Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Nghiên cứu tác động và sự phụ thuộc của người dân đến tài nguyên rừng tại khu bảo tồn thiên nhiên và di tích vĩnh cửu tại xã phủ lý, huyện vĩnh cửu, tỉnh đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (899.39 KB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

Bùi Minh Tân

NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG VÀ SỰ PHỤ THUỘC CỦA NGƯỜI
DÂN ĐẾN TÀI NGUYÊN RỪNG TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN
VÀ DI TÍCH VĨNH CỬU TẠI XÃ PHÚ LÝ, HUYỆN VĨNH CỬU,
TỈNH ĐỒNG NAI

Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60.62.60

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
Học viên: Bùi Minh Tân
Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS.Vũ Nhâm

Hà Nội, 2009


1
ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong nhiều thập kỷ qua, thế giới đã nhận thấy rằng, các KBTTN và VQG
có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn đa dạng sinh học và mang lại lợi ích cho
toàn xã hội. Các KBT là nơi lưu trữ các vật liệu thiên nhiên cho sự phát triển của
các ngành y tế, nông nghiệp và lâm nghiệp; đồng thời gìn giữ các chức năng tự
nhiên của hệ sinh thái, bảo vệ đất đai, điều hòa khí hậu, giúp con người được sống


trong bầu khí quyển trong lành. Mặc dù các KBT có tầm quan trọng như vậy,
nhưng quản lý các KBT đó đang gặp rất nhiều khó khăn từ phía các cộng đồng địa
phương, đặc biệt đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam [22].
Là một nước nhiệt đới với 3/4 diện tích đất đai là đồi núi, trong đó có rừng,
Việt Nam rất giàu có về đa dạng sinh học. Nguồn tài nguyên này không những có
vai trò quan trọng đối với toàn xã hội, có ý nghĩa quốc gia, mà còn là nguồn sinh
kế chủ yếu của con người từ bao đời, đặc biệt đối với các cộng đồng sống trong và
gần rừng. Từ năm 1962 đến 2002, Việt Nam đã thành lập một hệ thống các khu
RĐD, gồm có 105 KBTTN và VQG. Hầu hết các KBTTN và VQG này nằm ở
vùng núi và là nơi có các cộng đồng dân tộc thiểu số sinh sống. Vì vậy, để ngăn
chặn những tác động bất lợi tới TNR và tham gia vào bảo tồn đa dạng sinh học,
các KBTTN và VQG đều phải xây dựng một diện tích bao quanh để bảo vệ, gọi là
vùng đệm [13].
Đối với người dân địa phương sống trong và gần rừng, việc thành lập các
KBTTN và VQG luôn có xu hướng làm thay đổi lớn tới cuộc sống của họ. Bắt đầu
từ những thay đổi về vị trí nhà ở, về thói quen chiếm hữu đất đai canh tác, nguồn
sản phẩm sẵn có ở rừng, dẫn tới nhiều thay đổi khác về tập quán canh tác, sinh kế,
văn hóa. TNR, nguồn sống chủ yếu của người dân vùng núi bao đời nay dường
như không còn là của họ. Trong khi đó, các sinh kế tạo nguồn thu nhập khác chưa
bù lại được sự thiếu hụt lớn lao này. Chính vì vậy, đã gây ra mâu thuẫn giữa
KBTTN, VQG và các cộng đồng địa phương. Khi chưa tìm được tiếng nói chung


2
đối với việc bảo tồn TNR thì việc tồn tại những tác động bất lợi của người dân vào
rừng như là một tất yếu [13].
KBTTN và DT Vĩnh Cửu được thành lập muộn hơn so với các KBT khác
trong cả nước. Ngày 01/01/2005, UBND tỉnh Đồng Nai quyết định thành lập
KBTTN và DT Vĩnh Cửu trên cơ sở của Khu dự trữ thiên nhiên Vĩnh Cửu với tổng
diện tích 68.173,6 ha. Do vị trí nằm ở vùng địa hình chuyển tiếp từ phía Nam dải

Trường Sơn qua Đông Nam Bộ xuống vùng đồng bằng sông Cửu Long. Do vậy,
hệ động thực vật rừng phong phú ở đây có quan hệ chặt chẽ với hệ động thực vật
của dãy Trường Sơn Nam và miền Đông Nam Bộ. Việc thành lập KBT với chức
năng bảo tồn tính đa dạng sinh học, bảo tồn quần thể cây họ Sao Dầu đặc trưng của
miền Đông Nam Bộ, bảo đảm tác dụng phòng hộ cho thủy điện Trị An, phòng hộ
từ xa cho tỉnh công nghiệp Đồng Nai. Ngoài ra, KBTTN và DT Vĩnh Cửu nối liền
với VQG Cát Tiên làm thành vùng sinh thái rộng hơn 130.000 ha và là môi trường
sinh sống cho các loài động vật rừng [25].
Do lịch sử hình thành, KBTTN và DT Vĩnh Cửu nằm trên địa bàn 3 xã Mã
Đà, Hiếu Liêm, Phú Lý, với số hộ sống trong vùng lõi là 908, số hộ sống ở vùng
đệm là 4.507 hộ. Tình hình phân bố dân cư như vậy gây khó khăn rất lớn cho công
tác QLBVR [25]. Mặc dù nhà nước đã triển khai nhiều chương trình dự án để tạo
công ăn việc làm, nâng cao đời sống người dân trong hoạt động sản xuất kinh
doanh, bảo vệ rừng, nhưng ngần đó chỉ giải quyết tạm thời trong một thời gian
nhất định. Dự án ĐCĐC đồng bào dân tộc xã Phú Lý đã hoàn thành (2002) nhưng
không phù hợp với phong tục tập quán, người dân lại vào rừng lấn chiếm đất làm
nhà, canh tác trái phép. Nhìn chung các chương trình, dự án chưa giải quyết được
vấn đế cơ bản đời sống của người dân. Vì vậy, việc tác động trái phép vào rừng
vẫn tiếp tục xảy ra và dẫn đến làm suy giảm TNR.
Các ngành, các cấp của tỉnh Đồng Nai quan tâm đầu tư cho công tác
QLBVR đã cơ bản ngăn chặn nạn phá rừng, nhưng việc xâm hại rừng lén lút vẫn
xảy ra. Câu hỏi đặt ra là những nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng đó? Và có thể
có giải pháp nào làm giảm thiểu được những tác động bất lợi của người dân địa
phương tới TNR của KBTTN và DT Vĩnh Cửu hay không?


3
Để trả lời câu hỏi trên, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Nghiên cứu
tác động và sự phụ thuộc của người dân đến tài nguyên rừng Khu Bảo tồn thiên
nhiên và Di tích Vĩnh Cửu tại xã Phú Lý, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai”. Giả

thuyết chính được đặt ra cho đề tài này là sự tác động của cộng đồng có thể mang
lại giải pháp hữu hiệu về mặt quản lý rừng cũng như nâng cao đời sống của cộng
đồng vốn phụ thuộc vào TNR; ngược lại cũng có thể đem lại một kết cục là tài
nguyên bị suy giảm cả chất và lượng. Theo đó, chiều hướng, hình thức và mức độ
tác động phụ thuộc vào các điều kiện bối cảnh và quan hệ hai chiều giữa người
dân và TNR. Để có đủ cơ sở lý luận khoa học, đề tài này cố gắng thực hiện việc
nghiên cứu một cách có hệ thống ở một trường hợp cụ thể của một cộng đồng và
đặt nó trong bối cảnh quản lý chung của tỉnh, huyện và BQL KBT. Chúng tôi hy
vọng rằng, cách đặt vấn đề này có thể cung cấp các thông tin thiết yếu để làm nền
tảng xây dựng những giải pháp phù hợp trong việc quản lý và phát triển hệ sinh
thái rừng tự nhiên theo hướng bền vững và ổn định, phát huy và khai thác hết
chức năng có lợi do chúng mang lại.


4
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu trên thế giới
1.1.1 Các nghiên cứu liên quan đến việc thành lập KBTTN và VQG
Sau nhiều thập kỷ, rừng trên thế giới bị xâm hại dẫn đến diện tích bị thu
hep, chất lượng bị giảm sút. Cộng đồng thế giới đã có nhiều biện pháp bảo tồn và
công tác bảo tồn rừng đã trở thành vấn đề bức xúc. Những qui định về pháp luật
ngày càng hoàn thiện, công tác đầu tư phương tiện, thiết bị, con người được quan
tâm. Mặc dù cũng rất cố gắng nhưng rừng vẫn bị tàn phá ngày càng tăng.
Diện tích rừng trên thế giới vào cuối thập kỷ 20 vào khoảng 4,06 tỷ ha,
chiếm khoảng 32% diện tích tự nhiên toàn thế giới. Phân bố theo vùng nhiệt đới và
ôn đới như sau [16]:
Bảng 1.1: Phân bố rừng theo vùng nhiệt đới và ôn đới
Diện tích


Diện tích rừng (triệu ha)

tự nhiên (triệu ha)

Diện tích %

Toàn cầu

12.760

4.060

100,00

Các nước nhiệt đới

5.790

1.730

42,60

Các nước ôn đới

6.970

2.330

57,40


Sự suy giảm độ che phủ trong vòng 10 năm (1980 - 1990), nếu lấy mốc độ
che phủ của năm 1980 là 100% thì độ che phủ đã thay đổi như sau: các nước đang
phát triển là 95,3%; các nước phát triển là 101% và chung toàn cầu là 98,2% [16].


5
%
106
104
102

Các nước phát triển:101

100

Toàn cầu:

96

Các nước đang PT:95,3

98,2

94
92
90
88
86

1980


1990

Một chiến lược bảo tồn mới được hình thành và dần dần khẳng định tính ưu
việt, đó là liên kết quản lý KBTTN và VQG với các hoạt động sinh kế của người
dân địa phương, cần thiết có sự tham gia bình đẳng của các cộng đồng trên cơ sở
tôn trọng nền văn hoá trong quá trình xây dựng các quyết định [21].
Tuy vậy, các KBT đều được thiết lập chủ yếu vì mục đích quốc gia, mà ít
nghĩ đến các nhu cầu và mong muốn của người dân địa phương. Dựa trên mô hình
của Hoa Kỳ, phương thức quản lý của nhiều VQG và KBT chủ yếu bao gồm việc
ngăn cấm người dân địa phương xâm nhập vào KBT và khai thác TNR. Phương
thức này gọi là biện pháp “rào và phạt”. Tại các nước Đông Nam Á, phương thức
này tỏ ra không thích hợp, vì để duy trì sự đa dạng sinh học thì người dân địa
phương bị mất quyền tiếp cận với nguồn TNR, trong khi ấy sự phụ thuộc của họ
vào rừng là rất lớn [18].
Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển đã trở
thành vấn đề nổi lên trong các cuộc hội thảo, diễn đàn khoa học trong những năm
gần đây. Vào tháng 6 năm 1992, tại Hội nghị Liên hiệp quốc tế về Môi trường và
Phát triển bền vững ở Rio De Janeiro (Brasin), vấn đề này đã chính thức được
công nhận, các chính phủ đã đưa ra một kế hoạch hành động cải thiện sinh kế của
người dân trên cơ sở duy trì các tiến trình chức năng và sức sản xuất của đất đai và
các loại tài nguyên thiên nhiên khác [11].


6
1.1.2. Các nghiên cứu liên quan đến sự tham gia của người dân trong các
KBTTN và VQG
Trên thế giới, các kết quả nghiên cứu và kinh nghiệm thực tiễn của các
KBT và VQG khẳng định rằng, để quản lý thành công cần dựa trên mô hình quản
lý gắn bảo tồn đa dạng sinh học với bảo tồn văn hóa của người dân địa phương. Ở

Kakadu (Australia), những người thổ dân chẳng những được chung sống với VQG
một cách hợp pháp mà còn được thừa nhận là chủ rừng của VQG và được tham gia
quản lý thông qua các đại diện của họ trong BQL. Tại VQG Wasur (Indonesia) vẫn
tồn tại 13 làng bản với cuộc sống gắn với săn bắn cổ truyền [9], [16].
Ở Châu Á, sự tham gia của người dân địa phương vào công tác bảo tồn đa
dạng sinh học là một biện pháp cần thiết và thường có hiệu quả. Lý do để khuyến
khích sự tham gia này là nỗ lực của các cơ quan chính phủ nhằm đưa dân chúng ra
khỏi các KBT đã không mang lại kết quả như mong muốn trên cả phương diện
quản lý TNR và kinh tế xã hội. Việc đưa người dân vốn quen sống trên địa bàn của
họ đến một nơi mới chẳng khác nào “bắt cá khỏi nước” và khi đó lực lượng khác
có thể xâm lấn và khai thác TNR mà không có người bảo vệ. Người dân địa
phương có nhiều kiến thức cổ truyền về việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và các
thể chế cộng đồng đã tỏ ra có hiệu quả trong việc quản lý các nguồn tài nguyên
này [18].
Ở Thái Lan, vào khoảng những năm 1945, độ che phủ của rừng đạt tới 60%
nhưng đến năm 1995 giảm xuống còn 26%. Hơn 170.000 km2 rừng bị tàn phá.
Năm 1989, Cục Lâm nghiệp của Hoàng Gia Thái Lan thành lập các KBT để bào vệ
diện tích rừng còn lại. Điều này đã dẫn tới xung đột giữa các cộng đồng địa
phương với các BQL. Một thử nghiệm của dự án “Quản lý rừng bền vững thông
qua sự cộng tác” thực hiện tại khu Kheio Wildlife Sanctuary, tỉnh Chaiyaphum ở
Đông Bắc Thái Lan đã được tiến hành. Kết quả chỉ ra rằng, điều căn bản để quản
lý bền vững tài nguyên là phải thu hút sự tham gia của các bên liên quan, đặc biệt
là phải bao gồm cả việc phát triển cộng đồng địa phương bằng các hoạt động làm
tăng thu nhập của họ (dẫn theo Ngô Ngọc Tuyên [21]).


7
Theo đó, các nguyên tắc được lập ra trong công tác quản lý tài nguyên thiên
nhiên và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội quốc gia năm 1992-1996 là “Khuyến
khích người dân cộng tác với Chính phủ trong bảo tồn tài nguyên thiên nhiên

thông qua việc đề cao vai trò của các tổ chức nhân dân, tổ chức phi chính phủ, từ
trung ương đến địa phương; trong việc quyết định các dự án quản lý tài nguyên
thiên nhiên cũng như trong việc theo dõi, giám sát và đánh giá thành công của dự
án này”. Nhận rõ sự cần thiết phải xem xét điều kiện kinh tế xã hội xung quanh
KBT, các nhà quy hoạch quản lý đã bắt đầu đề xuất và thiết lập các vùng đệm để
ngăn chặn sự xâm hại từ bên ngoài vào các KBT [18].
Tại Nepan, Apple G.B và Gilmour D.A (1987) khi nghiên cứu kinh nghiệm
tác nghiệp trong việc quản lý phát triển rừng tại vùng đồi Nepan đã hình thành mối
quan hệ giữa rừng và các hệ canh tác hỗn hợp ở trung du miền núi. Tác giả cho
rằng, các hệ canh tác phụ thuộc nhiều vào rừng đang bị suy thoái nhanh. Sự bền
vững lâu dài của các hệ canh tác phụ thuộc vào việc gia tăng về diện tích dưới bất
cứ các dạng che phủ thực vật nào [26].
Ở Philippines, chiến lược quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học nêu rõ rằng:
“Điều chủ chốt dẫn đến thắng lợi cho bảo tồn đa dạng sinh học là phải bảo đảm
rằng, các cộng đồng địa phương, những người bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi mọi
quyết định về chính sách liên quan đến môi trường, sẽ tham gia vào quá trình lập
kế hoạch và quản lý đối với bảo tồn đa dạng sinh học” [18].
Theo Peluso (1986), tại Indonesia đã công bố một bản tóm tắt các kết quả
của việc nghiên cứu về lâm nghiệp xã hội (LNXH) tại 12 điểm dự án ở Java và
Sulawesi. Các ảnh hưởng qua lại giữa đất và rừng của nhà nước như: rừng sản
xuất, rừng trồng, rừng tự nhiên đều đã được nghiên cứu. Sản phẩm là những mặt
hàng sinh lời được và khó quản lý đối với cơ quan lâm nghiệp nhưng có giá trị to
lớn đối với nhân dân địa phương. Kế hoạch hành động đa dạng sinh học ở
Indonesia cũng ghi nhận rằng: “Việc tăng cường sự tham gia của công chúng, đặc
biệt là cộng đồng sinh sống bên trong và phụ thuộc vào các vùng có tính đa dạng
sinh học cao, là mục tiêu chính của kế hoạch hành động và là điều kiện tiến quyết
đối với việc thục hiện kế hoạch [18], [26].


8

Bink Man (1988) trong tài liệu giới thiệu nghiên cứu định hình chi tiết về
làng Ban Pong, tỉnh Risaket (Thái Lan) đã chỉ ra rằng, các tầng lớp nghèo phải phụ
thuộc vào rừng để chăn thả gia súc và thu hái tài nguyên lâm sản như củi đun và
hoa quả trong rừng. Tuy nhiên, đây là một minh họa rất cần thiết cho việc người
dân địa phương tham gia vào việc lập kế hoạch và thiết kế các dự án phát triển
[26].
Colfer C.P (1980) trong tác phẩm: “Thay đổi và nông lâm kết hợp bản địa”
tại Đông Kalimamtan, qua mô tả việc đi thu hái lâm sản phụ, tác giả đã nhận định
rằng, những sản vật ấy được coi như là những mặt hàng không phải trả tiền, ai
cũng có thể thu lượm được. Thế nhưng, những quyền đó không được quy định cụ
thể, nó đã trở thành một thông lệ, trong đó có cả việc dùng gỗ làm nhà, có lúc dùng
để biện hộ cho việc thu hoạch gỗ và bán [26].
Năm 1986, trong tác phẩm “LNXH và hành động của cộng đồng”, các tác
giả Dorji, D.C Chavada, B. Thinley và Wangchuks cho rằng: Rừng chủ yếu là
nguồn cung cấp gỗ xây dựng và làm hàng rào, cung cấp củi, nơi chăn thả và
chuồng trại cho gia súc. Chúng cũng cung cấp một phần lớn những yêu cầu về thức
ăn gia súc, lợi tức, công ăn việc làm và đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ
đất và nước trên vùng đất dốc [26].
Theo Gadgil và V.P. Vatok (1976) trong tác phẩm: ”Những lùm cây thiêng
miền Tây dãy Ghats ở Ấn độ” cho rằng: Người dân địa phương đã bảo vệ được các
đám rừng từ dưới 0,5 ha đến 10 ha dưới dạng lùm cây thiêng để thờ các vị thần của
lùm cây. Việc thờ cúng tại những lùm cây thiêng đó được hình thành từ các xã hội
chuyên về săn bắn và hái lượm. Mọi hoạt động lấy ra bất cứ sản phẩm nào đều bị
cấm kỵ. Với nạn phá rừng ngày càng tăng, những lùm cây đó đã trở thành những
di sản còn lại của rừng tự nhiên và do đó đã trở nên quan trọng trong việc thu lượm
một số sản phẩm như: cây thuốc, lá rụng, gỗ khô, … Việc khai thác gỗ đã bị cấm,
nhưng đôi khi vẫn xảy ra tình trạng khai thác gỗ trộm [26].


9

1.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ở Việt Nam
1.2.1 Hệ thống chính sách và các vấn đề liên quan đến rừng đặc dụng
Việt Nam trải qua nhiều năm chiến tranh, kinh tế đất nước ở những năm đầu
sau chiến tranh khó khăn. Dân số tăng nhanh, nhu cầu về đất canh tác nông nghiệp
về lương thực, nhu cầu về gỗ và LSNG ngày một gia tăng đối với cộng đồng dân
cư sinh sống giáp rừng và gần rừng của các KBT và VQG, từ đó gây sức ép lên
TNR.
Việc đầu tư quản lý bảo vệ và phát triển các khu RĐD được nhà nước quan
tâm. Việc xây dựng triển khai, thực thi các chính sách, pháp luật của nhà nước
được coi trọng. Nhưng rừng vẫn bị xâm hại, một trong những nguyên nhân là đời
sống người dân sống trong rừng và ven rừng chưa được cải thiện. Vì thế, dẫn đến
có nhiều vi phạm và vi phạm nghiêm trọng vào rừng.
Việt Nam đã thành lập các khu RĐD. Bắt đầu từ tháng 7/1962, Quyết định
số 72/TTg của Thủ tướng Chính phủ thành lập khu rừng cấm Cúc Phương rộng
25.000 ha.. Các năm sau đó, Chính phủ còn ra các quyết định thành lập các khu
rừng cấm Nam Cát Tiên (1978); VQG Cát Bà (1978); KBTTN Mom Rây-Ngọc
Vin (1982); VQG Côn Đảo (1984); VQG YokDon (1991); KBTTN đất ngập nước
Xuân Thủy (1994); KBTTN Tràm Chim Tam Nông (1994)…Ngoài ra, các nhà
khoa học trong và ngoài nước đã phát hiện nhiều khu rừng có giá trị cao về đa
dạng sinh học không những đối với Việt Nam mà còn trong cả khu vực và thế giới
như: KBTTN Vũ Quang (Hà Tĩnh); Pù Mát (Nghệ An); Phong Nha (Quảng Bình);
Xuân Liên, Phù Luông (Thanh Hóa)… Từ đó cho đến nay (thời điểm 2006), Việt
Nam đã có 128 khu RĐD được thành lập [21].
Công tác bảo tồn phải được thực thi trên cơ sở các quy định pháp luật. Luật
BVPTR sửa đổi ban hành ngày 03/12/2004, Quyết định số 08/2001/QĐ-TTg ban
hành ngày 11/01/2001 đã đề cập đến việc BQL xây dựng các quy định về phạm vi
sử dụng rừng đối với người dân địa phương sinh sống trong các KBT, VQG. Năm
2006, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg về quy chế quản
lý rừng, thay thế Quyết định số 08/2001/QĐ-TTg; trong đó quản lý RĐD được quy
định rất cụ thể:



10
- Rừng đặc dụng bao gồm các loại: VQG, KBTTN, khu bảo vệ cảnh quan,
khu rừng nghiên cứu thực nghiệm khoa học…
- Trong VQG và KBTTN được chia thành các phân khu chức năng như sau:
phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, phân khu phục hồi sinh thái và phân khu dịch vụ hành chính.
1.2.2. Các nghiên cứu liên quan đến quan hệ người dân và TNR
Ở nước ta trong những năm gần đây, các nhà khoa học, nhà quản lý đã chú
trọng đến quan điểm bảo tồn – phát triển và nghiên cứu thực hiện các giải pháp
giải quyết mối quan hệ giữa bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và phát triển kinh tế xã hội của người dân địa phương.
Theo kết quả nghiên cứu của Lê Trọng Cúc, Trần Đức Viên và các cộng tác
viên (1997) đã để cập đến các sản phẩm từ rừng và sức ép của người dân địa
phương vào rừng. Các tác giả đã chỉ ra rằng, diện tích rừng già ở miền núi phía
Bắc Việt Nam đã giảm sút nghiêm trọng do việc khai thác gỗ, củi và các lâm sản
khác như: tre nứa, nấm, cây dược liệu, động vật hoang dã và được xem như là
nguồn sinh kế chủ yếu của người dân miền núi [1].
Trần Ngọc Lân (1999) và các cộng sự đã kết luận rằng: Các nông hộ trong
vùng đệm KBT Pù Mát có sự gắn bó chặt chẽ với rừng, nguồn thu nhập từ khai
thác lâm sản và canh tác nương rẫy đóng vai trò quan trọng trong tổng thu nhập
của mỗi nông hộ. Hiện nay, các nông hộ đang có sự chuyển đổi về sinh kế, song
mới chỉ có rất ít ở các hộ có hiểu biết và có vốn đầu tư [11].
Đỗ Anh Tuấn (2001) đã thực hiện một nghiên cứu điểm tại KBT Pù Mát
cho đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của bảo tồn tới kế sinh nhai của cộng đồng địa
phương và thái độ của họ về chính sách bảo tồn”. Tác giả chủ yếu đánh giá sự thay
đổi sinh kế của người dân địa phương do sự hưởng lợi của KBT và mức độ chấp
nhận của cộng đồng qua việc phân tích mối quan hệ giữa cộng đồng và TNR.
Nghiên cứu đã xác định các tỷ trọng thu nhập từ TNR trong tổng thu nhập chung
của thôn, nhưng chưa cụ thể cho từng dân tộc và từng nhóm kinh tế hộ. Tác giả
cho rằng, hầu hết người dân địa phương vẫn còn sử dụng TNR một cách hợp pháp.

Tại thời điểm nghiên cứu, 34% tổng thu nhập hằng năm của một hộ gia đình trong


11
vùng đệm và 62% tổng thu nhập của một hộ gia đình trong vùng bảo vệ nghiêm
ngặt là từ rừng. Việc thành lập KBTTN (năm 1997) đã làm giảm 30% đến 71,4%
diện tích đất và khoảng 50% thu nhập từ rừng của người dân địa phương. Mặc dù
đã có một vài chương trình hỗ trợ được thực hiện, nhưng chúng chưa bù lại được
những mất mát do thành lập KBTTN [19].
Các nghiên cứu thực hiện đã phân tích, đánh giá sự phụ thuộc của cộng
đồng địa phương vào rừng và đất rừng, nhưng chưa đưa ra được các giải pháp để
giảm thiểu tác động bất lợi của người dân địa phương đến TNR. Một số nghiên
cứu trong những năm gần đây đã để cập đến vấn đề tác động của cộng đồng địa
phương tới TNR, nhưng chỉ giới hạn ở tác động của cộng đồng địa phương ở vùng
đệm đến các VQG hoặc KBTTN.
Nguyễn Thị Phượng (2003) khi: “Nghiên cứu tác động của cộng đồng địa
phương vùng đệm đến TNR VQG Ba Vì – Hà Tây ” đã tổng hợp và phân tích hình
thức tác động và các nguyên nhân tác động. Tác giả chỉ ra rằng: cộng đồng ở đây
chủ yếu sống bằng nghề nông nhưng diện tích đất nông nghiệp rất ít và năng suất
lúa rất thấp. Vì vậy, để giải quyết nhu cầu cuộc sống hằng ngày, họ tác động tới
TNR dưới nhiều hình thức như: sử dụng đất rừng để sản xuất hàng hóa, khai thác
sản phẩm với mục đích tiêu dùng, chăn thả gia súc…trong đó hình thức sử dụng
đất rừng để sản xuất hàng hóa cho tỷ trọng thu nhập cao nhất trong cơ cấu thu nhập
của cộng đồng (36,4%). Tuy nhiên, đề tài chưa đánh giá được mức độ tác động tới
TNR của các dân tộc, các nhóm hộ khác nhau [15].
Theo Quách Đại Ninh (2003) khi đánh giá tác động của chính sách giao đất
lâm nghiệp đến quá trình phát triển kinh tế hộ gia đình. Qua nghiên cứu một số hộ
gia đình có đất lâm nghiệp và không có đất lâm nghiệp trong địa bàn xã Bắc An,
huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương; tác giả kết luận rằng: chính sách giao và khoán
đất lâm nghiệp đã làm thay đổi nhận thức của người dân vào rừng. Sau khi nhận

đất, các hộ gia đình yên tâm sản xuất và sử dụng đất một cách hợp lý nâng cao thu
nhập, cải thiện đời sống. Tuy nhiên, đề tài chưa đưa ra được một số mô hình sản
xuất mà người dân ưa thích, đồng thời phù hợp với điều kiện tự nhiên – kinh tế xã
hội của vùng nghiên cứu để các hộ gia đình tham khảo và phát triển sản xuất [14].


12
Hoàng Quốc Xạ (2005) với nghiên cứu “Tác động của cộng đồng địa
phương đến TNR vùng đệm VQG Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ”, đã có sự kết hợp tốt
giữa phân tích định tính và định lượng trong việc tồ chức các hình thức tác động và
nguyên nhân tác động, tạo cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp giảm thiểu tác
động bất lợi đến TNR và hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội của địa phương [22].
Vấn đề giảm đất canh tác của các cộng đồng do hình thành VQG là một
thực tế đang diễn ra ở nhiều nơi. Nghiên cứu của Đỗ Thị Hà (2002) cho rằng, sau
khi thành lập VQG Tam Đảo, đất của các hộ trong thôn bị mất đi, thu nhập về lâm
nghiệp tập trung vào một số chủ rừng, ảnh hưởng tới sự phân công lao động trong
hộ gia đình [4].
Với đề tài: “Đánh giá vai trò kinh tế của lâm sản ngoài gỗ ở hai thôn người
Dao tại xã Ba Vì” của Trần Ngọc Hải và cộng sự (2002); tác giả cho rằng: lâm sản
ngoài gỗ, đặc biệt là nhóm tre hương và cây dược liệu đóng vai trò rất quan trọng
trong kinh tế hộ gia đình [8].
Tóm lại, qua các nghiên cứu về tác động qua lại giữa con người và TNR
trong thời gian qua, đã đề cập đến nhiều mặt khác nhau của vấn đề nghiên cứu.
- Trước hết, các nghiên cứu trên thế giới đã phân tích định tính về sự phụ
thuộc của các cộng đồng dân cư vào tài nguyên, khẳng định cần thiết phải có sự
tham gia của người dân vào các hoạt động bảo tồn TNR. Tuy nhiên, còn ít các
nghiên cứu định lượng xác định những tác động của cộng đồng vào TNR và những
nguyên nhân cụ thể dẫn tới những tác động đó.
- Tiếp theo, một số nghiên cứu đã phân tích phương pháp lý luận và thực
tiễn để nghiên cứu mối quan hệ giữa con người và TNR. Tuy nhiên, các nghiên

cứu tập trung nhiều ở vùng đệm của các VQG hoặc KBT mà chưa chú ý mở rộng ở
các địa phương khác nhau, loại rừng phòng hộ, rừng sản xuất.
- Mặt khác, các nghiên cứu cũng chưa xây dựng được hệ thống các chỉ tiêu,
chỉ số để đánh giá mức độ tác động của các dân tộc khác nhau, loại hộ khác nhau
nên các giải pháp còn chung chung, không tập trung vào giải quyết những khó
khăn thực tế của người dân. Vì vậy, những vấn đề này cần tiếp tục được nghiên
cứu trong thời gian tới.


13


13

Chương 2
MỤC TIÊU - ĐỐI TƯỢNG - NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Đề tài góp phần xây dựng cơ sở lý luận bảo tồn và phát triển rừng có người
dân tham gia, giải quyết mối quan hệ giữa người dân sống gần rừng và TNR; đồng
thời là cơ sở khoa học và thực tiễn cho chính quyền địa phương xã Phú Lý,
KBTTN và DT Vĩnh Cửu đề ra các giải pháp BVPTR bền vững.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Xác định các hình thức và mức độ tác động bất lợi của người dân xã Phú
Lý vào TNR KBTTN Vĩnh Cửu .
- Tìm hiểu và phân tích các nguyên nhân cơ bản dẫn đến những tác động bất
lợi của người dân tới TNR.
- Đề xuất các giải pháp nhằm giảm thiểu các tác động bất lợi của người dân
vào TNR.

2.2. Đối tượng, giới hạn và nội dung nghiên cứu
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những diện tích rừng thuộc khu bảo vệ nghiêm
ngặt hoặc vùng đệm của KBTTN và DT Vĩnh Cửu, mà người dân có thể tác động
và những hộ dân sống giáp rừng hoặc gần rừng thuộc xã Phú Lý đã và đang can
thiệp vào TNR vì cuộc sống của họ.
2.2.2. Giới hạn và nội dung nghiên cứu
Quan hệ giữa con người và tài nguyên thiên nhiên ở đâu và bao giờ cũng là
quan hệ hai chiều. Trong khuôn khổ của đề tài chỉ nghiên cứu những tác động bất
lợi của người dân địa phương sống giáp rừng và gần rừng tới diễn biến của TNR.
2.2.2.1. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Người dân sống gần rừng, hoặc do nhận thức đã có tác động có lợi cho rừng
như nhận khoán bảo vệ rừng, tham gia phòng cháy, trực tiếp chữa cháy rừng, tham


14
gia các hoạt động trồng rừng, chăm sóc rừng, tuần tra bảo vệ rừng, tố giác các đối
tượng phá rừng… Bên cạnh các hoạt động có lợi, do nhu cầu về cuộc sống, cũng
có các tác động bất lợi tới TNR; thậm chí ảnh hưởng của những tác động bất lợi
đối với rừng còn lớn hơn nhiều so với tác động có lợi, chính nó làm suy giảm
TNR. Vì vậy, đề tài nghiên cứu tác động bất lợi nhằm tìm hiểu và phân tích
nguyên nhân tác động, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp giảm thiểu tác động của
người dân tới TNR.

Những tác động bất lợi của người dân
địa phương tới tài nguyên rừng

Yếu tố kinh tế

Yếu tố xã hội


Yếu tố công
nghệ

Hình 2.1: Những yếu tố chi phối tác động bất lợi của người dân tới TNR
Yếu tố kinh tế, yếu tố xã hội và yếu tố công nghệ đều có chi phối tới những
tác động bất lợi của người dân địa phương đến TNR. Trong điều kiện hoàn cảnh
người dân sống gần rừng, nguyên nhân chính dẫn đến tác động vào rừng thường là
khó khăn về kinh tế và các vấn đề xã hội, yếu tố công nghệ chưa phải là yếu tố ảnh
hưởng mạnh đến TNR [17]. Theo đó, hướng của đề tài sẽ tập trung nghiên cứu yếu
tố kinh tế và xã hội là những yếu tố phổ biến, có ảnh hưởng quyết định tới hình
thức tác động bất lợi của người dân tới TNR. Tìm hiểu các tác động bất lợi tới
TNR xuất phát từ nguyên nhân về kinh tế - xã hội và đề xuất ra giải pháp về kinh
tế - xã hội để có thể hạn chế tác động bất lợi tại KBTTN và DT Vĩnh Cửu.
2.2.2.2. Nội dung nghiên cứu
(1) Các hình thức và mức độ tác động bất lợi của người dân địa phương đến
TNR.
(2) Các nguồn thu nhập và cơ cấu thu nhập của hộ gia đình, quan hệ giữa
thu nhập với các yếu tố thành phần.


15
(3) Các nguyên nhân cơ bản dẫn tới những tác động bất lợi của người dân
địa phương đến TNR.
(4) Các giải pháp làm giảm thiểu những tác động bất lợi của người dân địa
phương đến TNR.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp luận
Mỗi đề tài khi được nghiên cứu đều phải có cơ sở phương pháp luận của nó,
điều đó giúp cho việc nghiên cứu không bị lạc hướng và có cơ sở khoa học.

Nghiên cứu đề tài này được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của lý thuyết hệ
thống; quan điểm sinh thái nhân văn; quan điểm bảo tồn và phát triển; phương
pháp tiếp cận có sự tham gia.
2.3.1.1. Vận dụng lý thuyết hệ thống
Hệ thống được hiểu là cấu trúc hoàn chỉnh của tự nhiên, nó bao gồm nhiều
bộ phận chức năng liên kết với nhau một cách có tổ chức và trật tự tồn tại và vận
động theo những qui luật thống nhất [10]. Mỗi hệ thống luôn bao gồm những hệ
thống thành phần (nhỏ hơn) hay còn gọi là hệ thống phụ. Mọi sự vật hiện tượng
đều nằm trong hệ thống và mỗi hệ thống lại nằm trong hệ thống lớn hơn [17].
Sự tác động của người dân đến TNR là hoạt động trong hệ thống kinh tế xã
hội và tác động tới hệ thống tự nhiên. Nó là hoạt động trong hệ thống kinh tế, bởi
vì mức độ tác động của người dân gắn liền với các hoạt động kinh tế của con
người như sử dụng đất rừng canh tác, khai thác lâm sản, chăn thả gia súc…Sự tác
động này cũng phụ thuộc vào sinh kế, mức sống nhu cầu thị trường, khả năng đầu
tư, lợi nhuận trước mắt và hiệu quả kinh tế thường quyết định tới hình thức sử
dụng TNR của người dân địa phương. Ngược lại, mức độ giàu có của TNR cũng
tác động mạnh mẽ tới nguồn thu của người dân địa phương. Chính quan hệ chặt
chẽ giữa tác động của người dân địa phương đến TNR với các yếu tố kinh tế nên
có thể làm giảm thiếu tác động bất lợi tới TNR bằng cách tác động vào các yếu tố
kinh tế. Đây là lý do đề tài nghiên cứu các nguyên nhân kinh tế dẫn tới những tác
động bất lợi của người dân địa phương đến TNR và nghiên cứu đề xuất giải pháp
kinh tế để giảm thiếu tác động bất lợi này.


16
Sự tác động của người dân địa phương đến TNR là hoạt động xã hội vì các
hoạt động này là của con người. Sự tác động bị chi phối bởi các yếu tố xã hội như
nhận thức của người dân về tầm quan trọng của TNR, ý thức về luật pháp, trách
nhiệm của cộng đồng, tập quán sử dụng TNR. Sự tác động của người dân địa
phương còn phụ thuộc vào những vấn đề như thể chế và chính sách, chính sách đối

với người dân trong KBT, hệ thống quản lý, việc thực thi luật BVPTR. Các tổ
chức cộng đồng và những qui định của cộng đồng cũng có ảnh hưởng tới những
tác động của người dân địa phương vào TNR. Sự hiện diện của chúng sẽ hổ trợ
nhà nước trong việc tuyên truyền chính sách, gắn kết người dân thành cộng đồng
thống nhất trong việc thực thi quản lý bảo vệ TNR. Vì vậy, đề tài nghiên cứu các
nguyên nhân xã hội chi phối sự tác động của người dân địa phương đến TNR và
nghiên cứu các giải pháp xã hội nhằm làm giảm thiếu những tác động bất lợi này.
TNR là một hệ thống tự nhiên, trong đó các thành phần có mối quan hệ chặt
chẽ. Bất cứ tác động nào từ bên ngoài tới TNR cũng dẫn đến sự thay đổi các thành
phần và chức năng của hệ thống. TNR vốn tồn tại khách quan và vận động theo
qui luật tự nhiên. Vì vậy, để bảo tồn TNR, những tác động của con người phải phù
hợp với qui luật tự nhiên và giảm thiểu những tác động bất lợi tới nó [21].
2.3.1.2. Quan điểm sinh thái nhân văn
Thực tế cho thấy, các hoạt động kinh tế xã hội trong cộng đồng hay trong
mỗi hộ gia đình đều rất đa dạng và phong phú. Nó phản ánh đặc điểm sinh thái và
mối quan hệ kinh tế xã hội. Điều này chỉ ra rằng, các hoạt động trong cộng đồng
chịu sự chi phối của nhiều yếu tố và có một yếu tố nào đó giữ vai trò quan trọng
trong cộng đồng này vào thời điểm này nhưng lại không phải quan trọng trong thời
điểm khác hoặc trong cộng đồng khác. Để nghiên cứu sự tác động bất lợi của
người dân đến TNR, chúng tôi dựa theo tháp sinh thái – nhân văn của Park, đề xuất
năm 1936 (dẫn theo Ngô Ngọc Tuyên, 2007 [21]).
Theo Teherani Kroenner (1992) và Nguyễn Bá Ngãi (2001), mô hình sinh
thái - nhân văn được Park thiết kế theo hình tháp dựa trên các hoạt động xã hội của
cộng đồng chịu sự chi phối của 4 bậc của các nhóm nhân tố theo trình tự (hình
2.2): bậc sinh thái, bậc kinh tế, bậc thể chế chính sách và bậc đạo đức. Mô hình


17
này đề cập đến quan hệ giữa sắp xếp thứ bậc các nhóm nhân tố với các hoạt động
của cá nhân và sự bền vững [12]. Dựa trên hình tháp này có thể giải thích: Quan hệ

giữa tác động bất lợi của người dân đến TNR và phát triển kinh tế - xã hội địa
phương là quan hệ có xu hướng nghịch; tức là khi kinh tế - xã hội địa phương càng
phát triển, điều kiện sống về vật chất, tinh thần được đảm bảo và công tác bảo tồn
TNR được thực hiện tốt thì tác động bất lợi tới TNR sẽ giảm.

Ảnh hưởng

Các nhân tố thích hợp

Phát triển
kinh tế - xã
hội địa
phương và
bảo tồn
TNR
Tác động
bất lợi của
người dân
địa phương
tới TNR

Bậc đạo đức
Bậc thể chế
Bậc kinh tế

Bậc sinh
thái

Hình 2.


-Các yếu tố
văn hoá
-Các yếu tố thể
chế, chính sách
-Các yếu tố
kinh tế
-Các yếu tố
sinh thái- công
nghệ

Hình 2.2: Tháp sinh thái – nhân văn (mô hình của Park, 1936)
- Bậc sinh thái là sự tác động bất lợi của người dân địa phương vào TNR
đều có cơ sở sinh thái và chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố kinh tế - xã hội. Cơ
sở sinh thái được giải thích bằng các yếu tố vật lý sinh học và chia làm 2 loại:
những yếu tố không thể kiểm soát được như khí hậu, thuỷ văn, địa hình… và
những yếu tố có thể kiểm soát được cần nghiên cứu bằng các giải pháp khoa học
công nghệ.
- Bậc kinh tế như sinh kế, mức sống của người dân địa phương, nhu cầu thị
trường, những nhân tố này có ý nghĩa đối với sự tác động của người dân địa
phương tới TNR.


18
- Bậc thể chế được giải thích là các yếu tố về thể chế, chính sách, tổ chức
cộng đồng …ảnh hưởng gián tiếp tới những tác động của người dân đến TNR.
- Bậc đạo đức được hiểu là tập quán, sự nhận thức hay ở mức độ cao hơn
nữa là văn hóa của các cộng đồng dân cư. Mọi tác động của các yếu tố khác có thể
làm thay đổi thái độ và nhận thức của cộng đồng.
Theo tháp sinh thái nhân văn bất kỳ giải pháp nào nhằm giảm thiểu những
tác động bất lợi tới TNR, bảo tồn và phát triển TNR đều phải dựa trên cơ sở sinh

thái và bảo đảm được các yếu tố về kinh tế xã hội của người dân địa phương [21].
2.3.1.3. Quan điểm bảo tồn – phát triển
Theo Gilmour D.A và Nguyễn Văn Sản (1999), quan điểm bảo tồn và phát
triển là để liên kết việc bảo tồn tài nguyên và những nhu cầu phát triển của địa
phương, bao gồm 3 thành phần chính (cách tiếp cận) như sau:
- Thứ nhất là, nếu nhu cầu phát triển cộng đồng tại địa phương đó có thể
đáp ứng bởi các nguồn thay thế khác thì ảnh hưởng của nó lên tài nguyên sẽ được
giảm bớt và tài nguyên được bảo tồn: cách tiếp cận các giải pháp thay thế sinh kế.
- Thứ hai là, nếu cộng đồng rất khó khăn về mặt kinh tế, không thể nào
quan tâm đến mặt bảo tồn được vì những nhu cầu thiết yếu của cộng đồng còn
chưa được đáp ứng thì trước hết cần phải nổ lực cải thiện nền kinh tế - xã hội của
họ đủ tốt để họ quan tâm hơn đến việc bảo tồn tài nguyên: cách tiếp cận phát triển
kinh tế.
- Thứ ba là, cộng đồng địa phương đó cũng đồng ý với việc bảo tồn tài
nguyên thiên nhiên nếu như họ có thể tham gia một cách tích cực vào việc qui
hoạch và quản lý sử dụng tài nguyên và được chia sẻ lợi nhuận từ tài nguyên đó.
Theo cách này, tài nguyên có thể được bảo tồn trong khi một số nhu cầu cơ bản
của người dân được đáp ứng thông qua việc sử dụng và khai thác tài nguyên một
cách hợp lý và bền vững: cách tiếp cận tham gia qui hoạch [3].
2.3.1.4. Phương pháp tiếp cận có sự tham gia trong nghiên cứu
Sự tham gia định nghĩa như một quá trình, thông qua đó các chủ thể cùng
tác động và chia sẻ những sáng kiến phát triển và cùng quyết định. Điều quan
trọng là người dân địa phương có khả năng trao đổi các triển vọng của họ về TNR


19
với các nhà nghiên cứu, các cơ quan quản lý và ngược lai, các cơ quan này có thể
hiểu và đáp ứng các nguyện vọng được nêu ra. Năm 1996, Hosley đưa ra 7 mức độ
của sự tham gia từ thấp đến cao, đó là tham gia có tính chất vận động, tham gia bị
động, tham gia qua hình thức tư vấn, tham gia vì mục tiêu được hưởng các hổ trợ

từ bên ngoài, tham gia theo chức năng, tham gia hổ trợ, tự huy động và tổ chức
(dẫn theo Bùi Việt Hải, 2007 [5]).
Trong nghiên cứu này, phương pháp tiếp cận cùng tham gia được áp dụng,
trong đó người dân địa phương tham gia ở mức độ 3, tức là tham gia qua hình thức
tư vấn, cung cấp thông tin. Các phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA) và
phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia (PRA) sẽ được sử dụng để thu
thập thông tin cho nghiên cứu. Các phương pháp này giúp thu thập và phân tích
thông tin của chính người dân địa phương, nên thông tin có thể sử dụng được cho
nhiều nhu cầu của địa phương như sự ủng hộ về quyền sử dụng tài nguyên, các giải
pháp giải quyết xung đột [5], [10].
2.3.2. Phương pháp và công cụ thu thập số liệu
Đề tài được thực hiện theo các bước như trình bày ở hình 2.3.
2.3.2.1. Thu thập các tài liệu thứ cấp có liên quan
- Các văn bản chính sách pháp luật của nhà nước liên quan đến vấn đề
nghiên cứu. Các văn bản chính sách của tỉnh Đồng Nai, huyện Vĩnh Cửu liên quan
đến vấn đề nghiên cứu.
- Các số liệu về dân sinh kinh tế xã hội, điều kiện tự nhiên, các báo cáo về
công tác quản lý bảo vệ rừng, số liệu theo dõi diễn biến rừng và đất lâm nghiệp
được thu thập, phỏng vấn tại KBTTN và DT Vĩnh Cửu; UBND huyện Vĩnh Cửu;
UBND xã Phú Lý, Phòng thống kê huyện Vĩnh Cửu; Chi cục Kiểm lâm Đồng Nai;
Hạt Kiểm lâm Vĩnh Cửu.
- Các tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu về LNXH được tham khảo
trên Internet, tài liệu có trong và ngoài nước.
2.3.2.2. Chọn địa điểm nghiên cứu
Chọn địa điểm nghiên cứu là công việc được thực hiện trước khi điều tra
thu thập số liệu. Nguyên tắc chọn điểm nghiên cứu là đại diện tương đối cho khu


20
vực nghiên cứu. Các tài liệu, số liệu thứ cấp thu thập được là cơ sở cho việc chọn

điểm nghiên cứu.

XD vấn đề nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu

Nội dung nghiên cứu

Lựa chọn điểm nghiên cứu

Thu thập thông tin, số liệu

Phỏng vấn cá nhân

Phỏng vấn HGĐ

Thảo luận nhóm

Phân tích số liệu
Phân tích định tính
theo PRA

Phân tích định lượng
bằng SPSS, Excel

Hình thức tác động

Nguyên nhân tác động

Kinh tế


Xã hội

Giải pháp kinh tế - xã hội

Kết luận tồn tại và khuyến nghị


21
Hình 2.3: Các bước thực hiện quá trình nghiên cứu
Theo Donovan và cộng tác viên (1997), tiêu chuẩn chọn điểm nghiên cứu
là: thành phần dân tộc, khả năng tiếp cận và địa hình (dẫn theo Ngô Ngọc Tuyên,
2007 [21]).
Về hành chính xã Phú Lý có 9 ấp, nếu được chia theo thành phần dân tộc thì
gồm có Kinh và Châu-ro, các dân tộc khác chiếm tỉ trọng không đáng kể. Nếu xét
về vị trí thì chia ra các ấp giáp rừng, các ấp gần rừng và các ấp không gần rừng.
Việc xét theo thành phần dân tộc vì các dân tộc khác nhau có phương cách tác
động đến TNR khác nhau, còn xét theo vị trí các ấp giáp rừng, gần rừng và không
gần rừng vì có thể có mức độ tác động vào TNR khác nhau.
Bảng 2.1: Thành phần dân tộc và vị trí các ấp của xã Phú Lý
Ấp

STT

Thành phần
dân tộc

Giáp rừng

Gần rừng


Không gần
rừng

1

1

Kinh

X

2

2

Kinh

X

3

4

Kinh

X

4


3

Kinh

X

5

Lý lịch 1

Châu-ro

X

6

Lý lịch 2

Kinh

X

7

Cây cầy

Kinh

X


8

Bầu Chánh

Kinh

X

9

Bầu Phụng

Kinh

X

Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu tác động của người dân địa phương tới
TNR. Theo đó, sẽ chọn điểm nghiên cứu là các ấp giáp rừng và gần rừng: ấp 1, ấp
2, ấp 3, ấp 4, ấp Lý Lịch 1, ấp Lý Lịch 2; tổng cộng là 6/9 ấp. Số lượng hộ gia đình
được chọn để điều tra tại các ấp 1, 2, 4 mỗi ấp là 30 hộ gia đình; ấp 3 và ấp Lý
Lịch 2 mỗi ấp là 10 hộ gia đình, riêng ấp Lý Lịch 1 là 50 hộ gia đình. Sở dĩ chọn
ấp Lý Lịch 1 có 50 hộ gia đình là để làm rõ hơn cách thức, tập quán tác động vào


22
TNR có thể có sự khác nhau giữa dân tộc Kinh và dân tộc Châu-ro. Như vậy, sẽ có
tổng cộng 160 hộ gia đình là đối tượng của điều tra và phỏng vấn.
Khảo sát và phỏng vấn hộ với số lượng nhiều ở các Lý lịch 1, ấp 1, ấp 2 và
ấp 4 là vì những lý do sau:
- Có nhiều người dân tộc bản địa, ví dụ ấp Lý Lịch 1 có 115 hộ trên tổng số

382 hộ là người dân tộc Châu-ro.
- Có nhiều hộ tham gia vào các hoạt động sản xuất lâm nghiệp, cụ thể ấp 1
có đến 120 hộ trong tổng số 241 hộ của xã nhận hợp đồng trồng và chăm sóc rừng.
- Sống giáp rừng hoặc gần rừng và phụ thuộc vào rừng như nhận khoán bảo
vệ rừng và chăm sóc rừng. Ngoài ra, còn tác động vào rừng nhiều như chặt cây, lấy
gỗ, lấy măng, săn bắt thú rừng.
- Có mối liên kết trong cộng đồng (người dân tộc) khá chặt chẽ, có thể do
quan hệ huyết thống và cũng có thể do tập quán sinh sống của người dân nơi đây.
2.3.2.3. Thu thập thông tin và số liệu điều tra hiện trường
Sử dụng các công cụ PRA để thu thập thông tin và số liệu. Những hướng
dẫn chi tiết được tham khảo từ các tài liệu [5],[6],[12]. Cụ thể là:
- Phỏng vấn Chủ tịch UBND xã Phú Lý, một số trưởng ấp, Hạt trưởng
Kiểm lâm để thu thập thông tin khái quát về tình hình kinh tế xã hội, các hình thức,
mức độ tác động vào TNR, các hổ trợ từ bên ngoài…
- Phỏng vấn hộ gia đình theo bảng câu hỏi bán định hướng. Các hộ phỏng
vấn chọn theo phương pháp hệ thống - ngẫu nhiên trên cơ sở danh sách hộ gia đình
đã thu thập được.
- Tiến hành 3 cuộc thảo luận nhóm được thực hiện sau khi hoàn thành
phỏng vấn hộ. Nhóm thảo luận gồm 5 – 7 người đại diện cho các thành phần kinh
tế của ấp. Mục đích thảo luận nhằm bổ sung và thống nhất các hình thức và mức
độ tác động, nguyên nhân của sự tác động, giải pháp khắc phục và những kiến nghị
của cộng đồng trong việc QLBVR.
- Phân tích tổ chức, xác định tổ chức tồn tại có nghĩa trong cộng đồng, thể
chế của cộng đồng và sự ảnh hưởng của chúng tới việc quản lý bảo vệ tới việc sử
dụng TNR.


23
2.3.3. Phương pháp xử lý, tổng hợp và phân tích số liệu
Số liệu thu thập qua bảng câu hỏi bán định hướng, được xử lý và phân tích

định lượng bằng phần mềm Excel 2003 và SPSS 15.0 (Statistical Package for
Social Science). Kết quả xử lý và phân tích được thể hiện theo dạng phân tích, mô
tả bằng bảng và biểu đồ. Ngoài ra, các kết quả thảo luận, các thông tin định tính
như chính sách, tổ chức cộng đồng, thể chế cộng đồng, thị trường được phân tích
theo phương pháp định tính.
2.3.3.1. Xác định sự phụ thuộc của người dân địa phương tới TNR bằng
phương pháp định tính
Công cụ hỗ trợ cho xử lý và phân tích dữ liệu là phần mềm SPSS 15.0. Số
liệu nhập vào bảng tính theo các hàng và các cột, ở đó hàng là hộ gia đình và cột là
biến chỉ tiêu. Dữ liệu nhập vào là các mã ứng với các mức đã xác định ở bảng câu
hỏi. Xác định tỷ lệ hay tần số cho từng vấn đề theo nguyên tắc số đông (tức tần số
gặp nhiều hơn), xác định mối quan hệ phụ thuộc giữa các biến định tính bằng trắc
nghiệm thống kê Chi-square Ngoài ra:
- Xác định, phân loại và xếp hạng bằng cách cho điểm các giá trị của TNR
theo các nhóm người dân sử dụng TNR, từ đó chọn ra được loại sản phẩm theo
từng nhóm để sử dụng và quản lý một cách phù hợp.
- Họp riêng các nhóm liên quan khác nhau để xác định, thảo luận những
thuận lợi và khó khăn, các cách thức sử dụng và quản lý tài nguyên thiên nhiên
theo quan điểm hay cách nhìn của họ.
2.3.3.2. Xác định thu nhập của người dân địa phương từ TNR bằng phương
pháp định lượng
Nhằm xác định mối quan hệ giữa tổng thu nhập của các hộ gia đình với các
biến số trong khai thác TNR của từng dân tộc. Nếu X là đại lượng không ngẫu
nhiên còn Y là đại lượng ngẫu nhiên thì Y là hàm số phụ thuộc vào X. Sự phụ
thuộc này biễu diễn bởi biểu thức sau: Y = f(X).
Chúng tôi giả sử biến phụ thuộc là tổng thu nhập (Y); biến độc lập (X) là
thu nhập từ đất lâm nghiệp; thu nhập từ khai thác rừng; thu nhập từ chăn thả gia
súc. Mối quan hệ giữa biến X và biến Y thường được lượng hóa mức độ chặt chẽ



×