN TRONG
TRUYỀN KỲ MẠN LỤC CỦA NGUYỄN DỮ

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Phạm Thị Phương Thái

Thái Nguyên – 2017


i



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều
trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn

Quách Thị Diệu


ii

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn
Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Văn – Xã hội, Trường Đại học Khoa
học – Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp
đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng
dẫn PGS.TS Phạm Thị Phương Thái đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong
suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã giúp
đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn

Quách Thị Diệu



iii

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... ii
MỤC LỤC ............................................................................................................ iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ................................................................................ 3
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu....................................................................... 12
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 12
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 13
6. Bố cục .............................................................................................................. 14
NỘI DUNG ......................................................................................................... 15
Chương 1: KHÁI LƯỢC VỀ TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN VIỆT NAM ........... 15
1.1. Khái niệm tín ngưỡng và tín ngưỡng dân gian ............................................ 15
1.1.1. Tín ngưỡng ............................................................................................... 15
1.1.2. Tín ngưỡng dân gian ............................................................................... 16
1.1.3. Phân biệt tôn giáo và tín ngưỡng .............................................................. 17
1.1.4. Phân loại tín ngưỡng và tín ngưỡng dân gian .......................................... 18
1.2. Đặc trưng tín ngưỡng dân gian Việt Nam .................................................... 20
1.2.1. Cơ sở hình thành đặc trưng tín ngưỡng dân gian Việt Nam..................... 20
1.2.2. Phân loại tín ngưỡng dân gian Việt Nam ................................................. 22
1.3. Dấu ấn của tín ngưỡng dân gian trong các tác phẩm văn học ..................... 28
1.4. Về thể loại truyền kì ..................................................................................... 32
1.4.1. Khái niệm truyền kì ................................................................................... 32
1.4.2. Truyện truyền kì trung đại Việt Nam ........................................................ 32
1.5. Nguyễn Dữ và Truyền kỳ mạn lục ............................................................... 33
1.5.1. Tác giả Nguyễn Dữ ................................................................................... 33
1.5.2. Tác phẩm Truyền kỳ mạn lục .................................................................... 34

1.6. Tiểu kết Chương 1 ........................................................................................ 38


iv

Chương 2: DẤU ẤN TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN TRONG TRUYỀN KỲ MẠN
LỤC ..................................................................................................................... 39
2.1. Những hiện tượng mang yếu tố tín ngưỡng dân gian .................................. 39
2.1.1. Hiện tượng báo mộng ................................................................................ 39
2.1.2. Hiện tượng thác hóa .................................................................................. 45
2.1.3. Những hiện tượng tín ngưỡng khác .......................................................... 49
2.2. Dấu ấn của các loại hình tín ngưỡng ............................................................ 51
2.2.1. Tín ngưỡng phồn thực ............................................................................... 51
2.2.2. Tín ngưỡng sùng bái vạn vật hữu linh ...................................................... 55
2.2.3. Tín ngưỡng sùng bái con người ................................................................ 59
2.3. Một số hình thái sinh hoạt tín ngưỡng dân gian........................................... 62
2.3.1. Những sinh hoạt tín ngưỡng phổ biến ....................................................... 63
2.3.2. Một số sinh hoạt tín ngưỡng khác ............................................................. 73
2.4. Tiểu kết Chương 2 ........................................................................................ 76
Chương 3: GIÁ TRỊ CỦA YẾU TỐ TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN TRONG
TRUYỀN KỲ MẠN LỤC ...................................................................................... 78
3.1. Những quan niệm về thế giới từ góc nhìn tín ngưỡng dân gian .................. 78
3.1.1. Quan niệm về các tầng thế giới................................................................. 78
3.1.2. Quan niệm sinh tử ..................................................................................... 83
3.1.3. Quan niệm nhân quả, thiên mệnh ............................................................. 90
3.2. Ý nghĩa của yếu tố tín ngưỡng dân gian trong Truyền kỳ mạn lục ............. 92
3.3. Một số phương diện nghệ thuật góp phần tạo ra không gian tín ngưỡng
trong Truyền kỳ mạn lục ................................................................................. 99
3.3.1. Bút pháp kỳ ảo trong nghệ thuật xây dựng nhân vật ................................ 99
3.3.2. Bút pháp kỳ ảo trong không gian, thời gian nghệ thuật ......................... 105

3.4. Tiểu kết Chương 3 ...................................................................................... 110
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 112
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 114
PHỤ LỤC .......................................................................................................... 121


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hình thành từ thuở sơ khai, tín ngưỡng, tôn giáo là niềm tin và sự ngưỡng
vọng của loài người vào những cái "siêu nhiên", "cái thiêng", đối lập với “cái
trần tục”. Tín ngưỡng ra đời không chỉ đáp ứng nhu cầu giải thích thế giới theo
tư duy của loài người ở những trình độ nhất định mà còn để an ủi bản thân, gửi
gắm những ước vọng mà họ chưa thực hiện được, từ đó giúp con người sống
nhân văn hơn. Trải qua hàng triệu năm, tín ngưỡng đã tồn tại, phát triển cùng
với loài người và chính là nhân tố cơ bản tạo nên đời sống tâm linh đa dạng,
phức tạp…Tùy theo hoàn cảnh, trình độ phát triển kinh tế, xã hội của mỗi dân
tộc, địa phương, quốc gia mà niềm tin vào "cái thiêng" thể hiện ra các hình thức
tôn giáo, tín ngưỡng cụ thể khác nhau. Chẳng hạn: niềm tin vào Đức Chúa Trời
của Kitô giáo, niềm tin vào Đức Phật của Phật giáo, niềm tin vào Thánh, Thần,
ma quỷ của tín ngưỡng dân gian... Hình thức tôn giáo, tín ngưỡng này dù có nội
hàm rộng hẹp khác nhau, phổ quát toàn thế giới hay là đặc thù cho mỗi dân tộc
thì đều là một thực thể biểu hiện niềm tin vào “cái thiêng” chung của con người.
Nếu như tôn giáo là niềm tin vào lực lượng siêu nhiên theo những nguyên tắc
thực hành nhất định với giáo lý, giáo hội, giáo đường lớp lang thì tín ngưỡng
dân gian lại phản ánh những ước nguyện tâm linh của cộng động một cách tự
nhiên, tự phát, thông qua những phong tục, tập quán truyền thống.
Là một quốc gia đa tôn giáo, tín ngưỡng, đời sống tâm linh của người Việt
mang tính hỗn dung nhưng chúng ta không tiếp nhận các tôn giáo ngoại lai một

cách thụ động mà luôn có sự cải biến cho gần gũi với tư tưởng, tôn giáo bản địa.
Vì vậy, ở nước ta, trong khi các tôn giáo vẫn phát triển thì các tín ngưỡng dân
gian với nhiều biểu hiện đa dạng vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sống tâm
linh của người dân.


2

Văn học là tấm gương phản ánh cuộc sống một cách chân thực và vô cùng
sống động qua lăng kính của các nhà văn. Vì thế, qua tác phẩm văn học chúng ta
có thể tìm thấy các mặt của đời sống con người (trong đó có dấu ấn của tín
ngưỡng dân gian) qua các giai đoạn lịch sử. Đặc biệt, trong nghiên cứu văn học
những năm gần đây, xu hướng tiếp cận các tác phẩm dưới góc nhìn văn hóa ngày
càng trở nên phổ biến đã mở ra cho chúng ta cái nhìn toàn diện về con người, về
thời đại, về đời sống tinh thần của quốc gia, dân tộc. Đời sống tín ngưỡng dân
gian Việt Nam, ít nhiều cũng được khúc xạ trong văn học. Tiếp cận tác phẩm văn
học dưới góc nhìn văn hóa tín ngưỡng dân gian là cơ hội làm dầy thêm những
phát hiện mới mẻ, thú vị về giá trị của tác phẩm. Đồng thời hiểu thêm đời sống
văn hóa tín ngưỡng vừa đặc trưng vừa lấp lánh sắc màu của dân tộc.
Truyền kì mạn lục (ghi chép tản mạn những điều kì lạ) được đánh giá là
một đỉnh cao của nền văn xuôi dân tộc không chỉ vì chứa đựng trong đó những
tư tưởng sâu xa của thời đại mà còn bởi nó đã đánh dấu sự trưởng thành của
truyện ngắn Việt Nam trung đại, chuyển biến từ văn học mang tính chức năng
sang văn xuôi nghệ thuật. Thành công của tác giả trước hết là ở chỗ dựa trên
một vài yếu tố có sẵn trong dân gian, Nguyễn Dữ đã sáng tạo, trau chuốt để tạo
ra “áng văn hay của bậc đại gia”. Ngoài giá trị về phương diện tư tưởng nghệ
thuật, Truyền kì mạn lục còn chứa đựng giá trị nhiều mặt về phương diện lịch
sử, văn hóa, đạo đức, xã hội… Đặc biệt, từ góc nhìn văn hóa, chúng tôi nhận
thấy màu sắc của các tín ngưỡng dân gian được phản ánh rất đậm đặc trong tác
phẩm nhưng dường như chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống. Vì vậy,

lựa chọn vấn đề Tín ngưỡng dân gian trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ
làm luận văn nghiên cứu, chúng tôi mong muốn sẽ góp thêm một khám phá mới
mẻ về giá trị của tác phẩm từ phương diện liên cứu liên ngành cụ thể là làm rõ
hơn những sáng tạo của Nguyễn Dữ - “bậc thầy sáng tạo kỳ diệu của đất Hải
Dương” dựa trên niềm tin dân gian, tín ngưỡng dân gian của người Việt Nam.


3

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Về nghiên cứu tín ngưỡng dân gian trong văn học Việt Nam
Do tính đặc thù, tín ngưỡng không chỉ là một bộ phận của đời sống tinh
thần mà còn là bộ phận hữu cơ gắn bó mật thiết với sinh hoạt văn hóa của cộng
đồng. Vì thế, các nhà nghiên cứu văn hóa, nhất là văn hóa dân gian đã và đang
rất quan tâm đến xu hướng nghiên cứu văn hóa dân tộc từ góc độ đời sống tâm
linh, tôn giáo tín ngưỡng để có cái nhìn cách sâu sắc, mới mẻ hơn. Có thể điểm
qua các công trình tiêu biểu sưu tầm, nghiên cứu về tín ngưỡng Việt Nam nói
chung và tín ngưỡng dân gian Việt Nam nói riêng như sau:
Trong Việt Nam phong tục [5], Phan Kế Bính đã giới thiệu các phong tục
trong gia tộc, phong tục xóm làng (hương đảng) đến các phong tục ngoài xã hội.
Đây là một bộ biên khảo tương đối đầy đủ về các phong tục tập quán cũ của
nước Việt. Là một nhà nho uyên bác mang tư tưởng tân tiến, tác giả không chỉ
mô tả từng tập tục, mà còn về gốc tích, nguyên thủy cái tục ấy, nhìn nhận, đánh
giá để xem nó hay hay dở, từ đó "xét điều gì quá tệ mà bỏ bớt đi, rồi lâu lâu mới
đem cái tục hay mà bỏ hết cho cái tục dở. Đến nay, tập sách gần một trăm năm
tuổi này vẫn là một trong những công trình khảo cứu có giá trị bậc nhất về các
phong tục tập quán trên đất nước ta và nhiều vấn đề được Phan Kế Bính nhắc tới
vẫn nóng hổi tính thời đại.
Trong cuốn Về tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện nay [83], tác giả Đặng
Nghiêm Vạn (chủ biên) đã đề cập tới tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên với ba cấp độ:

quốc gia: thờ Vua Hùng; làng: thờ Thành Hoàng; dòng họ, gia đình: thờ tổ tiên.
Ông khẳng định thờ cúng tổ tiên là một bộ phận văn hóa dân tộc, là tâm linh của
cộng đồng Việt Nam. Bên cạnh đó, nhà nghiên cứu Lê Trung Vũ đề cập tới các
phong tục trong vòng đời người Việt truyền thống như các lễ tết trong năm (Tết
Nguyên đán, tết Thượng nguyên, tết mùng 3 tháng 3…), các nghi lễ nông
nghiệp, các lễ thức đời thường (sinh con, hôn lễ, lễ tang…).


4

Cuốn sách Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian Việt Nam [38] của
Nguyễn Đức Lữ đề cập đến các loại hình tín ngưỡng dân gian Việt Nam như tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc, tín ngưỡng Thành
Hoàng, tín ngưỡng thờ Mẫu và tín ngưỡng Phồn thực. Tác giả cuốn sách chỉ rõ
các loại hình tín ngưỡng dân gian trên phản ánh rõ nét đặc trưng của văn hóa
dân tộc, thể hiện rõ tinh thần uống nước nhớ nguồn nhưng bản thân nó cũng
chứa đựng khả năng dấn đến hiện tượng phản giá trị, biểu hiện mê tín dị đoan
cần phải bị phê phán, tẩy trừ.
Trong công trình Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam [78] do
Ngô Đức Thịnh (chủ biên), ngoài một số quan điểm lý luận và phương pháp liên
quan tới tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng, các tác giả đã đi vào nghiên cứu
một số tín ngưỡng dân gian cụ thể, như: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của các gia
tộc, dòng họ và trên bình diện quốc gia là thờ cúng Quốc tổ Hùng Vương; tín
ngưỡng thờ Thành hoàng làng và hội đình, điển hình cho sự gắn kết cộng đồng
láng giềng làng xã, từ đây hình thành và phát triển văn hóa làng, một trong các
dạng thức cơ bản của văn hóa Việt Nam; tín ngưỡng thờ Thần, kết quả của quá
trình tiếp biến văn hóa giữa các tín ngưỡng bản địa và những ảnh hưởng của
Đạo giáo Trung Hoa, như các dòng đạo Nội, thờ Mẫu, Đức Thánh Trần và các
anh hùng dân tộc khác; các nghi lễ, phong tục liên quan đến các hoạt động sản
suất nông nghiệp, ngư nghiệp, tổ các nghề và làng nghề thủ công truyền thống.

Đây là một cuốn sách có giá trị về nghiên cứu tín ngưỡng và các loại hình tín
ngưỡng truyền thống của Việt Nam.
Vũ Ngọc Khánh đã có những khám phá về các loại hình tín ngưỡng ở
nông thôn Việt Nam và đi sâu tìm hiểu một hình thức tín ngưỡng phổ biến đó là
tín ngưỡng thờ thành hoàng làng trong hai cuốn sách Tín ngưỡng làng xã và
Thành hoàng làng Việt Nam [34].


5

Nguyễn Minh San trong Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam [61] đã có
những nhận xét rất tinh tế về tín ngưỡng dân gian Việt Nam và gợi mở những
hướng tiếp cận vấn đề này từ góc nhìn khoa học. Theo tác giả, tín ngưỡng dân
dã Việt Nam là sản phẩm văn hóa của người Việt Nam trong mối quan hệ với tự
nhiên, với xã hội ...Trải qua trường kỳ lịch sử, bao nhiêu biến thiên của xã hội,
bao lần tiếp xúc và giao lưu văn hóa cùng dâu bể cuộc đời, các tín ngưỡng của
người Việt nói chung cũng luôn vận động, bám sát cuộc sống, phát triển cùng
cuộc sống. Nhiều lớp văn hóa khác nhau đã tích hợp hoặc chồng /lấp lên nhau
trong một loại tín ngưỡng. Vì vậy, nhận diện các loại hình tín ngưỡng, tìm ra các
hạt nhân hợp lý khiến nó tồn tại và là nhu cầu của bộ phận không nhỏ nhân dân,
chỉ ra các yếu tố dị đoan mê muội (không phải mê tín) cần loại bỏ, đồng thời tìm
phương cách hợp lý để thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân là thái độ ứng
xử với tín ngưỡng cũng như tôn giáo một cách đúng mực nhất. Đảng và Nhà
nước ta đã đề ra chính sách "tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân". Song,
thiết nghĩ chỉ có thái độ trân trọng, tìm hiểu, nghiên cứu một cách khoa học
những di sản văn hóa của các bậc tiền nhân, chúng ta mới mong Tiếp cận các tín
ngưỡng dân dã Việt Nam..."
Toan Ánh trong cuốn Phong tục thờ cúng trong gia đình Việt Nam [3]
cũng đã giới thiệu khá chi tiết những phong tục thờ cúng trong gia đình Việt
Nam, đó là: phong tục thờ cúng tổ tiên, thờ cúng các vị thần thờ tại gia và thờ

phụng trong ngày Tết.
Trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam [76], tác giả Trần Ngọc
Thêm đã miêu tả khái quát các loại hình tín ngưỡng Việt Nam như: tín ngưỡng
phồn thực (thờ sinh thực khí và thờ hành vi giao phối), tín ngưỡng sùng bái tự
nhiên (thờ Bà Trời, Bà Đất, Bà Nước; thờ động vật và thưc vật), tín ngưỡng
sùng bái con người (thờ Thổ Công, thờ Thành Hoàng, Tứ bất tử). Tác giả chỉ rõ
các loại hình tín ngưỡng trên cũng như những bộ phận khác của văn hóa, là tấm


6

gương phản ánh trung thành những đặc trưng nông nghiệp lúa nước, biểu hiện
sự tôn trọng và gắn bó mật thiết với thiên nhiên, nguyên lý âm dương, khuynh
hướng đề cao nữ tính, tính đa thần…
Nguyễn Đăng Duy đã dành nhiều sự quan tâm tới các tín ngưỡng truyền
thống Việt Nam như: tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Thần, tín
ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng ở các dân tộc ít người trong cuốn Các hình thái tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam [14]. Theo tác giả, tín ngưỡng không phải là một
bộ phận của tôn giáo mà tồn tại với tư cách một hình thái ý thức xã hội bên cạnh
tôn giáo, không phải tồn tại với ý nghĩa niềm tin nhằm cứu cánh cho cái chết
như tôn giáo mà là niềm tin cầu mong cho hiện thực sống.
Tiếp theo phải kể đến công trình Về văn hóa và tín ngưỡng truyền thống
người Việt của Léopold Cadiere (1997, Bản dịch). Ông là một linh mục người
Pháp làm việc tại Việt Nam. Cuốn sách này đã trình bày những tư tưởng, cách
nhìn nhận và sự hiểu biết của ông về văn hoá, tín ngưỡng truyền thống của
người Việt một cách rất sâu sắc. Léopold Cadiere được xem là một trong những
người đi đầu trong việc nghiên cứu dân tộc học ở Việt Nam và nghiên cứu về tín
ngưỡng Việt Nam. Ngoài công trình trên, Léopold Michle Cadìere còn cho xuất
bản bộ sách Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt. Trong bộ
sách này, ông đã tiến hành nghiên cứu tín ngưỡng, các thực hành lễ nghi tôn

giáo, phong tục tập quán với cái nhìn bao dung, khách quan và đã phải thừa
nhận rằng người Việt rất sâu sắc về tôn giáo, tín ngưỡng và tự đáy lòng người
Việt đang lưu giữ một tia sáng tôn giáo tự nhiên mà tạo hóa vốn ấn dấu vào tâm
khảm của nhân sinh. Với việc dày công nghiên cứu văn hóa, tín ngưỡng, tôn
giáo Việt, Léopold Cadière đã có một tâm thức rất đặc biệt về dân tộc Việt như
ông thừa nhận: “Phải thừa nhận rằng người Việt nói cho đúng sống trong thế
giới siêu nhiên. Đại thể thì người Âu châu khó mà hiểu được trạng thái tâm hồn
này, vì nơi họ, khi tôn giáo chỉ còn là một số thực hành hay tậm chí một vài tin


7

tưởng, thì thường đóng khung trong một vài giới hạn thời gian hoặc không gian
và được họ dành cho một vài phút trong ngày của cuộc sống, một phần nhỏ
trong hoạt động của họ. Người Âu Châu dẫu sùng đạo, thường vẫn không sống
hết toàn bộ thời gian với Thượng Đế của mình. Người Việt, ngược lại, cho dù
giai cấp nào, đều cảm thấy mình trực tiếp thường xuyên với các thần thánh
trong thiên nhiên.”
Có thể thấy, hệ thống tài liệu nghiên cứu tín ngưỡng truyền thống Việt
Nam khá phong phú. Đây là những căn cứ, hệ quy chiếu giá trị để nghiên cứu
tác phẩm văn học dưới góc nhìn văn hóa tín ngưỡng. Gần đây, hướng nghiên
cứu này được quan tâm, triển khai. Tuy vậy, thực tế, số lượng công trình đi sâu
nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian trong tác phẩm văn học lại không nhiều.
Trong sự bao quát, có thể chưa đầy đủ, chúng tôi xin điểm lược một số công
trình, bài viết nghiên cứu, luận văn như Yếu tố Phật giáo và tín ngưỡng dân
gian trong truyện thơ Nôm có nguồn gốc bản địa Việt Nam; Văn hóa dân gian
trong văn xuôi đương đại Việt Nam [20] của Vũ Thị Mỹ Hạnh; Một số biểu hiện
của văn hóa trong tác phẩm văn học dân gian trong trường phổ thông, Đạo trời
và tín ngưỡng dân gian qua ca dao của Nguyễn Thị Kim Ngân [48]…;Văn hóa
tâm linh người Việt trong tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh

[22] của Trương Thị Hòa; Văn hóa tâm linh trong Truyện Kiều và Văn chiêu
hồn của Nguyễn Du [81] của Hoàng Thị Thanh Xuân; Văn hóa tâm linh trong
văn xuôi trung đại của Hoàng Thị Minh Phương [59]. Đặc biệt là bài viết Sức
ám ảnh của tín ngưỡng dân gian trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn [1] của
Trần Thị An. Trong bài viết này, tác giả đã đặt không gian của cuốn tiểu thuyết
trong bối cảnh văn hóa dân gian Việt Nam ở nhiều thời điểm để chỉ ra sự tác
động của tín ngưỡng dân gian lên không gian nghệ thuật của tiểu thuyết Mẫu
Thượng Ngàn, qua đó, bước đầu nhìn nhận quan điểm của nhà văn về tín
ngưỡng dân gian của người Việt. Hay bài viết Tín ngưỡng và giải mã tín ngưỡng


8

trong văn học dân gian người Việt [18] của Nguyễn Thị Bích Hà. Tác giả Bích
Hà đã đưa ra cách hiểu về khái niệm tín ngưỡng, mã tín ngưỡng, đặc điểm tín
ngưỡng dân gian Việt Nam từ đó làm rõ mối quan hệ giữa tín ngưỡng dân gian
và văn học dân gian đồng thời chỉ ra các dấu hiệu của tín ngưỡng dân gian trong
văn học dân gian Việt Nam thông qua các ví dụ và phân tích cụ thể. Bài viết này
cùng các công trình nghiên cứu trên là những gợi dẫn quý báu cho chúng tôi
trong quá trình thực hiện luận văn này.
2.2. Nghiên cứu vấn đề tín ngưỡng dân gian trong Truyền kì mạn lục
Nguyễn Dữ được biết đến với tư cách một nhà nho ẩn dật gần như suốt cả
cuộc đời trong thời trung đại với tác phẩm bất hủ Truyền kì mạn lục. Từ khi tác
phẩm ra đời tới nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu bàn về những giá trị
nhiều mặt cùng vị trí văn học sử của nó đối với sự phát triển của thể loại truyện
ngắn truyền kì trung đại. Từ các bậc túc nho thời xưa cho đến các nhà nghiên cứu
văn học thời hiện đại đều đánh giá cao và coi tác phẩm là một biểu hiện vinh dự
cho nền văn học nước nhà. Đặc biệt ở thế kỷ XVIII, một thế kỷ rực rỡ nhất của
văn học trung đại, các học giả nổi tiếng như Vũ Khâm Lân, Lê Quý Đôn, Phan
Huy Chú đã từng ca ngợi Truyền kỳ mạn lục là một “thiên cổ kỳ bút”, áng văn

hay của bậc đại gia với lời lẽ thanh tao tốt đẹp. Nghiên cứu về Nguyễn Dữ và tác
phẩm truyền kỳ nổi tiếng này có thể kể đến các khuynh hướng với các công trình
tiêu biểu như:
Thứ nhất là các nghiên cứu về nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. Vũ
Thanh là một nhà nghiên cứu dành rất nhiều tâm huyết với tác phẩm Truyền kỳ
mạn lục. Trong bài viết Những biến đổi của yếu tố kì và thực trong truyện ngắn
truyền kỳ Việt Nam, tác giả đã chỉ ra bút pháp đặc trưng của thể truyền kỳ. Theo
tác giả, sử dụng yếu tố “kỳ” không phải chỉ với chức năng vỏ bọc che dấu dụng
ý của nhà văn mà còn với tư cách là bút pháp nghệ thuật mang tính đặc trưng
của thể loại. Cũng liên quan đến vấn đề này, trong bài viết Thể loại truyện kỳ ảo


9

Việt Nam trung đại - Quá trình nảy sinh và phát triển đến đỉnh điểm [74], tác giả
Vũ Thanh còn chỉ ra một cách thuyết phục các vai trò của yếu tố kỳ ảo trong
Truyền kỳ mạn lục trong việc thể hiện các giá trị nội dung và phong cách tác giả
Nguyễn Dữ.
Khi xem xét Truyền kỳ mạn lục dưới góc độ thi pháp học, Trần Nho Thìn
trong bài viết Thi pháp truyện ngắn trung đại Việt Nam đã cho rằng: “Xét về thi
pháp, phải nghĩ đến vai trò của kỳ ảo như là một biện pháp đối phó với sự cấm
kị” và tác giả cũng cho rằng “Nếu không đặt các nhân vật nữ vào vị trí hồn ma,
người của cõi âm, thì vị tất tác giả đã dám kể lại những ý nghĩ và hành động vốn
tự nhiên, phàm tục của các nhân vật, cả nam lẫn nữ. Rõ ràng việc sử dụng yếu
tố ma quái, kì ảo ở đây có ý nghĩa của bức bình phong che chắn búa rìu dư luận
của xã hội Nho giáo vốn được đinh hướng theo lý tưởng quả dục, tiết dục” [77].
Bài viết Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn
Dữ [25], Nguyễn Phạm Hùng cũng đã đi sâu khai thác các khuynh hướng sáng
tác của Nguyễn Dữ trong tác phẩm. Ngoài ra có thể kể đến một số bài viết, công
trình khác nghiên cứu về các phương diện cụ thể khác của tác phẩm này như:

Người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục nhìn từ quan điểm giới; Không gian và
thời gian trong Truyền kỳ mạn lục của Trần Thị Đoan Trang; Hệ thống nhân vật
nữ trong Truyền kỳ mạn lục [72] của Nông Phương Thanh; Hình tượng nho sĩ
hành đạo trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ của Đặng Thị Thu Hương;
Tìm hiểu thơ và từ trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ; Vấn đề tiếp nhận
ảnh hưởng truyện dân gian Việt Nam trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ;
Tìm hiểu sắc thái dục tính trong Truyền kỳ mạn lục của Lê Thị Hoài Thu…
Thứ hai, nghiên cứu theo hướng so sánh tác phẩm Truyền kỳ mạn lục với
những sáng tác trong và ngoài nước. So sánh Truyền kỳ mạn lục với các tác
phẩm trong nước có thể kể đến các công trình, bài viết như: Nhân vật kỳ ảo
trong Truyền kỳ mạn lục và truyện cổ tích Việt Nam của Đặng Thị Thoan; So


10

sánh nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ và Truyền kỳ tân phả
của Đoàn Thị Điểm của Hà Thu Hiền; Mô tip duyên kỳ ngộ qua một số thiên
truyện trong Thánh Tông di thảo và Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Văn Hải;
Nhân vật ma quái trong Thánh Tông di thảo và Truyền kỳ mạn lục của Đặng Thị
Thanh Ngân…. So sánh tác phẩm trên phương diện bản dịch có thể kể đến công
trình Phiên dịch học lịch sử - văn hóa: trường hợp Truyền kỳ mạn lục của tác giả
Nguyễn Nam. Với mỗi bản dịch, nhà nghiên cứu Nguyễn Nam đều có phân tích,
đánh giá quan niệm văn bản, dịch thuật, nhu cầu xã hội về tác phẩm, phương
thức in ấn, truyền bá, tâm lý tiếp nhận của độc giả, đặc điểm nghệ thuật truyền
đạt ngôn từ, mức độ thành công và những hạn chế. So sánh các bình diện của
Truyền kỳ mạn lục với các tác phẩm khác trong khu vực và trên thế giới có thể
kế đến các luận văn và bài viết sau: Về mối quan hệ giữa Tiễn đăng tân thoại và
Truyền kỳ mạn lục [10] của Phạm Tú Châu; Đối sánh cái “kỳ” trong Truyền kỳ
mạn lục và trong Tiễn đăng tân thoại của Nguyễn Thị Hương; So sánh chuyện
tình giữa người và hồn ma trong Truyền kỳ mạn lục và Tiến đăng tân thoại [32]

của Đinh Thị Khang… Hay bài viết Thử so sánh Truyền kỳ mạn lục và Tiễn
đăng tân thoại [49] của tác giả Trần Nghĩa. Đặc biệt, tác giả Trần Ích Nguyên đã
có hẳn công trình nghiên cứu khá đồ sộ về Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân
thoại với Truyền kỳ mạn lục [51] trên nhiều phương diện từ nguồn gốc ảnh
hưởng đến nội dung, nghệ thuật của cả hai tác phẩm trong đó có đề cập đến yếu
tố kỳ ảo trong hai tác phẩm này. Hay so sánh Truyền kỳ mạn lục với Kim Ngao
tân thoại có thể kế đến các bài viết và công trình của Lê Đình Chinh và đặc biệt
là Jeon Hye Kyung (Toàn Huệ Khanh). Trong bài viết Vài nét tương đồng và
khác biệt của hai tác phẩm Kim ngao tân thoại (Hàn Quốc) và Truyền kỳ mạn
lục (Việt Nam), Lê Đình Chinh đã giới thiệu vài nét về sự tương đồng và khác
biệt về cuộc đời của hai tác giả và hai tác phẩm dưới góc nhìn lịch sử văn hóa,
đồng thời cũng là nhằm góp phần giúp cho người đọc hiểu thêm về mối quan hệ,
sự giao lưu văn hóa thân thiện của hai dân tộc Việt - Hàn trong lịch sử quan hệ


11

bang giao giữa hai nước. Hay Jeon Hye Kyung đã nghiên cứu khá toàn toàn
diện, công phu về hai tác phẩm trên qua công trình Nghiên cứu so sánh một số
tiểu thuyết truyền kỳ của Hàn Quốc, Trung Quốc và Việt Nam … Giáo sư Xuyên
Bản (Kawanmoto Kurunie), Đại học Tổng hợp Keio trong bài tham luận với tựa
đề “Những vấn đề khác nhau liên quan đến “Truyền kỳ mạn lục” (Lịch sử sáng
tác, xuất bản và sự nghiên cứu tập truyện theo cách nhìn của văn học so sánh)
ngoài việc đi sâu nghiên cứu tác giả và văn bản Truyền kỳ mạn lục, tác giả cũng
so sánh phương pháp cải biên của Truyền kỳ mạn lục với Ca tỳ tử và đưa ra
những nhận xét về sự khác biệt trong quan điểm của tác giả thuộc hai quốc gia
với hai nền văn hóa khác nhau. Ngoài ra, có thể kể đến bài viết So sánh “Vũ
nguyệt vật ngữ” của Ueda Akinari và Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ [17]
của tác giả Đoàn Lê Giang hay một số bài viết theo hướng đối sánh của nhà
nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn như: So sánh kiểu truyện “người lạc cõi tiên”

trong văn học Việt Nam với tiểu thuyết Cửu Vân mộng (Hàn Quốc); Tác phẩm
Kim Ngao tân thoại của Hàn Quốc và quá trình tiếp nhận, nghiên cứu tại Việt
Nam; Tác phẩm Truyền kỳ mạn lục – từ điểm nhìn văn học so sánh, bàn về mối
quan hệ giữa truyền thống và giáo lưu, hội nhập văn hóa; Tương đồng mô hình
cốt truyện dân gian và những sáng tạo trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn
Dữ… [62], [63], [64], [65].
Như vậy, qua thời gian dài tiếp cận Truyền kỳ mạn lục, nhiều vấn đề học thuật
đã được đặt ra, mở rộng và nâng cao, ngày càng toàn diện, hệ thống và chuyên sâu
hơn. Từ việc chỉ khảo sát, giới thiệu riêng tác phẩm Truyền kỳ mạn lục các nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước đã tiến tới nghiên cứu so sánh tập truyện thiên cổ kỳ
bút này với các tác phẩm cùng trong vùng Đông Á như Tiễn đăng tân thoại của Cù
Hựu (Trung Quốc), Kim Ngao tân thoại của Kim Thời Tập (Hàn Quốc), Ca tỳ tử của
Nhật Bản nhằm cho thấy những ảnh hưởng và vay mượn, tiếp nhận và sáng tạo, tiếp
nối và phát triển giữa Nguyễn Dữ với Cù Hựu. Theo nhiều mức độ khác nhau, do


12

trình độ nghiên cứu ngày một nâng cao, ngày càng tiếp nhận được những phương
pháp mới và kinh nghiệm từ các nhà nghiên cứu nước ngoài tác động mạnh mẽ đến
giới nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục trong nước.
Kế thừa những công trình nghiên cứu của các thế hệ đi trước, luận văn
của chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu một vấn đề nhỏ nhưng cũng rất thú vị đó là
Tín ngưỡng dân gian trong Truyền kỳ mạn lục với mong muốn khảo sát, chỉ ra
các biểu hiện của tín ngưỡng dân gian được thể hiện trong tác phẩm này từ đó
tiến hành so sánh, lý giải nó dưới góc nhìn văn hóa – lịch sử nhằm góp phần
khẳng định thêm giá trị của tác phẩm cũng như tài năng của Nguyễn Dữ trong
nền văn học trung đại Việt Nam.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu

Tín ngưỡng dân gian thể hiện trong 20 câu chuyện trong Truyền kỳ mạn
lục của Nguyễn Dữ
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Những biểu hiện của tín ngưỡng dân gian trong Truyền kỳ mạn lục của
Nguyễn Dữ.
+ Giải mã các tín ngưỡng dân gian với tư cách là các chất liệu văn hóa,
lịch sử tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm Truyền kỳ mạn lục.
- Phạm vi tư liệu
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, Nxb Văn học, 2008, gồm 20 câu
chuyện truyền kỳ.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu


13

- Làm rõ những biểu hiện, giá trị của tín ngưỡng dân gian trong tác phẩm
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ;
- Giải mã các tín ngưỡng ấy dưới góc độ văn hóa, lịch sử. Trên cơ sở đó,
góp phần khẳng định sự sáng tạo cũng như đóng góp của Nguyễn Dữ đối với thể
loại truyền kỳ và giá trị của tác phẩm Truyền kỳ mạn lục trong dòng chảy văn
học dân tộc.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Tổng hợp tài liệu; khảo sát các ngữ liệu thể hiện các tín ngưỡng dân
gian trong Truyền kỳ mạn lục.
+ Phân tích, làm rõ ý nghĩa, giá trị của các tín ngưỡng dân gian ấy trong
tác phẩm Truyền kỳ mạn lục từ đó biện giải dưới góc độ văn hóa và lịch sử.
+ So sánh tín ngưỡng dân gian trong Truyền kỳ mạn lục với một số tác
phẩm cùng thể loại.

+ Khẳng định vai trò, đóng góp của Nguyễn Dữ đối với thể loại truyền kỳ
và giá trị của tác phẩm Truyền kỳ mạn lục.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp khảo sát, thống kê.
Luận văn tiến hành khảo sát, thống kê các tín ngưỡng dân gian được thể
hiện trong 20 câu chuyện trong tác phẩm. Từ đó, tiến hành phân loại các tín
ngưỡng ấy từ góc độ văn hóa. Đây là cơ sở khoa học được dùng làm minh chứng
cho những luận điểm mà chúng tôi sẽ trình bày trong luận văn.
5.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Luận văn vận dụng phương pháp này để phân tích cụ thể các cứ liệu đã
thống kê, từ đó tổng hợp để đưa ra nhận xét liên quan đến tín ngưỡng dân gian


14

được thể hiện trong tác phẩm. Kết quả thu được từ sự phân tích này sẽ là những
luận cứ khảo chứng cho các luận điểm mà chúng tôi đề xuất trong đề tài.
5.3. Phương pháp so sánh
Bên cạnh việc thống kê, phân loại, phân tích, chúng tôi còn tiến hành so
sánh các tín ngưỡng dân gian được thể hiện Truyền kỳ mạn lục với một số tác
phẩm khác nhằm làm nổi bật những giá trị và đóng góp của tác phẩm này.
6. Bố cục
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Khái lược về tín ngưỡng dân gian Việt Nam
Chương 2: Dấu ấn tín ngưỡng dân gian trong Truyền kì mạn lục
Chương 3: Giá trị của yếu tố tín ngưỡng dân gian trong Truyền kì mạn lục


15


NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI LƯỢC VỀ TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN VIỆT NAM
1.1. Khái niệm tín ngưỡng và tín ngưỡng dân gian
1.1.1. Tín ngưỡng
Tín ngưỡng tương ứng với thuật ngữ trong tiếng Anh là belief, failth còn
xét về mặt chiết tự Hán ngữ: tín là tin, niềm tin; ngưỡng là nhìn lên. Theo đó, tín
ngưỡng là tin tưởng, ngưỡng mộ những điều cao siêu, có sức mạnh tác động đến
cuộc sống. Theo nguyên nghĩa, tín ngưỡng là sự tin vào một điều gì đó
(croyance). Trong đời sống tâm linh, tín ngưỡng thường được hiểu theo nghĩa
chung nhất đó là niềm tin của con người vào lực lượng siêu nhiên, thần thánh.
Theo cách hiểu này, khái niệm tín ngưỡng bao gồm việc tin theo các tôn giáo và
các hình thức tín ngưỡng khác. Trong đó, niềm tin, sự ngưỡng vọng vào lực
lượng siêu nhiên là dấu hiệu cơ bản. Khi tín ngưỡng được hiểu là niềm tin tôn
giáo thì cốt lõi của niềm tin đó chính là tư tưởng của mỗi tôn giáo, từ đó mà hình
thành thiết chế tôn giáo, con người tôn giáo. Đối với người có tín ngưỡng, lực
lượng siêu nhiên được xem là có thật, họ tin, tôn thờ và sùng bái lực lượng siêu
nhiên ấy. [78, tr21]
Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học quan niệm: “Tín ngưỡng là niềm tin
và sự ngưỡng mộ của con người vào một hiện tượng một lực lượng siêu nhiên,
tôn sùng vào một điều gì đó pha chút thần bí, hư ảo, vô hình, tác động mạnh mẽ
đến tâm linh con người, trong đó bao hàm cả niềm tin tôn giáo”. Theo cách hiểu
này, tín ngưỡng là khái niệm rộng hơn tôn giáo, tín ngưỡng bao hàm cả tôn giáo.
Nguyễn Đăng Duy cũng có một khái niệm rất cụ thể, rõ ràng về tín ngưỡng:
“Tín ngưỡng là một cách từ thực tế cuộc sống, cộng đồng, con người ý thức về một
dạng thần linh nào đó, rồi cộng đồng con người ấy tin theo, tôn thờ lễ bái, cầu


16


mong cho hiện thực cuộc sống, gây thành một nếp sống xã hội theo niềm tin thiêng
liêng ấy” [13, tr73]. Theo cách hiểu này, tín ngưỡng là một hiện tượng lịch sử- xã
hội, thuộc về đời sống tâm linh của cá nhân nhưng lại mang tính cộng đồng, tồn tại
theo xu hướng chung, theo nếp nghĩ chung của cộng đồng.
Tác giả Ngô Đức Thịnh trong cuốn Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở
Việt Nam có quan niệm: “Tín ngưỡng là một hình thức thể hiện niềm tin vào cái
thiêng liêng của con người, của một cộng đồng người nào đó ở một trình độ
phát triển xã hội cụ thể.” [78, tr191]. Tác giả quan niệm đặc trưng tín ngưỡng
gắn với các trình độ phát triển xã hội cụ thể. Ở các thời kì khác nhau, hình thức
tín ngưỡng cũng khác nhau.
Như vậy, từ các quan điểm trên có thể đưa ra một cách hiểu chung về tín
ngưỡng đó là: Tín ngưỡng là sự tin tưởng, ngưỡng mộ và sùng bái những thần
thánh, vật thiêng hoặc linh hồn người chết do con người tưởng tượng ra hoặc do
con người suy tôn, gán cho những phẩm chất siêu phàm. Tín ngưỡng là một
thành tố của văn hóa tổ chức cộng đồng, thuộc phạm vi đời sống cá nhân, được
hình thành tự phát nhưng có vai trò rất quan trọng trong đời sống con người.
1.1.2. Tín ngưỡng dân gian
Tín ngưỡng không chỉ giới hạn ở lòng ngưỡng mộ và niềm tin tôn giáo
mà tín ngưỡng còn thể hiện ở phạm vi khá rộng trong đời sống tinh thần của con
người. Bởi trong thực tế, nhiều người không theo tôn giáo nào cả nhưng họ vẫn
có niềm tin vào đấng thiêng liêng, cao cả, những đấng linh thiêng, thần bí... Trên
cơ sở tín ngưỡng từ quan niệm sùng bái tự nhiên và sùng bái con người, người
Việt có những tín ngưỡng dân gian rất phong phú ngoài tín ngưỡng tôn giáo.
Nói đến tín ngưỡng dân gian tất nhiên có nhiều điều mâu thuẫn và huyền hoặc.
Khoa học hiện đại cho rằng: những dạng thức sinh hoạt tâm linh, tuy có nội
dung tôn giáo song chưa đạt tới trình độ của một tôn giáo – Người ta thường gọi


17


là tín ngưỡng như thờ cúng tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ Mẫu, thờ các thần linh
khác đang tồn tại ở Việt Nam.
Như vậy, tín ngưỡng dân gian là các hình thức tín ngưỡng chưa đạt đến
trình độ cấu thành các tôn giáo. Tín ngưỡng dân gian tiêu biểu như thờ cúng ông
bà tổ tiên, thờ thánh - thần, thờ Thành hoàng, thờ Mẫu.
Nếu như trong các yếu tố hợp thành cấu trúc tôn giáo thường chặt chẽ và
thống nhất, xuyên thời gian, không gian thì cấu trúc của tín ngưỡng dân gian lại
linh hoạt, sáng tạo, mềm dẻo để phù hợp với cuộc sống thực tế của mỗi người,
mỗi gia đình, dân tộc. Về cơ bản, tín ngưỡng dân gian do nhân dân lao động
sáng tạo ra nên nó mang tính phổ cập, đại chúng chứ không có tính hệ thống,
không mang tính triết lý nhân sinh hoàn chỉnh như tôn giáo.
Tín ngưỡng dân gian cũng có những chức năng tương ứng như của tôn
giáo đó là: Chức năng đền bù hư ảo; chức năng giáo dục, định hướng giá trị,
đánh giá, xác định chuẩn mực ứng xử của con người; chức năng giao tiếp; chức
năng tổ chức xã hội, điều chỉnh mối quan hệ cộng đồng trong phạm vi và trên
lĩnh vực tương ứng.
Với các chức năng này, tín ngưỡng dân gian có vai trò góp phần cải tạo
xã hội theo chiều hướng này hay chiều hướng kia. Nó cũng là vũ khí đấu tranh
với cái ác, có vai trò tích cực không thể phủ nhận. Đối với mỗi người, vai trò
của tín ngưỡng dân gian còn phụ thuộc ở sự từng trải và kinh nghiệm của bản
thân. Trong đời sống, nếu tín ngưỡng dân gian bị quá lạm dụng thì đều có thể
chuyển thành tiêu cực mà rõ nét nhất là dẫn đến nhận thức và các hành vi mê tín
dị đoan.
1.1.3. Phân biệt tôn giáo và tín ngưỡng

Theo tác giả Nguyễn Thị Bích Hà trong bài viết Tín ngưỡng và giải mã tín
ngưỡng trong văn học dân gian người Việt [18], khái niệm tín ngưỡng và tôn



18

giáo có nhiều chỗ gần gũi với nhau vì nó cùng có nguồn gốc từ lòng tin tuyệt đối
vào một đấng cao siêu huyền bí nào đó, nhưng chúng cũng có nhiều điểm khác
nhau. Tôn giáo với tư cách một giáo lí, giáo pháp chính là sự phát triển một tín
ngưỡng, được cộng đồng thể chế, quy phạm hoá cao độ. Mỗi tôn giáo cần có: Một
hệ thống giáo lí; Một vị giáo chủ đứng đầu (Chúa Trời, đức Phật Thích Ca, Lão
Tử); Một hệ thống thể chế, nghi lễ thờ tự và nơi thờ tự; Một hệ thống tổ chức gồm
giáo luật nghiêm chỉnh, giáo hội với các tín đồ. Tôn giáo dân gian không hẳn là
tôn giáo với những thể cách trên, nó chủ yếu mới là sự sùng tín, nó nằm trong tâm
thức của con người trong sinh hoạt dân dã và được biểu hiện ra chủ yếu trong
phong tục tập quán sinh hoạt chứ chưa được thể chế hóa hay trở thành giáo luật.
Các nhà nghiên cứu thường gọi chung đối tượng này là tín ngưỡng, tín ngưỡng
dân gian hoặc đôi khi cũng dùng khái niệm tôn giáo dân gian. Khái niệm tín
ngưỡng vì vậy rộng rãi hơn và dân dã hơn khái niệm tôn giáo.
Như vậy, tôn giáo và tín ngưỡng có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Trong đó, tín ngưỡng là phạm trù rộng hơn, bao hàm cả tôn giáo. Tôn giáo là sự
phát triển mức độ cao của tín ngưỡng. Có những hình thái được xếp vào ranh
giới giữa tôn giáo và tín ngưỡng.
Tôn giáo (religion) và tín ngưỡng (bebief) thường hay đi kèm với nhau
khiến nhiều khi người ta hay đồng nhất hai khái niệm này mặc dù giữa chúng
luôn tồn tại một ranh giới nhất định. Cơ sở của mọi tôn giáo hay tín ngưỡng đều
dựa trên niềm tin của con người vào cái gì đó thiêng liêng, cao cả, siêu nhiên
hay nói một cách khác đó là niềm tin, sự ngưỡng vọng vào cái thiêng. Cái thiêng
ở đây được hiểu là đối lập với cái trần tục, những thứ hiện hữu mà ta có thể nhìn
thấy, có thể chạm vào. Niềm tin vào cái thiêng thuộc về bản chất của con người,
nó ra đời và tồn tại cùng loài người.
1.1.4. Phân loại tín ngưỡng và tín ngưỡng dân gian
Người ta đã từng đưa ra các cách phân loại khác nhau như phân loại tín



19

ngưỡng theo các hình thức phát triển khác nhau của tiến trình lịch sử. Một số
khác lại từ bỏ nguyên tắc lịch sử mà đi vào đặc trưng địa lý và chủng tộc; theo
các khu vực văn hóa; theo nội dung tín ngưỡng, tôn giáo và đối tượng sùng bái;
theo hình thái học của tôn giáo, tín ngưỡng… Mỗi cách phân loại như vậy đều
chứa đựng những hạt nhân hợp lý tuy nhiên cũng không tránh khỏi sự phiến diện
và nhiều lúc cực đoan.
Việc phân loại tín ngưỡng được các nhà nghiên cứu dựa trên nhiều tiêu
chí khác nhau, tùy thuộc vào tính chất vốn có của mỗi loại hình tín ngưỡng và
nhu cầu, mục đích của chủ thể nghiên cứu.
- Nếu dựa vào đối tượng tham gia tín ngưỡng và không gian thực hiện thì
có các loại hình tín ngưỡng sau: Tín ngưỡng cộng đồng, tín ngưỡng trong dòng
họ, tín ngưỡng trong gia đình, tín ngưỡng của cá nhân.
- Dựa trên tiêu chí hình thái học gồm các hình thức tín ngưỡng sau: Thờ
cúng tổ tiên; Tín ngưỡng cá nhân (vòng đời người); Tín ngưỡng nghề nghiệp;
Tín ngưỡng thờ thần.
- Dựa theo sức mạnh, vai trò các vị thần có thể chia thành: tín ngưỡng thờ
cúng trong gia đình (thần bình dân); tín ngưỡng thờ cúng ngoài cộng đồng (thần
quan trọng). Sự phân loại này có lẽ phải bàn thêm song nó đã bàn đến góc độ
mối quan hệ giữa người và Thần – Thánh có các cấp độ khác nhau, từ tình cảm,
lòng tin đến sự ngưỡng mộ.
- Dựa vào đối tượng là các vị thần – thánh được thờ cúng thì có: Tín
ngưỡng thần linh và tín ngưỡng thánh nhân.
- Dựa vào chức năng, vai trò của tín ngưỡng với con người – xã hội: tín
ngưỡng thánh nhân định hướng nhân cách, tâm lý cộng đồng; tín ngưỡng thần
linh thể hiện ước vọng, cầu mong và tâm lý cộng đồng.



×