Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN RỦI RO TÍN DỤNG CÁ NHÂN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM CHI NHÁNH BẮC AN GIANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.34 KB, 37 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
-----  -----

PHẠM THU HỒ

PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
RỦI RO TÍN DỤNG CÁ NHÂN TẠI NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN ĐẦU TƯ VÀ
PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
CHI NHÁNH BẮC AN GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGÀNH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

Cần Thơ năm 2017


TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SAU ĐẠI HỌC

PHẠM THU HỒ
MSHV: 1660340201093

PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN RỦI RO TÍN DỤNG CÁ NHÂN TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
CHI NHÁNH BẮC AN GIANG

Chuyên ngành: Tài chính ngân hàng


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS ĐÀO DUY HUÂN

Cần Thơ năm 2017


CHƯƠNG I
GIỚI THIỆU
1.1 LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Trong một nền kinh tế hiện đại không thể không nhắc đến sự tồn tại của ngành
ngân hàng. Ngành ngân hàng đóng một vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của
nền kinh tế, nó là chiếc cầu nối điều hòa lưu chuyển những nguồn vốn trong một
quốc gia. Người ta có thể đánh giá được trình độ phát triển kinh tế của một quốc
gia thông qua sự phát triển của hệ thống ngân hàng ở nước đó. Do giữ vai trò quan
trọng như vậy nên một khi ngành ngân hàng bị khủng hoảng, sụp đổ thì sẽ dẫn đến
những hậu quả vô cùng nghiêm trọng về mọi mặt đối với quốc gia đó.
Thực tế những cuộc khủng hoảng ở các quốc gia trong khu vực và trên thế
giới đã chứng minh điều đó. Sự khủng hoảng của hệ thống ngân hàng có nguyên
nhân từ những rủi ro mà ngân hàng gặp phải trong quá trình hoạt động kinh doanh
ngân hàng. Có nhiều loại rủi ro khác nhau nhưng yếu tố rủi ro chủ yếu gây ra khủng
hoảng là rủi ro tín dụng (RRTD). Điều này bắt nguồn từ chức năng chính của ngân
hàng là thu hút vốn nhàn rỗi và tìm cách sử dụng chúng để mang lại hiệu quả bằng
nhiều nghiệp vụ mà nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ giữ vai trò quan trọng nhất.
Ở Việt Nam trong thời gian qua đã có không ít lần ngành ngân hàng mất khả
năng thanh khoản mà nguyên nhân chính vẫn là rủi ro tín dụng. Điển hình như hệ
thống Ngân hàng thương mại cổ phần Xây Dựng và một số ngân hàng TMCP khác
do ảnh hưởng rủi ro tín dụng và các hoạt động khác dẫn đến tình trạng mất khả năng

thanh khoản phải xác nhập với một số ngân hàng khác hoặc được Ngân hàng Nhà
Nước mua lại không đồng. Do vậy, việc ngăn chặn và hạn chế rủi ro tín dụng là vấn
đề hết sức cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Hiện nay, ngành ngân hàng Việt Nam còn chưa ổn định thật sự, còn đang trong
quá trình hòa nhập với ngành ngân hàng trong khu vực và trên thế giới nên tính hiệu
quả và an toàn trong hoạt động tín dụng vẫn còn chưa cao; giải quyết được vấn đề

TCNH –4B

Page 1


rủi ro tín dụng đang là bài toán khó đối với nhiều ngân hàng thương mại cũng như
đối với hệ thống Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam.

TCNH –4B

Page 2


Đặc biệt, trong những năm gần đây BIDV đang chuyển hướng sang đẩy mạnh
công hoạt động kinh doanh bán lẻ, nhu cầu tăng trưởng tín dụng cá nhân là mục tiêu
hàng đầu, muốn tăng trưởng tốt tín dụng cá nhân thì việc hạn chế rủi ro tín dụng ở
mức thấp nhất thật sự trở nên cấp thiết.
Ngân hàng TMCP Đầu Tư Và Phát Triển Việt Nam chi nhánh Bắc An Giang là
một trong những ngân hàng chuyển hướng phát triển mô hình “Ngân hàng bán lẻ”
của Đồng bằng sông Cửu Long, được thành lập và hoạt động hơn 20 năm đã tạo
được vị thế của mình trên thị trường các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long, trong thời
gian qua BIDV đạt được những kết quả tốt và thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong
khu vực. Hiện tại theo số liệu của Phòng Quản trị tín dụng cho biết: tổng số dư nợ

vay đạt 2.300 tỷ đồng trong đó thị phần tín dụng bán lẻ có dư nợ 900 tỷ đồng, chiếm
khoảng 39% doanh số cho vay. Trong đó tỷ lệ nợ xấu chiếm khoảng 1%/Tổng dư nợ
cá nhân. Nhằm thực hiện được định hướng phát triển thị phần tín dụng bán lẻ chiếm
tỷ lệ 50% đến năm 2017 theo chỉ đạo của Ban Quản Trị thì đòi hỏi phải có các biện
pháp hạn chế rủi ro cho các khoản vay phát sinh mới đưa tỷ lệ nợ xấu xuống mức
thấp nhất.
Do vậy, tác giả nhận thấy rằng việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến
hoạt động tín dụng cá nhân và biện pháp để hạn chế rủi ro tín dụng nhằm đảm bảo
an toàn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng TMCP Đầu Tư và Phát Triển
Việt Nam Chi nhánh Bắc An Giang đã trở thành yêu cầu bức thiết, đó cũng chính là
lý do khiến tác giả chọn đề tài “Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín
dụng cá nhân tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu Tư và Phát Triển Việt
Nam, Chi nhánh Bắc An Giang” để nghiên cứu.
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

1.2.1 Mục tiêu chung

Phân tích thực trạng hoạt động tín dụng cá nhân và các nhân tố ảnh hưởng
đến rủi ro tín dụng cá nhân tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu Tư và Phát
Triển Việt Nam Chi nhánh Bắc An Giang nhằm đề xuất các giải pháp giảm thiểu
rủi ro cho hoạt động tín dụng cá nhân và tăng cường công tác quản lý rủi ro cho
hoạt động này tại chi nhánh.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Phân tích thực trạng tổng quát về hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng cá
TCNH –4B

Page 3


nhân của BIDV Bắc An Giang.

- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến xác suất xảy ra rủi ro tín dụng cá nhân của
BIDV Bắc An Giang.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng cá nhân cho BIDV Bắc An
Giang.
1.3 PHẠM VI NGHIÊN CỨU

1.3.1 Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là rủi ro trong hoạt động tín dụng cá nhân tại
Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và phát triển Việt Nam, Chi nhánh Bắc An
Giang.
1.3.2 Không gian nghiên cứu

Không gian nghiên cứu của đề tài là Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và
phát triển Việt Nam, chi nhánh Bắc An Giang..
1.3.3 Thời gian nghiên cứu

Thời gian thực hiện đề tài: Từ tháng 07/2017 đến 09/2017.
Thời gian của số liệu thứ cấp: được tác giả tổng hợp từ các báo cáo, kết quả
hoạt động kinh doanh từ năm 2012 đến năm 2016.
Số liệu trích lọc từ kho dữ liệu của ngân hàng bao gồm những khách hàng cá
nhân có vay vốn tại BIDV Bắc An Giang và còn dư nợ đến thời điểm ngày
31/12/2016.

TCNH –4B

Page 4


CHƯƠNG 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1.1 Khái quát tín dụng cá nhân
Khái niệm về rủi ro tín dụng cá nhân

Theo Fitch (1997): Rủi ro tín dụng là loại rủi ro xảy ra khi người vay không
thanh toán được nợ theo thỏa thuận hợp đồng dẫn đến sai hẹn trong nghĩa vụ trả nợ.
Cùng với rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng là một trong những rủi ro chủ yếu trong hoạt
động cho vay của ngân hàng.
Bên cạnh đó, Tác giả Koch (1995) cho rằng: Một khi ngân hàng nắm giữ tài
sản sinh lợi, rủi ro xảy ra khi khách hàng sai hẹn – có nghĩa là khách hàng không
thanh toán vốn gốc và lãi theo thỏa thuận. Rủi ro tín dụng là sự thay đổi tiềm ẩn của
thu nhập thuần và thị giá của vốn xuất phát từ việc khách hàng không thanh toán
hay trễ hẹn.
Rủi ro tín dụng cũng được định nghĩa là nguy cơ mà người đi vay không thể
chi trả tiền lãi, hoặc hoàn trả vốn gốc so với thời hạn đã ấn định trong hợp đồng tín
dụng. Điều này gây ra sự cố, đối với dòng chu chuyển tiền tệ và gây ảnh hưởng tới
khả năng thanh khoản của ngân hàng (Greuning và Bratanovic, 2009).
Theo khoản 1 điều 2 quyết định số 493/QĐ-NHNN của Thống Đốc NHNN
VN, đề cập khái niệm rủi ro như sau: “Rủi ro trong hoạt động tín dụng Ngân hàng
của các tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của
các tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không khả năng thực hiện
nghĩa vụ của mình theo cam kết”.
Từ các định nghĩa chúng ta có thể rút ra các nội dung cơ bản về rủi ro tín dụng
cá nhân như sau:
 Rủi ro tín dụng cá nhân xảy ra khi người đi vay là cá nhân hộ gia đình trễ hẹn
hoặc tồi tệ hơn là không thanh toán trong nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng, bao gồm vốn
gốc và/ hoặc lãi phát sinh.
 Rủi ro tín dụng cá nhân sẽ dẫn đến tổn thất tài chính, tức là giảm thu nhập
ròng và giảm giá trị thị trường của vốn. Trong trường hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến

phá sản

TCNH –4B

Page 5


Bản chất của rủi ro tín dụng cá nhân

Rủi ro tín dụng cá nhân diễn ra trong quá trình ngân hàng cấp tín dụng cho khách
hàng cá nhân. Khi thực hiện một hoạt động tài trợ nào thì ngân hàng đều cố gắng phân
tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn cao nhất. Và nhh́ìn chung ngân hàng chỉ
quyết định cho vay khi thấy an toàn. Tuy nhiên, không một nhà kinh doanh ngân hàng
nào tài ba có thể dự đoán chính xác các vấn đề sẽ xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay
của nhiều khách hàng có thể bị thay đổi do nhiều nguyên nhân. Hơn nữa, nhiều cán bộ
ngân hàng không có khả năng thực hiện phân tích tín dụng thích đáng. Do vậy rủi ro tín
dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan, chỉ có thể đề phòng, hạn chế chứ không
thể loại trừ. Sau khi phân tích kỹ khả năng có thể xảy ra các rủi ro, ngân hàng phải biết
chấp nhận rủi ro, như vậy chấp nhận rủi ro cũng có nghĩa là mạo hiểm nhưng không
phải liều lĩnh, thiếu cân nhắc tính toán. Do vậy rủi ro dự kiến luôn được xác định trước
trong chiến lược chung của ngân hàng.
Đo lường rủi ro tín dụng

Theo quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng
rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín
dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, các khoản
cho vay của NHTM được phân thành 5 nhóm cụ thể như sau:
Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
+ Nợ trong hạn và được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn;
+ Nợ quá hạn dưới 10 ngày và được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi bị quá

hạn và thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi còn lại đúng thời hạn;
+ Nợ được phân loại vào nhóm 1 theo quy định tại khoản 2 Điều này.

Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm:
+ Nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày;
+ Nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu;
+ Nợ được phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.

Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:

TCNH –4B

Page 6


+ Nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;
+ Nợ gia hạn nợ lần đầu;
+ Nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín
dụng;
+ Nợ thuộc một trong các trường hợp sau đây:

Nợ của khách hàng hoặc bên bảo đảm là tổ chức, cá nhân thuộc đối tượng mà tổ
chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được cấp tín dụng theo quy định
của pháp luật;
Nợ được bảo đảm bằng cổ phiếu của chính tổ chức tín dụng hoặc công ty con của
tổ chức tín dụng hoặc tiền vay được sử dụng để góp vốn vào một tổ chức tín dụng khác
trên cơ sở tổ chức tín dụng cho vay nhận tài sản bảo đảm bằng cổ phiếu của chính tổ
chức tín dụng nhận vốn góp;
Nợ không có bảo đảm hoặc được cấp với điều kiện ưu đãi hoặc giá trị vượt quá
5% vốn tự có của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khi cấp cho khách

hàng thuộc đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng theo quy định của pháp luật;
Nợ cấp cho các công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng hoặc doanh
nghiệp mà tổ chức tín dụng nắm quyền kiểm soát có giá trị vượt các tỷ lệ giới hạn theo
quy định của pháp luật;
Nợ có giá trị vượt quá các giới hạn cấp tín dụng, trừ trường hợp được phép vượt
giới hạn, theo quy định của pháp luật;
Nợ vi phạm các quy định của pháp luật về cấp tín dụng, quản lý ngoại hối và các
tỷ lệ bảo đảm an toàn đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài;
Nợ vi phạm các quy định nội bộ về cấp tín dụng, quản lý tiền vay, chính
sách dự phòng rủi ro của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
+ Nợ đang thu hồi theo kết luận thanh tra;
+ Nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.
Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:

+ Nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày;
+ Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ
được cơ cấu lại lần đầu;

TCNH –4B

Page 7


+ Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai;
+ Khoản nợ quy định tại điểm c (iv) khoản 1 Điều này quá hạn từ 30 ngày đến 60
ngày kể từ ngày có quyết định thu hồi;
+ Nợ phải thu hồi theo kết luận thanh tra nhưng đã quá thời hạn thu hồi đến 60
ngày mà vẫn chưa thu hồi được;
+ Nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.
Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:


+ Nợ quá hạn trên 360 ngày;
+ Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả
nợ được cơ cấu lại lần đầu;
+ Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ
cấu lại lần thứ hai;
+ Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn
hoặc đã quá hạn;
+ Khoản nợ quy định tại điểm c (iv) khoản 1 Điều này quá hạn trên 60 ngày kể từ
ngày có quyết định thu hồi;
+ Nợ phải thu hồi theo kết luận thanh tra nhưng đã quá thời hạn thu hồi
trên 60 ngày mà vẫn chưa thu hồi được;
+ Nợ của khách hàng là tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước công bố đặt
vào tình trạng kiểm soát đặc biệt, chi nhánh ngân hàng nước ngoài bị phong tỏa vốn và
tài sản;
+ Nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại khoản 3 Điều này.
Như vậy chấy lượng các khoản vay sẽ được chia thành năm (05) mức theo cách
phân nhóm nợ với nhóm 1 là những khỏan vay tốt nhất và nhóm 5 là những khoản vay
xấu nhất. Tỷ lệ nợ quá hạn sẽ được tính theo công thức
Tổng dư nợ các khoản vay từ nhóm 2 đến nhóm 5
X 100%
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Tổng dư nợ cho vay

TCNH –4B

Page 8


Rủi ro tín dụng sẽ tỷ lệ nghịch với chất lượng khoản vay với nhóm 1 là

những khoản vay có rủi ro thấp nhất và nhóm 5 là những khỏan vay có rủi ro
cao nhất. Theo quy định của NHNN Việt Nam thì tỷ lệ trích lập dự phòng đối
với các nhóm từ nhóm 1 đến nhóm 5 lần lượt là 0%,5%,20%,50% và 100%.
Các khỏan nợ thuộc nhóm 3,4,5 được gọi là nợ xấu và là tiêu chí để phản ánh
rủi ro tín dụng, các khỏan nợ xấu càng cao thì rủi ro càng lớn và ngược lại.
2.1.2 Các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng. Thông thường, người ta
phân rủi ro tín dụng thành ba nhóm: nguyên nhân thuộc về ngân hàng, nguyên
nhân thuộc về người vay, nguyên nhân khác.
Nguyên nhân thuộc về ngân hàng

TCNH –4B

Page 9


Thứ nhất: Sự yếu kém của đội ngũ cán bộ. Sự yếu kém ở đây bao gồm cả
về năng lực và phẩm chất đạo đức. Nếu một cán bộ tín dụng non kém về trình
độ, thiếu kiến thức, thiếu kinh nghiệm thì sẽ không có khả năng thẩm định và
xử lý thông tin, đánh giá khách hàng thiếu chính xác, mức vay,lãi suất vay và
kỳ hạn không phù hợp; dẫn đến chất lượng tín dụng thấp, rủi ro cao. Ngoài ra,
nếu cán bộ tín dụng không tuân thủ theo đúng quy trình tín dụng như giải ngân
trước khi hoàn thành chứng từ hay không kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn
của người vay, thì việc mất vốn rất dễ xảy ra. Hơn nữa, cán bộ tín dụng mà
phẩm chất đạo đức kém, không có tinh thần trách nhiệm, dễ bị cám dỗ thì sẽ gây
thiệt hại rất lớn cho ngân hàng bằng cách cho vay chỉ dựa trên mối quan hệ
với khách hàng, dựa trên lợi ích cá nhân mà bỏ qua những điều kiện và thủ tục
cần thiết.
Thứ hai: Sự giám sát của các cấp quản lý trong ngân hàng là thiếu sát
sao. Cán bộ tín dụng cần có sự phê duyệt của lãnh đạo trước khi giải ngân.

Vậy nên nếu cấp trên không có sự kiểm tra, đánh giá xem quyết định của cán
bộ đã thực sự chính xác chưa thì nguy cơ rủi ro tín dụng sẽ là rất cao. Hơn
nữa, sau khi giải ngân rồi, cán bộ tín dụng vẫn phải tiếp tục theo dõi khách hàng
để sớm phát hiện ra dấu hiệu của những khoản nợ có vấn đề. Tuy nhiên, việc
theo dõi này đối với nhiều cán bộ chỉ mang tính hình thức. Do vậy, nếu các cấp
quản lý không có sự giám sát đối với cán bộ tín dụng, hoạt động của các cán bộ
tín dụng sẽ không hiệu quả, thậm chí dẫn đến những sai phạm đạo đức trong cho
vay và thu nợ. Ngoài ra, các cơ quan cấp trên không quan tâm đến thực trạng
tín dụng của ngân hàng thì sẽ không có những chỉ đạo kịp thời để ngăn ngừa và
xử lý rủi ro xảy ra.

TCNH –4B

Page 10


Thứ ba: Ngân hàng chưa đa dạng hoá các danh mục đầu tư. Một công cụ
luôn được nhắc đến trong quản trị tín dụng ở tất cả các ngân hàng trên thế giới
là quản trị danh mục đầu tư. Quản trị danh mục làm cân đối và kiềm chế rủi ro
bằng cách nhận dạng, dự báo và kiểm soát mức độ rủi ro với từng thị trường,
khách hàng, loại sản phẩm tín dụng và điều kiện hoạt động khác nhau. Nhiều
chuyên gia ngân hàng tin rằng đa dạng hoá là giải pháp phòng ngừa rủi ro tín
dụng hữu hiệu nhất. Mặc dù hiểu rõ tầm quan trọng của việc đa dạng hoá
danh mục đầu tư, song rất nhiều ngân hàng chỉ cho vay một hoặc hai ngành
hoặc chỉ cho vay một vài doanh nghiệp lớn, nhóm kinh doanh đơn lẻ. Một danh
mục đầu tư phụ thuộc chủ yếu vào một ngành hay một loại mặt hàng là rất nguy
hiểm vì không ngành nào là không có rủi ro.
Thứ tư: Định giá khoản vay không theo mức độ rủi ro của khách hàng.
Về cơ cấu, lãi suất cho một khoản vay phải được xác định ở mức đảm bảo bù
đắp được chi phí vốn đầu vào, chi phí quản lý, phần lợi nhuận mong muốn và

phần bù đắp rủi ro của khoản vay. Khách hàng được đánh giá có mức độ rủi ro
càng cao, phần bù rủi ro càng lớn. Nhưng vì cạnh tranh nên một số ngân hàng có
thể chấp nhận mức giá cho vay thấp, thậm chí chỉ đủ chi phí vốn đầu vào và chi
phí quản lý, không tính đến phần bù rủi ro. Việc làm đó trong dài hạn không
những làm giảm lợi nhuận mà còn làm tăng tính rủi ro trong hoạt động tín dụng
của ngân hàng.
Nguyên nhân thuộc về người vay

TCNH –4B

Page 11


Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro tín dụng, có thể chia nhóm
này thành hai loại chính:
Thứ nhất: Do khách hàng kinh doanh thua lỗ nên mất khả năng trả nợ.
Trường hợp này rất phổ biến do khách hàng có trình độ yếu kém trong dự
đoán các vấn đề kinh tế, yếu kém trong năng lực quản lý, sử dụng vốn sai mục
đích, sản phẩm chất lượng thấp không bán được… Hơn nữa có rất nhiều người
vay sẵn sàng lao vào những cơ hội kinh doanh mạo hiểm với kỳ vọng thu được
lợi nhuận cao, mà không tính toán kỹ hoặc không có khả năng tính toán những
bất trắc có thể xảy ra nên khả năng xảy ra tổn thất với ngân hàng là rất lớn.
Thứ hai: Do khách hàng cố tình chiếm dụng vốn của ngân hàng. Để đạt
được mục đích thu được lợi nhuận, nhiều khách hàng sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn
để ứng phó với ngân hàng như mua chuộc hoặc cung cấp các báo cáo tài chính
sai lệch. Trong trường hợp này, nếu không phát hiện ra, ngân hàng sẽ đánh giá
sai về khả năng tài chính của khách và cho vay vốn với khối lượng và thời hạn
không hợp lý, dẫn đến rủi ro tiềm ẩn là rất cao. Ngoài ra, cũng có những trường
hợp người kinh doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn
mà cố tình kéo dài với ý định không trả nợ hoặc tiếp tục sử dụng vốn vay càng

lâu càng tốt.
Nguyên nhân khác

TCNH –4B

Page 12


Những nguyên nhân này phần lớn xuất hiện từ môi trường xung quanh như chất
lượng thông tin, biến động kinh tế, chính sách pháp luật…
Thứ nhất: Chất lượng thông tin chưa cao. Các thông tin mà ngân hàng thu thập
thường liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính của khách
hàng, tình hình kinh tế xã hội, cạnh tranh trên thị trường; sau đó dựa vào các thông
tin thu thập được để ra quyết định cho vay. Tuy nhiên, trên thực tế thì không phải
lúc nào các thông tin ngân hàng thu thập được đều có tính chính xác, đầy đủ và kịp
thời.
Do vậy, nếu hệ thống thông tin tín dụng của ngân hàng không hoạt động có
hiệu quả, cập nhật được những thông tin đáng tin cậy thì tất yếu dẫn đến việc ngân
hàng thất thoát vốn khi cho vay.
Thứ hai: Những biến động kinh tế không dự báo được. Khi nền kinh tế ổn
định, tăng trưởng lành mạnh thì nhu cầu đầu tư trong xã hội có xu hướng gia tăng,
tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, khi xuất hiện những biến
động kinh tế như lạm phát, giá tăng ở một số mặt hàng nào đó ảnh hưởng đến một
nhóm ngành thì rủi ro tín dụng với ngân hàng là rất lớn. Nhiều người vay có thể
thích ứng và vượt qua khó khăn đó, nhưng cũng có rất nhiều người bị đình trệ hoạt
động sản xuất, kinh doanh thua lỗ nên khả năng trả nợ vốn vay ngân hàng không
được đảm bảo.
Thứ ba: Sự thay đổi trong các chính sách kinh tế, pháp luật. Sự thiếu nhất
quán trong các chính sách kinh tế pháp luật cũng gây ảnh hưởng không nhỏ tới
ngân hàng cũng như như các doanh nghiệp có sử dụng vốn vay ngân hàng. Hoạt

động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ không ổn định khi có những thay đổi trong
quy định về thuế, vốn..,cũng như hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng bị tác
động nhiều bởi những văn bản luật về tài sản đảm bảo, dự trữ, trích lập… Như vậy,
các chính sách kinh tế, pháp luật không hoàn chỉnh cũng gây khó khăn có khách
hàng về khả năng trả nợ, cũng như đe doạ đến sự an toàn của ngân hàng trong cho
vay
2.1.3 Hậu quả của rủi ro tín dụng
Đối với Ngân hàng
 Rủi ro làm giảm uy tín của ngân hàng
TCNH –4B

Page 13


Một khi một ngân hàng có mức độ rủi ro của các tài sản có là cao thì ngân
hàng đó thường đứng trước nguy cơ mất uy tín của mình trên thị trường. Không một
ai muốn gửi tiền vào một ngân hàng mà ngân hàng đó có tỷ lệ nợ quá hạn vượt quá
mức cho phép, có chất lượng tín dụng không tốt và gây ra nhiều vụ thất thoát lớn.
Thông tin về việc một ngân hàng có mức độ rủi ro cao thường được báo chí nêu lên
và lan truyền trong dân chúng, điều này sẽ khiến cho việc huy động vốn của ngân
hàng gặp rất nhiều khó khăn.
 Rủi ro làm ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của ngân hàng

Hoạt động chủ yếu của ngân hàng là nhận tiền gửi và cho vay, nếu các khoản
tín dụng gặp rủi ro thì việc thu hồi nợ vay sẽ gặp nhiều khó khăn trong khi đó các
khoản tiền gửi vẫn phải thanh toán đúng hạn. Trong lúc không huy động được vốn
do mất uy tín, người rút tiền ngày càng tăng lên kết quả là ngân hàng gặp khó khăn
trong khâu thanh toán.
 Rủi ro làm giảm lợi nhuận của ngân hàng


Rủi ro tín dụng làm cho doanh thu thấp (do không thu được lãi vay), dẫn đến
lợi nhuận thấp, thậm chí là lỗ. Hơn nữa kể cả trường hợp không lỗ thì do rủi ro tín
dụng cao dẫn đến phải tăng trích lập dự phòng rủi ro khiến cho lợi nhuận còn lại
càng thấp, thậm chí là trích dự phòng hết cả phần lợi nhuận trước thuế khiến cho
phần lợi nhuận sau thuế bằng 0.
 Rủi ro có thể làm phá sản ngân hàng

Nếu rủi ro xảy ra ở mức độ ngân hàng không có khả năng ứng phó thì sẽ gây
phản ứng dây chuyền trong dân chúng, dân chúng sẽ đổ xô đến ngân hàng rút tiền
gửi và ngân hàng không còn khả năng thanh toán sẽ đi đến phá sản.
Đối với nền kinh tế

TCNH –4B

Page 14


Hoạt động ngân hàng liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp, các ngành và
các cá nhân. Vì vậy, khi một ngân hàng gặp rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người
gửi tiền ở các ngân hàng sẽ hoang mang, lo sợ và kéo nhau rút tiền ồ ạt làm cho
toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp khó khăn. Ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng đến
tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khó khăn, nền kinh tế bị trì trệ,
kém phát triển, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định. Điều quan trọng
hơn là mức độ ảnh hưởng của nó không chỉ đối với một quốc gia mà còn mang tính
quốc tế, bởi lẽ ngày nay nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và
thế giới. Rủi ro tín dụng nhà đất của các ngân hàng Mỹ thời gian qua là một ví dụ.

2.1.4 Giới thiệu về mô hình nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng

Nhằm để ước lượng xem những nhóm nợ này có ảnh hưởng như thế nào đến

rủi ro tín dụng của hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam mà đặc biệt là rủi
ro tín dụng cá nhân, hai mô hình ước lượng Probit và Logistic được sử dụng phổ
biến nhất. Trong đó, từng mô hình được sử dụng với mục đích khác nhau: Hồi quy
Probit, đôi khi còn được gọi là mô hình probit, được sử dụng để ước lượng mô hình
có biến phụ thuộc dạng nhị phân. Trong hồi quy probit, nghịch đảo của hàm phân
phối xác suất chuẩn chuẩn hóa là sự kết hợp tuyến tính của các biến giải thích.
Theo Maddala (1984), mô hình Binary Logistic là mô hình định lượng trong
đó biến phụ thuộc là biến giả, chỉ nhận 2 giá trị là 0 hoặc 1. Mô hình này được
ứng dụng rộng rãi trong phân tích kinh tế nói chung và rủi ro tín dụng nói riêng.
Cụ thể hơn, mô hình này có thể giúp ngân hàng xác định khả năng khách hàng sẽ có
rủi ro tín dụng (biến phụ thuộc) trên cơ sở sử dụng các nhân tố có ảnh hưởng đến
khách hàng (biến độc lập). Trong mô hình này, cấu trúc dữ liệu như sau:
Bảng 2.1: Cấu trúc dữ liệu các biến trong mô hình Logistic
Biến
Phụ thuộc

Ký hiệu
Y

Loại
Nhị phân

Độc lập

Xi

Liên tục hoặc rời rạc

Nguồn: Maddala (1984)


TCNH –4B

Page 15


Bảng 2.1 mô tả cấu trúc dữ liệu của các biến trong mô hình logistic. Trong đó,
biến Y đóng vai trò là biến phụ thuộc và là biến nhị phân, chỉ có thể nhận hai giá trị
là 0 hoặc 1.
Xi là biến độc lập, thể hiện các nhân tố ảnh hưởng đến khách hàng. Ví dụ như
giới tính, thu thập, tình trạng nhà ở,… đối với khách hàng cá nhân, hoặc ROE,
ROA, vốn chủ sở hữu,… đối với khách hàng doanh nghiệp.
Y^ là giá trị ước lượng của Y, thu được khi hồi quy Y theo các biến độc lập .
Một điều cần lưu ý là giá trị của Y^ chưa chắc đã thỏa mãn điều kiện nguyên
nhân là do giá trị ước lượng phụ thuộc vào các biến độc lập.
Khi đó, xác suất một khách hàng trả được nợ (tức là xác suất Y = 1) được tính
theo công thức sau, trong đó e là hằng số Euler (xấp xỉ 2,718) :

Như vậy, với các nhân tố có ảnh hưởng tới khách hàng được xác định trước
(qua tờ kê khai của khách hàng, báo cáo tài chính,…) chúng ta có thể xác định
được xác suất khách hàng đó trả được nợ. Với xác suất trả được nợ càng cao thì
khách hàng đó càng ít có rủi ro tín dụng và ngược lại. Dựa vào bảng dự báo xác
suất của khách hàng, đối chiếu với thực tế trả nợ, ngân hàng có thể xây dựng
các mức xếp hạng rủi ro tín dụng phù hợp.

2.2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

TCNH –4B

Page 16



2.2.1 Phương pháp thu thập số liệu
 Phân tích thực trạng chung về hoạt động tín dụng cá nhân tại ngân

hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Bắc An Giang
Đề tài sử dụng số liệu từ năm 2012 đến 2016 về các thông tin như sau: Doanh
số cho vay, dư nợ tín dụng của chi nhánh, dư nợ tín dụng cá nhân, tỷ lệ nợ xấu được
thu thập trực tiếp tại Phòng quản trị tín dụng, Phòng tài chính kế toán, phòng quản
lý rủi ro, Phòng khách hàng cá nhân Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát
triển Bắc An Giang.
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng số liệu của cục Thống kê tỉnh Bắc An Giang,
các tạp chí chuyên ngành kinh tế, sách báo và mạng internet.
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng cá nhân tại ngân hàng
thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Bắc An Giang.
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu này, tác giả đã thực hiện phỏng vấn
sâu các cán bộ tín dụng và người quản lý của ngân hàng về các yếu tố ảnh hưởng
đến rủi ro tín dụng cá nhân.
Sau đó, tác giả tiến hành trích lọc các khách hàng cá nhân có vay vốn tại BIDV
Bắc An Giang và còn dư nợ đến thời điểm ngày 31/12/2016 để thực hiện phân tích
định lượng các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro của tín dụng cá nhân của hai nhóm tín
dụng tín chấp và thế chấp. Cụ thể như sau:
Bảng 2.2: Thông tin trích lọc khách hàng tại BIDV Bắc An Giang
Nhóm khách hàng

Số khách hàng

Tỷ trọng (%)

Nhóm tín chấp


1.510

53,74

Nhóm thế chấp

1.300

46,26

Tổng

2.810

100,0

Nguồn: Số liệu QTTD cung cấp

TCNH –4B

Page 17


Tổng số khách hàng được trích lọc là 2.810 khách hàng (Bảng 3.2). Trong đó
53,74% khách hàng vay vốn cá nhân tín chấp (không có tài sản thế chấp, gồm
1.510 khách hàng) và 46,26% khách hàng vay vốn cá nhân thế chấp (1.300 khách
hàng).
Một số thông tin được tác giả chọn lọc để thu thập bao gồm: (1) Nhân thân
khách hàng: tuổi, nghề nghiệp, đơn vị công tác, số thành viên trong gia đình và các
khoản dư nợ; (2) Phương thức trả nợ khi vay vốn: tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết

kiệm, thanh toán lương qua ngân hàng và cách thức trả nợ; (3) Thông tin về khả
năng trả nợ: Số tiền vay, thu nhập, số tiền trả nợ hàng tháng và (4) Thông tin về lãi
suất cho vay vốn của ngân hàng.
2.2.2 Phương pháp phân tích số liệu

Để thực hiện các mục tiêu nghiên cứu đặt ra, tác giả sử dụng các phương pháp
phân tích số liệu như sau:
Phương pháp thống kê mô tả

Phương pháp thống kê mô tả (Descriptive Statistics) là tổng hợp của một số
phương pháp phân tích dữ liệu từ nguồn số liệu sơ cấp hoặc thứ cấp mà chưa được
xử lý thành số liệu có giá trị về mặt nào đó của nghiên cứu. Sử dụng các phương
pháp đo lường, mô tả và trình bày số liệu bằng các phép tính và chỉ số thống kê như
số trung bình, số trung vị, phương sai, độ lệch chuẩn,… Bằng các phương pháp lập
thành bảng, biểu đồ và các phương pháp tóm tắt, tính toán đơn giản nhằm làm nổi
bật lên giá trị thực của thông tin (Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2008).
Phương pháp so sánh

TCNH –4B

Page 18


Là so sánh số thực hiện năm nay so với số thực hiện năm trước để thấy được
xu hướng biến động cả về số tuyệt đối lẫn số tương đối của các chỉ tiêu.
Phương pháp so sánh bằng số tuyệt đối: Là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh quy
mô, khối lượng cuả sự kiện. Phương pháp này là kết quả của phép trừ giữa trị số kỳ
phân tích so với kỳ gốc của các chỉ tiêu kinh tế. Phương pháp này sử dụng để so
sánh số liệu năm tính với số liệu năm trước của các chỉ tiêu xem có biến động
không và tìm nguyên nhân biến động của các chỉ tiêu kinh tế, từ đó đưa ra biện pháp

khắc phục.
y = y1 – y0
Trong đó:
y1: Chỉ tiêu kinh tế ở kỳ phân tích
y0: Chỉ tiêu kinh tế ở kỳ gốc
y: Phần chênh lệch tăng, giảm của các chỉ tiêu kinh tế
Phương pháp so sánh bằng số tương đối: Là chỉ tiêu tổng hợp biểu hiện

bằng số lần (%), phản ánh tình hình sự kiện khi số tuyệt đối không thể phản ảnh lên
được. Phương pháp này dùng để làm rõ tình hình biến động mức độ của các chỉ tiêu
kinh tế trong thời gian nào đó, so sánh tốc độ tăng trưởng của chỉ tiêu giữa các năm
và so sánh tốc độ tăng trưởng giữa các chỉ tiêu. Từ đó tìm ra nguyên nhân và biện
pháp khắc phục.
y1 – y0
x 100%

y’ =
y0
Trong đó:
y1: Chỉ tiêu kinh tế ở kỳ phân tích
y0: Chỉ tiêu kinh tế ở kỳ gốc

y’: Biểu hiện tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu kinh tế
Phương pháp định tính

TCNH –4B

Page 19



Phương pháp định tính nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín
dụng cá nhân ngân hàng theo phương pháp định tính: sử dụng phương pháp tham
vấn chuyên gia dưới hình thức tham vấn trực tiếp ý kiến một số lãnh đạo ngân hàng
am hiểu sâu về tín dụng cá nhân kết hợp với việc tổng hợp các ý kiến kết luận của
phòng Quản lý rủi ro 03 năm gần.
Phương pháp hồi quy Binary Logistic

Vào thập niên 1970 Nhà thống kê học David Roxbee Cox phát triển một mô
hình có tên là “Logistic Regression Model” (Mô hình hồi quy binary logistic) để
phân tích các biến nhị phân.
Hồi quy nhị phân Logistic, thông tin chúng ta cần thu thập về biến phụ thuộc là
một sự kiện nào đó xảy ra hay không, biến phụ thuộc Y lúc này có hai giá trị là 0 và

TCNH –4B

Page 20


1, với 0 là không xảy ra sự kiện ta quan tâm và 1 là có xảy ra, và tất nhiên là cả
thông tin về các biến độc lập X. Từ biến phụ thuộc nhị phân này, một thủ tục sẽ
được dùng để dự đoán xác xuất sự kiện xảy ra theo quy tắc nếu xác xuất được dự
đoán lớn hơn 0,5 thì kết quả dự đoán sẽ cho là “có” xảy ra sự kiện, ngược lại thì kết
quả dự đoán sẽ là “không”. (Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2008).
Để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng cá nhân về góc độ khách
hàng bằng phương pháp định lượng, sử dụng mô hình hồi quy Logistic. Với cấu trúc
phương trình hồi quy như sau:
Loge

=


P(Y=0)

= β0 + β1X1 + … + βnXn

P(Y=1)

βi: hệ số ước lượng, đo lường sự thay đổi trong tỷ lệ của khả năng xảy ra sự
kiện, với 1 đơn vị thay đổi trong biến độc lập Xi.
Xi: Là các biến độc lập (định lượng và dummy) chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng
đến rủi ro tín dụng cá nhân tại Ngân hàng BIDV Bắc An Giang.
Trên cơ sở thực tế, do số lượng khách hàng cá nhân có dư nợ tại BIDV Bắc An
Giang có nhóm khách hàng vay không có tài sản thế chấp qua sản phẩm: Cho vay
tiêu dùng tín chấp khá lớn chiếm tỷ lệ 53,74% số lượng khách hàng có dư nợ vay.
Mặt khác, đối với nhóm khách hàng này chi nhánh có một số biện pháp quản lý
tránh quá hạn. Để đảm bảo đánh giá được thực tế số liệu tác giả tách thành hai mô
hình nghiên cứu phù hợp với đặt thù trên cụ thể như sau:
 Mô hình 1: Nghiên cứu nhóm cho vay tín chấp
 Mô hình 2: Nghiên cứu nhóm cho vay thế chấp
2.2.3 Phương pháp phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng

TCNH –4B

Page 21


Kết quả lược khảo các nghiên cứu về rủi ro tín dụng cho thấy các tác giả
thường sử dụng phương pháp hồi qui nhị nguyên (binary logistic model) hoặc probit
để phân tích nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng (Nguyễn Thanh Hào, 2009;
Phạm Linh, 2009; Nguyễn Thị Xuân Trang, 2010; Trương Đông Lộc, 2010; Trương
Đông Lộc và Nguyễn Thị Tuyết, 2011; Lâm Thị Bích Ngọc, 2012; Nguyễn Hữu

Thiện, 2011; Nguyễn Duy Nam, 2013; Trần Thị Huyền, 2013). Ngoài ra, Phạm Phú
Nhân (2011) đã sử dụng phương pháp phân tích nhân tố khám phá (Explore Factor
Analysis) và kiểm định thang Cronbach Alpha để tìm ra các nhân tố ảnh hưởng đến
tín dụng. Thống kê phương pháp phân tích rủi ro tín dụng được thống kê ở bảng
2.2.
Rủi ro tín dụng hoạt động ngân hàng được qui định theo quyết định 493/QĐNHNN do Ngân hàng Nhà Nước ban hành ngày 22/4/2005. Các nghiên cứu phân
loại rủi ro của hoạt động tín dụng khi các khoản nợ thuộc nhóm 3, 4 và 5 và không
có rủi ro khi các khoản nợ thuộc nhóm 1 và 2. Theo quyết định này, Nhóm 1 (Nợ đủ
tiêu chuẩn), nhóm 2 (Nợ cần chú ý), nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn), Nhóm 4 (Nợ
ghi ngờ) và nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn).
Các nghiên cứu trên được thực hiện ở các ngân hàng thương mại ở Đồng Bằng
Sông Cửu Long như: Ngân hàng Đầu Tư Phát Triển Việt Nam Chi nhánh Bắc An
Giang và ngân hàng công thương Việt Nam. Đối tượng nghiên cứu rủi ro tín dụng
bao gồm hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng cá nhân nói riêng (Nguyễn Hữu
Thiện, 2011).
2.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng cá nhân của hệ thống Ngân
hàng thương mại Việt Nam

TCNH –4B

Page 22


Như đã biết, tín dụng là một trong những hoạt động chủ yếu của các Ngân
hàng thương mại Việt Nam. Nó góp phần mang lại nguồn thu đáng kể cho các ngân
hàng và phần nào thỏa mãn nhu cầu vốn tạm thời của các đối tượng vay cho quá
trình tái sản xuất và cải thiện chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên, hoạt động cho vay
tín dụng lại chứa đựng những rủi ro tìm ẩn từ nhiều nguyên nhân khác nhau và là
một bài toán vô cùng khó khăn cho các ngân hàng trong bối cảnh kinh tế còn nhiều
bất ổn, việc kiểm soát và hạn chế rủi ro tín dụng đến mức thấp nhất là điều rất cần

thiết.

(2)

(3)


(4)
Đông
Lộc
Kinh doanh
nghiệmtrì
(-)trệ đã
Kinh
nghiệm
vaydoanh
Mứcnghiệp
độ ổn
ẩm và cácTrương
hoạt động
sản
xuất kinh
khiến
việcngười
cho vay
(2010)
Kiểm soát khoản Mục đích sử dụng vốn
định của thị
trở nên rất khó khăn. Hầu hết vay
các Ngân hàng thương

mại có xu hướng chuyển
sang
Khả năng tà chính
trường
(-) Đối với
Tỷ nhu
lệ số cầu
tiền vay/
tài dùng.
phân khúc khách hàng cá nhân – những người có
vay tiêu
sản đảm bảo
phân khúcZribi
này,and
tín dụng cá nhân mang lại cho Sở
ngân
lượng
vốn cho
hữuhàng
một tài
khoản
Lãivay
suấttăng
(ns)
Boujelbène
(2011)
tại
ngân
hàng.
cao và với phương thức cho vay ở mức giá trị thấp, có tài sản thế chấp cũng như

Việc làm ổn định.
phương án trả nợ tốt nên ngân hàng luôn có những
khoản
an toàn, ít rủi ro và dễ
Tính
chất vay
của nghề
nghiệp
thu hồi nợ.
Nơi đăng ký thường trú
Tuy vậy, cũng giống như các hình thức tín dụng
khác, tín dụng cá nhân tồn tại
Tình hình sở hữu thực
nhiều rủi ro. Những rủi ro này xuất phát chủ yếubấttừđộng
phíasản.
các ngân hàng, cá nhân –
Nguyễn Hữu Thiện
Hình thức đảm bảo tiền Mức ổn định
người đi vay
và các yếu tố thuộc môi trường kinh
vĩ mô. Để minh chứng
rõ trường
cho
(2011)
vaytế(+)
của thị
trị tàiđến
sảnrủi
đảm
(-) cá nhân

lập luận trên, tác giả đã tổng hợp các yếu tố ảnhGiá
hưởng
robảo
tín dụng
tiền vay (ns)
thông qua bảng sau:
Số tiền vay (ns)
Lãi suất (ns)
Độ tuổi (ns)
Bảng 2.2: Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín
Thudụng
nhập (ns)
Trình độ (ns)
Vốn tự có tham gia (ns)
Tác
giả
(Năm)
Yếu
tố
thuộc
về
Yếu tốthức
thuộc
về khách
tố môi
Trương Đông Lộc
Hình
sử dụng
vốn Yếu
Lãi suất

(1)
ngân
hàng
hàng
trương
(ns)
vay vốn (-)
và Nguyễn Thanh
kinh tế vĩ
Độ tuổi (ns)
Bình (2011)
Trình độ (-)
Số người phụ thuộc (+)
Thu nhập sau khi vay
Lâm Thị Bích
Kinh nghiệm (-)
Vốn tự có tham gia (ns)
Ngọc (2012)
Sự cạnh tranh
Quy mô doanh nghiệp
giữa các ngân
Tài sản đảm bảo
hàng cho vay (-) Lịch sử vay
Thời gian quen biết với
cán bộ tín dụng
Kinh nghiệm
TCNH –4B
Page 23
Khả năng trả nợ
Khả năng thanh toán


Trong những năm gần đây, tình hình kinh tế ngày càng suy giảm, hàng hóa ế


×