Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

skkn giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh THPT DTNT qua công tác chủ nhiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.06 MB, 35 trang )

Giáo dục bản sắc VHDT cho học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ nhiệm

PHẦN MỞ ĐẦU
1 Lý do chọn đề tài
1.1. Ngay từ những năm đầu tiên của thế kỷ XXI, nhiệm vụ trọng tâm của
toàn dân ta là đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Chúng ta biết rằng, cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa khơng phải là mục đích tự
thân, mà là một phương thức có tính phổ biến để thực hiện mục tiêu của mỗi
quốc gia. Sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta tiến triển trước bối
cảnh xu thế tồn cầu hóa về nhiều mặt đang gia tăng. Xu thế đó là khách quan,
chúng ta khơng thể tách mình ra khỏi dịng chảy tồn cầu hóa, mà phải chuẩn bị
cho mình đầy đủ những năng lực nội sinh cần thiết để chủ động hội nhập kinh tế
thế giới. Muốn vậy, trước hết vừa phải giữ được bản sắc văn hóa dân tộc, vừa
phải tiếp thu được những tinh hoa của văn hóa nhân loại. Vì thế, Báo cáo chính
trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII trình
trước Đại hội IX đã nhấn mạnh việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc. Sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo có vai trị rất lớn trong việc giữ gìn
và phát huy bản sắc dân tộc. Đó là chiếc cầu nối giữa quá khứ - hiện tại - tương
lai, góp phần tạo nên những giá trị bền vững vừa mang tính truyền thống vừa
mang tính hiện đại.
1.2. Trường THPT DTNT N’Trang Lơng là một ngôi trường chuyên biệt
được thành lập ngay từ khi tách tỉnh năm 2004, có trọng trách đào tạo nguồn cán
bộ người dân tộc thiểu số cho tỉnh Đắk Nông. Ngôi trường là nơi hội tụ của con
em 15 dân tộc khác nhau trong toàn tỉnh, mỗi dân tộc mang một bản sắc văn hóa
khác nhau. Các em hội tụ về đây không chỉ để thực hiện khát vọng con chữ, tìm
cánh cửa lập thân lập nghiệp, góp phần xây dựng quê hương mà quan trọng hơn,
trong suốt ba năm chung sống, cùng ăn ở, học tập chính là cơ hội để các em rèn
luyện kỹ năng sống, bồi đắp những hiểu biết không chỉ về dân tộc mình mà cịn
hiểu thêm về văn hóa của nhiều dân tộc khác nhau. Đây chính là nguồn tri thức
vơ giá khơng có trường lớp nào có thể đào tạo được mà chỉ có q trình chung
sống, san sẻ mới có cơ hội tiếp cận. Cho nên, đối với một giáo viên giảng dạy ở


trường nội trú không chỉ đóng vai trị là một người thầy giáo dục nhân cách và
Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng

Page 1


Giáo dục bản sắc VHDT cho học sinh trường PTDTNT qua cơng tác chủ nhiệm
tri thức mà cịn là người cha, người mẹ thứ hai của các em, là chỗ dựa tinh thần
để các em có thể chia sẻ những tâm tư, tình cảm khi phải sống xa gia đình. Đối
với một giáo viên chủ nhiệm còn đặc biệt quan trọng hơn nữa, là những người
thầy đặc biệt, bởi họ khơng những phải làm nhiệm vụ dạy dỗ học trị như các
giáo viên khác, mà còn phải gánh trên vai bao trách nhiệm nặng nề khác, đóng
vai trị làm chiếc cầu nối giữa nhà trường với học sinh và gia đình học sinh, giữa
các giáo viên bộ mơn với học sinh…Giáo viên chủ nhiệm không chỉ là người
thầy mà trong nhiều tình huống cịn phải là người cha, người mẹ, người bạn, chỗ
dựa tinh thần của các em.
1.3. Trong giáo dục đạo đức cho học sinh, việc giáo dục đạo đức truyền
thống của dân tộc là rất quan trọng. Những giá trị và chuẩn mực đạo đức truyền
thống của dân tộc Việt Nam đã được lưu giữ, truyền lại cho các thế hệ và không
ngừng được phát huy qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Để bảo tồn
văn hóa, con người lấy việc giáo dục văn hóa làm quan trọng. Con người sử
dụng trường học như một phương tiện hiệu quả trong giáo dục văn hóa nhằm
bảo tồn và phát triển văn hóa. Vì vậy, ở bất cứ nơi đâu, nhà trường đều có nhiệm
vụ giáo dục văn hóa cho học sinh. Mỗi học sinh trường PTDTNT (phổ thơng
dân tộc nội trú) là đại biểu văn hóa của một vùng quê, một dân tộc. Trường
PTDTNT tạo điều kiện để học sinh được tiếp xúc và thể nghiệm các giá trị văn
hóa truyền thống của dân tộc mình để mạch chảy văn hóa khơng ngừng được
ni dưỡng và lớn mạnh. Trường PTDTNT tổ chức các hoạt động tìm hiểu, thể
hiện, giao lưu văn hóa để học sinh được trao đổi học tập và cùng tham gia vào
việc bảo tồn, phát triển các giá trị văn hóa dân tộc. Nhờ được tiếp xúc thường

xuyên với các hoạt động văn hóa mà học sinh trường PTDTNT vẫn là người con
của dân tộc, đồng thời là người hiểu biết và tôn trọng bản sắc văn hóa của các
dân tộc anh em.
Chính vì những lý do trên mà tôi chọn đề tài Giáo dục bản sắc văn hóa dân
tộc cho học sinh THPT DTNT qua công tác chủ nhiệm làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ

Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng

Page 2


Giáo dục bản sắc VHDT cho học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ nhiệm
2.1. Mục tiêu: Xuất phát từ thực trạng ngồi xã hội và tình hình thực tế
của nhà trường, mục tiêu mà tôi đặt ra là sau q trình thực hiện, học sinh có sự
chuyển biến tích cực trong nhận thức, ý thức giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc. Đồng thời những hiểu biết và hoạt động sau khi thực nghiệm sẽ là
kiến thức bổ ích hỗ trợ cho các em trong quá trình học tập.
2.2. Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu, tìm hiểu sâu rộng về bản sắc văn hóa dân tộc của nhiều dân tộc
khác nhau, tập trung vào các dân tộc hiện có học sinh đang theo học trong nhà trường.
- Tích cực thâm nhập thực tế, tìm hiểu qua các lễ hội tại địa phương, qua
tiếp xúc với phụ huynh học sinh…
- Xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể, chú ý khâu theo dõi, đánh giá
khả năng, mức độ thực hiện của học sinh.
- Đề ra được những giải pháp, cách thức cụ thể, có tính khả thi cao
3. Đối tượng nghiên cứu
Trong sáng kiến kinh nghiệm này tôi tập trung vào đề tài Giáo dục bản
sắc văn hóa dân tộc cho học sinh THPT DTNT qua công tác chủ nhiệm được
rút ra từ q trình làm cơng tác chủ nhiệm của bản thân.

4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Do đặc thù của nhà trường và từ thực tiễn công tác, tôi tập trung khảo sát
thực trạng vấn đề đó là thái độ, ý thức của học sinh đối với những giá trị văn hóa
dân tộc và đã mạnh dạn đề xuất cách thức, giải pháp thực hiện để giáo dục bản
sắc văn hóa dân tộc cho học sinh trường PTDTNT một cách hiệu quả.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Điều tra, áp dụng thực tế
- Phân tích, tổng hợp

PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng

Page 3


Giáo dục bản sắc VHDT cho học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ nhiệm
1.1. Khái quát chung về bản sắc văn hóa dân tộc
1.1.1. Trong phần cuối tập Nhật ký trong tù, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng
tạo và phát minh ra ngơn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, kho học, tôn giáo
văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và
các phương thức sử dụng. Tồn bộ những phát minh và sáng tạo đó tức là văn
hóa. Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng biểu hiện của
nó mà lồi người sản sinh ra nhằm mục đích thích ứng những nhu cầu đời
sống và đòi hỏi của sinh tồn”. Khái niệm "văn hố" theo Từ điển Tiếng Việt,
có các nghĩa:
- Tồn thể những thành tựu của loài người trong sản xuất, xã hội và tinh
thần: "văn hoá xã hội chủ nghĩa". Sự hiểu biết về sự vật hay về cách xử thế tích
lũy bằng việc học tập có hệ thống hoặc thấm nhuần đạo đức và phép tắc lịch

sự. Khái niệm "văn hoá" được hiểu như trên để phân biệt với khái niệm văn
hiến.
- Chỉ văn vật, “văn minh”
- Chỉ giai đoạn phát triển của xã hội lồi người... có trình độ tổ chức và
sinh hoạt cao.
Như vậy, khái quát lại, văn hóa là sự hợp nhất giá trị sáng tạo của con
người trải qua nhiều thế hệ, bao gồm nhiều lĩnh vực, đa dạng về sản phẩm. Sản
phẩm văn hóa tồn tại theo hình thức vật chất hay phi vật chất. Sản phẩm văn hóa
khơng ngừng được con người sáng tạo, lưu giữ, vận dụng và phát triển. Văn hóa
dân tộc bao gồm giá trị văn hóa của cộng đồng dân tộc sáng tạo trong suốt quá
trình lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc đó. Tùy tình hình vận động và
phát triển của mỗi dân tộc mà quy mơ và bề dày sáng tạo văn hóa của từng dân
tộc có khác nhau. Văn hóa dân tộc được bảo tồn và phát triển có nghĩa là một
dân tộc được tồn vong.
1.1.2. Thuật ngữ “bản sắc” nhấn mạnh cái riêng tạo thành phẩm cách, tài
năng. Cũng cần phân biệt, từ “đặc biệt” chỉ sự khác xa mức thường, “đặc điểm”
chỉ những nét riêng biệt, “đặc trưng” chỉ dấu hiệu đặc biệt nổi trội. “Bản sắc
Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng

Page 4


Giáo dục bản sắc VHDT cho học sinh trường PTDTNT qua cơng tác chủ nhiệm
văn hố” là những đặc điểm riêng biệt, có giá trị cao, gồm những giá trị vật chất
và tinh thần được tích luỹ và phát triển trong tiến trình đi lên của một dân tộc, nó
quy định vị trí riêng biệt về mặt xã hội của một dân tộc. Những giá trị đó có thể
có ở mọi dân tộc, song ở dân tộc có bản sắc văn hoá được biểu hiện đậm nét, sâu
sắc và đặc biệt hơn. Hệ thống cấu trúc bản sắc văn hoá dân tộc: Theo Giáo sư
Phạm Hoàng Gia, một nhà nghiên cứu về văn hóa cho rằng: hạt nhân của bản
sắc dân tộc gồm: lối sống; tâm thức – lối ứng xử; ngơn ngữ.

Ở góc độ giá trị tinh thần xã hội, bản sắc văn hoá được thể hiện ở lối sống,
cách ứng xử, cách thể hiện ở nếp sinh hoạt, ngơn ngữ, giao tiếp… một cách đặc
biệt, khó có thể trộn lẫn. Chẳng hạn, đối với người Nhật Bản, họ có thái độ niềm
nở, lịch sự, cẩn thận, chu đáo, ý thức chấp hành, ý chí theo đuổi đến cùng mục
tiêu công việc… là những nét biểu hiện rõ nét đến mức bất cứ ai đến Nhật Bản
đều thừa nhận đó là “bản sắc văn hố Nhật Bản”.
1.2. Việt Nam là quốc gia có nhiều dân tộc chung sống với giá trị văn hóa
dân tộc rất đa dạng và đặc sắc. Các dân tộc đều có nền văn hóa riêng được
khẳng định bằng những giá trị sáng tạo giàu có và bản sắc. Trong q trình phát
triển, văn hóa Việt Nam đã phát triển bằng “biến động” và “hấp thụ” hết sức
phong phú để nó là chính nó, thậm chí sâu sắc hơn, đa dạng hơn. Do kết tinh
những điều kiện tự nhiên, lịch sử và mối quan hệ giao lưu mà ngồi đặc trưng
riêng của từng dân tộc thì các nền văn hóa cịn hình thành đặc trưng theo vùng.
Việt Nam có thể chia thành 6 vùng văn hóa, gồm: vùng Đông Bắc, vùng Tây
Bắc, vùng Tây Bắc, vùng châu thổ Bắc Bộ, vùng Trung Bộ, vùng Tây Nguyên,
vùng Nam Bộ. Mỗi vùng văn hóa có những đặc điểm chung và riêng. Việc phân
chia 6 vùng văn hóa là tương đối, ngày nay trong bối cảnh hội nhập kinh tế và
giao lưu văn hóa giữa các dân tộc, giá trị văn hóa của mỗi tộc người đều chịu
những tác động tích cực và tiêu cực. Văn hóa dân tộc đã có những yếu tố được
làm giàu, phát triển, nhưng cũng có một số yếu tố bị biến dạng, hịa tan, mất bản
sắc. Chính điều này đặt ra nhiệm vụ cấp thiết là phải bảo tồn và phát huy giá trị
văn hóa của các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số.
2. Cơ sở thực tiễn
Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng

Page 5


Giáo dục bản sắc VHDT cho học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ nhiệm
2.1. Xuất phát từ mục tiêu xây dựng con người Việt Nam thời đại mới

Chủ trương xây dựng con người văn hóa ln được Đảng, Nhà nước coi
trọng, tiếp tục kế thừa những nội dung của Nghị quyết TW 5 khóa VIII, Nghị quyết
Trung ương 9 đã chỉ rõ: “So với những thành tựu trong lĩnh vực chính trị, kinh tế,
quốc phịng, an ninh, đối ngoại, thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng,
chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con người và xây dựng mơi trường văn
hóa lành mạnh. Tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong
Đảng và trong xã hội có chiều hướng gia tăng… Mơi trường văn hóa cịn tồn tại
tình trạng thiếu lành mạnh, ngoại lai trái với thuần phong mỹ tục, tệ nạn xã hội, tội
phạm có chiều hướng gia tăng”. Và đây cũng là một trong những nguyên nhân của
“kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả sức cạnh tranh thấp”. Nguy
cơ tụt hậu xa hơn nữa về kinh tế so với các nước trong khu vực và thế giới chưa
được đẩy lùi mà cịn có chiều hướng gia tăng. Từ thực tiễn nêu trên đòi hỏi các cấp
ủy, chính quyền và tồn bộ hệ thống chính trị khi triển khai thực hiện phải quán triệt
và xử lý tốt mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng kinh tế với phát triển văn hóa,
phải xây dựng và thực hiện đồng bộ chính sách văn hóa trong kinh tế và chính sách
kinh tế trong văn hóa, đảm bảo cho văn hóa thể hiện rõ trong các hoạt động kinh tế,
thúc đẩy các hoạt động kinh tế, tạo điều kiện nhiều hơn cho sự nghiệp phát triển văn
hóa. Việc xây dựng các mục tiêu giải pháp kinh tế phải gắn với các mục tiêu giải
pháp văn hóa, chăm lo con người, nêu cao đạo đức trong sản xuất kinh doanh. Xây
dựng văn minh thương nghiệp, văn hóa kinh doanh, văn hóa sinh thái…
Chương trình xây dựng và phát triển văn hóa phải vì mục tiêu phát triển
tồn diện con người, hoàn thiện nhân cách con người, với nhiệm vụ trọng tâm là
chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp với các đặc tính cơ
bản: u nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đồn kết, cần cù, sáng tạo.
Các hoạt động của hệ thống giáo dục - đào tạo, của hệ thống thiết chế văn
hoá, khoa học phải hướng vào việc xây dựng con người Việt Nam có thế giới
quan khoa học, gắn giáo dục, rèn luyện đạo đức với thực hiện quyền con người,
quyền và nghĩa vụ công dân, bồi dưỡng tri thức, nâng cao trí lực và kỹ năng
sống, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, của
Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng


Page 6


Giáo dục bản sắc VHDT cho học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ nhiệm
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, của
kinh tế tri thức và xã hội học tập, của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam.
Phải thực sự coi trọng giáo dục, bồi dưỡng, xây dựng lối sống cao đẹp:
“Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”, lối sống có ý thức tự tôn, tự
trọng, tự chủ; sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật; ý thức bảo vệ môi
trường, lối sống kết hợp hài hồ tính tích cực cá nhân và tích cực xã hội, đề cao
trách nhiệm của cá nhân với bản thân, với gia đình và xã hội; biết khẳng định,
tôn vinh cái đúng, cái thiện, cái đẹp, cái cao thượng và nhân rộng các giá trị
nhân văn cao đẹp. Coi trọng phát triển văn học nghệ thuật và phát huy vai trò
của văn học, nghệ thuật trong việc bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm, nhân cách của
con người. Tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực cảm thụ thẩm
mỹ cho nhân dân, đặc biệt cho lớp trẻ. Bảo đảm quyền hưởng thụ và sáng tạo
văn hoá của mỗi người dân và của cả cộng đồng. Thực sự coi trọng giáo dục, bồi
dưỡng, rèn luyện nâng cao thể lực, tầm vóc con người Việt Nam.
Do đó, các lĩnh vực văn hóa như: Giáo dục - đào tạo, khoa học - công
nghệ, văn học, nghệ thuật, báo chí truyền thơng, di sản văn hóa, thể chế, thiết
chế văn hóa, văn hóa tơn giáo, giao lưu văn hóa và tất cả các thành tố của mơi
trường văn hóa (gia đình, các cơ quan, đơn vị, trường học, bệnh viện, đơn vị lực
lượng vũ trang, các bản làng, phường, xã…) trong chương trình hoạt động của
mình phải hướng tới hiện thực hóa mục tiêu chung: Xây dựng nền văn hóa và
con người Việt Nam phát triển tồn diện hướng đến Chân – Thiện – Mỹ, thấm
nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học để văn hóa thực sự trở
thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội; là sức mạnh nội sinh quan trọng,
bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu: Dân

giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh.
2.2. Xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ của ngành giáo dục
Từ chủ trương, đường lối của Đảng, ngành giáo dục cũng vận dụng các
giá trị văn hóa là mục tiêu quan trọng, trong Luật giáo dục đã khẳng định: “Kế
thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa
Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng

Page 7


Giáo dục bản sắc VHDT cho học sinh trường PTDTNT qua cơng tác chủ nhiệm
văn hóa nhân loại” (Điều 5, Chương 1, Luật GD sửa đổi bổ sung năm 2009).
Bên cạnh đó chính sách trọng tâm đã và đang thực hiện là phong trào thi đua
“Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, trong Chỉ thị số
40/2008/CT-BGĐT ngày 22/7/2008 đã nêu rõ: “Mỗi trường đều nhận chăm sóc
một di tích lịch sử, văn hóa hoặc di tích cách mạng ở dịa phương, góp phần làm
cho di tích ngày càng sạch đẹp hơn, hấp dẫn hơn; tuyên truyền, giới thiệu các
cơng trình, di tích của địa phương với bạn bè. Mỗi trường có kế hoạch và tổ
chức giáo dục truyền thống VHDT và tinh thần cách mạng một cách hiệu quả
cho tất cả học sinh; phối hợp với chính quyền, đoàn thanh niên và nhân dân địa
phương và phát huy giá trị của các di tích lịch sử, văn hóa và cách mạng cho
cuộc sống của cộng đồng ở địa phương và khách…”.
2.3. Xuất phát từ tình hình thực tiễn của nhà trường
2.3.1. Là một tỉnh phía Nam Tây Ngun, Đắk Nơng như một bản trường
ca huyền bí giữa núi rừng đại ngàn, nơi thượng nguồn của dịng sơng Đồng Nai
thơ mộng được bao bọc bởi những cánh rừng nguyên sinh, những thác nước còn
mang vẻ hoang sơ, hùng vĩ, và những đồi càfe, cao su ngút ngàn trải dài từ Bắc
chí Nam. Đất lành thì chim đậu, mặc dù là một tỉnh mới được thành lập 12 năm
nay nhưng Đắk Nông là nơi hội tụ của hơn 20 dân tộc khác nhau trên cả nước,
trong đó hai dân tộc bản địa là Mạ, MNông chiếm đa số. Trên cơ sở đó, ngay khi

thành lập tỉnh trường PTDTNT tỉnh cũng được thành lập, mục đích đào tạo
nguồn cán bộ người dân tộc thiểu số cho tỉnh nhà.
Năm đầu thành lập, nhà trường có 120 em học sinh chia thành 4 lớp, cho
đến nay, quy mô nhà trường đã khang trang bề thế về cả số lượng và chất lượng
với hơn 400 em học sinh, các em là con em của các dân tộc trên tồn tỉnh từ
bn làng xa xôi, hẻo lánh đến trung tâm huyện, thị. Ngôi trường trở thành ngôi
nhà chung của con em 15 dân tộc khác nhau, các em đến đây không chỉ học tập
mà cùng chung sống với nhau suốt 3 năm học.
Là một ngôi trường chuyên biệt với đặc thù là đào tạo học sinh người dân
tộc thiểu số, cho nên, trường THPT DTNT N’Trang Lơng luôn nhận được sự
quan tâm, đầu tư của Đảng, Nhà nước, các cơ quan ban ngành, các tổ chức xã
Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng

Page 8


Giáo dục bản sắc VHDT cho học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ nhiệm
hội từ TW tới địa phương. Đã nhiều lần nhà trường được đón các vị lãnh đạo
cấp cao của Đảng, nhà nước tới thăm trường như Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị
Doan, nguyên PCT nước Trương Mĩ Hoa, Phó Bí thư thường trực TW Đảng
Đinh Thế Huynh. Trong mỗi lần thăm trường, lãnh đạo Đảng, nhà nước đều
nhấn mạnh: nhà trường không chỉ tập trung giáo dục văn hóa mà cịn phải coi
trọng giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho các thế hệ học sinh.
2.3.2. Trước thực trạng đáng buồn mà chúng ta phải thẳng thắn nhìn nhận
đó là sự mai một, lai tạp các giá trị văn hóa truyền thống, đặc biệt là trong giới
trẻ hiện nay, các em đang đánh mất dần những thuần phong mĩ tục, chạy theo lối
sống lai căng, đua đòi, hưởng thụ, thờ ơ trước những giá trị văn hóa của dân tộc.
Thực trạng này cũng đang diễn ra tại ngôi trường mà tôi đang giảng dạy. Trong
hơn 10 năm gắn bó với biết bao thế hệ học sinh, tôi nhận thấy càng thế hệ sau sự
hiểu biết về các giá trị văn hóa dân tộc càng giảm sút. Các em khơng sử dụng

thậm chí là khơng biết ngơn ngữ của chính dân tộc mình, nhất là học sinh dân
tộc phía Bắc (Thái, Tày, Nùng…); khơng biết hoặc biết rất mơ hồ về phong tục
tập quán của dân tộc mình như: lễ hội, các làn điệu dân ca, nghi thức trong ma
chay, cưới hỏi…; ngay cả trong cuộc sống hàng ngày, các em cũng rất ít, gần
như khơng mặc, trang phục truyền thống của dân tộc mình.
Từ quá trình dạy dỗ, gắn bó với các em qua cơng tác giảng dạy, đặc biệt là
chủ nhiệm, tôi nắm được sơ bộ về nguyên nhân dẫn đến hiện trạng trên:
Thứ nhất, xuất phát từ nếp nghĩ của bản thân, các em luôn tự ti, mặc cảm
bản thân là người dân tộc thiểu số, không văn minh, không đẹp nên không muốn
mặc trang phục dân tộc và sử dụng tiếng mẹ đẻ vì khơng muốn mọi người xung
quanh gọi là “người dân tộc”. Bên cạnh đó, trang phục dân tộc thường vướng
víu, bất tiện, khơng hợp mốt lại phải rất tốn cơng sức, tiền bạc mới có được một
bộ (nhất là trang phục thổ cẩm, váy áo của người Mông…).
Thứ hai, trong quá trình chung sống với nhiều dân tộc khác nhau nên ảnh
hưởng cách sống, cách nghĩ của nhau, đặc biệt là gia đình của chính các em cũng
khơng coi trọng việc giáo dục con em mình giữ gìn và phát huy những bản sắc dân
tộc.
Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng

Page 9


Giáo dục bản sắc VHDT cho học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ nhiệm
Thứ ba, là những ảnh hưởng, tác động quá lớn của lối sống hiện đại đặc
biệt là công nghệ thông tin, sự cám dỗ, hấp dẫn của mạng xã hội, trị chơi điện
tử, phim ảnh khơng lành mạnh.
Thứ tư, là môi trường giáo dục nhà trường chưa đồng bộ trong việc giáo
dục bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh, giáo viên chủ yếu tập trung vào
chuyên môn và cũng không chú trọng nghiên cứu, tìm hiểu các phong tục tập
qn, bản sắc văn hóa của các dân tộc để giáo dục học sinh; trong công tác chủ

nhiệm thường chỉ chú trọng khâu quản lý, nhắc nhở học sinh học tập, duy trì nề
nếp thực hiện kế hoạch, nội quy của nhà trường… chứ không coi trọng cơng tác
giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh.
3. Giải pháp, cách thức giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh
THPT qua công tác chủ nhiệm
Trong môi trường giáo dục nhà trường, giáo viên chủ nhiệm là đối tượng
gần gũi nhất với học sinh, là người trực tiếp quản lý, điều hành các hoạt động
của lớp học. Hơn 12 năm công tác thì có tới 9 năm làm cơng tác chủ nhiệm, từ
thực tiễn áp dụng của bản thân, tôi mạnh dạn chia sẻ những giải pháp và cách
thức trong giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh, cụ thể như sau:
3.1. Chú trọng giáo dục ý thức giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc cho học sinh
Sự mai một các giá trị văn hóa, bản sắc dân tộc cũng xuất phát từ ý thức
của mỗi con người, cho nên làm công tác chủ nhiệm, giáo viên phải chú trọng
việc giáo dục ý thức cho học sinh. Trước hết, cần giúp các em hiểu giá trị của
mỗi dân tộc, ý nghĩa của các giá trị truyền thống, nét đẹp văn hóa truyền thống;
giáo dục các em phải luôn tự tôn, tự hào về những bản sắc rất riêng của dân tộc
mình; phân biệt rõ cho các em hiểu thế nào là sự tiếp thu học hỏi để làm phong
phú văn hóa và thích nghi với cuộc sống, thế nào là sự lai căng, pha tạp không
cần thiết. Việc giáo dục ý thức cho các em không được hời hợt, có lệ mà phải
thường xuyên, từ từ. Đối với giáo viên trường DTNT thuận lợi hơn, bởi không
chỉ qua các tiết sinh hoạt hay 15 phút đầu giờ mà còn gặp gỡ các em qua các
buổi chiều, tối tự học. Chúng ta không tuyên truyền bằng lý thuyết suông mà cần
Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng

Page 10


Giáo dục bản sắc VHDT cho học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ nhiệm
phải khéo léo đề ra quy định hoặc nhắc nhở các em thực hiện, chẳng hạn đề ra

quy định thứ 2 với thứ 7 trong tuần các em phải mặc trang phục dân tộc, muốn
vậy bản thân giáo viên chủ nhiệm cũng phải làm mẫu, cũng phải mặc áo dài đến
trường. Đồng thời, giúp học sinh thấy được trang phục truyền thống của mỗi dân
tộc không phải ngẫu nhiên xuất hiện và tồn tại mà được tạo ra dần trong suốt
quá trình hình thành, tồn tại và phát triển qua chiều dài lịch sử dựng nước và giữ
nước. Nó là thứ văn hóa " tinh túy" được chắt lọc trong quá trình ứng xử của con
người, trong quan hệ tương tác với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội,
giữa con người với con người trong cùng môi trường sống. Việc giáo dục giúp
học sinh biết được nguyên nhân, ý nghĩa, sự tồn tại trang phục truyền thống của
dân tộc mình và các dân tộc khác. Từ đó, học sinh mới hiểu rõ nhờ có trang
phục truyền thống và các yếu tố văn hóa khác mà các dân tộc mới đủ sức tồn tại
trong cộng đồng quốc gia đa dân tộc Việt Nam, đủ sức vượt qua các cuộc đồng
hóa của nền văn hóa ngoại lai, đủ bản lĩnh chiến thắng giặc ngoại xâm để giữ
vững nền độc lập tự chủ của dân tộc. Đồng thời, giáo dục còn giúp cho học sinh
hiểu một dân tộc đánh mất bản sắc văn hóa nói chung, trang phục truyền thống
của dân tộc mình nói riêng thì sớm muộn và tất yếu cũng sẽ bị dân tộc khác
đồng hóa.Việc giữ gìn và bảo tồn trang phục truyền thống có tầm quan trọng đối
với việc nhận thức về sự tồn tại của chính cộng đồng đó trong lịch sử.
Bên cạnh đó, giáo viên phải thường xuyên nhắc nhở các em phải biết trân
quý những bản sắc của dân tộc mình như thường xuyên sử dụng tiếng mẹ đẻ, tìm
hiểu các phong tục tập quán lâu đời, lễ hội của dân tộc mình…khơng chỉ trên
lớp học mà qua các buổi gặp gỡ, trị chuyện với các em ở kí túc xá.
3.2. Xây dựng kế hoạch cụ thể, hướng dẫn, tổ chức các hoạt động
nhằm giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh
Muốn thực hiện được điều này bản thân giáo viên chủ nhiệm phải có sự
hiểu biết sâu rộng về bản sắc văn hóa và các phong tục tập quán của nhiều dân
tộc khác nhau, nhất là các dân tộc bản địa như Mạ, M Nông và một số dân tộc
phổ biến như Tày, Thái, Mường, H Mơng…Do vậy, để có thể giáo dục được học

Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng


Page 11


Giáo dục bản sắc VHDT cho học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ nhiệm
sinh một cách hiệu quả, GVCN phải tự nghiên cứu, tìm hiểu qua sách báo,
Internet, thậm chí là từ chính học sinh mình đang giảng dạy.
Trước khi bắt tay vào hướng dẫn học sinh, GVCN cần xây dựng kế hoạch
ngay từ đầu năm học, tốt nhất là dựa vào kế hoạch của nhà trường, các chủ điểm
hoạt động của Đoàn thanh niên, chọn thời điểm, chủ điểm phù hợp và có thể
mang lại hiệu quả giáo dục cao nhất, thông báo và hướng dẫn học sinh thực hiện
các hoạt động. Chẳng hạn, trong năm học, tôi tập thường tập trung thực hiện ba
chủ điểm nhau sau:
* Chủ điểm 20/11: Sang sông, nhớ ơn nguồn cội
Tháng 11 là tháng trọng tâm và thường diễn ra nhiều hoạt động thi đua sôi
nổi chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam. Bên cạnh việc thường xun đơn đốc,
khích lệ các em thi đua trong học tập, rèn luyện, GVCN nên xây dựng các hoạt
động, nhất là các tiết mục văn nghệ vừa tạo sự ấn tượng, vừa để thông qua đó
giáo dục bản sắc văn hóa cho học sinh, tại chủ điểm này, tôi hướng dẫn lớp thực
hiện hai tiết mục tham gia Hội thi Văn nghệ do Đoàn trường tổ chức:
- Thi trình diễn trang phục dân tộc (yêu cầu lớp chuẩn bị 10 loại trang
phục của 10 dân tộc khác nhau: Kinh, MNông, HMông, Thái, Tày, Nùng,
Mường, Ê đê, Dao, Cao Lan), các em đã chuẩn bị rất tốt vì khi nhập học nhà
trường ln u cầu mỗi học sinh phải có ít nhất một bộ trang phục truyền thống
dân tộc. Trong q trình trình diễn sẽ có một em thuyết trình ngắn gọn về đặc
điểm của mỗi loại trang phục (phần này học sinh chuẩn bị từ trước).
- Tiết mục hát – múa Mông Cô giáo vùng cao, vừa để ca ngợi, tri ân thầy
cô, vừa phô diễn được bản sắc của dân tộc Mông qua lời ca, điệu múa.
* Chủ điểm thứ hai vào dịp Tết Ngun Đán: Thi tìm hiểu bản sắc văn
hóa dân gian

Đây là hoạt động nội bộ của lớp nhưng được tổ chức bài bản, có đánh giá, trao
giải, ban giám khảo gồm có 5 người: Giáo viên chủ nhiệm, đại diện một phụ huynh
học sinh ở gần nhất, một giáo viên trong BCH Đoàn trường và 2 học sinh khá, giỏi
thuộc 2 dân tộc khác nhau của khối 12. Đầu tiên tơi chia lớp thành 4 nhóm, mỗi
nhóm thực hiện một nhiệm vụ với thời gian tìm hiểu và hồn thành là 2 tuần.
Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng

Page 12


Giáo dục bản sắc VHDT cho học sinh trường PTDTNT qua cơng tác chủ nhiệm
- Nhóm 1. Sưu tầm 5 truyện dân gian, thể hiện 3 làn điệu dân ca của các
dân tộc thiểu số và nêu ý nghĩa của mỗi câu chuyện, nội dung, ý nghĩa của mỗi
làn điệu dân ca.
- Nhóm 2. Thuyết minh về một phong tục tập quán , một đặc sản của dân
tộc thiểu số ở Tây Nguyên mà em ấn tượng nhất.
- Nhóm 3. Thuyết minh về một số phong tục truyền thống hoặc lễ hội dân
gian trong dịp Tết của các dân tộc miền núi phía Bắc.
- Nhóm 4. Trong vai trị là một hướng dẫn viên du lịch em hãy giới thiệu cho
khách tham quan về một nghề thủ công truyền thống và sản phẩm của nghề thủ công ấy.
Điểm thuận lợi là trước khi nghỉ Tết âm lịch các em đã hồn thành
chương trình học kỳ I, chương trình thời điểm này cũng tương đối nhẹ nhàng,
hơn nữa đối với học sinh nội trú thời gian nhiều hơn, không phải học thêm hay
làm cơng việc gia đình nên các em có thể thực hiện được các hoạt động ngoại
khóa tốt hơn. Thời điểm tổ chức tôi thực hiện vào buổi chiều kết hợp với liên
hoan cuối năm trước khi các em về nghỉ Tết.
Sau hai tuần, cả 4 nhóm đều hồn thành rất tốt nhiệm vụ, các nhóm đều
thể hiện sự đầu tư công phu về cả phần nghe và phần nhìn bằng những minh
họa, sản phẩm cụ thể, ấn tượng.
- Nhóm 1 sưu tầm được 5 truyện dân cụ thể là: Tạo Nhá Sáy, Chàng Bả

Khó (Thái), Bơ- là Chua phụ vợ, Người chồng bội bạc(H’mông), Tưởng chết mà
giàu sang, ác độc (Tày), Sự tích dịng sơng K Rơng Ana (Ê đê) và các em trình
bày được 3 làn điệu dân ca: hát Then (Tày), hát Sli (Nùng), một đoạn trong bài
hát ru bằng làn điệu pá yong của dân tộc MNơng.
- Nhóm 2 thuyết minh về lễ hội đâm trâu và đặc sản là món cơm lam quen
thuộc của đồng bào Tây Nguyên, trong quá trình thuyết minh các em khơng chỉ
sưu tầm hình ảnh mà cịn tự tay làm sản phẩm để minh họa.

Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng

Page 13


Giáo dục bản sắc VHDT cho học sinh trường PTDTNT qua cơng tác chủ nhiệm

Tồn cảnh Lễ hội đâm trâu của người Tây Nguyên
- Nhóm 3 thuyết minh về tục đón giao thừa Pong-chay và tục đi lấy nước
suối vào sáng mùng 1 của người Thái và Lễ hội Lồng Tồng của người Tày.

Toàn cảnh Lễ hội Lồng Tồng (xuống đồng) của người Tày

Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng

Page 14


Giáo dục bản sắc VHDT cho học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ nhiệm

Học sinh mặc trang phục của người Tày để thuyết minh về lễ hội Lồng Tồng
Nhóm 4 giới thiệu về nghề dệt thổ cẩm và sản phẩm là bộ váy áo thổ cẩm

của người M Nông.

Trang phục của người M Nông và người Mạ ở Đắk Nông

Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng

Page 15


Giáo dục bản sắc VHDT cho học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ nhiệm
Dựa trên mức độ đầu tư, sự chuẩn bị cơng phu về bài viết, hình ảnh, sản
phẩm; khả năng thuyết trình của mỗi nhóm, Ban giám khảo đã đánh giá và xếp
hạng: Nhất – Nhì – Ba – khuyến khích và trao thưởng cho mỗi đội (nguồn này
trích từ quỹ lớp).
Nhìn chung, trong q trình thực hiện các em rất hào hứng và có ý thức
hợp tác cùng nhau làm việc, biết phân việc phù hợp với khả năng của từng bạn,
biết nhờ sự hỗ trợ của cha mẹ, đặc biệt còn tự tay nấu cơm lam để minh họa.
Tuy nhiên, khi bước vào hội thi, đặc biệt là khả năng thuyết trình, sự tự tin trước
đám đơng cịn rất hạn chế, mặc dù các em chuẩn bị rất kỹ nhưng vẫn lúng túng,
chưa trôi chảy. Nhưng điều thành công và đáng mừng là các em vừa rèn luyện
được một số kỹ năng sống vừa lĩnh hội được rất nhiều kiến thức bổ ích đề phục
vụ cho học tập và cuộc sống sau này.
* Chủ đề ngày 26/3: Tuổi trẻ sáng tạo, tự hào tiếp bước
Tháng 3 không chỉ là tháng trọng điểm của học kỳ II mà cịn là tháng diễn
ra nhiều hoạt động sơi nổi thi đua chào mừng các ngày lễ lớn như 8/3, 26/3 và
còn là tháng thanh niên. Cho nên, ngay đầu tháng tôi không chỉ đôn đốc, hướng
dẫn lớp tham gia các hoạt động thi đua do Đoàn trường phát động mà cịn xây
dựng những chương trình cụ thể để phát huy sức năng động sáng tạo và nhằm
giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn, ý thức giữ gìn bản sắc dân tộc cho
các em:

- Tổ chức các hoạt động vừa sức nhưng ý nghĩa, thiết thực như:
+ Đăng ký với Đồn trường đi chăm sóc nghĩa trang liệt sĩ (trường tơi
thường 1 tháng sẽ có 1 chi đồn đi chăm sóc nghĩa trang liệt sĩ vào ngày 30 hàng
tháng).
+ Chăm sóc cây cảnh và lau dọn khu tượng đài của trường 2 lần/tuần vào
buổi chiều sau giờ tự học.

Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng

Page 16


Giáo dục bản sắc VHDT cho học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ nhiệm

Tượng đài anh hùng dân tộc N’Trang Lơng tại trường
+ Thu gom giấy vụn gây quỹ để làm từ thiện, năm học vừa qua tiền quỹ
lớp thu được trong tháng 3 là 570.000đ và lớp đã dành số tiền ủng hộ những em
bị khuyết tật trong buổi giao lưu văn nghệ của Hội người khuyết tật diễn ra tại
trường.
- Xây dựng các tiết mục văn nghệ vừa phát huy sự năng động trẻ trung,
vừa giáo dục được ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cho các em.

Học sinh tập nhảy Sạp chuẩn bị cho Hội trại ngày 26/3

Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng

Page 17


Giáo dục bản sắc VHDT cho học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ nhiệm


Học sinh tập kịch để tham gia hội thi văn nghệ trong ngày 26/3
3.3. Phát huy thế mạnh của bộ môn giảng dạy vào công tác chủ nhiệm
Giáo viên chủ nhiệm bao giờ cũng là một giáo viên trực tiếp giảng dạy
một bộ mơn nào đó mà bất kỳ môn học nào – nhất là các mơn xã xội như Văn,
Sử, Địa, GDCD, đều có thể khai thác để giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho
học sinh. Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy, giáo viên bộ môn chỉ tập trung
truyền đạt kiến thức, khơng có thời gian hoặc ít chú trọng vào việc giáo dục
những giá trị khác thông qua bộ môn. Đối với giáo viên chủ nhiệm, đặc biệt là
giáo viên chủ nhiệm ở trường nội trú, thời gian tiếp cận, gặp gỡ học sinh khá
nhiều như ngoài các tiết dạy, sinh hoạt 15 phút đầu giờ, tiết sinh hoạt, giáo viên
chủ nhiệm còn phải quản lý học sinh vào các buổi tự học, quản lý việc ăn ở, sinh
hoạt của các em ở kí túc xá…Cho nên, ngồi những tiết học trên lớp, giáo viên
chủ nhiệm nên khéo léo, linh động liên hệ lồng ghép kiến thức bộ mơn có liên
quan đến những giá trị văn hóa dân tộc vào thực tiễn đời sống để giáo dục các
em.

Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng

Page 18


Giáo dục bản sắc VHDT cho học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ nhiệm
Chẳng hạn, đối với môn Ngữ Văn, hầu hết các tác phẩm từ văn học dân
gian đến văn học viết đều có thế khai thác nội dung giáo dục bản sắc văn hoá
dân tộc, và giáo viên sẽ giúp học sinh phát hiện, xử lý và hệ thống hoá tri thức
về văn hoá dân tộc, bản sắc văn hố của từng dân tộc thơng qua các hình tượng
nghệ thuật.
- Các tác phẩm văn học dân gian như:
+ Truyện cổ tích khai thác các nội dung về quan hệ ứng xử, giá trị nhân

đạo, phong cách ứng xử văn hoá, quan niệm về thiện - ác, nhân - quả, những bài
học về đạo lý làm người.
+ Các bài ca dao, tục ngữ khai thác hình ảnh, hình tượng về nông thôn
Việt Nam, cảnh sinh hoạt, lao động sản xuất hay sinh hoạt gia đình, quan hệ ứng
xử, quan hệ tình bạn tình yêu, phong tục nếp sống của cộng đồng người việt,
tình cảm yêu quê hương đất nước…
- Các tác phẩm của văn học viết thì phong phú, đa dạng hơn nữa:
+ Chẳng hạn, có thể khai thác các hình ảnh, phong tục, tập quán tốt đẹp
cũng như tình cảm sâu đậm của người Việt Bắc (người Tày, người Nùng) đối với
cách mạng qua các hình ảnh: "áo chàm chia buổi phân li; Cầm tay nhau biết nói
gì hơm nay" (Bài thơ Việt Bắc); hoặc sự luyến tiếc vẻ đẹp thơn q của Nguyễn
Bính: "Cịn đâu cái áo lụa sồi, cái khăn mỏ quạ cái quần nái đen". (Bài thơ
Chân quê); hoặc khai thác các nét đặc trưng văn hoá vùng Kinh Bắc qua bài thơ
Bên kia sơng Đuống của Hồng Cầm; hay trong bài Đất nước của Nguyễn
Khoa Điềm có thể khai thác được rất nhiều những giá trị văn hóa truyền thống
của người Việt như: đặc trưng của một nền văn minh lúa nước, tục ăn trầu, tục
bới tóc, cách lý giải về nguồn gốc những danh lam thắng cảnh…
+ Các tác phẩm truyện ngắn: truyện ngắn Nam Cao, Ngơ Tất Tố, Nguyễn
Cơng Hoan…có thể khắc sâu cho học sinh nhận thức rõ về bản chất bất cơng,
bóc lột của xã hội phong kiến hay cách tổ chức sắp xếp theo văn hóa làng, xã
trong xã hội cũ,… truyện Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành; truyện Vợ
chồng A Phủ của Tơ Hồi, có thể khai thác các hình tượng nhân vật tiêu biểu
cho văn hố các dân tộc miền núi. Ví dụ hình tượng người HMông đi theo cách
Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng

Page 19


Giáo dục bản sắc VHDT cho học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ nhiệm
mạng qua tác phẩm Vợ chồng A Phủ. Qua tác phẩm này, cũng như có thể thống

kê hàng loạt các hình ảnh tiêu biểu cho lối sống phong tục tập quán của người
Mèo (phong tục ăn Tết, chơi xuân; tục bắt vợ, tục cúng ma trình làng, phạt vạ...)
Hình ảnh ơng Già Mết (trong Rừng Xà nu) là biểu tượng cho núi rừng Tây
Nguyên hùng vĩ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược. Đồng thời, tác
phẩm cũng hiện lên hình ảnh những con người Tây Nguyên với các nét phẩm
chất đẹp đẽ như: lòng quả cảm đáng kính trọng cùng với những phong tục tập
quán, những giá trị văn hố lâu đời đã được gìn giữ, đã được phát triển và đã
góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại cho dân tộc.
3.4. Kết hợp và yêu cầu sự hỗ trợ của phụ huynh học sinh
Con người vừa là một thực thể tự nhiên vừa là một thực thể xã hội. Cuộc
sống của con người chịu sự chi phối bởi môi trường tự nhiên và xã hội mà con
người sống trong đó. Gia đình, nhà trường, xã hội là ba mơi trường liên kết, gắn
bó chặt chẽ với nhau trong quá trình hình thành và phát triển của mỗi cá nhân.
Gia đình là một trong ba mơi trường xã hội hố trẻ em, quyết định trực tiếp tới
mặt tự nhiên và xã hội trong mỗi con người, thơng qua gia đình mỗi cá nhân
người ngày càng hoàn thiện cả về mặt tự nhiên và mặt xã hội. Gia đình khơng
chỉ sinh ra con người, thực hiện các chức năng chăm sóc hồn thiện thể lực cho
trẻ em mà còn là một trường học đầu đời cho mỗi đứa trẻ phát triển, hoàn thiện
yếu tố xã hội trong con người: dạy cho trẻ em cách ăn, mặc, giao tiếp, tiếp thu
văn hố cơng cộng, giúp trẻ hình thành nhân cách gốc cho con người. Thơng qua
gia đình, cá nhân có cơ sở để tiếp nhận những giá trị, những chuẩn mực xã hội,
vững tin bước sang một mơi trường xã hội hố cao hơn. Như vậy, để nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực về thể lực, trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ, điều quan trọng
nhất là cần phải chú ý nâng cao vị trí, vai trị, chức năng, phương pháp giáo dục
gia đình trong việc xã hội hoá trẻ em; đồng thời phải biết kết hợp hài hồ các
mơi trường giáo dục: giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội. Trong các môi
trường giáo dục, gia đình có một ý nghĩa quyết định đầu tiên đối với việc hình
thành con người xã hội, giáo dục con người trở thành cơng dân có ích cho xã
hội.
Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng


Page 20


Giáo dục bản sắc VHDT cho học sinh trường PTDTNT qua cơng tác chủ nhiệm

Gia đình là mơi trường đầu tiên trong việc ni dưỡng, giáo dục và hình
thành nhân cách mỗi con người
Gia đình cịn là nơi lưu giữ, bảo tồn, truyền dạy, phát huy tốt nhất cho các
thành viên trong gia đình những giá trị văn hóa truyền thống, cũng như tiếp nhận
những giá trị văn hóa hiện đại tạo nên những giá trị văn hoá tốt đẹp, vừa truyền
thống vừa hiện đại. Từ đó, góp phần hình thành nên nhân cách con người Việt
Nam hoàn thiện và chuẩn mực vừa truyền thống, góp phần gữi gìn bản sắc văn
hố gia đình truyền thống của dân tộc, vừa hiện đại góp phần đưa gia đình
truyền thống Việt Nam hòa nhập vào xu thế hiện đại, nhưng vẫn phải giữ được
sắc thái riêng không bị trộn lẫn vào cái chung và kế thừa, tiếp thu có chọn lọc.
Bên cạnh đó, việc giáo dục đạo đức gia đình đang đối mặt với những
thách thức và nguy cơ không hề nhỏ. Đó là hiện tượng thích tiếp thu cái tốt
chậm, hấp thu cái xấu nhanh, a dua đám đông phát triển với những hệ lụy của nó
nhất là trong giới trẻ đang là nỗi ám ảnh với gia đình và xã hội. Hiện tượng chạy
theo giá trị vật chất thuần túy và lợi ích tầm thường mà quên lãng giá trị tinh
thần cần thiết cũng là hồi chuông báo động suy thoái đạo đức lối sống. Tội
phạm, tệ nạn xã hội, hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan làm băng hoại đạo đức, nhức
nhối đời sống xã hội vẫn còn bức xúc, đặc biệt về suy thoái đạo đức, lối sống, sự
Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng

Page 21


Giáo dục bản sắc VHDT cho học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ nhiệm

xem nhẹ, lãng quên các giá trị truyền thống, đánh mất dần các tập tục, bản sắc
của dân tộc,…ngày càng báo động.
Chính vì vậy, trong q trình giáo dục học sinh, giáo viên phải hết sức coi
trọng việc tác động gia đình cùng phối hợp để giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho
các em. Đối với học sinh trường DTNT việc gặp mặt, tiếp xúc với phụ huynh học
sinh gặp nhiều hạn chế, bởi hầu hết các em đến từ buôn làng xa xôi, gia cảnh khó
khăn. Cho nên, ngay từ đầu năm học trong buổi họp phụ huynh tôi luôn chú trọng
đến việc yêu cầu gia đình cùng phối hợp với nhà trường trong giáo dục bản sắc văn
hóa dân tộc cho học sinh. Trước tiên, giáo viên cần nêu rõ những hiện trạng thực tế
và những nguy hại của sự mai một các giá trị văn hóa dân tộc để phụ huynh hiểu rõ,
tiếp đó giải thích để phụ huynh thấy được vai trị, ý nghĩa của bản sắc văn hóa mỗi
dân tộc đối với việc giữ gìn và phát triển đất nước. Đồng thời, cũng cần phân biệt
cho cha mẹ học sinh hiểu được những bản sắc văn hóa cần được khơi phục, bảo tồn
(ngơn ngữ, các giá trị văn hóa dân gian, các nghi thức, lễ hội…) và đâu là những hủ
tục lạc hậu cần phải xóa bỏ (nạn tảo hôn, chữa bệnh bằng cúng bái, tục thách cưới
tốn kém ở một số dân tộc…).
Từ đó, giáo viên đề nghị phụ huynh cần chú ý giáo dục bản sắc dân tộc
cho con em mình bằng hành động thiết thực chẳng hạn: Sử dụng tiếng mẹ đẻ khi
giao tiếp với cha mẹ, dạy cho các em chữ viết của dân tộc mình (theo khảo sát
hai năm liên tục trong hai lớp tôi chủ nhiệm: lớp 11A2 năm học 2014 – 2015 và
lớp 12A3 của năm học 2015 – 2016 có tất cả 57 học sinh thì có tới 43 em khơng
biết chữ viết của dân tộc mình); khuyến khích con em mặc trang phục dân tộc
trong các dịp lễ tết hoặc khi gia đình, họ hàng có việc trọng đại; dạy các em biết
ít nhất một nghề truyền thống – bởi đa phần ông bà, cha mẹ các em đều biết dệt
thổ cẩm, đan mây, tre, thậm chí có phụ huynh còn là nghệ nhân nổi tiếng của
tỉnh; đối với những phụ huynh là người dân tộc bản địa như Mạ, MNông, Ê đê…
nên dạy cho các em biết cách đánh cồng chiêng và hiểu được cơ bản về không
gian văn hóa cồng chiêng…

Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng


Page 22


Giáo dục bản sắc VHDT cho học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ nhiệm

Phụ huynh học sinh trong ngày Hội nghị phụ huynh học sinh
Bên cạnh đó, tơi chủ động đề nghị thành lập Ban văn hóa dân tộc của
lớp, thành phần của ban gồm 3 phụ huynh là những người biết và am hiểu sâu
sắc về cồng chiêng, về hát dân ca, và một nghề truyền thống.

Ban văn hóa của lớp
Đối với trường DTNT việc này rất thuận lợi và phụ huynh cũng rất nhiệt tình
hợp tác. Như năm học vừa qua, Ban văn hóa dân tộc của lớp tơi chủ nhiệm hoạt
động rất hiệu quả bởi vì 3 phụ huynh trong ban người là nghệ nhân (phụ huynh em
Thị Yang là nghệ nhân dệt thổ cẩm nổi tiếng của tỉnh, phụ huynh em H Lệ là Phó chủ
Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng

Page 23


Giáo dục bản sắc VHDT cho học sinh trường PTDTNT qua cơng tác chủ nhiệm
tịch kiêm trưởng ban văn hóa xã Đắk Rtih rất giỏi về cồng chiêng), người là cán bộ
của Ban dân tộc thị xã (chú K Beo – từng là trưởng ban dân tộc, hiện là Chủ tịch Hội
đồng nhân dân thị xã Gia nghĩa). Các thành viên trong ban có nhiệm vụ là truyền đạt
và dạy các em học sinh biết cơ bản về cách đánh cồng chiêng, cách dệt thổ cẩm, đan
gùi,…Ban hoạt động 4 lần/ năm, mỗi học kỳ 2 lần, tôi thường bố trí vào buổi chiều,
tối thứ 7, và sáng chủ nhật để phụ huynh vừa thuận tiện sắp xếp công việc, các em
học sinh trong ngày nghỉ sẽ có thời gian để học tập, tìm hiểu. Trong 4 lần hoạt động,
phụ huynh sẽ sắp xếp hoạt động phù hợp và tập trung vừa giảng lý thuyết, vừa

hướng dẫn học sinh thực hành tại chỗ. Chẳng hạn, đợt I, phụ huynh dạy con em cách
đánh cồng chiêng (hiện tại nhà trường luôn có 5 bộ chiêng); đợt II là dạy cách dệt thổ
cẩm (phụ huynh chuẩn bị sẵn nguyên liệu); đợt 3 dạy cách đan gùi; đợt 4 Ban sẽ tổ
chức kiểm tra, đánh giá về mức độ, kỹ năng mà các em học được. Trong quá trình
thực hiện, giáo viên chủ nhiệm phải luôn sắp xếp thời gian để các em tự thực hành,
luyện tập. Và kết quả là đến cuối năm học, trong đợt kiểm tra đánh giá của Ban, có
25/ 27 em biết cách đánh chiêng (chỉ có 2 em nữ tay quá yếu không đánh được), 27
em biết cách đan gùi và dệt thổ cẩm, trong đó có 5 em nữ đan gùi và dệt rất giỏi, có
em đã tự dệt váy và túi xách cho mình).

Ban văn hóa của lớp hướng dẫn các em học sinh đánh chiêng

Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng

Page 24


Giáo dục bản sắc VHDT cho học sinh trường PTDTNT qua công tác chủ nhiệm

Các em chăm chỉ tập đánh chiêng sau giờ học

Chị H Yon, phụ huynh em H Lệ, một nghệ nhân dệt thổ cẩm nổi tiếng
của huyện Đắk R Lấp, người hướng dẫn lớp cách dệt thổ cẩm

Phạm Thị Ngát – Giáo viên trường THPT DTNT N’Trang Lơng

Page 25



×